Tạng Luật Bộ Tập Yếu Tỳ khưu Indacanda
Nguyệt Thiên dịch
XVII. SƯU TẬP CÁC BÀI KỆ (PHẦN HAI) [1] [1242] Bao
nhiêu tội do thân? [1243] Rạng
đông bao nhiêu tội? [1244] Luật
có mấy căn nguyên [1245] Bao
nhiêu tội trong làng? [1246] Ban
đêm, bao nhiêu loại [1247] Có
bao nhiêu loại tội [1248]
[1249] Tội
pārājika [1250]
Tự đánh mình mấy tội? [1251]
Hại mạng sống mấy tội? [1252]
Có bao nhiêu hạng người [1253]
Mấy tội về trộm cắp? [1254] Các
tội dukkaṭa [1255] Nói
về tỳ khưu ni [1256] Đi
đến bao nhiêu tội? [1257] Tất
cả khác sự vật [1258] Tất
cả khác sự vật [1259] Tất
cả khác sự vật [1260] Tất
cả khác sự vật [1261] Tất
cả khác sự vật [1262] Tất
cả khác sự vật [1263] Bao
nhiêu tội vi phạm [1264] Tất
cả các điều học [1265] Công
việc xét xử (tội) [1266] Bao
nhiêu về ban đêm [1267] Bao
nhiêu điều lợi ích [1268] Nói
dối mấy trường hợp? [1269] Nói
dối mấy chi phần? [1270] Việc
tu lên bậc trên [1271] Chia
rẽ của bao nhiêu? [1272] Mấy
sự việc phá hoại? [1273] Có
bao nhiêu hạng người [1274] Y
này dâng nhiêu vị [1275] Che
giấu mấy trăm tội [1276] Việc
hư hỏng hành sự [1277] Việc
thành tựu hành sự [1278] Có
bao nhiêu hành sự [1279] Có
bao nhiêu hành sự [1280] Các
nhóm tội vi phạm [1281] Bao
nhiêu kẻ chịu khổ [1282] Bao
nhiêu không chịu khổ [1283] Có
bao nhiêu nhóm tám [1284] Có
bao nhiêu hành sự [1285] Việc
hư hỏng hành sự [1286] Việc
thành tựu hành sự [1287] Có
bao nhiêu hành sự [1288] Có
bao nhiêu hành sự [1289] Tội
pārājika [1290]
Saṅghādisesa [1291] Tội
aniyata [1292] Tội
nissaggiya [1293] Tội
pācittiya [1294] Bao
nhiêu ưng phát lộ [1295] Bao
nhiêu ưng học pháp Dứt Sưu Tập các Bài Kệ (Phần Hai). ******* [1] Phần cước chú được ghi lại theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa, nguồn trích dẫn được chọn lọc từ bản dịch tiếng Anh của Cô I. B. Horner, một phần khác thuộc về công sức của người dịch. [2] Tội vi phạm do thân là tội sanh lên với nguồn sanh tội thứ tư là do thân và do ý, không do khẩu. Xin xem chương IV đoạn [870]. Tội vi phạm do khẩu là tội sanh lên với nguồn sanh tội thứ năm là sanh lên do khẩu và do ý, không do thân [871]. [3] Ba loại tội có che giấu là tội pārājika thứ nhì đến vị tỳ khưu ni che giấu tội lỗi (của tỳ khưu ni khác), tội pācittiya 64 đến vị tỳ khưu che giấu tội xấu xa (của tỳ khưu khác), và tội dukkaṭa đến vị che giấu tội xấu xa của bản thân. [4] Là tội pārājika thứ nhất của tỳ khưu ni, về phần của tỳ khưu là tội saṅghādisesa thứ nhì do việc xúc chạm thân thể, tội thullaccaya do việc thân chạm vào vật được gắn liền với thân, tội dukkaṭa do vật được ném ra chạm vào vật được gắn liền với thân, và tội pācittiya 52 do việc thọt lét bằng ngón tay. [5] Rạng đông ba loại tội là các tội nissaggiya pācittiya do cất giữ các loại vật dụng vượt quá 1 đêm, 6 đêm, 7 ngày, 10 ngày, hoặc 1 tháng, tội saṅghādisesa 3 của tỳ khưu ni cư ngụ riêng rẽ qua đêm, và tội dukkaṭa do che giấu tội. [6] Tội do không dứt bỏ khi được nhắc nhở đến lần thứ ba áp dụng cho tỳ khưu và tỳ khưu ni nên được tính là hai. [7] Tội pārājika 4 đến vị tỳ khưu ni làm đầy đủ tám sự việc. [8] Phần mở đầu của việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha có đoạn: “yassa siyā āpatti, so āvikareyya” nghĩa là “vị nào có phạm tội, vị ấy nên bày tỏ” (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương II, [149]). [9] Hai căn nguyên là thân và khẩu. [10] Là tội pārājika và tội saṅghādisesa. [11] Vị tỳ khưu ni che giấu tội lỗi của vị tỳ khưu ni khác thì phạm tội pārājika thứ nhì, vị tỳ khưu che giấu tội xấu xa của vị tỳ khưu khác thì phạm tội pācittiya 64. [12] Tỳ khưu hẹn với tỳ khưu ni hoặc với người nữ đi đường xa phạm dukkaṭa (xem pācittiya 27, 67), vị tỳ khưu cùng đi chung vào làng thì phạm tội pācittiya, vị tỳ khưu ni đi vào làng một mình có liên quan đến hai tội là tội thullaccaya và tội saṅghādisesa (xem điều saṅghādisesa 3 của tỳ khưu ni). [13] Tỳ khưu hẹn với tỳ khưu ni đi chung thuyền phạm dukkaṭa (xem pācittiya 28), rồi lên chung thuyền thì phạm tội pācittiya, vị tỳ khưu ni vượt sang sông một mình có liên quan đến hai tội là thullaccaya và tội saṅghādisesa (xem điều saṅghādisesa 3 của tỳ khưu ni). [14] Tội thullaccaya đến vị thọ dụng thịt người, tội dukkaṭa đối với chín loại thịt không được phép còn lại (Sđd., chương VI, [58-60]). [15] Vị tỳ khưu ni đứng chuyện trò với người nam trong bóng tối không đèn trong khoảng cách của tầm tay thì phạm tội pācittiya 11, ngoài tầm tay thì phạm tội dukkaṭa. [16] Trường hợp ban ngày là vị tỳ khưu ni đứng chuyện trò với người nam ở chỗ được che khuất trong khoảng cách của tầm tay thì phạm tội pācittiya 12, ngoài tầm tay thì phạm tội dukkaṭa. [17] Vị tỳ khưu cho thuốc độc và đã hại chết người thì phạm tội pārājika, đối với dạ-xoa và phi nhân thì phạm tội thullaccaya, đối với thú vật thì phạm tội pācittiya (xem điều pārājika thứ ba của tỳ khưu), hoặc cho y đến tỳ khưu ni thì phạm tội pācittiya 25. [18] Vị tỳ khưu chạm vào (thọ nhận) tay và tóc của người nữ phạm tội saṅghādisesa thứ nhì, đưa dương vật vào miệng có sự đụng chạm phạm tội pārājika thứ nhất, thọ lãnh y từ tay của vị tỳ khưu ni không phải là thân quyến phạm tội nissaggiya pācittiya 5, vị tỳ khưu ni nhiễm dục vọng thọ nhận vật thực từ tay của người nam nhiễm dục vọng (nhưng chưa thọ dụng) phạm tội thullaccaya (xem tội saṅghādisesa 5 của tỳ khưu ni). [19] Là các loại tội nhẹ. [20] Trừ ra tội pārājika. [21] Là cháo chua có bỏ muối đối với vị bị bệnh (Sđd., chương VI, [48]). [22] Là hành sự chỉ định vị tỳ khưu là vị giáo giới tỳ khưu ni (xem pācittiya 21 của tỳ khưu). [23] Tội pārājika thứ nhất của tỳ khưu và tội pārājika thứ nhất của tỳ khưu ni. [24] Xem Sđd., chương X, [240]. [25] Của vị thực hành hành phạt parivāsa và của vị thực hành hành phạt mānatta. [26] Tội pācittiya 5 về việc tỳ khưu ni làm sạch sẽ bằng nước sâu quá hai lóng tay và tội dukkaṭa về việc tỳ khưu để tóc dài. [27] Vị tỳ khưu ni tự đánh đấm chính mình rồi khóc lóc phạm tội pācittiya 20, tự đánh đấm chính mình mà không khóc phạm tội dukkaṭa. [28] Là chia rẽ bằng cách thực hiện hành sự hoặc là bằng cách phân phát thẻ biểu quyết. [29] Phân theo tỳ khưu và tỳ khưu ni. [30] Liên quan đến tội pārājika 2, 3, 4 của tỳ khưu ni. [31] Là tội saṅghādisesa, thullaccaya, và tội dukkaṭa (Xem điều saṅghādisesa 3 của tỳ khưu). Tương tợ đối với việc làm mai mối ở câu kế tiếp, xin xem điều saṅghādisesa 5 của tỳ khưu. [32] Là việc tiến hành tuyên ngôn hành sự gồm ba phần: phần đầu với lời đề nghị, phần giữa với phần thông báo, và phần cuối là câu kết luận. [33] Đề cập đến tỳ khưu ni Mettiyā (xem phần duyên khởi điều saṅghādisesa 8 của tỳ khưu), kẻ vô căn được xuất gia ở nơi các tỳ khưu rồi đã làm điều nhơ nhớp (Sđd., chương I, [125]), và sa di Kantaka (xem điều pācittiya 70 của tỳ khưu). [34] Có thể tiến hành tuyên ngôn tu lên bậc trên hoặc tuyên ngôn nhắc nhở đối với hai hoặc ba vị một lượt. [35] Do việc đổ bỏ thuốc độc và đã hại chết người, hoặc dạ-xoa, hoặc loài thú phạm tội pārājika, hoặc tội thullaccaya, hoặc tội pācittiya (xem điều pārājika thứ ba của tỳ khưu), đổ bỏ tinh dịch liên quan tội saṅghādisesa thứ nhất, và việc đổ bỏ chất thải do tiêu tiểu lên cỏ xanh phạm tội dukkaṭa ở phần sekhiya. [36] Hai nhóm chín về hành sự sai pháp và đúng pháp ở điều pācittiya 21 của tỳ khưu. [37] Xem hai loại tội dukkaṭa và pācittiya ở điều pācittiya 7 của tỳ khưu ni. [38] Vị tỳ khưu sau khi thọ lãnh năm loại dược phẩm rồi trộn chung vào trong vật chứa khác nhau hoặc trong cùng một vật chứa rồi để quá bảy ngày. Vị ấy phạm năm tội nissaggiya pācittiya khác sự vật đồng một lúc, không thể phân biệt tội nào trước tội nào sau. [39] Vị tỳ khưu không bị bệnh sau khi yêu cầu chín loại vật thực thượng hạng trộn chung lại với nhau rồi thọ thực phạm chín tội pācittiya 39. [40] Tội pārājika thứ ba đến vị tỳ khưu ni xu hướng theo tỳ khưu tà kiến, tội saṅghādisesa 11 đến vị tỳ khưu ủng hộ việc chia rẽ hội chúng, tội pācittiya 68 đến vị tỳ khưu không dứt bỏ tà kiến, cả ba tội này được thành lập với sự nhắc nhở đến lần thứ ba. [41] Xin xem lại chương VIII ở trên, đoạn [1021] nói về sáu trường hợp hư hỏng vì nguyên nhân nuôi mạng. [42] Vị tỳ khưu nhai thịt người phạm tội thullaccaya, nhai chín loại thịt không được phép còn lại phạm tội dukkaṭa, tỳ khưu ni nhai tỏi phạm tội pācittiya. [43] Ba loại tội ở trên thêm vào tội saṅghādisesa đến vị tỳ khưu ni nhiễm dục vọng tự tay thọ nhận vật thực từ tay của người nam nhiễm dục vọng rồi thọ thực, và tội pāṭidesanīya đến vị tỳ khưu ni yêu cầu vật thực hảo hạng rồi thọ dụng; tổng cộng là năm loại tội. [44] Là tội dukkaṭa, tội thullaccaya, tội pārājika (điều pārājika 3 của tỳ khưu ni có ba loại tội này), tội saṅghādisesa 10, và tội pācittiya 68 của tỳ khưu. [45] Năm hạng người là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, và sa di ni. [46] Ba nơi là ở giữa hội chúng, ở nhóm, và trong sự hiện diện của cá nhân. [47] Xin xem lại hai loại về ban đêm và ban ngày ở cước chú 15 và 16 của chương này. [48] Tỳ khưu ni nhìn chăm chú vào vật biểu tượng nam tánh phạm tội dukkaṭa (Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương X, [563]). [49] Nhìn vào mặt thí chủ khi thọ lãnh vật thực phạm tội dukkaṭa (Sđd., chương VIII, [427]). [50] Có tám điều được đề cập ở Đại Phẩm – Mahāvagga, chương X, [239] nhưng không xác định rõ là tám điều lợi ích. [51] Ba loại hành phạt án treo trong việc không nhìn nhận tội, trong việc không sửa chữa lỗi, và trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác (Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương I, [174-]). [52] Bốn mươi ba phận sự của vị tỳ khưu thực thi hành sự án treo (Sđd., chương I, [206]). [53] Nói dối có thể phạm năm tội là pārājika, saṅghādisesa, thullaccaya, pācittiya và dukkaṭa. [54] Là các điều giới có từ “paramaṃ” như là dasāhaparamaṃ, māsaparamaṃ, santaruttaraparamaṃ, v.v... tổng cộng trong hai bộ giới bổn có tất cả là 14 giới. [55] Về tội pāṭidesanīya, tỳ khưu có bốn điều còn tỳ khưu ni có tám điều. [56] Sự sám hối của những người do Devadatta sai đi đến giết đức Thế Tôn (Sđd., chương VII, [369]), của người đàn bà đã quyến rũ ngài Anuruddha ở phần duyên khởi của điều pācittiya 7, của Vaḍḍha Licchavī bị hành phạt úp ngược bình bát (Sđd., chương V, [110-116]), và việc sám hối của các vị tỳ khưu đến đại đức Kassapagotta ở làng Vāsabha (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương I, [174]). [57] Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương VII, [398]). [58] Đại Phẩm – Mahāvagga, chương I, [100]), [59] Việc tu lên bậc trên của tỳ khưu ni ở hai hội chúng. [60] Hai điều này áp dụng cho tỳ khưu ni ở trong nhà ăn. [61] Xem điều pācittiya 21 của tỳ khưu. [62] Liên quan đến việc chia rẽ hội chúng: Một vị là Devadatta, bốn vị phạm trọng tội là Kokālika và ba vị còn lại, bốn vị nói đúng Pháp thì vô tội, việc chia rẽ hội chúng là sự việc có liên quan đến tất cả. [63] Mười hạng người không nên được đảnh lễ được đề cập ở Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương VI, [264]. [64] Vị thực hiện các hành động chắp tay, đảnh lễ, v.v... đối với mười hạng người trên phạm tội dukkaṭa. [65] Năm vị đã trải qua mùa (an cư) mưa là tỳ khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, và sa di ni. [66] Bảy vị là vị đi xa, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, và ba vị bị ba loại án treo. [67] Là mười sáu vị được đề cập ở Chương Y Phục (Đại Phẩm – Mahāvagga, Chương VIII) bắt đầu là kẻ vô căn, v.v... [68] Vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa nhưng mỗi một tội chỉ che giấu mười ngày nên chỉ chịu hành phạt parivāsa là mười ngày đêm. [69] Là bốn loại hành sự gồm có: Hành sự với lời công bố, hành sự với lời đề nghị, hành sự với lời thông báo đến lần thứ hai, hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư được thực hành sai trái theo ba cách là: sai Pháp theo phe nhóm, sai Pháp có sự hợp nhất, đúng Pháp theo phe nhóm; tổng cộng lại là mười hai. [70] Là bốn loại hành sự trên được thực hành đúng Pháp có sự hợp nhất. [71] Sáu loại hành sự là: Hành sự sai Pháp theo phe nhóm, hành sự sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự đúng Pháp có sự hợp nhất, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp theo phe nhóm, hành sự có hình thức bên ngoài đúng Pháp có sự hợp nhất (Đại Phẩm – Mahāvagga, chương IX, [178]). [72] Là loại tội pārājika. [73] Mười tám cách tuyên bố sai trái phân theo tám trường hợp tức là một trăm bốn mươi bốn (Tiểu Phẩm – Cullavagga, chương VII, [411]). [74] Xem chương XIII, đoạn [1095] ở trên. [75] Con số tám điều pārājika và các số liệu ở bên dưới được cộng lại từ hai giới bổn của tỳ khưu và tỳ khưu ni. -ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục |
01a |
01b |
01c |
01d |
02a |
02b |
03 |
04 |
05 | |
Chân thành cám ơn Tỳ khưu
Indacanda Nguyệt Thiên đã gửi tặng bản vi tính
(Bình Anson, 05-2005)
[Trở về
trang Thư Mục]
last updated: 06-06-2005