Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi.
Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay.
Kinh Bốn mươi hai chương
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình.
Kinh Pháp cú
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Lúc bấy giờ Tịch Ý Bồ Tát lại hỏi Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Đức Như Lai có bao nhiêu sự bí yếu ? Những bí yếu của Như Lai, tất cả hàng Thanh Văn và bực Duyên Giác chẳng thể bằng được, nói gì đến kẻ phàm phu là hạng mê tối .
Lành thay, Ngài Mật Tích ! Xin Ngài vui lòng ban tuyên những bí yếu của Như Lai. Tất cả chúng hội đều muốn được nghe ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : « Thưa Ngài Tịch Ý ! Lắng nghe cho kỹ và khéo suy nghĩ ghi nhớ. Nay tôi sẽ trình bày bí yếu của Như Lai có ba sự :
Một là thân bí mật, hai là khẩu bí mật và ba là ý bí mật.
Sao gọi là thân bí mật ?
Ở nơi thân, đức Như Lai không tưởng nghĩ cũng không nhớ đến mà hiện đủ tất cả oai nghi lễ tiết.
Nếu có hàng Trời hay Người tự thích kinh hành, lúc họ thấy đức Như Lai kinh hành, họ tự nghĩ rằng đức Như Lai Thế Tôn là trên hết. Những Người và Trời ấy liền thấy thân mật của Như Lai. Tâm đức Phật không hề suy nghĩ mong mỏi mà tất cả chúng sanh nhìn thấy oai nghi kinh hành diệu đức của Như Lai chí chơn.
Nếu có hàng Trời hay Người thích ngồi, thì họ thấy đức Như Lai ngồi.
Nếu có hàng Trời hay Người thích nằm, thì họ thấy đức Như Lai nằm.
Nếu thích nghe kinh, thì họ thấy đức Như Lai thuyết kinh.
Nếu thích yên lặng, thì họ thấy đức Như Lai nín lặng.
Nếu thích thiền định, thì họ thấy đức Như Lai nhập tam muội.
Nếu có hàng Trời hay Người mắt nhìn chẳng nháy, thì hoặc là họ thấy mắt của Như Lai chưa lúc nào nháy.
Hoặc hạng ý tự tại có người thích ánh sáng thì họ thấy đức Như Lai có ánh sáng vô ngại.
Có người thích màu tử kim, thì họ thấy màu vàng tử ma.
Nếu có hàng Trời hay Người thích màu bạc, màu thủy tinh, màu lưu ly, màu mã não, màu xa cừ, màu hoàng kim, màu chơn châu, các màu trắng, đỏ, vàng, hồng, tía, màu trăng sáng, màu châu ngọc, màu lửa, màu sáng mặt trời, màu Tứ Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Vương, A Tu La tạp loạn, hoặc màu trung phần, màu hoa tu di, hoặc có người nghĩ tưởng màu vi diệu, màu dược hình, màu bích ngọc, màu hoa vô ưu, màu hoa chiêm băïc, màu hoa tư di, màu hoa sen xanh, màu hoa sen vàng, màu hoa sen hồng, màu hoa sen trắng, hoặc có người rõ biết màu trời Đao Lợi, thân hình Tứ Thiên Vương, các vị thủ tạng : Thanh Đế, Hoàng Đế, Xích Đế, Bạch Đế.
Hoặc hàng Trời hay Người tâm chí vô lượng, phẩm sắc đều riêng khác, thì họ cũng thấy đức Như Lai có bao nhiêu những màu sắc phẩm lượng công đức.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Như vậy, giả sử tất cả chúng sanh đầy trong hằng sa thế giới, những loài có mạng sống luyến ái lẫn nhau, sanh sản lẫn nhau, đều hết tội ác được có thân người từ tư tưởng mà sanh. Giả sử một người trong số đó chỗ sanh ra cũng như tất cả chúng sanh kia, đức Như Lai cũng thấy họ có bao nhiêu phẩm sắc oai nghi lễ tiết và chỗ ưa thích nơi lòng họ chẳng thể hạn lượng, đều muốn xét biết hết ngôn hành bổn mạt của họ, và do nhơn duyên này, đức Như Lai chí chơn đều riêng hiện hình tượng Phật oai nghi lễ tiết ngôn hành ở nơi chúng sanh ấy.
Dường như một người tâm được giải thoát, chẳng cùng người thứ hai chung đồng, mà muốn tuyên bày chí thiệt tâm được giải thoát nhẫn đến nơi đạo.
Đức Như Lai chí chơn mới có thể làm vui đẹp lòng tất cả chúng sanh.
Vì vui đẹp lòng chúng sanh mà đức Như Lai hiển thị sắc tượng oai nghi lễ tiết, về ngôn hành cũng như vậy.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Ví như tấm gương sáng, tùy đem hình sắc gì đến soi, thì hiện hình sắc ấy chẳng mất, chẳng sai, chẳng biến đổi. Gương sáng soi hình vẫn không có tưởng niệm.
Cũng như vậy, đức Như Lai dầu đem chánh pháp cứu tế tất cả chúng sanh mà không có tưởng niệm, không tâm lợi dưỡng, có thể làm cho lòng chúng sanh vui đẹp. Tùy theo pháp cạn sâu cao thấp để khai hóa độ thoát ba cõi mê hoặc.
Đây là thân hành bí yếu của đức Như Lai.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại bảo Ngài Tịch Ý : « Bí yếu của đức Như Lai cũng chẳng phân biệt các ấm các nhập, chẳng thuộc tội phước, chẳng sanh trần lao, chẳng thành cha mẹ, không bào thai, cũng không xương thịt, đều không chỗ có, chẳng thuộc nơi sắc, không thở ra hít vào, thọ mạng diệt hết.
Muốn biết thân Phật, thì chính là Pháp thân. Thân không hình sắc, không các vọng tưởng.
Thân sắc tướng Phật được hiện ra đó, là vì chúng sanh ham ưa xinh đẹp, cầu ngôi tôn sang mà hiện hình tướng ấy ra cho mắt họ được thấy. Pháp tướng vốn vắng bặt, vì khiến tất cả chúng sanh kính mộ trí huệ xu hướng thiên nhãn nên đức Phật hiện tướng.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Nếu có các chúng sanh ở chung một pháp hội đều riêng thấy thân Phật.
Có người do ý duyên nên họ thấy Phật ở xa, ngó lại chỗ cũ họ chẳng thấy Phật ở chỗ cũ. Thấy Phật ở xa mà chẳng thấy ở chỗ cũ ấy là vì không có ý duyên vậy.
Người ngó dùng loạn ý để duyên thì chẳng thấy.
Nếu đem thân mình để suy xét sự thấy ấy, vì bận thấy người khác nên chẳng thấy thân mình.
Người ngủ chiêm bao thấy cảnh vật, sau khi thức thì không còn thấy.
Những cảnh thấy trong định, lúc xuất định không còn thấy.
Những cảnh thấy lúc thường, lúc nhập định không còn thấy.
Những cảnh thấy nơi rỗng không yên tĩnh, lúc chẳng yên tĩnh thì chẳng thấy.
Ở nơi rỗng không yên tĩnh thì không gì chẳng thấy
Sự thấy ấy không tạo tác, rời nơi không tạo tác thì không chỗ thấy.
Nếu rời nơi không tạo tác mới có chỗ thấy, thì là không thấy tất cả vậy.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Thân Phật ấy từ vô số sự đều theo duyên mà hiển hiện thấy khác.
Thân Phật ấy không có ngằn mé, cũng là vô hạn vô ngại, không vọng tưởng, chẳng thể tưởng được, chẳng thể hạn định được.
Thân Phật ấy không có ngần ấy hình tượng, không có chỗ nào chẳng khắp.
Ví như hư không, chẳng có vọng tưởng.
Cũng vậy, thân Phật vĩnh viễn không tư tưởng.
Ví như hư không vào khắp tất cả hình sắc.
Cũng vậy, thân Phật khắp soi tất cả chúng sanh.
Ví như hư không khắp vào các sắc, cùng khắp trong ấy.
Cũng vậy, thân Phật soi khắp chúng sanh, không chỗ nào chẳng khắp.
Ví như hư không, trưởng dưỡng tất cả cỏ cây trăm giống lúa.
Cũng vậy, thân Phật chí chơn trưởng dục tất cả cội công đức.
Ví như hư không chẳng kể là thường hay vô thường, cũng không có ngày đêm.
Cũng vậy, thân Phật chẳng thường, chẳng vô thường, chảng ai thấy được đỉnh đầu Phật.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đức Phật Thế Tôn hiện khắp trên cõi trời và trong thế gian.
Ma Vương và Phạm Thiên không ai dám đương diện với Phật để xem đỉnh đầu Ngài .
Chư Thiên, Long Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người và Phi nhơn, cho đến bực Thanh văn, bực Duyên Giác cùng chư Bồ Tát không ai kham nhiệm thấy được đỉnh đầu Phật.
Do đâu biết được như vậy ?
Sau khi thành đạo, đức Phật đến thành Ba La Nại chuyển pháp luân.
Lúc ấy ở phương Đông cách đây rất xa có thế giới tên Hoài Điều, Phật cõi ấy hiệu Tư Di Hoa. Trong thế giới Hoài Điều ấy có một vị Bồ Tát tên là Ưng Trì đến cõi Ta Bà này để kính cẩn cúng dường đức Phật và thưa hỏi. Bồ Tát Ưng Trì lễ chơn đức Phật rồi đi nhiễu bảy vòng, xong Ngài đứng lại trước đức Phật.
Lúc ấy Bồ Tát Ưng Trì nghĩ rằng tôi muốn đo biết thân lượng của Như Lai.
Bồ Tát Ưng Trì liền tự biến thân mình cao ba trăm ba mươi sáu muôn dặm, nhìn lên thân đức Phật thấy cao năm trăm bốn mươi ba muôn triệu cai hai muôn ức dặm. Ngài tự nghĩ tôi đã được thần túc thông tự tại, tôi lại đo lường thân đức Phật cao lớn thế nào ? Nương oai đức của Phật, Bồ Tát Ưng Trì dùng thần túc bay lên phương trên cách đây trăm ức hằng hà sa quốc độ, đến thế giới Liên Hoa Nghiêm, cõi ấy có Phật hiệu Liên Hoa Thượng, là đấng Như Lai chí chơn đẳng chánh giác hiện đương thuyết pháp.
Ưng Trì Bồ Tát dừng lại nơi ấy nhìn ra xa vẫn không thấy được đỉnh đầu của Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng biết được thân Phật cao lớn rộng xa bao nhiêu.
Lúc ấy Ưng Trì Bồ Tát đến đảnh lễ Phật Liên Hoa Thượng đi nhiễu ba vòng, ở trước Phật bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Tôi từ cõi Ta Bà đến đây, chẳng rõ xa gần bao nhiêu ? ».
Đức Phật Liên Hoa Thượng nói : « Cõi Ta Bà cách đây trăm ức hằng hà sa thế giới, ông từ cõi ấy mà đến đây ».
Ưng Trì Bồ Tát thưa : « Bạch đức Thế Tôn ! Tôi bay lên trên đến ngần ấy thế giới mà vẫn chẳng thấy đỉnh đầu của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chẳng rõ thân đức Phật ấy cao lớn bao nhiêu trăm ngàn ức hằng hà sa thế giới ? ».
Đức Phật Liên Hoa Thượng nói : « Này thiện nam tử ! Ông dùng sức thần túc từ đây lại bay lên trên trải qua hằng hà sa kiếp vẫn còn chẳng thấy được đỉnh đầu đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng chẳng biết được ngằn mé của thân Phật ấy.
Này thiện nam tử ! Phải biết thân Phật vô hạn vòi vọi như vậy chẳng ví dụ được.
Vì không có gì so sánh nên nói là chẳng thể ví dụ được.
Cấm giới của Như Lai cũng không thể ví dụ được .
Tam muội chánh định, trí huệ, giải thoát, tri kiến giải thoát, thân, khẩu, và ý ba nghiệp cùng các tướng hảo của Như Lai đều chẳng ví dụ được .
Tất cả chúng sanh dùng bao nhiêu phẩm loại ví dụ ca ngợi cấm giới, chánh định, trí huệ, giải thoát, tri kiến giải thoát, thân, khẩu, và ý cùng các tướng hảo của Như Lai thì cũng như là hư không, chẳng đến ngằn mé được.
Thân của đức Như Lai vô hạn tế dường ấy ».
Lúc ấy Ưng Trì Bồ Tát nghe lời phán dạy của đức Liên Hoa Thượng Như Lai rất đỗi vui mừng được sự chưa từng có, liền đảnh lễ chưn Phật đi nhiễu bảy vòng, nương oai đức của Phật, dùng thần lực của mình, trong khoảng phát ý niệm, mất nơi cõi nước Liên Hoa Nghiêm kia mà hiện đến cõi Ta Bà này, qua chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật, đảnh lễ chưn Phật, đi nhiễu bảy vòng, rồi ở trước Phật nói kệ ca ngợi rằng :
“Muốn biết rõ thân Phật
Ngằn mé là dường bao
Tôi bay lên phương trên
Vô lượng hằng sa cõi
Muốn thấy đỉnh đầu Phật
Bay mãi lên phương trên
Đến thế giới Liên Hoa
Vẫn chẳng thấy được đỉnh
Thế giới kia có Phật
Hiệu là Liên Hoa Thượng
Biết ý muốn của tôi
Nên vì tôi giảng nói :
Nếu dẫn những ví dụ
Để luận Phật Thế Tôn
Thì chẳng thuận Phật giáo
Là hủy báng Như Lai
Nếu muốn biết ví dụ
Như hư không vô hạn
Chư Phật pháp bình đẳng
Thiệt không có ngằn mé
Giới, định, huệ của Phật
Giải thoát, trí giải thoát
Nghiệp sắc thân cũng vậy
Như hư không vô hạn
Muốn xem đỉnh đầu Phật
Đồng như xem hư không
Như hư không trùm khắp
Thân Phật khắp cũng vậy
Như hư không trùm khắp
Phật quang chiếu khắp nơi
Phật quang chiếu chỗ nào
Có ngôn từ cũng vậy
Ngôn từ đến chỗ nào
Tâm Phật khắp cũng vậy
Như tâm Phật khắp đến
Lòng từ ban khắp chốn
Như lòng từ khắp ban
Trí huệ cũng cùng khắp
Như trí huệ soi khắp
Thân Phật khắp dường ấy
Công đức cũng như vậy
Đạo tâm cũng chẳng khác
Như công đức đạo tâm
Biết sắc thân cũng vậy
Như tất cả chúng sanh
Hưởng thọ phước đức phẩm
Một người phát đạo tâm
Phước đức cũng ngần ấy
Như người phát tâm kia
Có công đức danh xưng
Nếu ai thọ chánh pháp
Công đức hơn phát tâm
Dầu tất cả chư Phật
Trăm ức kiếp giảng nói
Chẳng hết được ngằn mé
Công đức trì chánh pháp
Có ai phát đạo tâm
Mà hộ trì chánh pháp
Người thích hiểu không vô
Công đức hơn người trên.
Vì thích hiểu không vô
Thì chẳng mất đạo tâm
Chấp trì pháp tôn thượng
Huệ này mới hòa đồng
Đến được pháp lý này
Bồ Tát dũng mãnh tu
Được đến công đức Phật
Phụng tu Phật đạo hạnh”.
Lúc Ưng Trì Bồ Tát nói kệ, cả ức thế giới chấn động, trăm ngàn ức chư Thiên trổi ngàn ức kỹ nhạc. Vô số ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại nói : « Thưa Ngài Tịch Ý ! Về thân Như Lại bí yếu ấy, nếu các chúng sanh đều họp chung một pháp hội, hoặc có người thấy được thân Như Lai, hoặc có người chẳng thấy được.
Người thấy được thì vui mừng nhìn xem thân Như Lai. Người chẳng được thấy thì nín lặng mà quán xét.
Như Lai chẳng ăn mà chúng sanh đều thấy đức Như Lai uống ăn.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Như có Thiên Tử tên Tinh Lực mới được thọ đạo. Thiên Tử ấy lấy bát đựng cơm của Như Lai đem cấp cho những kẻ đói thiếu.
Mọi người đều đến ra mắt đức Như Lai mà ăn, thấy đức Như Lai cầm cơm lên đưa cơm vào trong miệng, cơm tự nhiên lại trở vào bát.
Thuở xa xưa, đức Như Lai gieo trồng những cội công đức, sanh ở chỗ nào cũng bố thí cho những kẻ đói thiếu.
Những người đói khổ không được ăn, đức Như Lai xót thương đem đồ ăn đến cho.
Aên xong những thức ăn ấy, họ đều được thân thể khỏe mạnh, tiêu trừ trần lao hết vọng tưởng, tâm họ nhơn hòa, phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Vì thế nên phải biết rằng đức Như Lai chẳng ăn. Đức Như Lai chí chơn lấy pháp làm món ăn.
Tại sao vậy ? Vì thân của đức Như Lai là thân kim cương chẳng phá hoại được.
Thân của Như Lai không có sanh tạng cũng không có thục tạng, không có đại tiện, tiểu tiện bất tịnh, cũng không có đàm dãi nhơ uế.
Thân của Như Lai như màu vàng tử ma, không khiếp không nhược, chẳng có kinh sợ.
Ngài Tịch Ý thử xem xét thân của Như Lai không gì sánh bằng, rất đẹp lạ bền vững như chất kim cang, mà lại dịu mềm như thiên y mịn nhuyễn.
Có lúc thân của Như Lai hiển hiện sự vi diệu vô thượng. Chư Thiên Ngọc nữ đảnh lễ chưn đức Phật, chạm chưn đức Phật cảm thấy tột mền không gì ví dụ được, họ đều phát tâm Vô thượng Bồ đề xa rời trần cấu.
Hoặc có người tham dâm, người sân hận, người ngu si, người đẳng phần thấy thân của Như Lai. Mắt của họ vừa thấy thì những phiền não tham, sân, si và đẳng phần của họ đều được tiêu trừ, không còn trần cấu.
Hoặc có những người tham lam, phạm giới, sân hận, lười biếng, loạn tâm, ngu si được thấy thân của Như Lai thì khiến họ trở thành những người bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhứt tâm, trí huệ.
Tóm lại, những người xa rời pháp lành mà thấy thân của Như Lai thì bỏ được tâm bất thiện mà tu công đức.
Lấy tâm chẳng vọng tưởng để nhìn xem nơi đức Như Lai mới gọi là chơn đạo.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đó là thân đức Như Lai bí yếu vậy.
Đức Như Lai ứng hiện biến hóa tự tại, dùng pháp khai hóa hiểu biết tâm ý của chúng sanh mà thuyết pháp cho họ được giải thoát.
Đối với chúng sanh kia, đức Như Lai vốn không tác không hành, chưa bao giờ đức Như Lai chí chơn nghĩ rằng tôi sẽ hóa hiện thân hình.
Những chúng sanh được hóa độ tâm họ tự quan niệm rằng :
Đức Như Lai chí chơn ở trước chúng tôi. Từ vô số thế giới, đức Như Lai đến thế giới nầy. Từ thân Như Lai phóng quang minh vô lượng màu sáng. Quang minh ấy chiếu suốt hằng hà sa quốc độ. Chúng sanh do quang minh ấy mà được khai hóa.
Vì thế nên ở Như Lai không có tác nghiệp, không có công hạnh.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Thân của Như Lai bí yếu, bao nhiêu là tâm niệm, bao nhiêu là sự ban bố tuyên thuyết, bao nhiêu là thành tựu chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Chẳng thể tính kể được sự bí yếu của thân Như Lai ».
Lúc nói thân hành bí yếu của Như Lai, có mười ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ đề, tám ngàn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.
Chư Thiên, A Tu La, người thế gian khen Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : Lành thay ! Lành thay !
Nhạc trời chẳng trổi tự kêu. Hư không mưa hoa trời.
Đức Thế Tôn đặt tay mặt lên đỉnh đầu Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ mà khen rằng : « Lành thay ! Lành thay ! Khéo nói thân của Như Lai bí yếu như vậy. Lời Mật Tích tuyên nói ấy như lời Phật dạy không khác ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Ngài Tịch Ý Bồ Tát : « Thế nào là khẩu bí yếu của đức Như Lai ?
Thưa Ngài Tịch Ý ! Từ đêm nào đức Như Lai thành tối chánh giác đến lúc nhập Vô dư Niết bàn, khoảng thời gian ấy đức Như Lai thi thố một văn tự bèn có thể ban bố tuyên thuyết phân biệt tất cả vô hạn nghĩa lý, vô số ức năm giảng diễn khắp các pháp.
Tại sao vậy ?
Đức Như Lai thường định.
Đức Như Lai chí chơn không thở ra hít vào, không tư niệm, không chỗ làm, không tư tưởng.
Dầu miệng tuyên thuyết, nhưng đức Như Lai vẫn không tưởng niệm không chỗ làm.
Chỗ làm của đức Như Lai không làm không chẳng làm, không lời không nói, chẳng nghĩ tưởng có người.
Đức Thế Tôn chỗ nói tất cả tam muội chánh thọ siêu việt đều dùng văn tự mà phân biệt diễn thuyết.
Tất cả chúng sanh đều riêng cho rằng : đức Như Lai vì tôi mà giảng nói kinh pháp.
Đức Như Lai ban một âm thanh đều khắp tất cả chỗ tưởng chỗ niệm của tất cả chúng sanh, không ai là chẳng vui đẹp.
Ngôn từ của Như Lai phát ra sáu mươi phẩm âm thanh sai khác . Những là âm thanh cát tường, âm thanh êm diu, âm thanh đáng ưa, âm thanh thanh tịnh đẹp ý, âm thanh rời cấu nhơ, âm thanh rõ sáng, âm thanh vi diệu, âm thanh nghe rõ, âm thanh không rối loạn, âm thanh không huyên náo, âm thanh bực thầy, âm thanh không cứng rắn, âm thanh không thô xẵng, âm thanh thiện thuận, âm thanh an trọng, âm thanh hòa lành, âm thanh theo tâm đúng lúc, âm thanh vui vẻ, âm thanh gợi lòng yêu an ổn, âm thanh không nhiệt não, âm thanh đứng đắn, âm thanh thức đạt, âm thanh thân cận, âm thanh ý thích, âm thanh mừng rỡ, âm thanh dạy dỗ hiền hòa, âm thanh rõ ràng, âm thanh siêng cần, âm thanh nhẫn nại, âm thanh lớn rõ, âm thanh vang trừ ô uế, âm thanh như sư tử rống, âm thanh như rồng gầm, âm thanh như mưa tốt, âm thanh như sấm dậy, âm thanh chơn đà la kỹ, âm thanh như chim loan hót, âm thanh như chim ưng kêu, âm thanh chim hạc ré, âm thanh kỳ vức, âm thanh như tiếng chim anh vũ, âm thanh như sét nổ, âm thanh chẳng mất, âm thanh chẳng bạo, âm thanh vào trong tất cả tiếng vang, âm thanh chẳng phi thời, âm thanh không thiếu, âm thanh không khiếp, âm thanh sung sướng, âm thanh thông sướng, âm thanh giới cấm, âm thanh ngon ngọt, âm thanh tiến hành, âm thanh rộng khắp, âm thanh đầy đủ, âm thanh các căn không sức mẻ, âm thanh chẳng nhẹ mau, âm thanh vô trụ, âm thanh vang vào khắp các chúng hội, âm thanh tuyên bày các công đức. Đó là sáu mươi phẩm âm thanh của đức Như Lai.
Âm thanh của đức Như Lai thông khắp mười phương thế giới của chư Phật làm vui đẹp lòng tất cả chúng sanh.
Đức Như Lai không có tâm tưởng niệm rằng tôi sẽ vì chúng sanh mà miệng tuyên nói kinh trường hàng, kinh trùng tụng, kinh kệ tụng, kinh bổn sanh, kinh bổ sự, kinh tự thuyết, kinh nhơn duyên, kinh phương quảng, kinh vị tằng hữu, kinh thí dụ, kinh luận nghị, kinh thọ ký, ban bố xa gần cho họ hiểu biết, tuyên thuyết pháp nghĩa để khai hóa họ.
Lại ở trong các chúng hội, đức Như Lai chí chơn tuyên thuyết pháp nghĩa. Thân cận bên đức Phật có các chúng Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ, chư Thiên, Long Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn, Phi nhơn. Chúng hội ấy, tùy theo căn tánh, chỗ tu tinh tiến, tùy pháp sở thích mà làm cho họ được nhập đạo. Do thuận nhập đạo nên tìm cầu chúng sanh bèn rõ biết không có nhơn mà giáo hóa họ.
Các chúng sanh ấy tự nghĩ rằng âm thanh từ miệng đức Như Lai phát ra.
Đức Như Lai chẳng riêng rẽ thuyết pháp cho họ, mà tùy theo tâm họ sai khác, ngôn ngữ đúng lúc mỗi mỗi đều nghe pháp mà được tỏ ngộ. Đây gọi là khẩu bí mật của đức Như Lai.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Vô số chúng sanh tâm hành chẳng kể được. Ngôn ngữ của họ có đến tám muôn bốn ngàn. Dìu dắt hạng chúng sanh hạ liệt vô minh tối tăm ấy vào chánh pháp của Như Lai cho họ được khai ngộ.
Lại tâm hành của chúng sanh chẳng hạn lượng được.
Nếu có chúng sanh hoặc tham dâm, hoặc sân hận, hoặc ngu si, hoặc đẳng phần, đức Như Lai tùy theo thời nghi vào trong đó để cứu tế cho họ được vô sở trụ. Nhưng đức Như Lai không có tâm niệm vào trong chúng sanh vì họ phân biệt hành nghiệp tội phước, dùng quyền phương tiện đều vì họ nói pháp riêng khác.
Chúng sanh vô hạn chẳng thể đếm kể tính lường được, chỗ làm của họ chẳng đồng, đức Như Lai thiện quyền phương tiện ban tuyên bao nhiêu phẩm pháp.
Lời dạy của đức Như Lai đều khắp vào tâm họ, tùy theo bổn hạnh của họ mà tuyên bố đạo nghiệp cho họ đều được hiểu biết nhập đạo. Đây thời gọi là sự bí yếu của đức Như Lai.
Hoặc có vị Bồ Tát vào trong bí yếu của đức Như Lai, những vị ấy chẳng biết mà cho rằng đức Như Lai chí chơn diễn nói môn hữu vi. Nhưng thiệt thì pháp của đức Như Lai đều là vô vi.
Lại đức Như Lai tuyên một âm thanh.
Chúng sanh tưởng là có ngôn thuyết bèn chỉ tưởng nhớ ưa thích âm thanh của đức Như Lai mà hư vọng tưởng nhớ chỗ được nói.
Chẳng nên có quan niệm như vậy. Mà phải biết rằng miệng của đức Như Lai vĩnh viễn không có nói năng.
Tại sao vậy ?
Hoặc có chúng sanh nghe âm thanh của Như Lai phát ra từ tướng bạch hào giữa chặng hai chưn mày lại cho là ở đỉnh đầu, hoặc có người tưởng là tóc, biết là màu xanh biếc, đứng nơi giữa trời, mắt rất sáng đẹp.
Mọi người chẳng kham nhìn kỹ đức Như Lai được.
Sở dĩ hiện ra cho họ thấy, là để tiêu trừ các điều sái quấy, bỏ những tâm ganh hại. Nếu thấy cổ, vai , cánh tay thì trừ các họa ngầm. Nếu thấy ngón tay, hoặc hông, hoặc có ngợi khen từ lưng đến chưn, hoặc là bụng, rún, âm tàng, gối, bắp chưn thì hết sân hận, hoặc do đó mà được có những tướng tốt hơn hẳn thế gian.
Hoặc có người tưởng niệm đức Như Lai chí chơn nghe âm thanh của đức Như Lai, tùy theo căn tánh lợn độn và sở thích của họ chỗ đáng được độ mà khai hóa.
Đức Như Lai khai diễn âm thanh giáo hóa chúng sanh đều làm cho họ vào đạo.
Dầu vậy nhưng đức Như Lai cũng không có tưởng niệm.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Ví như nhạc khí, điều chỉnh âm giai, lấy tay đánh đó phát ra tiếng nhạc du dương thanh thoát. Không phải tại nơi nhạc khí làm ra âm thanh ấy. Đều do nơi các duyên hòa hiệp mà có tiếng hay.
Cũng vậy, ngôn từ của đức Như Lai khai hóa tâm chúng sanh, do họ mà thuyết giáo.
Với những chúng sanh ấy, đức Như Lai diễn thuyết không có riêng tư, đều do túc duyên đã tạo lập công hạnh mà có thành quả đặc biệt lạ lùng.
Ở nơi chúng sanh, đức Như Lai siêu tuyệt nguy nguy là do sự đặc biệt lạ lùng sẵn từ trước.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Ví như tiếng kêu to có âm vang đến xa. Aâm vang ấy chẳng ở tại trong, chẳng ở tại ngoài, chẳng ở chặng giữa.
Cũng vậy, đức Như Lai phát âm khai hóa tâm chúng sanh. Lời lẽ ngôn giáo ấy chẳng từ nơi thân phát ra, cũng chẳng phải từ nơi tâm, chẳng trong, chẳng ngoài, chẳng từ chặng giữa.
Ví như trong đại hải có minh châu như ý phát ánh sáng làm vừa ý tất cả mọi người. Nếu đặt minh châu ấy trên đầu ngọn phướng chiếu khắp thành thị, tùy theo lòng cầu muốn của mọi người, minh châu ấy hiện ra bảo vật đồ dùng vừa theo ý muốn của mọi người. Minh châu ấy vẫn không có tưởng niệm.
Cũng vậy, đức Như Lai bửu tâm thanh tịnh nắm tràng đại bi, theo căn tánh của chúng sanh không đâu là chẳng ứng, đều làm cho họ được khai ngộ. Dầu hiển thị giáo hóa như vậy nhưng cũng không có tưởng niệm.
Đây là sự tuyên giáo bí yếu của đức Như Lai ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại nói với Ngài Tịch Ý Bồ Tát : « Tôi xem khắp trên trời và trong thế gian, các Ma Vương, Phạm Thiên, Sa Môn, Phạm Chí, chư Thiên và nhơn dân đều chẳng thể hạn lượng được âm thanh văn từ đức cũa Như Lai tuyên ra.
Tại sao vậy ?
Như chính tôi nhớ lại ngày trước đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đây ở tại núi Linh Thứu, có chư Bồ Tát quyến thuộc vây quanh. Có hội thuyết pháp tên là Tràng Tịnh Âm do Di Lặc Bồ Tát kiến lập. Đức Thế tôn rộng vì chúng hội mà ban bố pháp âm.
Lúc ấy Ngài Đại Mục Kiền Liên nghĩ rằng tôi muốn thử biết coi âm vang của đức Như Lai đến bao xa.
Liền đó Ngài Đại Mục Kiền Liên từ chỗ Ngài ngồi bỗng biến mất, Ngài hiện đứng trên đỉnh núi tu Di vẫn nghe âm thanh của Như Lai như ở gần trước mắt. Ngài bèn dùng thần lực bay đi đến cuối mé ngoài tam thiên Đại Thiên thế giới, đứng trên đỉnh núi Đại Thiết Vi tột mé ngoài, vẫn còn nghe tiếng nói của Như Lai như cũ không khác, vẫn như gần bên chớ chẳng phải xa.
Lúc đó sanh đức Như Lai nghĩ rằng ông Đại Mục Kiền Liên muốn thử âm thanh tịnh của Như Lai. Ta nên trợ hiển thần túc cho ông ấy.
Ngài Đại Mục Kiền Liên nương oai thần của đức Như Lai, dùng thần túc của Ngài bay qua thế giới phương Tây xa đến qua khỏi chín mươi chín hằng hà sa thế giới của chư Phật.
Nơi ấy có thế giới tên Quang Minh Phan, đức Phật ở thế giới ấy hiệu Quang Minh vương Như Lai chí chơn đẳng chánh giác hiện đương thuyết pháp.
Ngài Đại Mục Kiền Liên đến thế giới Quang Minh Phan ấy mà vẫn nghe âm thanh của đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni như tiếng nói của người đối diện.
Đức Phật Quang Minh Vương ấy thân hình cao bốn mươi dặm. Chư Bồ Tát thân hình cao hai mươi dặm.
Bát đựng đồ ăn của chư Bồ Tát cao một dặm.
Lúc ấy Ngài Đại Mục Kiền Liên đi vòng trên vành bát.
Chư Bồ Tát bạch đức Phật Quang Minh Vương :
Bạch đức Thế Tôn ! Con trùng nầy từ đâu đến, mình nó mặc y phục Sa Môn đang đi trên vành bát.
Đức Phật Quang Minh Vương Như Lai bảo chư Bồ Tát ấy :
Các thiện nam tử ! Cẩn thận chớ sanh lòng khinh mạn hiên giả ấy. Ngài tên Đại Mục Kiền Liên, là vị đệ tử thần thông đệ nhứt trong hàng Thanh Văn tại pháp hội của đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở Ta Bà thế giới.
Đức Quang Minh Vương Phật bảo Ngài Đại Mục Kiền Liên :
Chư Bồ Tát ở cõi nước ta và các Thanh Văn thấy thân ông nhỏ thấp nên có lòng khinh mạn. Ông nên tự hiển thần thông mà nương oai đức của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ngài Đại Mục Kiền Liên rời vành bát đến trước đức Phật Quang Minh Vương đảnh lễ dưới chưn, đi quanh bảy vòng rồi bạch rằng :
Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn thân nầy kiết già ngồi tại đây được chăng ?
Đức Phật nói :
Tùy ý ông muốn.
Ngài Đại Mục Kiền Liên liền bay vọt lên hư không cao trăm ức trượng, hiện làm một chiếc giường báu, tự ngồi kiết già trên giường ấy.
Từ giường báu ấy rũ thòng ức trăm ngàn triệu xâu chuỗi bửu châu. Mỗi viên bửu châu trên mỗi chuỗi phóng trăm ngàn tia sáng. Mỗi tia sáng đều có hoa sen báu. Trên tất cả hoa sen báu đều hiện có Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi tuyên thuyết pháp âm thanh tịnh đồng như đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Hiện thần thông xong, Ngài Đại Mục Kiền Liên trở lại trước đức Phật Quang Minh Vương.
Chư Bồ Tát bên ấy được chưa từng có, bạch đức Phật rằng :
Bạch đức Thế Tôn ! Ngài Đại Mục Kiền Liên do việc gì mà đến thế giới Quang Minh Phan nầy ?
Đức Phật nói với chư Bồ Tát bên ấy :
Vì muốn biết âm vang của đức Thích Ca Mâu Ni Phật xa bao nhiêu nên ông ấy bay đến đây.
Đức Phật Quang Minh Vương bảo Ngài Đại Mục Kiền Liên :
Ông chẳng nên thử âm vang của đức Như Lai chí chơn.
Âm vang của Như Lai vô hạn, không có xa gần, mà ông muốn biết chừng hạn thì rất lầm.
Dầu cho ông có dùng thần túc đi qua phương Tây mãi không ngừng quá hằng ha sa kiếp, cũng chẳng biết được chừng hạn âm vang của Như Lai.
Âm vang của chư Phật Thế Tôn rộng xa vô hạn, siêu tuyệt vô lượng chẳng gì ví dụ được.
Ngài Đại Mục Kiền Liên sụp lạy xám hối rằng :
Bạch Thế Tôn ! Đúng vậy, tôi thiệt kém sáng suốt. Aâm thanh của Phật vô lượng, mà tôi lại ngang bướng sanh lòng muốn biết chừng hạn xa gần.
Đức Phật Quang Minh Vương bảo Ngài Đại Mục Kiền Liên :
Ông đi quá xa, vượt qua khỏi chín mươi chín hằng hà sa thế giới mà đến cõi nầy.
Ngài Đại Mục Kiền Liên bạch :
Bạch đức Thế Tôn ! Rất xa rất xa. Nay thân tôi quá nhọc mệt chẳng thể trở về được.
Đức Phật nói :
Ý ông nghĩ thế nào, phải chăng ông tự dùng thần lực mà đến được đây ?
Ông chớ quan niệm như vậy. Phải biết đó là do oai đức của Phật Thích Ca Mâu Ni nên ông mới có thể đến đây được.
Ông phải vói đảnh lễ Phật Thích Ca Mâu Ni, oai thần của đức Phật ấy sẽ đem ông về đến bổn quốc.
Giả sử ông tự dùng thần lực, dầu đi suốt một kiếp cũng về không đến. Lúc ông về đến sẽ không kịp thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt.
Ông nghĩ thế nào, ông có biết phải từ hướng nào để trở về chăng ? Bổn quốc Ta Bà ở hướng nào chăng ?
Ngài Đại Mục Kiền Liên thưa :
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi quên mất phương hướng, thiệt chẳng biết bổn quốc ở chỗ nào, ở hướng nào.
Đức Phật dạy :
Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở về hướng Đông.
Liền lúc ấy, Ngài Đại Mục Kiền Liên hướng về phương Đông, vói kính lễ đức Thích Ca Mâu Ni Phật, rồi quỳ chắp tay nói kệ rằng :
Đấng Tôn quý của trời người
Oai đức vòi vọi rất lớn
Trời và người đều cung kính
Xin rũ lòng thương xót tôi.
Âm vang Phật suốt vô lượng
Trí huệ Phật không ngằn mé
Xin hiển hiện cõi Ta Bà
Tôi muốn về đến bổn quốc.
Lúc ấy tại núi Linh Thứu, các Ngài Xá Lợi Phất v.v... nghe tiếng xướng kệ của Ngài Đại Mục Kiền Liên đều rất ngạc nhiên.
Ngài A Nan bước lên bạch đức Phật :
Bạch đức Thế Tôn ! Ai tuyên kệ quy lễ đức Thế Tôn như vậy ?
Đức Phật nói :
Nầy A Nan ! Đó là Đại Mục Kiền Liên ở tại thế giới Quang Minh Phan của đức Phật Quang Minh Vương Như Lai chí chơn cách cõi nầy chín mươi chín hằng hà sa thế giới về phương Tây. Ông ấy muốn trở về đây nên tuyên kệ kính lễ.
Ngài A Nan lại hỏi :
Bạch đức Thế Tôn ! Duyên cớ gì mà Ngài Đại Mục Kiền Liên đến thế giới Quang Minh Phan ấy ?
Đức Phật nói :
Nầy A Nan ! Chờ Đại Mục Kiền Liên về tới, ông sẽ hỏi ý ấy.
Đại chúng đều bạch đức Phật :
Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi muốn được thấy thế giới Quang Minh Phan và đức Quang Minh Vương Như Lai chí chơn đẳng chánh giác. Cũng muốn được thấy Ngài Đại Mục Kiền Liên đi nơi cõi ấy.
Đức Phật biết lòng khao khát của chúng hội, liền từ tướng bạch hào giữa chặng mày phóng ra tia sáng lớn tên Câu Thọ, chiếu suốt qua chín mươi chín hằng hà sa thế giới đến cõi Quang Minh Phan. Chúng hội đều thấy thế giới Quang Minh Phan và đức Quang Minh Vương Như Lai chí chơn.
Ngài Đại Mục Kiền Liên thấy tia sáng của đức Phật liền gieo mình kính lễ.
Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni vói bảo Ngài Đại Mục Kiền Liên nương tia sáng ấy để trở về bổn quốc.
Ngài Đại Mục Kiền Liên nương theo tia sáng của đức Phật, trong khoảnh khắc về đến núi Linh Thứu, đảnh lễ chưn đức Phật, đi quanh bảy vòng, quỳ chắp tay ăn năn tự trách :
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi tư mê lầm. Âm vang của đức Như Lai chẳng thể hạn lượng mà tôi lại muốn thử. Tôi đi mãi quá xa. Đến đâu cũng vẫn nghe âm thanh của đức Như Lai y như ở gần bên như nhau không khác.
Âm vang của đức Như Lai thiệt là vòi vọt không ngằn mé.
Đức Phật nói :
Đúng như lời ông nói. Thanh âm của đức Như Lai suốt đến xa không lấy gì ví dụ được.
Muốn biết thanh âm của đức Như Lai vang đến xa gần, cũng như là đo hư không muốn biết ngằn mé.
Như hư không cùng khắp vô biên, tiếng nói của dức Như Lai vang suốt không ngằn mé.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đương lúc nói phẩm Đại Mục Kiền Liên đi và về, ở trong pháp hội ấy có một vạn người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Đây là ngôn từ bí mật của đức Như Lai.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Ngài nghĩ thế nào ? Tâm niệm của tất cả chúng sanh có thể biết được chăng ? ».
Ngài Tịch Ý Bồ Tát nói : « Tâm niệm của một người, tư tưởng khó hạn đinh. Giả sử tất cả chúng sanh trong tam thiên Đại Thiên thế giới suốt cả một kiếp cùng tính đếm nhiều ít cũng chẳng biết được. Huống là tâm niệm tư tưởng của tất cả chúng sanh !
Thưa Ngài Tịch Ý ! Tâm tưởng của tất cả chúng sanh vô hạn ngần ấy, huống lại tâm tánh của chúng sanh không có hình tướng chẳng thể ví dụ được ».
Khi ấy Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói kệ rằng :
« Chúng sanh cõi Đại Thiên
Đều khiến thành Duyên Giác
Một người trong một kiếp
Tâm niệm chẳng biết được.
Tất cả tâm tưởng niệm
Đức Phật biết rõ cả
Phật dùng tâm vô tưởng
Đều biết tất cả niệm.
Tùy chúng s anh tưởng niệm
Phật tuyên giảng kinh điển
Thanh âm ấy tại tâm
Mà diễn nên đạo pháp.
Như tất cả chúng sanh
Nghĩ tưởng các danh sắc
Một chưn lông của Phật
Phóng Quang Minh cũng vậy.
Như danh sắc và tâm niệm
Của tất cả chúng sanh
Thanh âm của Phật diễn
Hơn số tưởng của chúng.
Phật ban tuyên tất cả
Dẫn dụ kể tưởng niệm
Tiếng kia chẳng thôi nghỉ
Lời Phật không hạn mé.
Ai có thể mến lời
Không sắc nói không nói,
Không sắc không có nói
Tiêu diệt không sắc trần.
Giả sử trần không sắc
Tất cả chẳng thể được
Do vì không sắc trần
Rốt ráo chẳng thể được.
Dầu nói nhưng chẳng thiệt
Không trong cũng không ngoài
Trần lao đồng hư không
Nên gọi không trong ngoài
Lời nói chẳng thể được
Phật nói suốt mười phương
Trần lao cũng vô hạn
Đây kiến lập nơi chỗ.
Lời nói thượng trung hạ
Của tất cả chúng sanh
Không thân khẩu ý nghiệp
Chẳng bỏ cũng chẳng lấy.
Dường như xướng kỹ kia
Âm nhạc của chư Thiên
Cũng không thân khẩu nghiệp
Mà âm thanh hòa khắp.
Tâm chúng sanh cũng vậy
Vốn thanh tịnh như thế
Phật đều ban lời dạy
Tâm Phật không tưởng niệm.
Ví như vang theo tiếng
Không trong cũng không ngoài.
Lời Phật nói cũng vậy
Không trong cũng không ngoài.
Vô niệm như diệu bửu
Lời Phật đẹp chúng sanh
Lời Phật không vọng tưởng
Lợi ích cho muôn loài ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Tịch Ý Bồ Tát rằng : « Đó là khẩu ngôn bí yếu của đức Như Lai.
Lại khẩu bí yếu của đức Như Lai, tùy theo âm thanh ấy mà vì chúng sanh thuyết pháp khai hóa.
Cõi Dại Thiên nầy giả sử có bao nhiêu loài, đức Như Lai chí chơn tuyên bố dạy dỗ, theo tiếng nói của họ, dùng những danh hiệu chẳng kể hết chí thành giáo hóa. Đây gọi là khổ tập diệt đạo. Gọi là địa thần ủng hộ.
Tâm Phật kiên cố, bổn ý ở nơi đây.
Thần chú rằng :
A bì a bà mâu lê, gia hà ha na di, kha ca ưu đầu.
Thần chú nầy hộ trì tất cả, thế nên gọi là khổ tập diệt đạo.
Trong hư không, tất cả chư Thiên đều khen lời nói ấy, đồng tuyên chú rằng :
Hượt tri, a hượt tri, a hượt tra ca di, a hòa ni nê lê.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả, thế nên gọi là khổ tập diệt đạo.
Chư Thiên ở trời Tứ Vương lại nói chú rằng :
Y nê di nê, đa bế đa đa bế, duy lô.
Thần chú nầy cứu tất cả chúng sanh, thế nên gọi là khổ tập diệt đạo pháp.
Chư Thiên ở trời Đao Lợi nói chú rằng :
Kỳ hồi chuyển, quán tập, chủ diệt tận, vi tận bất tương cử yếu.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên ở trời Dạ Ma nói chú rằng :
Thủ lê đạo la tư, hòa lê đạo la tê tuy tà, đạo tê tuy tà bị hòa ni.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên trời Đâu Suất nói chú rằng :
Độc phạm diện xúc, hồi chuyển tích súc nghiệp.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên ở trời Hóa Lạc nói chú rằng :
Sở độ câu sở độ, hộ sở độ, chủ độ nữ.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên ở trời Tha Hóa Tự Tại nói chú rằng :
A hô sự nghiệp hô, hòa nê di, a la ni hàm.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Phạm Thiên nói chú rằng :
Hữu sự nghiệp, sự nghiệp chủng, nhơn duyên thọ dĩ nhơn duyên độ.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Phạm Thân nói chú rằng :
Thanh minh, tạo thanh tịnh, thanh tịnh phong, động thanh tịnh.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Phạm Mãn nói chú rằng :
Vô cực để, câu tương khứ, đạo ngự chủ, niệm kiên yếu.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Phạm Độ nói chú rằng :
Hòa na hòa na tán đề, hòa na ha ha na, hòa na câu ma na.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Đại Phạm nói chú rằng :
Mộc mật, mộc mật tiên bỉ diệc tiên, ấn thị.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiền Quang Diệu nói chú rằng :
Y hài hài, tương hài khứ thân cận.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Thiểu Quang nói chú rằng :
Thị thủ khứ, bất tương khứ, bất sử khứ, vô sở chí.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Vô Lượng Quang nói chú rằng :
Quán tập, câu cung tập tập diệt tận, tập vô lượng.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Quang Âm nói chú rằng :
Dĩ đoạn chung, tự tại đoạn thuận tùng hòa, thường thanh tịnh.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Ước Tịnh nói chú rằng :
Sở chí thu, sở khả quy, cận sở đáo, dĩ cận sở đáo.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Thiểu Tịnh nói chú rằng :
Thanh tịnh, thanh tịnh thị, tịnh phục tịnh, quy thanh tịnh.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Vô Lượng Tịnh nói chú rằng :
Vô ngã thị, vô ngô ngã thị, phi cống cao quy tự đại.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Tịnh Nan Đệ nói chú rằng :
Giải thoát dĩ độ, tích giải độ, bổn cận giải.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả.
Chư Thiên Quảng Quả, chư Thiên Ngự Từ nói chú rằng :
Dĩ vô tác, vô sở tác, trừ sở tác, sở tác cứu cánh.
Thần chú nầy cứu hộ tất cả”.
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : “Đây gọi là khổ tập diệt đạo nên phải phụng hành, nên phải khai hóa mà theo luật giáo hiển hiện nghiệp vi diệu vô cực.
Chư Thiên Ly Từ, chư Thiên Giả Sử, chư Thiên Thiện Hiện, chư Thiên Cứu Cánh, cõi Tịnh Cư có bốn trời, đó là chư Thiên Phụng Hành Quyết Liễu Nhứt Xứ Cứu Cánh, chư Thiên Chơn Cứu Cánh, chư Thiên Vô Sân Khuể và chư Thiên Bất Thân Cận.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Chư Thiên ấy lập thệ chí thành lợi ích chúng sanh như vậy.
Chư quỷ thần Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, và quỷ thần Trì Hoa, những ngôn từ tuyên dạy của họ đều riêng khác nhau.
Những đại quốc ở Diêm Phù Đề nầy có một ngàn, mỗi đại quốc đều riêng có đại quân, tất cả loài người và các hàng phi nhơn, ngôn ngữ của họ đều khác nhau, âm thanh chẳng đồng, lời có khinh trọng ; nhẫn đến trong biển các loài thủy tộc và chư thủy thần, ngôn ngữ đều khác nhau, chi tháo của họ chẳng đồng, âm thanh cũng sai khác.
Đức Như Lai chí chơn tùy theo ngôn ngữ âm thanh của họ mà nhập vào trong ấy rồi khai thị giáo hóa họ, xây dựng họ nơi chánh chơn.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Cõi Đại Thiên nầy có tám mươi bốn ức trăm ngàn triệu loài chúng sanh. Ngôn ngữ của họ đều khác nhau. Tính kể tất cả đều quy về một nghĩa, trí huệ chí chơn, chí thành không phẫn nộ.
Đây là ngôn từ bí yếu của đức Như Lai.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Ngôn từ của đức Như Lai giaỉ quyết lưới nghi của tất cả chúng sanh làm cho họ không còn kiết sử.
Tất cả chúng sanh mười phương, chủng loại nhiều hơn đất đại địa, gây nghiệp riêng khác, đức Như Lai đều làm cho hết tội đến được thân loài người. Do thân người từ tư tưởng phát sanh trí huệ biện tài dũng mãnh như Ngài Xá Lợi Phất.
Ngôn từ của đức Như Lai chẳng thể hạn lượng được, không gì ví dụ được”.
Lúc nói ngôn từ bí yếu của đức Như Lai, có hai vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Tất cả chúng hội được chưa từng có, tất cả đều vui mừng, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ tin thọ.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.119.119.191 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.