Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@pgvn.org
 PHÁP HỘI MẶC GIÁP TRANG NGHIÊM
 THỨ BẢY 
 (Hán Bộ từ quyển 21 đến quyển 25)
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở thành Vương Xá tại Trúc Lâm Ca Lan Ðà cùng chúng đại Tỳ Kheo và chư đại Bồ Tát câu hội. Chư Bồ Tát nầy đều từ các Phật đến họp. 
 Lúc bấy giờ đức Thế Tôn được vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh cung kính cúng dường. 
 Trong chúng hội có vị đại Bồ Tát tên là Vô Biên Huệ, từ chỗ ngồi đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất cúi đầu kính lạy, rồi chắp tay hướng lên đức Phật mà bạch rằng: “ Bạch đức Thế Tôn! Tôi có chút nghi ngờ xin hỏi đức Như Lai, mong đức Như Lai chuẩn cho”. 
 Ngài Vô Biên Huệ Bồ Tát nói kệ rằng: 
 “Ðấng Ðại Hùng rượng Phu
 Thế gian chẳng ai bằng
 Có chút nghi xin hỏi
 Chẳng rời tòa sư tử
 Hiện thân khắp mười phương
 Trong tất cả dị luận
 Không ai khuynh động được
 Tạng trí không ngằn mé
 Trí lực cũng vô lượng
 Mỗi lực của Thế Tôn
 Ðộ khắp được thế gian
 An trụ nhứt thiết trí 
 Khéo trụ ở thập lực
 Ðại sư tử vô úy
 Ðấng tối thắng vô thượng 
 Ðức Như Lai có đủ 
 Mười tám pháp bất cộng
 Chiếu sáng khắp thế gian
 Xô dẹp các ngoại đạo 
 Biết rõ tất cả pháp 
 Vì thế không ai trên 
 Ðại Ðạo Sư trọn lành
 Tôi có nghi xin hỏi
 Trí ly cấu vô biên 
 Trí đại hải bất động 
 Trí cảnh giới vô ngại
 Tôi có nghi xin hỏi 
 Thế Tôn khéo tu tập
 Nơi đạo không còn lầm 
 Ðại đạo sư an ổn 
 Tôi có nghi xin hỏi
 Ðã qua khỏi dòng dữ
 Dã dứt hết trói buộc
 Nhỗ được các tên độc
 Tôi có nghi xin hỏi
 Ðã phá vỏ vô minh
 Ðã hết nóng phiền não
 Hay ở an mát mẻ
 Tôi có nghi xin hỏi
 Trí vô úy vô thượng
 Trí vô ngại vô trước
 Pháp hải nhứt thiết trí
 Như Lai đã chứng được
 Phật vô lượng công đức
 Chứng trí đều viên mãn
 Hết tất cả phiền não
 Phá tất cả kiến chấp
 Thế Tôn chứa nhóm nhiều
 Vô lượng công đức lớn
 Pháp Vvương bất tư nghì
 Tôi có nghi xin hỏi
 Phật trí huệ thù thắng 
 Chiếu khắp các thế gian
 Diễn rộng ánh sáng pháp
 Biển công đức vô biên
 Pháp quang của Ðạo Sư
 Chiếu khắp các thế gian
 Vì thế trong thế gian
 Ánh sáng Phật pháp hiện
 Biển pháp nhứt thiết trí
 Biện tài không gì trên
 Tinh tiến chẳng nghĩ bàn
 Thanh tịnh rời kiến chấp
 Vì Phật nhãn vô biên
 Trí cảnh cũng vô biên
 Ðấng thế gian vô đẳng
 Tôi có nghi xin hỏi
 Ðại Mưu Ni Pháp Vương
 Dứt được chúng sanh nghi
 Bạch Phật tôi sẽ hỏi 
 Trông mong được hứa cho
 Tôi xem tất cả chỗ 
 Trên trời và nhơn gian 
 Không ai bằng Như Lai
 Ðấng soi sáng cùng khắp
 Ðầy đủ các công đức
 Ðại trượng phu trang nghiêm
 Pháp Vương chẳng nghĩ bàn
 Sáng rực trong các thánh
 Vi như núi Tuyết lớn
 Chỗ các báu đoan nghiêm
 Thế Tôn ngồi pháp tọa 
 Ðoan nghiêm cũng như vậy
 Diệu âm đại tinh tấn
 Hay tuyên lời đẹp dạ
 Nếu chúng sanh được nghe
 Căn lành đều thanh tịnh
 Phật thù thắng trong người
 Thường diễn ánh sáng pháp
 Nhờ vậy mà chúng sanh
 Tùy ý liền khai ngộ
 Biết thời biết chúng hội 
 Ðấng Ðạo Sư biết người
 Diễn bày ánh sáng pháp
 Dùng trì huệ đúng thời
 Ðấng phạm âm tinh tiến
 Xin ban lời thanh tịnh 
 Như trời mưa ướt đất
 Chánh pháp khắp nhuần mát 
 Thế Tôn ở trong chúng 
 Khắp tuyên pháp vũ rồi
 Hy vọng ở pháp nầy
 Chúng sanh đều đầy đủ
 An trụ trên tất cả
 Như Vương ở Diệu Cao
 Ban pháp cho chúng sanh
 Khiến đại chúng hoan hỉ
 Ðại Hùng Lưỡng Túc Tôn
 Cảnh giời bất tư nghì
 Tất cả các chúng sanh
 Không ai có thể biết
 Vô lượng đại trượng phu
 Chúng hội đã hòa hiệp 
 Nương nhờ đại Mâu Ni
 Chí cầu cảnh giới Phật
 Tôi xu hướng cảnh Phật
 Nên đến họp tại đây
 Ðạo Sư trí vô ngại
 Thế nào sớm khai ngộ
 Tôi theo ý mình thích
 Chiêm ngưỡng muốn thỉnh hỏi
 Xin Thế Tôn khai thị
 Ðể dứt hết nghi hoặc
 Nếu nghe pháp vô thượng
 Thì được lòng hoan hỉ
 Hớn hở khắp cả thân
 Dứt được các lưới nghi
 Pháp Vương Vô Thượng Tôn
 Nhứt thiết trí vô úy
 Bực thấy biết tất cả
 Tôi nghi xin được hỏi
 Ðối với tất cả pháp
 Phật không chút nghi hoặc
 Ðại Ðạo Sư tinh thuần
 Tôi nghi xin được hỏi
 Ðấng dứt nghi vô thượng
 Với pháp chẳng nghi hoặc
 Biển công đức vô biên
 Tôi nghi xin được hỏi
 Ánh sáng lớn vô biên
 Công đức lớn vô biên
 Trí thanh tịnh vô biên
 Tôi nghi xin được hỏi
 Trí tinh tiến vô biên 
 Trí cảnh giới vô biên
 Trí lợi ích vô biên
 Tôi nghi xin được hỏi
 Thế Tôn trí vô biên 
 Rời biên và vô biên 
 Dứt được tất cả nghi
 Tôi nghi xin được hỏi
 Pháp Vương bất tư nghị
 Thương xót nghe tôi hỏi
 Cho phép tôi sẽ hỏi
 Ðức Phật tuyên dạy cho
 Xin hỏi nhứt thiết trí
 Ðức Thích Ca Mâu Ni
 Nếu thương cho phép tôi
 Xin giải những điều nghi”. 
 Ðức Thế Tôn bảo Vô Biên Huệ đại Bồ Tát rằng: “Nầy Vô Biên Huệ! Nay đối với ta, ông 
 khát ngưỡng khẩn cầu muốn hỏi Như Lai bao nhiêu điều. Nếu ông có điều gì muốn hỏi, ta sẽ giải đáp cho ». 
 Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
 « Nầy ông Vô Biên Huệ
 Muốn hỏi những điều gì
 Ông đều nên hỏi đi 
 Như Lai sẽ giải đáp
 Như mừng điều được hỏi
 Mỗi mỗi việc nên hỏi
 Tùy ý thích muốn hỏi
 Phật sẽ mau khai ngộ
 Ta vì ông diễn nói 
 Tất cả không còn nghi
 Như ông chí nguyện cầu
 Xứng theo chỗ ông hỏi
 Nay ông bạch hỏi Phật
 Ðúng lúc và đúng nghĩa
 Vì phải thời bạch hỏi
 Nên ta quyết định nói
 Cứ như ý ông thích
 Bạch hỏi điều nên hỏi 
 Như Lai đều tùy thuận
 Ví ông mà diễn nói
 Nay ông hỏi đúng lúc
 Ta cũng nói đúng lúc
 Dứt lời nghi cho ông
 Sẽ được không còn nghi
 Như Lai là Pháp Vương
 Thấu tỏ nghĩa rốt ráo
 Ðối với tất cả pháp
 Ðược không còn nghi hoặc
 Ta ở nơi các pháp
 Chánh giác ngộ khó suy
 Theo như ý chúng sanh
 Ðem hỏi sẽ giải đáp
 Phật ở nơi các pháp
 Ðều không còn nghi hoặc
 Ðúng lúc mà bạch hỏi
 Phật sẽ mau diễn nói
 Không còn có nghi hoặc
 Ta thường vì người nói
 Theo như ý kia thích
 Giải thích điều họ nghi
 Như Lai thường biết rõ
 Thời gian và chúng hội
 Các loài chúng sanh thảy
 Ý hướng họ chẳng đồng
 Phật cũng thường quán sát
 Tất cả tâm chúng sanh
 Có dục hay không dục
 Ðều thấy rõ tất cả
 Nếu có hàng trí giả
 Có thể khéo tu hành
 Ta đều lấy đúng lúc
 Ðem chánh pháp khai ngộ
 Nếu là người vô trí
 Ngu si và mê loạn
 Họ không trí huệ sáng
 Chẳng tôn trọng chánh pháp
 Nếu không tôn trọng pháp
 Chẳng mong cầu chánh pháp
 Dầu có nghe pháp nầy
 Không có trí sáng lớn
 Người khéo giỏi nơi pháp
 Nơi pháp hy vọng cầu
 Nếu được nghe pháp nầy
 Sẽ được trí sáng lớn
 Người thích pháp Ðại thừa
 Cầu thỉnh đấng Thế Tôn
 Ðược nghe pháp nầy rồi
 Sẽ được trí sáng lớn
 Phật đấng trí vô thượng
 Phật trì bất tư nghì
 Nên những người nguyện cầu
 Ðược nghe đều thỏa mãn
 Người thích trí vô ngại
 Cầu đấng Tối Thượng Tôn
 Họ được nghe pháp nầy
 Sẽ được lợi ích lớn
 Nếu người có trí tánh
 Cầu đấng bất tư nghì
 Họ được nghe pháp nầy
 Sẽ được trí vô thượng
 Nếu có những chúng sanh
 Cầu được thành Phật đạo
 Chuyển pháp luân vô thượng
 Nghe pháp đều hoan hỷ
 Người ưa thích tinh tiến
 Tôn sùng nơi chánh pháp
 Ðược nghe pháp ly cấu
 Mừng rỡ càng hớn hở
 Nếu có các chúng sanh 
 Thích tu tập pháp lành
 Ta dùng ánh sáng pháp
 Dạy họ pháp vô thượng
 Gánh vác những gánh nặng
 Sách tiến tu vô biên
 Họ nghe pháp nầy rồi
 Vui mừng được đầy đủ
 Nếu có người mong cầu
 Pháp lành để tư duy
 Ta vì thương mến họ
 Khai thị pháp vô thượng
 Ta thường mến các ông
 Tùy các ông bạch hỏi
 Ta có thể giải quyết
 Dứt nghi cho các ông
 Từ nhiều ngàn ức năm
 Ta đã khéo tu hành
 Ðã trừ hẳn nghi lầm
 Biết rõ ý ông thích
 Nếu có điều gì nghi
 Cho phép ông bạch hỏi
 Sẽ giải đáp cho ông
 Dứt hết các nghi hoặc
 Nếu có điều gì nghi
 Cho phép ông bạch hỏi
 Như ý ông thích muốn
 Ta sẽ diễn nói cho
 Nếu có điều gì nghi
 Cho phép ông bạch hỏi
 Phật an trụ chánh pháp
 Không bao giờ động lay”. 
 Lúc ấy Ngài Vô Biên Huệ đại Bồ Tát bạch rằng: “ Bạch đức Thế Tôn! Tôi đối Bồ Tát thừa có chút nghi, nay sẽ xin hỏi. 
 Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là bực trượng phu xa rời sự bố úy, nhứt tâm chánh niệm vì chúng sanh mà mặc giáp trụ lớn. Nơi giáp trụ lớn mà trang nghiêm đó. Phát lòng rất mến thích mà tôn trọng đó. Dùng chẳng phóng dật mà ngồi Ðại thừa ấy. Dùng con đường sạch sẽ bằng phẳng lớn, không có những gò nổng ngói đá gai góc dơ dáy lùm cây kiến chấp. Cũng không có gai độc hầm hố khổ não. Cũng không có sự trói buộc sợ sệt gian nan. Con đường bằng phằng đúng lý ngay ngắn không cong queo. Con đường không chướng ngại Ðốn sạch lùm rừng. Xé nát tất cả lưới. Rời xa tối tăm. Trừ bỏ ái trước, vì xả bỏ hòa hiệp để hướng đến Vô thượng Bồ đề. 
 Bạch đức Thế Tôn! Tôi đối với nghĩa nầy mà bạch hỏi. Thế nào thiện trượng phu. Thế nào giáp trụ lớn. Mâc giáp trụ ấy ngồi nơi Ðại thừa, do con đường lớn ấy mà sẽ hướng đến Vô thượng Bồ đề. 
 Ðức Thế Tôn nên diễn nói chư đại Bồ Tát giáp trụ trang nghiêm, an trụ nơi đạo, an trụ nơi các pháp lý thú thiện xảo. Vì ở nơi pháp lý thú an trụ thiện xảo nên có thể phát khởi ánh sáng thiện xảo của các pháp lý thú. Vì có ánh sáng pháp nên chẳng bỏ giáp trụ ngồi nơi Ðại thừa, dùng sức tinh tiến bất thối chuyển, gốc không vọng niệm và sức trí huệ tương tục có thể mau thành tựu pháp giới lý thú rành rẽ khéo giỏi, qua ngồi đạo tràng chuyển chánh pháp luân để vì chúng sanh mà diễn thuyết chánh pháp. Tất cả chúng sanh đúng như sở nguyện của họ, đúng như chỗ hướng đến của họ mà giải thoát sanh tử. 
 Bạch đức Thề Tôn! Tôi muốn làm lợi ích an vui chúng sanh nên hỏi nghĩa Ðại thừa ấy. 
 Ðức Thế Tôn Như Lai là bực biết tất cả, thấy tất cả, xin chỉ dạy dùng những pháp gì để thành tựu nhứt thiết chư pháp hải ấn tam muội của chư đại Bồ Tát, do tam muội nầy khiến chư đại Bồ Tát được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề. 
 Ðức Thế Tôn Như Lai biết thấy trọn vẹn các pháp chưa từng có, giỏi về phương thuốc làm nên trí huệ cho chúng sanh. Vì thế nên tôi bạch hỏi”. 
 Ngài Vô Biên Huệ đại Bồ Tát lại nói kệ rằng:
 “ Vì chư đại Bồ Tát
 Tôi hỏi đức Thế Tôn
 Ðấng nhứt thiết tri kiến
 Nghĩa Phật pháp thậm thâm
 Chỗ tu hành Ðại thừa
 Ðịnh nào hướng đến được
 Nay tôi đều thỉnh hỏi
 Lợi ích các chúng sanh
 Thế nào thiện trượng phu
 Mặc được pháp vô biên
 Mặc giáp như vậy rồi 
 Sẽ hướng đến thế nào
 Khởi thích muốn thế nào
 Thế nào mến pháp ấy
 Thế nào đại tinh tiến
 Thế nào chẳng phóng dật
 Thế nào chư Bồ Tát
 Ngồi nơi Ðại thừa nầy
 Ngồi rồi lại thế nào
 Việc ấy xin được nói
 Thế nào ngồi Ðại thừa 
 Hướng đến đạo Bồ Tát
 Cúi xin đấng Ðạo Sư 
 Mau tuyên nói cho tôi 
 Thế nào là đường bằng
 Bình đẳng để hướng đến 
 Với rừng bụi kiến chấp
 Luôn chặt đốn chẳng mệt
 Ở trong các cảnh giới
 Thế nào được siêu việt
 Thế nào dùng bình đẳng 
 Phá rách lưới tham ái 
 Thế nào trừ hắc ám
 Ðược ánh sáng đại trí
 Chư đại Bồ Tát ấy
 Sẽ hướng đến thế nào
 Hay quan sát thế nào
 Rời xa những trói buộc
 Thế nào chư Bồ Tát
 Rời trói khéo ở an
 Thế nào chư Bồ Tát
 Vượt qua bố úy lớn
 Giỏi khéo các pháp nghĩa
 Hướng đến nơi vô thượng
 Bồ Tát mặc những gì
 Vô biên giáp trụ lớn
 Mặc giáp trụ ấy rồi
 Ngồi nơi Ðại thừa nầy
 Thế nào chư Bồ Tát
 Hướng đến đường bằng phằng
 Nay tôi kính bạch hỏi
 Thế Tôn nên giải đáp
 Bồ Tát làm sao được
 Trang nghiêm giáp trụ lớn
 Thế Tôn nên diễn nói
 An trụ nơi đạo nầy
 Và trang nghiêm đạo ấy
 Nghĩa thiện xảo các pháp
 Thế Tôn nên diễn nói
 Thế nào biết rõ được
 Lý thú của pháp giới
 Ánh sáng pháp thiện xảo
 Thế Tôn nên diễn nói
 Thế nào chư Bồ Tát
 Ðược ánh sáng pháp ấy
 Rốt ráo tất cả pháp
 Thế Tôn nên diễn nói
 Thế nào chư Bồ Tát
 Ðược ánh sáng pháp rồi
 Chẳng bỏ giáp trụ lớn
 Do đây mà hướng đến
 Thế nào chư Bồ Tát
 Ngồi nơi Ðại thừa nầy
 Tinh tiến chẳng thối chuyển
 Do đây mà hướng đến
 Thế nào chư Bồ Tát
 Chí niệm thường kiên cố
 Hay dùng sức trí lớn
 Mà khéo điều phục được
 Thế nào được pháp giới
 Nghĩa lý thú thiện xảo
 Pháp Vương bất tư nghì
 Xin Thế Tôn tuyên nói
 Thế nào được mau chóng
 Ðến đạo tràng Bồ đề
 Chuyển pháp luân thanh tịnh
 Thế gian chẵng chuyển được
 Thế nào chẳng động tay
 Ðể diễn nói các pháp
 Vì tất cả chúng sanh
 Như ngày xưa đã nguyện
 Do diễn nói các pháp
 Giải thoát hẳn sanh tử
 Làm sao cho chúng sanh
 Rốt ráo được an lạc
 Vì lợi ích chúng sanh
 Tôi hỏi đức Thế Tôn
 Bực thấy biết tất cả
 Xin vì tôi diễn nói
 Nên dùng những pháp gì
 Làm cho chư Bồ Tát
 Thành tựu tất cả pháp
 Hải ấn đại tam muội
 Người ham cầu Phật pháp
 Khát ngưỡng đại Bồ đề
 Nếu nghe được pháp này
 Toàn thân đều hớn hở ”
 Ðức Phật phán dậy: " Lành thay, lành thay! Nầy Vô Biên Huệ đại Bồ Tát! Thuở quá khứ ông đã cúng dường vô lượng chư Phật, trồng những cội lành, họp các công đức chẳng thể tính lường được. Ở nơi pháp thậm thâm nầy ông ham cầu khát ngưỡng. Dùng đại nguyện để thành tựu chúng sanh mà ông phát khởi đại bi bạch hỏi nơi đức Phật. 
 Ông nên lắng nghe khéo suy gẫm, nay ta sẽ vì ông diễn nói chư đại Bồ Tát do thành tựu công đức mà hướng đến Vô thượng Bồ đề". 
 Ngài Vô Biên Huệ đại Bồ Tát bạch:"Bạch đức Thế Tôn! Tôi xinđược nghe". 
 Ðức Phật phán:" Nầy Vô Biên Huệ! Ðại Bồ Tát vì Vô thượng Bồ đề mà mặc giáp trụ, vì muốn nhiếp lấy chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, vì thanh tịnh bố thí cho chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, vì các chúng sanh nên trì giới thanh tịnh ma mặc đại giáp trụ, vì các chúng sanh nên nhẫn nhục thanh tịnh mà mặc giáp trụ, vì các chúng sanh nên tinh tiến thanh tịnh mà mặc đại giáp trụ, vì các chúng sanh nên thiền định thanh tịnh mà mặc đại giáp trụ, vi các chúng sanh nên trí huệ thanh tịnh mà mặc đại giáp trụ, vì làm cho các chúng sanh được an lạc mà mặc đại giáp trụ, vì phát khởi tâm làm lợi ích cho các chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, vì làm đối trị tham sân si cho các chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, vì làm phương tiện cho đại công đức mà mặc đại giáp trụ, vì khéo viên mãn trí vô thượng mà mặc đại giáp trụ, vì cứu hộ sanh tử bố uý cho các chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, vì muốn hiển hiện viên mãn trí vô đẳng đẳng mà mặc đại giáp trụ, vì giao chiến với các ma, quyến thuộc ma và ma nghiệp, cũng vì giao chiến với tất cả ngoại đạo, những hạng người đi trong đường hiểm rừng rậm kiến chấp trong cõi Ðại Thiên naỳ mà mặc đại giáp trụ. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Chư đại Bồ Tát mặc đại giáp trụ như vậy rồi chẳng rời bỏ giáp trụ mà phát khởi đại tinh tiến, có thể vào được trong tất cả loài chúng sanh lấy hạnh nhẫn nhục để an trụ, xa rời bố uý chẳng kinh chẳng sợ chẳng động chẳng loạn mà còn mặc vô biên giáp trụ. Những là giáp trụ cứu hộ tất cả chúng sanh, giáp trụ cắt đứt tất cả lùm rừng kiến chấp, giáp trụ phá các quân ma, giáp trụ có thể tuye72n trao trí huệ, giáp trụ làm vô biên cầu đò, giáp trụ thoát khỏi các gánh nặng, giáp trụ tăng trưởng tín tâm thanh tịnh, giáp trụ ở vững nơi giới luật, giáp trụ trừ sạch nghiệp chướng, giáp trụ tất cả trí lực thanh tịnh, giáp trụ sức phương tiện thiện xảo, giáp trụ có thể dứt tất cả chấp trước, giáp trụ trí huệ chẳng thối chuyển chẳng hối hận. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Chư đại Bồ Tát mặc đại giáp trụ như vậy rồi cũng chẳ bỏ rời nhẫ đến sức tinh tiến kiên cố vô biên chẳng bao giờ động lay mà hướng đến Vô thượng Bồ đề". 
 Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
 "Bồ Tát mặc giáp trụ
 Ðể nhiếp^các chúng sanh
 Vì chúng sanh vô biên
 Mặc giáp cũng vô biên
 Vì bố thí thanh tịnh
 Khiến tất cả đầy vui
 Vì lợi ích chúng sanh
 Mà mặc giáp trụ nầy
 Vì trì giới thanh tịnh
 Lợi ích cho thế gian
 Vì lợi ích chúng sanh
 Mà mặc giáp trụ nầy
 Vì nhẫn nhục thanh tịnh
 Dũng mãnh khéo an trụ
 Vì làm lợi chúng sanh
 Mà mặc giáp trụ nầy
 Vì tinh tiến thanh tịnh
 Thành tựu bất thối chuyển
 VÌ làm lợi chúng sanh
 Mà mặc giáp trụ nầy
 Vì thiền định thanh tịnh
 Cảnh sở hành cũng vậy 
 Vì làm lợi chúng sanh
 Mà mặc giáp trụ nầy
 Vì trí huệ thanh tịnh
 Vô lậu và vô thượng
 Vì làm lợi chúng sanh
 Mà mặc giáp trụ nầy
 Tất cả các chúng sanh
 Thích gì sẽ cho đủ
 Khèo biết ý nghĩa ấy
 Mà mặc giáp trụ nầy
 Bồ Tát nơi chúng sanh
 Hay làm sự lợi ích
 Dùng tứ nhiếp thanh tịnh
 Ban khắp trong các cõi
 Nếu làm người đối trí
 Trừ bịnh tham sân si
 Trao thuốc cho chúng sanh
 Tật bịnh đều tiêu trừ
 Do đây các Bồ Tát
 Hay khéo mặc giáp trụ
 Nơi công đức tư lương
 Ðược vô biên phương tiện
 Chúng sanh khổ sanh tử
 Bức ngặt chẳng an ổn
 Tôi thường làm cứu hộ
 Mặc giáp trụ vô biên
 Vô biên khổ sanh tử
 Tôi làm giải thoát được
 lưới ái kiến trói buộc
 Tất cả đều sẽ đứt
 Với lưới phiền não nầy
 Làm đứt được tất cả
 Sức tinh tiến kiên cố
 Dũng mãnh mà mặc giáp
 Tất cả các chúng sanh
 Cho ở đường an lạc
 Do đây đến Niết bàn
 An ổn mà vô thượng
 Do sức đại tinh tiến
 Mà mặc giáp trụ nầy
 Sẽ cùng tất cả ma
 Chiến đấu thường chẳng mệt
 Với những nhà ngoại đạo
 Nắm chặt các kiến chấp
 Ði trong rừng rậm hiểm
 Mặc giáp làm lợi họ
 Và vô lượng chúng khác
 Ði ở trong phi đạo
 Với họ đều lợi ích
 Nên mặc giáp vô biên
 Mặc giáp trụ ấy rồi
 Chẳng rời bỏ giáp trụ
 Khởi sức đại tinh tiến
 Mặc giáp trụ kiên cố
 Vào trong cõi chúng sanh
 Do nhẫn nhục được an
 Thành tựu kiên cố nhẫn
 Mặc giáp trụ vô thượng
 Rời xa các bố uý
 Cũng không có kinh sợ
 Mặc vô biên giáp trụ
 Tất cả siêng tu tập
 Khéo mặc đại giáp trụ
 Thường hay chánh giác ngộ
 Tịch diệt chẳng động lay
 Chẳng loạn chẳng thối chuyển
 Mặc giáp như vậy rồi
 Trí giả lại nên mặc
 Giáp cứu hộ chúng sanh
 Giáp phá hoại quân ma
 Giáp cầu đò vô biên
 Tất cả giáp đều mặc
 Người trí huệ dũng mãnh
 Mặc giáp được ở an
 Vì bỏ gánh rất nặng
 Mà mặc giáp vô thượng
 Ðộ tất cả chúng sanh
 Ðều khiến thoát gánh khổ
 Thêm lớn tin thanh tịnh
 Khéo đều nhiếp sáu căn
 Tương ưng với tịnh giới
 Mặc giáp trụ vô thượng
 Thành tựu trí dũng mãnh
 Bồ Tát hay an trụ
 Oai nghi đúng giới luật
 Mặc giáp không bị động
 Xưa ở trong chúng thánh
 Tu các hạnh thanh tịnh
 Thế nên mặc giáp trụ
 Mà thường chẳng khiếp nhược
 Dùng trí yêu chúng sanh
 Lợi ích các thế gian
 Thông đạt các phương tiện
 Mặc giáp khéo an trụ
 Với trí phương tiện khéo
 Bồ Tát thông đạt được
 Mặc giáp như vậy rồi
 Dứt trừ các khiếp phược
 Rời xa tất cả chấp
 Chánh tín chẳng sai trái
 Người trí mặc giáp trụ
 Hướng đến đạo vô thượng
 Bồ Tát hay quyết định
 Tư lợi và lợi tha
 Do sức đại tinh tiến
 Kiên cố chẳng thối chuyển". 
 Ðức Pật phán tiếp:" Lại nầy Vô Biên Huệ! Trong vô lượng kiếp, đại Bồ Tát mang những gánh nặng, mặc giáp trụ lớn. Giáp trụ như vậy, hoặc là ma hoặc là quyến thuộc ma hoặc là sứ giả của ma, và những chúng sanh đi nơi
 Lùm rừng rậm rợp xấu hiểm tà kiến đều chẳng thấy được. Tại sao vậy?Vì giáp trụ ấy không có hình sắc hiển bày, không tướng không đối, bỏ tướng rời tướng, không có danh tự vậy. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Gỉa sử có cây phi tiễn lượng như núi Tu Di, bén nhọn bắn đến không thể trúng được. Gỉa sử tất cả chúng sanh trong cõi Ðại Thiên đều làm ma, mỗi chúng sanh ma đều riêng có ngần ấy quyến thuộc quân ma, tất cả đồng thời buông tên lượng như núi Tu Di, họ cũng chẳng thể làm hư hoại giáp trụ của chư đại Bồ Tát, dầu là làm hư chừng bằng sợi lông. 
 Ðối với chư Ðại Bồ Tát, còn chẳng thể làm cho các Ngài có ý niệm khác huống là làm động tới thân. 
 Chư đại Bồ Tát nầy nếu có một tâm niệm dẹp trừ họ, thì có thể làm cho quân ma ấy tan nát tiêu diệt. 
 Khéo an trụ giáp trụ như vậy mà chẳng động lay thì tất cả chúng sanh không có ai phá hoại được. Tại sao vậy? Vì là vô tướng, vì là chẳng phải chỗ đi chỗ thấy của chúng sanh. Tất cả chúng sanh chẳng thấy biết được chư đại Bồ Tát, mà Bồ Tát có thể biết rõ tất cả pháp vậy. Vì thấy biết đúng thiệt mặc giáp trụ lớn để cứu hộ tất cả chúng sanh vậy. Với tất cả pháp không có chấp trước, vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh vậy. Với tất cả pháp cũng vô sở đắc thế nên chúng sanh chẳng thấy biết được giáp trụ như vậy, vì giáp trụ ấy không có hình tướng, không có lộ bày, không có ngôn thuyết vậy. Giáp trụ ấy chẳng tương ưng với sắc, với thọ, tưởng, hành thức, chẳng tương ưng với nội, ngoại và trung gian, cũng chẳng tương ưng với chẳng phải nội ngoại trung gian, chẳng tương ưng với thập nhị xứ, thập bát giới, chẳng tương ưng với địa thủy hỏa phong và không đại chủng, chẳng tương ưng với cõi Dụcncõi ắc và cõi Vô Sắc, chẳng tương ưng với hữu tác, vô tác, diệc hữu tác vô tác và phi hữu tác vô tác, chẳng tương ưng với Thanh Văn địa, Bích Chi Phật địa và Phật địa, chẳng tương ưng với đường ngữ ngôn, chẳng tương ưng với sắc nhơ và sắc tướng, chẳng tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức, nhơn và thọ, tưởng, hành, thức tướng, chẳng tương ưng với tướng và phi tướng, với tất cả pháp chẳng tương ưng cũng chẳng phải chẳng tương ưng, không có trói buộc, không có giải thoát, cũng chẳng phải toán số hay thí dụ mà biết được, vì tất cả pháp quá các số vậy. 
 Giáp trụ như vậy, tất cả pháp kiến đếu bất khả đắc cả. Những là sắc kiến bất khả đắc, thọ kiến bất khả đắc nhẫn đến thức kiến bất khả đắc, cho đến không có chút pháp kiến nào khả đắc cả. 
 Giáp trụ như vậy, chẳng cùng tất cả pháp tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng cùng sắc, thọ, tưởng hành, thức tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Với tất cả pháp hoặc tương ưng hoặc chẳng tương ưng kia đều rời xa. 
 Giáp trụ như vậy không có tạo tác vì không có tác giả vậy, không có tướng vì chẳng ohải tướng vậy, không có tướng xứ sở, không có tướng hòa hiệp, không có phân biệt, không có động lay, không có phan duyên, không có tánh để thấy được. 
 Người mặc giáp trụ cũng bất khả đắc. 
 Mặc giáp như vậy cũng chẳng thể thấy được. Tại sao vậy? Vì lúc chư đại Bồ Tát mặc giáp trụ mà chẳng thấy có ai là người mặc giáp, mặc giáp chỗ nào, tù đâu mặc giáp, cũng chẳng thấy tôi có thể mặc giáp, chẳng thấy áo giáp được tôi mặc, cũng chẳng thấy có chỗ nầy mặc giáp, chỗ kia mặc giáp, cũng chẳng thấy có mặc giáp vậy. 
 Vì các chúng sanh nơi tất cả pháp không chỗ hành, không chỗ kiến nên chư đải Bồ Tát mặc giáp trụ như vậy, cũng là mặc giáp trụ của đức Như Lai mặc, thân bất khả đắc, tâm bất khả đắc, ý bất khả đắc, vì bất khả đắc nên xa rời phân biệt. 
 Nếu chư Bồ Tát còn chút pháp, hay là được chút pháp mà hiện tại mặc giáp trụ hay là sẽ mặc giáp trụ, thì chẳng nên gọi rằng mặc đại giáp trụ. Nếu tâm Bồ Tát vượt quá các pháp mới gọi là mặc đại giáp trụ tư nghị. 
 Chư đại Bồ Tát chẳng vì thiểu số chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, cũng chẳng vì một kiếp chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, cũng chẳng vì trăm kiép, ngàn kiếp cho đến trăm ngàn na do tha câu chi kiếp chúng sanh mà mặc đại giáp trụ, chánh là vì vô lượng vô số kiếp chúng sanh mà đại Bồ Tát mặc đại giáp trụ, vì thế nên gọi rằng vô lượng đại giáp trụ vậy. 
 Lúc mặc đại giáp trụ, đại Bồ Tát mặc giáp trụ chẳng sanh tưởng là chúng sanh, mặc giáp trụ chẳng khởi tưởng là ngã, mặc giáp trụ rời lìa tưởng có chúng sanh, mặc giáp trụ diệt trừ tưởng có ngã, mặc giáp trụ biết rõ tánh chúng sanh, mặc giáp trụ biết rõ tánh ngã, mặc giáp trụ vượt quá thọ và tưởng, mặc giáp trụ biết rõ tất cả pháp không có tướng tạo tác, là tướng rỗng không, là tướng vô tướng, là tướng vô nguyện, là tướng vô sanh, là tướng vô diệt, mặc giáp trụ biết rõ tánh tướng sai biệt của tất cả pháp và tánh tướng vô sai biệt của tất cả pháp, mặc giáp trụ biết rõ sự tướng của tất cả pháp và vô sự tướng của tất cả pháp. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Nếu còn ở nơi sự tướng mà mặc giáp trụ, thì trọn chẳng gọi rằng mặc đại giáp trụ, vì chư đại Bồ Tát chẳng ở nơi sự tướng mà cầu đại trí tuệ nên gọi là mặc đại giáp trụ". 
 Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
 "Trong vô lượng kiếp
 Mặc giáp lớn vô biên
 Vì muốn cho chúng sanh
 Giải thoát các khổ não
 Giáp trụ lớn như vậy
 Hoặc ma hay ma sứ
 Và kẻ tạo ngiệp ma
 Mắt họ chẳng thấy được
 Cùng với những chúng sanh
 Ði nơi rừng chấp kiến
 Họ cũng chẳng thấy được
 Giáp trụ bất tư nghị
 Giáp trụ nầy không sắc
 Không hình không đối đãi
 Giáp trụ chẳng nghĩ bàn
 mắt thường chẳng thấy được
 Không danh cũng không tướng
 Rời xa tất cả tướng
 Giáp trụ nầy vô biên
 Nên không tướng thấy được
 Gỉa sử tên như núi
 Ðồng loạt nhắm bắn vào
 Giáp trụ bất tư nghị
 Khiến tên tự gãy nát
 Tất cả ma trong đời
 Cũng mang tên như núi
 Nhắm ngay đại giáp trụ
 Ðồng loạt bắn thẳng vào
 Nhưng đại giáp trụ nầy
 Chẳng tổn chừng đầu lông
 Giáp trụ bất tư nghị
 Chẳng gì phá hư được
 Vì thế nên Bồ Tát 
 Thân Tân chẳng biến đổi
 Giáp trụ bất tư nghị
 Ai làm khuynh đọng được
 Bồ Tát bất tư nghị
 Nếu dùng một tâm niệm
 Muốn dẹp trừ chúng ma
 Quân ma liền lui tan
 Ðại giáp trụ như vậy
 Chưa từng có động lay
 Tất cả các chúng sanh
 Không ai có thể thấy
 Tất cả các chúng sanh
 Chẳng biết tướng giáp trụ
 Vì thế các chúng sanh
 Mắt họ chẳng thấy được
 Bồ Tát làm chỗ dựa
 Biết được tất cả pháp
 Dường như thắng kim cương
 Ðây là người khéo mặc
 Chẳng thọ tất cả pháp
 Cứu hộ các chúng sanh
 Thuận theo pháp của Phật
 Ðây là người khéo mặc
 Giáp trụ không chổ lấyTuỳ thuận tất cả pháp
 Giáp trụ chẳng nghĩ bàn
 Ðây là người khéo mặc
 Giáp trụ không thị hiện
 Trị sạch tất cả pháp
 Các pháp rời ngôn thuyết
 Không ai Thị hiện được
 Chẳng tương ưng với sắc
 Thọ, tưởng, hành và thức
 Cũng đều chẳng tương ưng
 Cũng đều chẳng hòa hiệp
 Chẳng tương ưng với nội
 Chẳng tương ưng với ngoại
 Chẳng tương ưng nội ngoại
 Cũng đều chẳng hòa hiệp
 Chẳng tương ưng với xứ
 Chẳng tương ưng với giới
 Hoặc trong xứ, trong giới
 Cũng đều chẳng hòa hiệp
 Chẳng tương ưng với địa
 Chẳng tương ưng thủy, hỏa
 Phong và không cũng vậy
 CHẳng tương ưng chẳnh hiệp
 Chẳng tương ưng Dục giới
 Sắc giới, Vô Sắc giới
 Cũng đều chẳng tương ưng
 Cũng đều chẳng hòa hiệp
 Tất cả vô sở đắc
 Chẳng cùng các hữu tác
 Chẳng cùng các vô tác
 Tương ưng và hòa hiẽp
 Giáp trụ bất tư nghị
 Không ở không hòa hiệp
 Không buộc không giải thóat
 Cũng không chẳng tương ưng
 Giáp trụ không biên tế
 Chẳng cùng Thanh Văn địa
 Chẳng cùng Ðộc Giác địa
 Tương ưng và hòa hiệp
 Nhẫn đến chư Phật địa
 Và cùng tất cả pháp
 Tất cả chẳng tương ưng
 Tất cả chẳng hòa hiệp
 Tất cả đường ngôn ngữ
 Không có thể đến được
 Vì giáp trụ vô biên
 Không thể, khó nghĩ bàn
 Nên chẳng cùng tất cả
 Tương ưng chẳng tương ưng
 Giáp trụ bất tư nghị
 Vượt quá tất cả số
 Giáp trụ nầy vô thượng
 Không buộc không chẳng buộc
 Cũng không có tướng sắc
 Tướng thọ, tưởng, hành, thức
 Chẳng cùng các tướng ấy
 Tương ưng và hòa hiệp
 Chẳng cùng các pháp tướng
 Tương ưng chẳng tương ưng
 Cũng chẳng cùng vô tướng
 Tương ưng và hòa hiệp
 Giáp trụ nầy vô thượng
 Không buộc không giải thoát
 Trong tất cả các pháp
 Chẳng vào một pháp nào
 Trong tất cả các pháp
 Giáp trụ bất khả đắc
 Vì thế nên vô thượng
 Gọi là bất tư nghị
 Giáp trụ không có sắc
 Không thọ cũng không tưởng
 Không hành cũng không thức
 Chẳng nhiếp trong các uẩn
 Bực dũng mãnh như vậy
 Mặc đại giáp trụ nầy
 Thân tâm vô sở đắc
 Chẳng thấy chút pháp nhỏ
 Vì vượt quá nghĩ suy
 Tâm thanh tịnh an trụ
 Mà thường không khiếp nhược
 Gọi là bất tư nghị
 Mặc giáp trụ kiên cố
 Tâm mình không lay động
 Chẳng kể số lương kiếp
 Gọi là bất tư nghị
 Giáp trụ không số luợng
 Chẳng lấy pháp phi pháp
 Vì không có thời lượng
 Nên gọi bất khả lượng
 Chẳng khởi chúng sanh tưởng
 Cũng không có ngã tưởng
 Vì biết được tưởng nầy
 Tất cả tưởng chăng sanh
 Cũng biết tất cả pháp
 Pháp ấy đều vô tướng
 Mặc giáp trụ như vậy
 Gọi là bất tư nghị". 
 Ðức Phật phán tiếp: Lại nầy Vô biên Huệ! Ðại giáp trụ ấy có tên là diệu pháp nghiêm cụ trang nghiêm, cũng tên là tối thượng bất khả hoại, cũng tên là nhứt thiết pháp vô sai biệt, vì chẳng làm sai biệt chút pháp nào. 
 Chư đại Bồ Tát mặc giáp trụ ấy, giữ sức đại trí huệ ngồi nơi Ðại thừa, tối thượng thừa, vô đẳng đẳng thừa, đại nhiếp thọ thừa, vô biên nhiếp thọ thừa. 
 Tất cả chúng sanh ngồi nơi thừa nầy, thì trong thừa nầy đều dung thọ tất cả, mà thừa nầy chẳng hề tăng giảm, có thể làm cho chúng sanh đều an vui mà ở, cũng làm cho chúng sanh an vui mà ra. 
 Nếu có chúng sanh nào ngồi nơi thừa quyết định an vui nầy thì thân tâm họ không có nhọc mệt lao khổ. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Ðại thừa nầy chói che tất cả thế gian Thiên, Nhơn, A Tu La, Thanh Văn, Duyên Giác và các thừa khác mà sẽ xuất ly. 
 Ðại thừa nầy không đến, không đi, không ở, không thấy, không biết, lúc trước bất khả đắc, lúc sau bất khả đắc, lúc giữa bất khả đắc, ba đời bình đẳng, dường như hư không chẳng nhiễm tạp bụi trần, không có chối đãi, không có chướng ngại, cũng không chấp trước. Vì do thừa nầy mà sẽ xuất ly. 
 Ðại thừa nầy vô lượng vì chẳng lường được. 
 Ðại thừa nầy vốn không tướng chướng ngại vì chẳng ở nơi tướng. 
 Ðại thừa nầy tối thượng đệ nhứt. Người ngồi thừa nầy không có tâm khiếp nhược mà hướng đến Vô thượng Chánh giác. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Thừa nầy như ngọn đèn, như mặt nhựt mặt nguyệt làm ánh sáng lớn cho các chúng sanh
 Ðại thừa nầy cũng vậy, ánh sáng của nó chiếu khắp cõi Ðại Thiên không gì che không gì chướng ngại được, có thể dùng biển lớn công đức vô biên mà hướng đến Vô thượng Bồ Ðề. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Ðại thừa nầy không tối trừ được bịnh của tất cả thế gian, vượt quá tất cả pháp thế gian nhiếp lấy chúng sanh lớn, chẳng phải các chúng sanh hạ liệt mà có thể ngồi được, chỉ trừ người có thể mặc đại giáp trụ, như ta đã nói người ở trong vô lượng kiếp cứu hộ chúng sanh cúng dường chư Phật trồng các cội lành tư lương thanh tịnh thì có thể ngồi được. Những hàng Tanh Văn, Duyên Giác và các hạng hạ liệt bị ràng buộc ở thế gian tương ưng với thế gian, hoặc hạng tăng thượng mạn, những ngoại đạo bất tín, họ còn chẳng muốn nghe tên của Ðại thừa nầy huống là có thể ngồi nơi Ðại thừa nầy. 
 Nếu có chúng sanh nào dạo đi trong cảnh giới bất tư nghị, ngồi ở Ðại thừa nầy rồi như nguyện thù thắng của mình mà hướng đến Vô thượng Bồ đề. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Ðại thừa nầy không thời gian biên tế, sơ tế, trung tế và hậu tế chẳng thể biết rõ được. Ðại thừa nầy tế đoạn bất khả đắc. Vô biên tế là thừa tế nầy, vô lượng tế là thừa tế nầy. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Thừa nầy vô biên tế, cũng không có trung tế, không có chút ít tế mà có thể đoạn dứt được. 
 Nói là tế đoạn dứt, bởi vì không có chút ít tế nên nói là tế đoạn, vì chẳng phân biệt tế nên nói là tế đoạn, như thế gọi là tế đoạn của Ðại thừa nầy. 
 Tế vô số hữu mà nói là trung tế, tế vô sở hữu mà nói là biên tế, tế vô sở hữu mà dùng tế để nói. Ở trong tế ấy, tế bất khả đắc. Vì là bất khả đắc nên biên tế, trung tế không có tế không có đoạn mà nhập vào tế môn. Vì nhập vào tế môn nên thừa nầy vượt quá nơi đó. Vượt quá nầy cũng vô sở đắc. 
 Nầy vô biên Huệ! Những gì là tế? Ðó là đoạn thường tế, vì vào trong ngôn ngữ vậy, nên tế là chẳng phải tế. Ðoạn thường tế ấy chẳng có biên tế, bởi tướng của tế ấy là tướng vô biên vậy. 
 Nói là tế không có phân biệt, vì dứt phân biệt, nên vượt quá nơi tế rời xa đoạn thường. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Người có thân kiến thì ở nơi tế môn có chỗ y chỉ. Nếu là người không có thân kiến thì ở nơi tế môn không có cha trước. Vì không có chấp trước nên có thể vượt quá đoạn thường tế. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Ðoạn thường tế ấy không có thiệt, chỉ là lời nói phỉnh phờ ở trong ba cõi phân biệt có hai tế đoạn và thường. Ðối với hai tế ấy, nếu chẳng nắm lấy, nếu chẳng tương ưng mới có thể vượt quá chấp kiến đoạn thường ở nơi hai tế môn mà không chỗ chấp trước. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Nếu đại Bồ Tát chưa rời thân kiến thì chẳng gọi là mặc giáp trụ ngoi nơi Ðại thừa, với tế môn kia là có chấp trước. Dầu có muốn dứt tế lại khởi tưởng niệm dứt tế, lại là có phân biệt tiền tế hậu tế. 
 Nếu đại Bồ Tát đã rời thân kiến thì gọi là mặc đại giáp trụ ngồi nơi Ðại thừa, với tế môn ấy chẳng có chỗ chấp đã vượt quá hai tế dùng thừa an lạc mà hướng đến Vô thượng Bồ đề. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Chư đại Bồ Tát dùng sức đại trí huệ, ở nơi tất cả pháp trụ tế, có thể chẳng đoạn chẳng phá mà phương tiện khôn khéo nhiếp lấy chỉ quán tu tập vô tướng, được chứng vô tướng thì được chư Phật trao cho ánh sáng pháp. Do ánh sáng pháp mà tất cả tế đoạn dứt. Ðối với tế đoạn ấy cũng không nắm lấy, không có chút ít tế nào ở môn kia hoặc là tương ưng hay chẳng tương ưng, hoặc ghi nhớ hay chẳng ghi nhớ. Với tất cả pháp, phương tiện khôn khéo an trụ ở chỉ quán bèn được vô biên ánh sáng đại pháp. Vì ánh sáng đại pháp nên rời xa tói tăm bố úy mà dụng đại pháp tràng, phát đại phạm âm, rống đại sư tử mà bảo chúng sanh rằng: Mọi người mau đến nơi Ðại thừa nầy, đại an lạc thừa nầy, đại điều ngự thừa nầy, đại phát thu thừa nầy để hướng đến Vô thượng Bồ đề. Ðại Bồ Tát vì chúng sanh mà diễn ánh sáng pháp. Vì ánh sáng pháp có thể làm cho chúng sanh mặc đại giáp trụ ngồi Ðại thừa nầy. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Ða(i Bồ Tát ở nơi Ðại thừa nầy, ở nơi đại giáp trụ nầy chớ có lòng lẫn tiếc, nên nguyện cầu cho chúng sanh phát tâm Bồ đề mặc giáp trụ nầy và ngồi Ðại thừa nầy. 
 Các chúng sanh ấy ở nơi Ðại thừa và đại giáp^trụ nầy cũng chớ lẫn tiếc mà phải luân chuyển khuyến cáo chúng sanh khác, lại cũng nguyện cầu các chúng sanh mặc giáp trụ và ngồi Ðại thừa nầy để được xuất ly. 
 Lúc chư đại Bồ Tát an trụ trong hạnh nguyện ấy, các Ngài nhiếp thủ Phật quốc, thanh tịnh Phật quốc, nhiếp thủ Thanh Văn và chư Bồ Tát để được viên mãn công đức. Do biển đại công đức vô biên nầy mà hướng đến Vô thượng Bồ đề. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Ðại thừa nầy đồng với pháp giới, bờ nầy hay bờ kia đều không có gì để được, nhưng có thể vận tải tất cả chúng sanh từ đây đến ở trong pháp giới, tương ưng với pháp giới, tương ưng với giáp trụ không có chỗ tương ưng. 
 Nếu ở nơi Ðại thừa đồng pháp giới nầy mà chuyên cần tu tập thi hướng đến Vô thượng Bồ đề. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Như Pháp giới không có nhiễm bụi trần, không ai phá hoại được, không gì nhiễm được. 
 Cũng vậy, Ðại thừa nầy không bị hoại, không bị nhiễm. Vì không hoại không nhiễm nên sẽ đến nhứt thiết chủng trí. Vì thế nên thừa nầy tên là Ðại thừa. Thừa nầy vô ngại, tất cả Thiên, Nhơn, A Tu La ở thế gian chẳng làm thối chuyển được. 
 Do vì thừa nầy không chấp trước nên sẽ đến nhứt thiết chủng trí, vì thế nên thừa nầy tên là Ðại thừa. 
 Gọi là Ðại thừa có nghĩa là đại trang nghiêm. Tất cả trang nghiêm đều vào trong Ðại thừa nầy". 
 Vô Biên Huệ Bồ Tát bạch rằng:" Bạch đức Thế Tôn! Trong Ðại thừa nầy há lại có những trang nghiêm hữu vi ư?". 
 Ðức Phật phán:" Nầy Vô Biên Huệ! Ðúng như vậy. Ta tùy thuận thế tục nên ở trong Ðại thừa nầy cũng nói tất cả trang nghiêm hửu vi. 
 Nầy Vô Biên Huệ! Như Chuyển Luân Vương, Ðế Thích và Phạm Vương đều từ Ðại thừa nầy xuất sanh, hoặc đã xuất sanh, hoặc sẽ xuất sanh, dầu ở ngôi tôn quý mà chẳng bị lỗi lầm sanh tử phiền não làm nhiễm trước, có thể ở nơi ngũ dục mỗi mỗi đều vừa chừng. 
 Ðã vừa chừng rồi thì nhàm bỏ mà có thể biết rõ được đạo xuất ly. 
 Nếu chư đại Bồ Tát ngồi Ðại thừa nầy dầu thọ lãnh sanh tử nhưng ở đâu cũng chẳng bị ô nhiễm mà thấy được sự lỗi lầm có thể biết xuất ly. Nếu ở nơi đây ta chưa nói các pháp và các trang nghiêm, do tướng của thừa nầy, chư đại Bồ Tát ấy cũng có thể biết được các pháp và các trang nghiêm kia mà hướng đếnVô thượng Bồ đề". 
 Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
 "Ðại thừ vô thượng thừa
 Thừa nầy bất tư nghị
 Nếu ai ngồi thừa nầy
 Ðều sẽ được xuất ly
 Thừa nầy bất tư nghị
 Vô lượng vô biên tế
 Là chỗ y chỉ lớn
 Nên gọi là Ðại thừa
 Tất cả các chúng sanh
 Ngồi nơi Ðại thừa nầy
 Thừa nầy vẫn không giảm
 Cũng lại không có tăng
 Tất cả các chúng sanh
 Ngồi nơi Ðại thừa nầy
 An lạc mà hướng đến
 Trong ấy không khổ não
 Nếu chư đại Bồ Tát
 Từ thừa nầy hướng đến
 Thẳng tiến không làm khác
 Thân tâm chẳng mỏi nhọc
 Soi sáng khắp thế gian
 Trời, Người, A Tu La
 Sẽ ở Ðại thừa nầy
 Mà hướng đến vô thượng
 Chói che các Duyên Giác
 Và các Thanh Văn thừa
 Ở nơi Ðại thừa nầy
 Mà hướng đến vô thượng
 Không lai cũng không khứ
 Không trụ không tiền tế
 Không hậu tế trung tế
 Không được không chỗ thấy
 Ba đời đều bình đẳng
 Dường như trong hư không
 Thừa nầy cũng như vậy
 Rời xa các phiền não
 Thừa nầy không đối đãi
 Không chướng cũng không ngại
 Hay cứu tất cả loài
 Chỗ hướng không chấp trước
 Thừa nầy không có lượng
 Cũng không tất cả tướng
 Tự tánh bất khả đắc
 Vô úy chẳng nghĩ bàn
 Có ai ngồi thừa nầy
 Thì được vô sở úy
 Ở trong chư Phật pháp
 Không chướng cũng không ngại. 
 Dùng thừa nầy hướng đến
 Chiếu sáng khắp thế gian
 Như mặt nhựt sáng lớn
 Không lúc nào chẳng chiếu
 Thừa nầy chẳng hoại được
 Không gì che chói được
 Vô lượng đức tư lương
 Mà hướng đến vô thượng
 Thừa nấy siêu thế gian
 Ra khỏi hẳn ba cõi
 Rời xa các tối tăm
 Thẳng đến quả vô lậu
 Thừa nầy chỉ nhiếp lấy
 Tất cả chư Bồ Tát
 Còn các chúng sanh khác
 Trong ấy chẳng dung thọ
 Nếu có người trí huệ
 Trong vô lượng ngàn kiếp
 Siêng to tân phương tiện
 Mới ngồi được thừa nầy
 Thanh Văn và Duyên Giác
 Tất cả hàng ngoại đạo
 Tiểu trí và tà kiến
 Chẳng ngòi được thừa nầy
 Nếu có các chúng sanh 
 Hướng đến nơi phi đạo
 Hạng nầy kém phước đức
 Chẳng kham nghe thừa nầy
 Nếu có các chúng sanh
 Với pháp bất tư nghị
 Khôn khéo mà do hí
 Ngồi được Ðại thừa nầy
 Tùy theo họ kiến lập
 Những thệ nguyện thù thắng
 Ở trong chánh đạo nầy
 Mà hướng đến vô thượng
 Thừa nầy không biên tế
 Cũng không có trung tế
 Biên tế và trung tế
 Thảy đều bất khả đắc
 Bởi tế bất khả đắc
 Nên thừa nầy không tế
 Vì tất cả tế đoạn
 Nên an lạc hướng đến
 Thừa nầy vô biên tế
 Vô biên là thừa tế
 Thừa nầy vô lượng tế
 Vô lượng là thừa nầy
 Thừa nầy vô tế đoạn
 Vô tế là tế đoạn
 Chẳng phân biệt nơi tế
 Ðoạn cũng chẳng thể được
 Thừa tế không biên tế
 Cũng không có trung tế
 Cũng không tế không tế
 Tế tánh vô sở hữu
 Nơi tế không tế tướng
 Chẳng phải tế làm tướng
 Ở trong các tế ấy
 Tế tướng vô sở hữu
 Chẳng phải tế nói môn
 Thừa nầy đã vượt quá
 Ở chỗ quá lượng kia
 Tương ưng bất khả đắc
 Ta nói đoạn thường tế
 Hữu biên vô biên tế
 Tất cả tế như vậy
 Tế kia chẳng phải tế
 Tất cả tế vô biên
 Tế tướng vô sở hữu
 Tự tánh tất cả tế
 Trong ấy chẳng phân biệt
 Trong các tế như vậy
 Vì dứt nơi phân biệt
 Nên biên cùng vô biên
 Tất cả đều được dứt
 Nếu còn có thân kiến
 Thì nói các tế môn 
 Chấp trước các tế ấy
 Là người không chỗ dựa
 Nếu không có thân kiến
 Chẳng chấp các tế môn
 Là bực đại trí huệ
 Có thể nơi các tế
 Ðều vượt quá tất cả
 Do đây trong Phật pháp
 An lạc mà hướng đến
 Bồ Tát khéo quán sát
 Hay dùng sức trí tuệ
 Chẳng có được chút pháp
 Dứt được trừ diệt được
 Thường dùng phương tiện khéo
 Khéo nhiếp lấy chỉ quán
 Vì biết rõ một tướng
 Các tướng đều biết rõ
 An trụ ở chánh pháp
 Ðược ánh sáng đại pháp
 Do pháp quang minh nầy
 Quyết xong các tế kia
 Chẳng thấy có chút tế
 Là tế hay phi tế
 Chỗ tương ưng được kia
 Không chấp trước tất cả
 Nếu thấy chúng sanh khổ
 Khuyến dụ mà bảo rằng
 Ngươi đến nơi thừa nầy
 An vui mà xuất ly
 Thọ sanh ở chốn nào
 Hay làm ánh sáng pháp
 Mặc giáp ngồi Ðại thừa
 Cũng đem đây khai thị
 Thừa nầy giáp trụ nầy
 Chớ có lòng lẫ tiếc
 Cũng khiến các chúng sanh
 Mặc giáp ngồi Ðại thừa
 Ngồi thừa an lạc nầy
 Mà hướng đến vô thượng
 Chư Bồ Tát như vậy
 An trụ đây tu hành
 Hay ở trong Phật pháp
 Mau hướng đến vô thượng
 Thanh tịnh chư Phật quốc
 Nhiếp thọ chư Thanh Văn
 Và các chúng Bồ Tát
 Sự công đức trang nghiêm".