Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi."
Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình.
Kinh Pháp cú
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác.
Kinh Pháp cú
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay.
Kinh Bốn mươi hai chương
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
LIV. PHẨM CHUYỂN BẤT CHUYỂN
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này chỉ gọi là bất thối chuyển hay cũng gọi là thối chuyển?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này, đã gọi là bất thối chuyển, cũng được gọi là thối chuyển.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này, vì sao được gọi là bất thối chuyển, vì sao cũng được gọi là thối chuyển?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này, chắc chắn không lui lại bậc Thanh văn, Ðộc giác v.v... quyết chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do nhân duyên này gọi là bất thối chuyển. Nhưng đối với pháp tưởng có thối chuyển, nên cũng được gọi là thối chuyển.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Đại Bồ-tát này đối với pháp nào tưởng có thối chuyển mà cũng gọi là thối chuyển?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này đối với sắc tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển; đối với thọ, tưởng, hành, thức tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với sáu nội xứ tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển; đối với sáu ngoại xứ tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với sáu nội giới tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển; đối với sáu ngoại giới tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với sáu thức giới tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với sáu xúc tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với các thọ do sáu xúc làm duyên sanh ra tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với tham, sân, si tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với các kiến thú tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với sáu pháp Ba-la-mật-đa tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với tất cả Không tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với chơn như tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với bốn Thánh đế tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với bốn niệm trụ v.v... tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với bốn tịnh lự v.v... tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với tám giải thoát v.v... tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với ba pháp môn giải thoát tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với Thập địa tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với mười lực Phật v.v... tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với ba mươi hai tướng Ðại sĩ, tám mươi vẻ đẹp tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với quả Dự lưu cho đến Ðộc giác Bồ-đề tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với các hạnh Đại Bồ-tát và quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển.
Đối với các dị sanh (phàm phu), Thanh văn, Ðộc giác, Bồ-tát và Phật tưởng có thối chuyển nên cũng gọi là thối chuyển. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này dùng tự tướng Không để quán tất cả pháp. Ðã vào ngôi Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, cho đến chẳng thấy chút pháp nào có thể đắc. Vì bất khả đắc nên không có sự tạo tác. Vì không sự tạo tác nên rốt ráo chẳng sanh. Vì rốt ráo không sanh nên gọi là vô sanh pháp nhẫn. Do chứng được vô sanh pháp nhẫn này nên gọi là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có những ác ma đến chỗ Đại Bồ-tát này muốn làm cho Bồ-tát nhàm chán bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nói với Bồ-tát: Trí nhất thiết trí ngang bằng với hư không, tự tướng vốn không, vô tánh làm tánh. Các pháp cũng vậy, tự tướng vốn không, vô tánh làm tánh, ngang bằng với hư không, như vậy tất cả ngang bằng với hư không. Trong tánh tướng không ấy, không có pháp nào được gọi là năng chứng, cũng không pháp nào có thể gọi là sở chứng. Chỗ chứng, thời chứng và do đây mà chứng cũng đều bất khả đắc. Tánh tướng tất cả pháp đều là không và ngang bằng với hư không rồi, vì các ông luống chịu khổ cực để cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trước đây, các ông đã nghe các chúng Bồ-tát nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đều là lời ma nói, chẳng phải thật lời Phật. Các ông nên bỏ đại nguyện Bồ-đề, đừng vì lợi lạc của tất cả hữu tình mà tự chịu khổ cực lâu dài. Dù hành các thứ khổ hạnh khó hành mong cầu Bồ-đề nhưng rốt cuộc không thể đắc, vì sao các ông luống chịu cực nhọc?
Thiện Hiện! Khi nghe những lời quở trách này rồi, các Đại Bồ-tát này luôn quán sát suy nghĩ kỹ việc làm của ác ma này: Họ muốn phá hoại và làm thối lui tâm đại Bồ-đề của ta. Ta nay chẳng nên tin nhận lời họ nói. Mặc dù tất cả pháp ngang đồng với hư không, tánh tướng đều không. Nhưng các hữu tình chẳng biết, chẳng thấy suốt trong đêm dài sanh tử, do điên đảo buông lung nên chịu bị các khổ não. Ta phải mang áo mũ công đức: Tánh tướng đều không như đại hư không, mau tới quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các hữu tình thuyết pháp tương ưng khiến họ giải thoát khổ lớn sanh tử, chứng được quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc Ðộc giác Bồ-đề, hoặc chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện! Từ sơ phát tâm Đại Bồ-tát đã nghe pháp này nên tâm kiên cố, không động, không chuyển. Nương vào tâm kiên cố chẳng lay chuyển này luôn tu hành đúng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do sáu Ba-la-mật-đa này, vị ấy viên mãn theo từng phần. Nhập vào ngôi Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát rồi, lại tu hành đúng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do đây được trụ bậc Bất thối chuyển. Thế nên dù các ác ma dùng các phương tiện hủy hoại cho thối lui nhưng không thể làm thối lui tâm đại Bồ-đề mà Bồ-tát đã phát nguyện.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này vượt qua các bậc Thanh văn, Ðộc giác v.v... và tất cả việc ma không thể làm thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã cầu nên gọi là Bất thối chuyển. Vì xa lìa tất cả sự chấp thủ hư vọng phân biệt các pháp của bậc Nhị thừa v.v... nên cũng gọi là thối chuyển. Bồ-tát này có được hai tên, chẳng phải như các bậc khác chỉ tên thối chuyển.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển muốn nhập vào sơ tịnh lự cho đến đệ tứ tịnh lự liền tùy ý vào được ngay.
Muốn nhập vào Từ vô lượng cho đến Xả vô lượng liền tùy ý vào được ngay.
Muốn nhập vào định Không vô biên xứ cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ liền tùy ý vào được ngay.
Muốn nhập vào bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo liền tùy ý vào được ngay.
Muốn nhập vào sơ giải thoát cho đến diệt thọ tưởng giải thoát liền tùy ý vào được ngay.
Muốn nhập vào sơ thắng xứ cho đến thắng xứ thứ tám liền tùy ý vào được ngay.
Muốn nhập vào định sơ tịnh lự cho đến định diệt thọ tưởng liền tùy ý vào được ngay.
Muốn nhập vào sơ biến xứ cho đến biến xứ thứ mười liền tùy ý vào được ngay.
Muốn nhập vào ba pháp môn giải thoát liền tùy ý vào được ngay.
Muốn phát khởi năm thần thông liền tùy ý phát khởi.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này tuy nhập vào bốn tịnh lự cho đến phát khởi năm thần thông nhưng chẳng thọ quả ấy. Do yếu tố này nên chẳng theo tịnh lự, vô lượng mà sanh, cho đến thế lực của diệt định và các công đức khác mà sanh. Cũng chẳng chứng quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc Ðộc giác Bồ-đề. Vì muốn lợi lạc các hữu tình nên tùy theo ý muốn thọ thân ở nơi nào thì sở nguyện ấy đều được thành.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thành tựu tác ý Vô thượng Bồ-đề, luôn không xa lìa tâm đại Bồ-đề. Chẳng ưa chuộng sắc, chẳng ưa chuộng thọ, tưởng, hành, thức.
Chẳng quý trọng nhãn xứ cho đến ý xứ.
Chẳng quý trọng sắc xứ cho đến pháp xứ.
Chẳng quý trọng nhãn giới cho đến ý giới.
Chẳng quý trọng sắc giới cho đến pháp giới.
Chẳng quý trọng nhãn thức giới cho đến ý thức giới.
Chẳng quý trọng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.
Chẳng quý trọng các tướng.
Chẳng quý trọng chỗ nương tựa.
Chẳng quý trọng bạn giúp đỡ.
Chẳng quý trọng bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Chẳng quý trọng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Chẳng quý trọng bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.
Chẳng quý trọng tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Chẳng quý trọng pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.
Chẳng quý trọng bốn Thánh đế.
Chẳng quý trọng mười tám Không.
Chẳng quý trọng chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Chẳng quý trọng thập địa.
Chẳng quý trọng năm loại mắt, sáu phép thần thông.
Chẳng quý trọng mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Chẳng quý trọng pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.
Chẳng quý trọng pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.
Chẳng quý trọng trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Chẳng quý trọng bậc Thanh văn, bậc Ðộc giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai.
Chẳng quý trọng sự thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.
Chẳng quý trọng tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.
Chẳng quý trọng sự thấy nhiều chư Phật.
Chẳng quý trọng sự gieo trồng các căn lành.
Vì sao? Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này hiểu rõ tất cả pháp: Tánh tướng đều là không, ngang bằng với hư không và hoàn toàn bất khả đắc.
Chẳng thấy có pháp nào để sanh quý trọng. Sở sanh, năng sanh, thời sanh và chỗ sanh hay do đây mà sanh đều bất khả đắc. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất cả pháp này ngang bằng với hư không, tự tướng vốn không, vô tánh làm tánh.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này thành tựu tác ý Vô thượng Bồ-đề, thường chẳng xa lìa tâm đại Bồ-đề. Bốn oai nghi của thân, ra vào qua lại, đưa chân cất bước, tâm không tán loạn, oai nghi đi đứng ngồi nằm tiến dừng thao tác, làm việc đều trụ chánh niệm.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, nên phương tiện thiện xảo thị hiện ở cư gia, dù hưởng thụ năm thứ dục lạc nhưng trong ấy chẳng sanh đắm nhiễm, đều vì giúp ích cho các hữu tình. Nghĩa là các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần y cho y, cần xe cho xe. Cho đến tất cả vật chất cần dùng đều cung cấp cho để họ mãn nguyện.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này tự hành bố thí Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người hành bố thí Ba-la-mật-đa, thường khen ngợi đúng pháp hành bố thí Ba-la-mật-đa, hoan hỷ tán thán người hành bố thí Ba-la-mật-đa. Cho đến tự hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng khuyên người hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thường khen ngợi đúng pháp hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoan hỷ tán thán người hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này thị hiện ở tại gia, dùng sức thần thông, hoặc năng lực đại nguyện nắm giữ các thứ của cải bảy báu đầy cả châu Thiệm-bộ, cho đến thế giới Tam thiên đại thiên, dùng để cúng dường Phật, Pháp, Tăng bảo và bố thí các loại hữu tình nghèo thiếu.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này thị hiện ở tại gia, nhưng thường tu phạm hạnh, quyết không thọ dụng các cảnh dục lạc đẹp đẽ. Tuy đang hưởng thụ các thứ quí báu, nhưng trong ấy chẳng sanh đắm nhiễm. Vả lại khi hưởng thọ dục lạc và các của báu, không bức bách các loài hữu tình làm họ sanh sầu khổ.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển được thần Dược-xoa cầm chày kim cang thường âm thầm theo hai bên gia hộ, nghĩ: Đại Bồ-tát này chẳng bao lâu sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta nguyện luôn thầm theo hộ vệ, cho đến khi vị ấy chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường có năm bộ thần cầm chày kim cang theo sát bảo vệ không lúc nào rời bỏ. Loài phi nhơn… không thể hại được, các trời Ma vương, Phạm thiên vương và các thế gian cũng không ai có thể dùng phép phá hoại tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã phát. Do nhân duyên này, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thân tâm an ổn thường không ưu phiền.
Thiện Hiện! Năm căn thế gian của Đại Bồ-tát này thường không khuyết giảm, đó là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. Năm căn xuất thế gian gồm lòng tin, tinh tấn, niệm, định, tuệ cũng không khuyết giảm.
Thiện Hiện! Thân thể của Đại Bồ-tát này viên mãn, tướng hảo trang nghiêm. Các công đức của tâm niệm niệm tăng tiến cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thường làm thượng sĩ, chẳng làm hạ sĩ.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao nói Đại Bồ-tát này thường làm thượng sĩ, chẳng làm hạ sĩ?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Tất cả phiền não của Đại Bồ-tát này không còn hiện tiền, công đức tăng tiến trong từng sát-na cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Bất cứ lúc nào tâm cũng không tán loạn. Thế nên, ta nói thường làm thượng sĩ, chẳng làm hạ sĩ.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này thành tựu tác ý Vô thượng Bồ-đề, thường không xa lìa tâm đại Bồ-đề. Luôn tu thanh tịnh thân mạng, không hành chú thuật, y dược, xem bói và các việc tà mạng. Chẳng vì danh lợi chú thuật của các quỷ thần nhập vào nam nữ hỏi điềm tốt xấu; cũng chẳng dùng chú cấm cho nam nữ lớn nhỏ, bàng sanh, quỷ v.v... hiện ra việc hiếm có.
Cũng chẳng xem tướng, tuổi thọ dài ngắn, tiền tài, địa vị nam nữ và các việc thiện ác.
Cũng chẳng đoán trước lạnh nóng, được mùa mất mùa, lành dữ tốt xấu làm não loạn mê hoặc hữu tình.
Cũng chẳng dùng chú cấm hòa hợp thuốc thang, trị bệnh tà đạo, kết hảo với quý nhân.
Cũng không vì người làm sứ mạng thông giao, hiện tướng thân hữu, theo lợi cầu danh. Chẳng nhiễm tâm nhìn ngắm nam nữ, nói cười đùa giỡn, huống có những việc khác.
Cũng chẳng cung kính cúng dường quỷ thần. Thế nên ta nói thường làm thượng sĩ, chẳng làm hạ sĩ.
Vì sao? Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này biết tất cả pháp tánh tướng đều không, trong tánh tướng không ấy, không thấy có tướng. Vì không thấy tướng nên xa lìa các tội tà mạng, chú thuật, y dược, xem tướng; chỉ cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường làm lợi ích cho các hữu tình.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! đối với các văn chương, kỹ nghệ thế gian, tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển tuy rất thiện xảo nhưng chẳng ưa đắm. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này thấu rõ tánh tướng tất cả pháp đều là không. Trong tánh tướng không này, thế gian có được bao nhiêu văn chương kỹ nghệ đều bất khả đắc. Vả lại văn chương, kỹ nghệ thế gian đều là lời tạp uế, thuộc về tà mạng. Thế nên Bồ-tát biết mà chẳng làm.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này tuy biết rất giỏi thơ luận thế tục, ngoại đạo, nhưng chẳng đắm trước. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này thấu rõ tất cả pháp đều rốt ráo không. Trong sự rốt ráo không ấy, tất cả thơ luận đều bất khả đắc. Vả lại, phần nhiều sự lý đã nói trong các thơ luận của thế tục và ngoại đạo có thêm bớt, không được tùy thuận với đạo của Bồ-tát, đều thuộc vào những lời hý luận tạp uế, nên các Bồ-tát biết mà chẳng ưa.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển còn có những hành động khác nữa để biết là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Ta sẽ phân biệt giải nói cho ông. Ông hãy lắng nghe, suy nghĩ cho kỹ.
Thiện Hiện thỉnh:
- Cúi xin Ngài nói cho. Ðại chúng chúng con dốc lòng muốn nghe.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa hiểu rõ các pháp đều không có sở hữu, thường không xa lìa tác ý Bồ-đề. Chẳng ưa xem xét luận nói về các uẩn, xứ, giới. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đối với lý uẩn, xứ, giới, tánh, tướng đều là không, đã suy nghĩ rốt ráo và thông suốt hoàn toàn.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về việc quần chúng. Vì sao? Vì đối với tất cả quần chúng, tánh tướng đều không, Đại Bồ-tát này đã suy nghĩ rốt ráo và thông suốt hoàn toàn.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về việc vua. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này trụ bản tánh không, chẳng thấy có chút pháp nào có tướng hơn thua sang hèn.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này chẳng muốn xem xét luận nói về việc giặc. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này trụ tự tướng không, chẳng thấy có chút pháp có tướng được mất, ban cho hay cướp đoạt.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này chẳng muốn xem xét luận nói về việc quân. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này trụ bản tánh không, không thấy tướng các pháp có tướng nhiều ít, hợp tan.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này chẳng muốn xem xét luận nói về việc chiến tranh. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này an trụ hoàn toàn vào chơn như tất cả pháp Không, chẳng thấy có chút pháp có tướng mạnh yếu thương giận.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này chẳng muốn xem xét luận nói về việc thành ấp. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này trụ vào Không của không giới, chẳng thấy có chút pháp có tướng thuộc hay không thuộc, tốt hay xấu.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này chẳng muốn xem xét luận nói về chuyện xóm làng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này trụ tất cả pháp Không, chẳng thấy có chút pháp nào có tướng thêm bớt hay hợp tan.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này chẳng muốn xem xét luận nói về việc quốc độ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này an trụ thật tế, chẳng thấy các pháp có tướng thuộc hay chẳng thuộc đây kia.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này chẳng muốn xem xét luận nói về việc của ta, hữu tình cho đến người biết, người thấy. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này trụ rốt ráo không, hoàn toàn không thấy tướng sai khác của ta cho đến người thấy hoặc có, hoặc không.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này chẳng muốn xem xét luận nói về việc tướng hảo. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này hoàn toàn an trụ vô tướng, không thấy các pháp có tướng đẹp, có tướng xấu khác nhau.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này chẳng muốn xem xét luận nói về việc thế gian như vậy v.v... chỉ ưa xem xét luận nói về Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, xa lìa các tướng, chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này thường không xa lìa tác ý tương ưng trí nhất thiết trí, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, lìa việc xan tham.
Tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, lìa việc phá giới.
Tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, lìa việc giận dữ.
Tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, lìa việc biếng nhác.
Tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, lìa việc tán loạn, giao động.
Tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, lìa việc ác tuệ.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này tuy hành tất cả pháp là không nhưng ưa muốn Chánh pháp, chẳng ưa phi pháp, hằng nguyện làm lợi ích cho tất cả hữu tình.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này tuy hành bất khả đắc không, nhưng thường khen ngợi công đức Tam bảo, làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này tuy hành tướng chơn như các pháp và pháp giới đồng một vị, nhưng thích khen ngợi các loại công đức của chơn như, pháp giới.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này biết các pháp rốt ráo đều là Không, nhưng lại mến bạn lành, chẳng mến bạn ác. Bạn lành là chư Phật, Bồ-tát, hoặc các Thanh văn, Ðộc giác thừa v.v... có thể giáo hóa và an lập hữu tình một cách hoàn hảo, khiến họ hướng tới quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên cũng gọi là bạn lành.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này thường ưa gần gũi tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, nếu nghe Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác ở thế giới khác liền dùng nguyện lực sanh qua thế giới ấy, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, lắng nghe và lãnh thọ chánh pháp.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này hoặc ngày, hoặc đêm thường không xa lìa tác ý niệm Phật, thường không xa lìa tác ý nghe pháp. Do nhân duyên này dù đức Phật Thế Tôn hiện đang thuyết chánh pháp ở quốc độ nào, vị ấy liền nương vào nguyện lực sanh đến nước đó, hoặc dùng thần thông đến đó nghe pháp. Do nhân duyên này các Bồ-tát này đời đời kiếp kiếp dù sanh đến chỗ nào cũng chẳng xa Phật, thường được nghe chánh pháp không gián đoạn.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này luôn vì lợi lạc các hữu tình, nên dù thường hiện khởi định sơ tịnh lự cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ nhưng vẫn phương tiện thiện xảo khởi sanh tâm về cõi Dục, để dạy mười thiện nghiệp đạo cho các hữu tình, cũng tùy theo nguyện lực sanh vào quốc độ hiện có đức Phật thuộc cõi Dục để cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn và lắng nghe chánh pháp, tu các hạnh thù thắng.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thường tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thường hành pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Thường hành chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Thường hành Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Thường tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Thường tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Thường tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Thường tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Thường tu năm loại mắt, sáu phép thần thông. Thường tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Thường tu mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Thường tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Thường tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Thường tu tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Thường tu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này thường không khởi lên sự nghi hoặc đối với địa vị tự chứng. Không suy nghĩ: Ta là bậc Bất thối chuyển, ta không phải bậc Bất thối chuyển. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này chẳng thấy có chút pháp nào để nói là có thối chuyển, hoặc nói không thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này không có mê hoặc, nghi ngờ đối với pháp địa vị tự chứng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã hiểu một cách rốt ráo, đã thông suốt hoàn toàn đối với pháp địa vị tự chứng.
Thiện Hiện! Như bậc Dự lưu trụ quả Dự lưu không nghi hoặc đối với pháp của chính quả ấy; bậc Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Ðộc giác và các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều trụ quả của riêng mình và cũng không nghi hoặc đối với pháp của chính quả ấy. Đại Bồ-tát này cũng như vậy, đối với các pháp thuộc địa vị Bất thối chuyển mà chính vị ấy đang trụ thì biết rõ, thấy rõ, không còn mê hoặc nghi ngờ.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát trụ trong địa vị này để thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tu các công đức. Nếu có việc ma khởi lên liền được giác tri nhưng không theo thế lực của việc ma mà chuyển đổi. Có thể đánh dẹp hoàn toàn các việc ma làm cho công đức tu hành không bị chướng ngại.
Thiện Hiện! Như có người tạo nghiệp vô gián, tâm vô gián kia luôn theo sát vị ấy cho đến lúc mạng chung cũng chẳng rời bỏ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nó hay phát sanh để tạo nghiệp vô gián, do thế lực tăng thêm, nên chuyển biến cho đến khi qua đời cũng không thể chế phục được. Giá như có tâm tốt khác cũng không thể ngăn chặn được. Đại Bồ-tát này cũng như thế, khi an trụ địa vị tự chứng, tâm chẳng giao động và không có sự phân biệt, nên không bị trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian xoay chuyển được. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tâm Đại Bồ-tát này vững vàng, vượt qua trời, người, Ma vương, Phạm thiên vương, A-tố-lạc v.v... trong thế gian, đã nhập vào ngôi Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, trụ bậc Bất thối, đã được thần thông thù thắng của Bồ-tát để thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn và các đệ tử Phật, lắng nghe chánh pháp, ở chỗ chư Phật gieo trồng căn lành, thỉnh hỏi pháp nghĩa mà Bồ-tát đã học.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này an trụ địa vị tự chứng tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa và các pháp lành. Nếu có việc ma liền biết ngay, quyết không chuyển đổi theo việc ma ấy, dùng phương tiện thiện xảo tập trung các việc ma để vào trong thật tế, rồi phương tiện diệt trừ, đối với pháp địa vị tự chứng không mê hoặc, nghi ngờ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này biết tất cả pháp đều vào thật tế, thông suốt thật tế chẳng phải một, chẳng phải nhiều. Ở trong thật tế không có sự phân biệt, vì không còn mê hoặc, nghi ngờ đối với thật tế, đối với pháp địa vị tự chứng cũng không còn do dự.
Thiện Hiện! Nếu có chuyển thân thọ sanh thì Đại Bồ-tát này cũng chẳng thối lui đối với thật tế, quyết không phát khởi tâm hướng tới Thanh văn, Ðộc giác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này biết tự tướng tất cả pháp đều là không. Trong cái không này, chẳng thấy có pháp nào hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc nhiễm, hoặc tịnh.
Thiện Hiện! Cho đến khi chuyển thân Đại Bồ-tát này cũng chẳng nghi ngờ: Ta sẽ được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề hay sẽ không được. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thông suốt tự tướng tất cả pháp đều là không, tức là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này an trụ địa vị tự chứng chẳng theo duyên bên ngoài. Đối với pháp nơi địa vị tự chứng không ai có thể phá hoại được. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thành tựu trí không giao động, trí không thối chuyển, tất cả ác duyên không thể khuynh động được.
Thiện Hiện! Nếu có ác ma giả hình tướng Phật đi đến chỗ Bồ-tát này mà nói: “Nay ông nên cầu quả A-la-hán, chấm dứt các lậu, chứng nhập Niết-bàn. Ông chưa được thọ ký đại Bồ-đề, cũng chưa chứng được vô sanh pháp nhẫn. Nay ông chưa có các hành động của bậc Bất thối chuyển, Như Lai không nên thọ ký Vô thượng đại Bồ-đề cho ông. Ông phải có đủ hành động của bậc Bất thối chuyển mới có thể mong Phật thọ ký Vô thượng đại Bồ-đề.”
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này nghe những lời này rồi, tâm không thay đổi, không thối lui, không sửng sốt, không sợ hãi. Đại Bồ-tát này phải tự chứng biết: Chắc chắn ta đã được chư Phật Thế Tôn trong quá khứ thọ ký đại Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-tát đã thành tựu các thắng pháp như vậy thì nhất định Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác sẽ thọ ký đại Bồ-đề. Ta đã thành tựu các thắng pháp như vậy lẽ nào Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác chẳng thọ ký cho ta. Thế nên chắc chắn ta được chư Phật quá khứ thọ ký đại Bồ-đề.
Thiện Hiện! Đối với Đại Bồ-tát này, nếu có ác ma hoặc sứ giả của ma giả hình tướng đức Phật đến chỗ Bồ-tát này và thọ ký bậc Thanh văn cho Bồ-tát, hoặc thọ ký bậc Ðộc giác cho Bồ-tát, bảo Bồ-tát: Thiện nam tử! Ông cần gì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà chịu khổ lớn lâu dài, luân hồi sanh tử, hãy mau chứng vô dư Niết-bàn, hãy chấm dứt sanh tử, an vui hoàn toàn.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nghe lời ấy rồi, bèn nghĩ: Chắc chắn đây là ác ma hoặc sứ giả của ma giả hình tướng Phật để quấy nhiễu tâm ta, thọ ký cho ta bậc Thanh văn và Ðộc giác, khiến ta thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì nhất định không có chư Phật nào dạy các Bồ-tát hướng tới Thanh văn hoặc bậc Ðộc giác mà lìa bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thiện Hiện! Đối với Đại Bồ-tát này, nếu có ác ma hoặc sứ giả của ma giả hình tướng Phật nói với Bồ-tát: “Kinh điển Ðại thừa mà ông đã thọ trì chẳng phải Phật thuyết, cũng chẳng phải đệ tử Phật thuyết. Đó là các ác ma, hoặc các ngoại đạo vì dối gạt ông nên nói như thế. Ông không nên thọ trì, đọc tụng.” Đại Bồ-tát này nghe lời ấy rồi, bèn nghĩ: Chắc chắn đây là ác ma hay quyến thuộc của ma khiến ta chán bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã cầu, nên nói kinh điển Ðại thừa sâu xa kia chẳng phải Phật thuyết, cũng không phải đệ tử Như Lai đã thuyết. Vì sao? Vì lìa kinh điển này mà có thể chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì chắc chắn không có lẽ đó.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát này đã an trụ bậc Bất thối chuyển, được chư Phật quá khứ thọ ký đại Bồ-đề lâu rồi. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thành tựu đầy đủ các hành động và tướng trạng của bậc Bất thối chuyển. Nếu các Bồ-tát thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đã thọ ký đại Bồ-đề, tất đã an trụ bậc Bất thối chuyển.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển nhiếp thọ chánh pháp, hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, huống gì của cải bà con. Đại Bồ-tát này thường nghĩ: Ta thà lìa bỏ bà con, bạn bè, của cải và thân mạng mình, quyết không lìa bỏ chánh pháp của chư Phật. Vì sao? Vì bà con, bạn bè, của cải và thân mạng mình đời đời thường có, rất là dễ được. Còn chánh pháp của chư Phật trăm ngàn muôn ức kiếp mới được gặp một lần. Gặp được chánh pháp đã lâu, được lợi lạc lớn nên ta nhất định phải siêng năng hộ trì.
Thiện Hiện! Khi hộ trì chánh pháp Đại Bồ-tát này phải nghĩ: Ta không chỉ hộ trì chánh pháp của một đức Phật, hay hai đức Phật, cho đến trăm ngàn đức Phật, mà hộ trì chánh pháp của tất cả chư Phật khắp mười phương ba đời làm chánh pháp không bị tổn giảm.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những gì là chánh pháp chư Phật? Tại sao Đại Bồ-tát này hộ trì chẳng tiếc thân mạng?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, đã giác ngộ đã nói tất cả pháp Không. Như vậy gọi là chánh pháp của chư Phật. Có hạng ngu si chê bai hủy báng: Đây chẳng phải pháp, chẳng phải Tỳ-nại-da, chẳng phải Thánh giáo mà đấng Thiên Nhân Sư đã nói. Tu hành pháp này chẳng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng chứng Niết-bàn rốt ráo an vui.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này hộ trì pháp này chẳng tiếc thân mạng, thường nghĩ: Chư Phật đã nói: Tất cả pháp Không là chỗ quay về nương tựa của các hữu tình. Bồ-tát tu học pháp này mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu các hữu tình khỏi sanh, lão, bệnh, tử, giúp họ đạt được Niết-bàn an vui hoàn toàn. Nên phải hộ trì chẳng tiếc thân mạng.
Lại suy nghĩ: Ta cũng ở trong số các đức Phật tương lai. Đức Phật đã thọ ký đại Bồ-đề cho ta. Do nhân duyên này, chánh pháp của chư Phật tức là pháp của ta, ta phải hộ trì, chẳng tiếc thân mạng. Ở đời vị lai khi thành Phật ta cũng sẽ vì hữu tình thuyết các pháp Không như vậy.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này thấy được lợi ích và ý nghĩa việc hộ trì chánh pháp mà Như Lai đã thuyết nên chẳng tiếc thân mạng, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thường không lười bỏ.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển nghe chánh pháp mà các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã thuyết không có mê hoặc, nghi ngờ. Nghe rồi thọ trì, thường không quên mất, cho đến khi chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã chứng được Đà-la-ni một cách rốt ráo.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đã chứng được những Đà-la-ni nào mà nghe chánh pháp của các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã thuyết không có mê hoặc, nghi ngờ, nghe rồi thọ trì không quên mất?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này đã được Vô tận tạng Đà-la-ni, Hải ấn Đà-la-ni, Liên hoa chúng tạng Đà-la-ni v.v... nên nghe các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác thuyết chánh pháp không có mê hoặc, nghi ngờ, nghe rồi thọ trì thường chẳng quên mất.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Đại Bồ-tát này chỉ nghe chánh pháp của Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác thuyết không có mê hoặc, nghi ngờ, nghe rồi thọ trì thường chẳng quên mất; hay còn nghe chánh pháp Bồ-tát, Ðộc giác, Thanh văn, trời, rồng, Dạ-xoa, A-tố-lạc v.v... thuyết cũng không mê hoặc, nghi ngờ, nghe rồi thọ trì thường chẳng quên mất?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này nghe tất cả âm thanh, ngôn ngữ, văn tự, nghĩa lý của tất cả hữu tình và hiểu rõ được hết, không có mê hoặc, nghi ngờ, đến tận cùng đời vị lai cũng chẳng quên mất. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã được Vô tận tạng Đà-la-ni v.v... giữ gìn điều đã thuyết làm cho không quên mất.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào thành tựu các hành động và tướng trạng như thế, nên biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. LV. PHẨM NGHĨA THẬM THÂM
01
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này, thành tựu công đức thù thắng rộng lớn vô lượng, vô số, không có bờ mé, không thể nghĩ bàn.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói, Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này thành tựu công đức thù thắng rộng lớn vô lượng, vô số, không có bờ mé, không thể nghĩ bàn. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này đã được trí thù thắng vô lượng, vô biên chẳng cùng với Thanh văn và Ðộc giác. Đại Bồ-tát Bất thối chuyển trụ trong trí này phát khởi bốn sự hiểu biết thông suốt thù thắng. Do bốn sự hiểu biết thông suốt thù thắng này, trời, người, A-tố-lạc v.v... ở thế gian không ai có thể vấn nạn làm cho trí tuệ biện tài của Bồ-tát này cùng tận.
Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có thể trải qua hằng hà sa số kiếp tuyên thuyết các hành động tướng trạng của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển mà đức Phật đã nói hoặc hành động tướng trạng công đức thù thắng vô biên mà Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đã thành tựu. Cúi xin Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vì chúng Đại Bồ-tát nói lại ý nghĩa sâu xa, khiến cho chúng Đại Bồ-tát an trụ trong đó, có thể tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn, có thể trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không mau được viên mãn. Có thể trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì mau được viên mãn. Có thể trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mau được viên mãn. Có thể tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo mau được viên mãn. Có thể tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mau được viên mãn. Có thể tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mau được viên mãn. Có thể tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mau được viên mãn. Có thể tu pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa mau được viên mãn. Có thể tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa mau được viên mãn. Có thể tu năm loại mắt, sáu phép thần thông mau được viên mãn. Có thể tu mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mau được viên mãn. Có thể tu ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp mau được viên mãn. Có thể tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mau được viên mãn. Có thể tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mau được viên mãn?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Hay thay! Hay thay! Nay ông mới có thể vì các chúng Đại Bồ-tát thỉnh hỏi Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác về nghĩa lý sâu xa, làm cho các chúng Đại Bồ-tát an trụ trong đó, tu các công đức mau được viên mãn.
Thiện Hiện nên biết: Nghĩa lý sâu xa ấy là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, tịch tịnh, Niết-bàn, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế. Những pháp như vậy gọi là nghĩa lý thậm thâm.
Thiện Hiện nên biết: Tất cả những khái niệm đều hiển bày nghĩa lý thậm thâm của Niết-bàn.
Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Chỉ có Niết-bàn được mang ý nghĩa thậm thâm, hay các pháp khác cũng mang nghĩa thậm thâm?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Tất cả pháp khác cũng gọi là thậm thâm. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc cũng gọi là thậm thâm; thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là thậm thâm. Nhãn xứ cho đến ý xứ cũng gọi là thậm thâm. Sắc xứ cho đến pháp xứ cũng gọi là thậm thâm. Nhãn giới cho đến ý giới cũng gọi là thậm thâm. Sắc giới cho đến pháp giới cũng gọi là thậm thâm. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới cũng gọi là thậm thâm. Nhãn xúc cho đến ý xúc cũng gọi là thậm thâm. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng gọi là thậm thâm. Ðịa giới cho đến thức giới cũng gọi là thậm thâm. Vô minh cho đến lão tử cũng gọi là thậm thâm. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng gọi là thậm thâm. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng gọi là thậm thâm. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng gọi là thậm thâm. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng gọi là thậm thâm. Tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng gọi là thậm thâm. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng gọi là thậm thâm. Pháp môn Ðà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa cũng gọi là thậm thâm. Tam thừa Bồ-tát hành thập địa cũng gọi là thậm thâm. Năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng gọi là thậm thâm. mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng gọi là thậm thâm. Ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp cũng gọi là thậm thâm. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng gọi là thậm thâm. Quả Dự lưu cho đến Ðộc giác Bồ-đề cũng gọi là thậm thâm. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là thậm thâm. Tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng gọi là thậm thâm. Quyển thứ 449
HẾT
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.133.137.10 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.