Ông Vương Trung người ở Thái Nguyên thưa hỏi: “Các nhà Nho
học Phật có mấy ai được chứng đạo chăng?”
Thiền sư Không Cốc đáp: “Những nhà Nho chân thật học Phật
được chứng đạo nhiều không kể xiết. Nay chỉ lược nói ra một
số người để ông được biết thôi.
“Thiền sư Quốc Nhất truyền đạo cho thiền sư Thọ Nhai; Thọ
Nhai truyền cho Ma Y; Ma Y truyền cho Trần Đoàn; Trần Đoàn
truyền cho Chủng Phóng; Chủng Phóng truyền cho Mục Tu; Mục
Tu truyền cho Lý Đỉnh Chi; Lý Đỉnh Chi truyền cho Khang Tiết
Thiệu Tử.
“Mục Tu lại đem chỗ được truyền về Thái cực đồ mà dạy lại
cho Chu tử ở Liêm Khê. Chu tử tìm đến thiền sư Thường Tổng ở
Đông Lâm về ý chỉ thâm áo của Thái cực đồ. Thiền sư Thường
Tổng liền vì ông giảng rõ những chỗ uẩn áo khó hiểu. Chu tử
đem những lời dạy của Thường Tổng truyền rộng ra, cho đó là
thuyết Thái cực đồ. Chu tử sở trường về công phu thiền học,
nên so về công phu tu tập thì vượt hơn Khang Tiết Thiệu Tử.
Thiệu Tử lại sở trường về lịch số thời tiết, nên so về môn
lý số thì vượt hơn Chu tử. Nhưng xét về đạo học thì chỉ có
một, xưa nay chưa từng có hai đường.”
Vương Trung lại hỏi: “Thiền tông đã có đại đạo truyền cho
đạo Nho, vậy tại sao Hối Am lại bài bác?”
Đáp: “Hối Am chê bai đạo Phật là do nơi tâm bệnh của ông
ta.”
Lại hỏi: “Xin thầy nói rõ chỗ tâm bệnh của Hối Am.”
Thiền sư Không Cốc dạy: “Ông chỉ cần học hiểu cho sâu pháp
Phật, đọc rộng sách vở trong thiên hạ, ắt sẽ tự thấy được
chỗ tâm bệnh của Hối Am, và cũng thấy được cả cội nguồn
chứng đắc đạo học của Liêm Khê, hai vị họ Trình, cũng như
hết thảy những người học đạo.”
Vương Trung hỏi: “Về chỗ chứng đắc của hết thảy những người
học đạo hãy khoan hỏi đến. Riêng chỗ chứng đắc của các ông
Liêm Khê và Trình tử, dám xin thầy nói rõ cho biết.”
Thiền sư Không Cốc đáp: “Nói ra cho đủ e phải nhiều lời. Hãy
tạm nói sơ qua cho ông rõ.
“Liêm Khê họ Chu, tên húy là Đôn Di, tự Mậu Thúc, người xứ
Thung Lăng. Ban đầu, ông đến chỗ thiền sư Huệ Nam núi Hoàng
Long thưa hỏi về yếu chỉ truyền riêng ngoài giáo điển. Về
chỗ thiền sư Huệ Nam chỉ dạy cho Liêm Khê, nay chỉ kể lại
tóm lược thế này: ‘Ông chỉ cần tự quay về xem xét, sắp
xếp trong nhà mình đi thôi. Khổng tử dạy rằng: Buổi sáng
được nghe đạo, buổi chiều chết cũng vui. Vậy rốt cuộc cái gì
là đạo mà đến nỗi buổi chiều chết cũng vui? Nhan Hồi chẳng
đổi chỗ vui, vậy chỗ vui đó là gì? Chỉ suy xét cho thật kỹ
những chỗ đó thì lâu ngày tự nhiên sẽ có chỗ khế hợp.’
“Ngày kia, Liêm Khê lại đến hỏi đạo với thiền sư Liễu Nguyên
Phật Ấn rằng: ‘Rốt cuộc thì cái gì là đạo?’ Thiền sư Liễu
Nguyên đáp: ‘Núi xanh trước mắt, mặc sức mà nhìn.’ Liêm Khê
còn đang suy nghĩ thì thiền sư bật cười ha hả bỏ đi. Đột
nhiên, Liêm Khê như có chỗ tỉnh ngộ.
“Liêm Khê nghe danh thiền sư Thường Tổng ở Đông Lâm được chỗ
tâm truyền của hai vị thiền sư Thọ Nhai và Ma Y về Dịch học,
thấu suốt thần tánh, liền tìm đến bái kiến. Thiền sư Thường
Tổng dạy Liêm Khê đại lược là: ‘Đạo Phật dạy người đạt đến
chỗ chân lý đúng thật, tức hoàn toàn chân thật không có hư
vọng. Chân thật không hư vọng tức là lòng thành vậy. Đức càn
nguyên lớn thay! Là chỗ phát khởi ban đầu của vạn vật. Phát
khởi ban đầu từ nơi lý chân thật ấy. Đạo trời biến hóa, thảy
đều là tánh mạng, đều đồng một lý chân thật. Đạo của bậc
thánh nhân trong trời đất chỉ một lòng chí thành là đủ. Điều
tất yếu là phải chọn lấy một pháp môn để thực sự công phu,
kiên trì mãi cho đến ngày đột nhiên sáng rõ, không thể dựa
vào lời nói mà thấu hiểu được...’
Một hôm, Liêm Khê với bọn ông Trương Tử Hậu cùng đến Đông
Lâm bàn luận về lẽ tánh. Thiền sư Thường Tổng nói: ‘Đạo ta
thường nói nhiều về tánh, nên gọi là Tánh tông. Như nói tánh
chân như, tánh pháp, thì tánh đó tức là lý vậy. Có pháp giới
của lý và pháp giới của sự. Lý và sự hoàn toàn thông suốt
lẫn nhau; ngoài lý không có sự, có sự ắt có lý.’
“Mọi người còn trầm ngâm chưa hiểu rõ, bỗng Liêm Khê thốt
lên rằng: ‘Thể của tánh hòa vào vắng lặng, chỉ rõ lý là
được, cần chi phải nghi ngờ?’
“Trương Tử Hậu nói: ‘Chỉ có Liêm Khê mới đủ sức luận về tánh
lý với sư phụ chùa Đông Lâm mà thôi!’
“Liêm Khê thưa hỏi về nghĩa thái cực. Thiền sư Thường Tổng
nói: ‘Dịch có trước trời đất, không hình tích nhưng có
nguyên lý. Cho nên nói thái cực là dịch đó. Không hình tích
mà có nguyên lý, tức là vô cực. Trong khắp trời đất chỉ có
một khí ấy, chuyển vận tới lui mà thành bốn mùa. Vì chỉ có
một khí, nên nói đó là cội nguồn của tất cả.’
“Hồ tiên sanh ở Ngũ Phong khi đề tựa bộ Thông thư có chép
rằng: ‘Liêm Khê học được thuyết Thái cực đồ do Mục Tu
truyền. Mục Tu được Chủng Phóng truyền. Chủng Phóng được
Trần Đoàn truyền. Nên học thuyết này là do một thầy mà ra.
Như vậy xét rõ là thuyết Thái cực đồ chẳng phải do Liêm Khê
sáng tạo. Trần Đoàn cũng là học thuyết ấy ở ngài Ma Y. Ngài
Ma Y lại học ở thiền sư Thọ Nhai.’
“Liêm Khê hỏi thiền sư Thường Tổng về nguyên ủy của thuyết
Thái cực đồ, thiền sư nói: “Thiền sư Thọ Nhai được tâm
truyền thuyết Thái cực đồ từ thiền sư Quốc Nhất cách nay đã
lâu rồi. Thuyết ấy không nói về sự vật mà chỉ nói cái lý rốt
ráo. Sự hình thành ban đầu của thuyết Thái cực đồ là dựa vào
giáo lý đạo Phật, theo nơi chỗ không mà lập thành thế giới,
lấy vô vi làm cội nguồn của vạn hữu. Vì vậy nên lấy cái
không làm nhân, lấy cái có làm quả; lấy chân thật làm thể,
lấy giả tạm làm dụng. Cho nên nói rằng: Cái chân thật của vô
cực, hòa hiệp một cách mầu nhiệm rồi ngưng tụ.’
“Liêm Khê lại đến tịnh thất của thiền sư Liễu Nguyên Phật
Ấn, tự trình bày nguyên do chỗ thấy biết của mình. Thiền sư
Liễu Nguyên nói rằng: ‘Tôi thường đem đạo nghĩa của Khổng
Mạnh mà dạy người. Nay chỗ gánh vác của ông đã có thể bắt
đầu được rồi. Nên gắng sức mà làm ngay, chớ nên trễ nãi.’
“Thiền sư Thường Tổng ở Đông Lâm cũng có dạy ông Liêm Khê
rằng Nho là ngôn ngữ của đạo.
“Liêm Khê thường nói với học trò rằng: ‘Cái tâm mầu nhiệm
của ta được khai mở nhờ ngài Huệ Nam, được sáng tỏ nhờ ngài
Phật Ấn. Còn về sự phát triển mở rộng thông suốt nghĩa lý
đạo Dịch, nếu không gặp ngài Đông Lâm chỉ bảo mở mang, trừ
bỏ chướng ngại, hẳn đã không thể trở nên sáng suốt thông đạt
như ngày nay.’
“Liêm Khê có lần đến Triều Châu, vào chùa Linh Sơn tìm lại
những di tích của thiền sư Đại Điên. Tại đây, ông tìm thấy
những lá thư Hàn Dũ dâng lên ngài Đại Điên vẫn còn được lưu
giữ, cùng với đình Lưu y vẫn còn nguyên vẹn chưa hư hỏng,
liền đề thơ rằng:
Thối Chi tự ví cùng Phu tử,
Xưa từng chê bai cả Phật, Lão.
Chẳng biết Đại Điên người thế nào,
Dâng thư, tặng áo, kính cẩn thay!
“Liêm Khê còn để lại bài thơ Yêu thích hoa sen dưới đây:
Phật chuộng hoa này, ta cũng thích,
Hương thơm trong trẻo, bướm chẳng theo.
Chẳng giống lẽ thường bao hoa khác,
Không cài trên tóc hạng nữ nhi.
“Liêm Khê có tánh giản dị, kiệm ước, thường ngày sống đạm
bạc, yên tĩnh. Lúc tuổi già, ông từ bỏ văn chương, chuyên
việc thiền tĩnh, cuối cùng đạt được chân truyền về đạo học.
“Thiền sư Thường Tổng chùa Đông Lâm dạy người lấy sự an tĩnh
làm chính. Liêm Khê trong một thời gian rất lâu chẳng động
tới bút nghiên, trọn ngày ngồi yên ngay ngắn, thấy được màu
xanh của cỏ mọc tốt tươi bên ngoài song cửa sổ cũng hiển bày
ý nghĩa sự sống. Đó chính là trong sự an tịnh có chỗ chứng
đắc vậy.
“Cho nên, thuyết tánh lý trong đạo học là khởi xướng từ
thiền sư Thọ Nhai, truyền mãi cho đến thiền sư Thường Tổng,
rồi mới truyền lại cho Chu Liêm Khê.
“Trần Trung Túc công có nói: ‘Thiền sư Thường Tổng ở Đông
Lâm truyền thụ học thuyết tánh lý cho Liêm Khê. Liêm Khê
mang thuyết ấy truyền rộng ra, nên lời lẽ đều xuất phát từ
kinh sách của đạo Phật.’
“Trong tập thơ Hậu thôn của Lưu tiên sanh có câu:
Liêm Khê học đạo từ cao tăng...
“Lại có câu:
Mới biết ngoài Châu, Khổng.
Riêng có bậc anh hào.
“Còn về Trình tử, là tên gọi chung hai anh em nhà họ Trình,
người đất Lạc Dương. Người anh là Trình Hạo, tự Bá Thuần,
hiệu là Minh Đạo. Người em là Trình Di, tự Chánh Thúc, hiệu
là Y Xuyên.
“Tiên sanh Tử Dã Tăng nói rằng: ‘Trình Hạo và Trình Di cùng
đến học với Liêm Khê. Trước hết, Liêm Khê dạy hai ông suy
xét chỗ vui thích của Khổng tử và Nhan Hồi là gì. Khi chỗ
học đã thành tựu, mỗi người đều dùng cái học của Nho gia mà
làm trách nhiệm của mình.
“Hai ông họ Trình đem học thuyết Thái cực đồ mà truyền cho
tiên sanh Hậu Sơn.
“Tiên sanh Hậu Sơn có nói: ‘Tôi thấy cái học của Chu Liêm
Khê và Trình tử là xét mình để dạy người, nhưng nhìn lại
trong đạo Khổng, Mạnh từ xưa nay chưa từng thấy có công phu
ngồi lặng yên để suy xét chỗ vui, lấy đó làm chỗ cùng tột
của đạo học. Vậy có thể tin rằng cái học của Châu tử và
Trình tử thật có nguồn gốc khác.’
“Trình Minh Đạo thấu hiểu sâu xa bộ Hoa nghiêm hiệp luận, tự
cho rằng rất vui vì có chỗ dung hợp tâm ý, nên đem chỗ
nguyên do ấy chép thành văn khắc bia lưu lại tại chùa Vân
Cái.
“Ông Minh Đạo nhân ngày giỗ mẹ là bà Thọ An Viên quân, có
đến Tây Kinh, vào chùa Trường Khánh mở tiệc chay cầu phước
cho mẹ. Nhìn thấy chúng tăng vào trai đường, đi lại nghiêm
trang, cử chỉ đàng hoàng; đánh trống dộng chuông, trong
ngoài đều nghiêm chỉnh; khi ngồi khi đứng, thảy đều đúng
phép tắc. Ông buột miệng khen rằng: “Lễ nhạc từ xưa nay đều
đủ cả nơi đây!”
“Thiền sư Linh Nguyên trong thư hồi đáp ông Trình Y Xuyên có
viết: ‘Trộm nghe biết nên muốn được gặp gỡ với người học
đạo. Tuy chưa có hân hạnh gặp mặt nhưng nghe ông lưu tâm đến
đạo Phật đã lâu, từng học hỏi với khắp các bậc đại tôn sư
trong thiên hạ, vậy mà chưa gặp kẻ hèn này ông vẫn lấy đó
cho là chưa được thỏa mãn. Năm rồi, nghe thầy tôi nói về chỗ
kiến thức của ông, nay lại được xem bài tựa ông đề cho bộ
Pháp yếu, quả là ông đã suy xét sâu xa và tin nhập vào chỗ
chân thật không hư dối.’
“Từ đó, Trình Y Xuyên thường đến chùa thiền sư Linh Nguyên.
Trong Gia thái phổ đăng lục chép rằng: ‘Trình Y Xuyên, Từ Sư
Uyên, Châu Thế Anh, Hồng Câu Phủ đều có đến học đạo lý nơi
thiền sư Linh Nguyên.’ Chính vì thế mà trong khi trước tác
và chú giải kinh sách, Trình Y Xuyên thường dùng đến những
lời lẽ và ý tứ của Phật, Tổ. Có thể tin rằng cái học của ông
rõ ràng xuất phát từ đạo Phật vậy.
“Tiên sanh Hồ Cấp Trọng ở Thạch Đường nói rằng: ‘Từ khi Mạnh
tử thác đến nay, trải qua một ngàn năm trăm năm, đạo Nho dần
suy tàn. Nhờ có Châu Liêm Khê xuất hiện, Nho giáo mới xán
lạn, nối lại chỗ đứt đoạn. Tiếp đó, ở Hà Nam có hai anh em
họ Trình được Châu Liêm Khê truyền đạo. Cái học mà Châu Liêm
Khê truyền dạy là phát khởi từ thiền sư Thọ Nhai ở chùa Trúc
Lâm, Bắc Cố. Trình tử truyền xuống bốn đời thì tới Chu thị
Văn công. Văn công lại truyền cho Trương Kính Phu, nghiên
cứu giảng rộng học thuyết này, đạt đến chỗ rỗng không khoáng
đạt, mới có lời rằng: ‘Trước đây tôi có nghe truyền lại lời
dạy của ngài Thọ Nhai, nhưng vì tôi chưa đủ sức hiểu rõ chứ
không phải học thuyết ấy hư dối. Xét tận nguồn cội thì quả
thật chỗ học xưa nay của nhà Nho với Thiền tông thảy đều
tương tợ như nhau. Chỉ vì Nho chẳng hiểu Thiền, Thiền chẳng
hiểu Nho, nên hai bên mới chê bai, công kích lẫn nhau, nhưng
chưa từng chỉ ra được chỗ khiếm khuyết của nhau, thật đáng
nực cười thay!’
“Âu Dương Huyền có nói: ‘Trình tử bình sanh ưa đọc kinh
Phật, nhưng chỗ học rộng thì không bằng Chu thị.’
“Trình Y Xuyên cũng tự nhận: ‘Tiên sanh Trình Minh Đạo học
đạo Phật, Lão đã mấy mươi năm.’
“Thiền sư Thường Tổng chùa Đông Lâm dạy Liêm Khê rằng:
‘Trong cái một phân ra thành muôn sự vật, cuối cùng hợp lại
thành một lý. Cho đến cái tánh của thiên lý, cái lòng riêng
ham muốn của con người, trời đất, vạn vật với ta đều là một
thể. Đức nguyên gồm cả bốn đức, chỉ một tâm thành thông suốt
bên ngoài, thấu vào bên trong.’
“Hai ông họ Trình đem chỗ học đó truyền lại cho môn đệ. Cho
nên Trình Y Xuyên trong khi trước tác văn chương đều dựa
theo ý tứ trong kinh Phật, hoặc cũng có khi dùng lại nguyên
vẹn, như trong bài tựa Dịch truyện, ông viết: ‘Thể và dụng
vốn chỉ một nguồn, hiển bày hay ẩn giấu vẫn không xa cách.’
“Trong thuyết Thái cực đồ của Liêm Khê có nói: ‘Chỗ chân
thật của vô cực là hợp lại một cách nhiệm mầu mà ngưng tụ.’
Những danh từ như vô cực, thái cực... đều là khẩu quyết
thường dùng của thiền sư Thường Tổng ở Đông Lâm. Những sách
Thông thư, Liêm Lạc tập... của Chu Liêm Khê đều căn cứ theo
đó cả. Việc sử dụng các danh từ Phật học của họ Chu, họ
Trình đa phần đều như thế.
“Hối Am hết sức tránh né việc họ Chu, họ Trình rõ ràng sử
dụng những cách nói của đạo Phật, nên mới nói rằng: ‘Cái học
của Chu tử thật không biết do thầy nào truyền dạy.’ Rồi lại
nói rằng: ‘Cái học của Chu tử là từ nơi trời.’
“Nhưng chính trong sách Thông thư của Chu tử, ở chương Sư
hữu lại nói rằng: ‘Điều khó được nhất là đạo đức, chỉ do tự
thân có được mà thôi, cầu nơi người khác thì khó lắm. Tuy là
do nơi tự thân, nhưng nếu không có thầy và bạn tốt thì cũng
không thể được.’ Như thế, lời của Hối Am trái ngược với lời
của Chu tử. Đó là Hối Am có ý muốn làm mất đi chỗ nguồn gốc
cái học của Chu tử, thật không biết rằng việc che mờ thiên
lý lại càng bày rõ hơn chỗ tâm bệnh của ông!
“Lại còn việc Hàn Dũ sau khi gặp thiền sư Đại Điên có để lại
những lời cung kính ca ngợi Phật pháp, nhưng người đời sau
đã lược bỏ cả đi. Khi Hối Am hiệu đính văn chương Hàn Dũ,
vẫn còn lưu lại ba cuốn Thông thư mà Hàn Dũ đã dâng lên ngài
Đại Điên. Nhưng người đời sau lại lược bỏ luôn cả ba cuốn
Thông thư ấy. Nên biết rằng, người đời sau mê muội vì chỗ
bài bác của Hối Am, lại càng mê chấp mà bài bác đạo Phật hơn
cả Hối Am nữa, nào biết rằng chính Hối Am là người đã bày ra
những lẽ bài bác không thật ấy! Vì không biết chỗ đó, cứ ngỡ
rằng lời của Hối Am là thật, nên lại dựa vào đó mà chê bai
đạo Phật. Quả thật là: ‘Một người nói ra lời dối, muôn người
nói theo thành thật.’
“Than ôi! Hối Am đã bịa đặt điều không thật, người đời sau
lại lắm người chẳng biết khám phá chỗ ấy. Nào được như những
ông Tiết Giản, Trương Chuyết, Bạch Cư Dị, Đỗ Hồng Tiệm, Lý
Tập Chi, Hàn Xương Lê, Trần Tháo, Lục Cắng, Lý Phụ Mã, Dương
Đại Niên, Phú Trịnh Công, Dương Thứ Công, Quách Công Phụ,
Triệu Thanh Hiến Công, Chu Liêm Khê, Trương Vô Tận, Phùng Tế
Xuyên, Trương Cửu Thành, Ngô Cư Nhân... Các vị đại nho này
đều có sức tham cứu tông chỉ Thiền môn, biết tôn kính Phật
pháp, rõ thông Phật lý.
“Lại có những người tuy chưa thấu qua cửa Thiền nhưng đã rõ
thông giáo lý nhà Phật, như những ông Hứa Huyền Độ, Tập Tạc
Xỉ, Tông Bính, Lưu Duy Dân, Lôi Thứ Tông, Vương Đạo, Chu Ỷ,
Trầm Hưu Văn, Trương Thiết, Lý Thái Bạch, Vương Ma Cật, Liễu
Tử Hậu, Vương Bột, Lý Nguyên, Lữ Mông Chánh, Phạm Trọng Yêm,
Phạm Thục Công, Văn Lộ Công, Trương Ước Trai, Lữ Đông Lai...
“Lại có những nhà Nho luôn xem trọng đạo Phật, thường có mối
quan hệ tốt như những ông Tào Tử Kiến, Vương Tuân, Vương
Mân, Văn Trung Tử, Đỗ Tử Mỹ, Đỗ Mục Chi, Mạnh Hạo Nhiên, Lưu
Vũ Tích, Lưu Trường Khanh, Tư Không Thự, Tư Không Đồ, Lý
Quần, Ngọc Bì, Nhật Hưu, Hứa Hồn, Cổ Đảo, Hạng Tư, Trịnh
Cốc...
“Nếu Phật pháp chẳng phải là đạo chân chánh lớn lao, làm sao
cảm hóa được các bậc danh hiền ấy, khiến họ trở nên người
sùng mộ, tôn kính? Các vị danh hiền ấy đều là những người
tài đức minh mẫn, há không bằng những kẻ đời sau thường chê
bai đạo Phật hay sao? Những kẻ ấy chẳng giữ được sự công
bằng khách quan như các vị danh hiền kia, lại cam chịu nghe
theo ý riêng của một người! Đó là sự lầm lẫn vì thiếu suy
xét vậy.”
Vương Trung thưa rằng: “Tôi cũng biết việc Chu Liêm Khê và
hai vị họ Trình học đạo lý nơi Thiền tông. Đạo lý ấy truyền
xuống đến Hối Am chẳng hề sai lạc chánh giáo. Nhưng tôi thật
không rõ tại sao Hối Am lại hôn muội đối với ân đức của
Phật, trở lại chê bai đạo Phật? Nay được nghe thầy giảng rõ,
tôi mới biết được chỗ tâm bệnh của Hối Am.”
Thiền sư Không Cốc nói: “Liêm Khê thấu tột đạo Thiền là nhờ
sức chỉ dẫn của ba vị thiền sư ở Hoàng Long, Phật Ấn và Đông
Lâm. Ba vị thầy ấy đều người đoan chánh, thì người mà ba vị
ấy kết giao cũng là đoan chánh, nên những người mà Liêm Khê
kết giao cũng là đoan chánh. Huống chi Trình tử thường vào
ra cửa Thiền, thường xem kinh Phật, cho nên biết rằng Trình
tử hẳn là bậc quân tử đức độ, nghiêm cẩn, không thể phản
nghịch lại đạo Phật.
“Lời nói của Hối Am thường vận dụng lý lẽ trong đạo Phật,
nhưng lại trở ngược chê bai đạo Phật, là muốn cho người ta
không biết. Vậy nên mới cố che giấu chỗ cội nguồn học Phật
của Chu tử và Trình tử, nhưng chẳng thể nào giấu hết được.
Khi chú giải sách Trung Dung, ông nghi ngờ rằng: ‘Bọn họ
Dương đã học với Trình tử thì nói ra lời nào ắt đều ảnh
hưởng từ Phật, Lão.’ Lại có rất nhiều chỗ ông cho rằng những
lời của họ Du, họ Dương, họ Tạ đều xuất phát từ đạo Phật,
đạo Lão.
“Hối Am vốn biết rõ rằng chỗ học của Chu Liêm Khê, Trình Tử,
Dương Thời... đều xuất phát từ Thiền tông, nên chỗ bài bác
của ông ta chắc chắn chỉ là vì muốn ngăn trở người hậu học.”