VIII. SƯU TẬP CÁC BÀI 
          KỆ
          [1016]
          Sao 
          ngươi đến nơi đây
          y đắp một bên vai,
          tay chắp lại đưa lên,
          tỏ vẻ đang mong mỏi?
          Các 
          điều đã quy định
          ở trong hai bộ Luật
          được đưa ra đọc tụng
          trong các lễ Bố Tát,
          bao nhiêu điều học ấy 
          đã được quy định ra? 
          ở bao nhiêu thành phố?
          – Ngươi có câu hỏi hay,
          ngươi đã hỏi chí lý,
          quả vậy, ta sẽ giảng
          cho ngươi được tận tường.
          Các 
          điều đã quy định
          ở trong hai bộ Luật
          được đưa ra đọc tụng
          trong các lễ Bố Tát,
          chúng đã được quy định 
          ba trăm năm mươi điều
          ở trong bảy thành phố.
          [1017]
          Các 
          điều đã quy định
          ở bảy thành phố nào?
          Xin Ngài hãy nói ra
          cho con biết việc ấy.
          Sau khi đã lắng nghe
          lời Ngài sẽ trình bày,
          chúng con sẽ thực hành 
          vì lợi ích chúng con.
          - Các điều đã quy định
          ở thành Vesālī,
          thành Rājagaha,
          rồi thành Sāvatthi,
          và thành Āḷavī,
          ở thành Kosambī,
          trong xứ sở Sakka, 
          và ở Bhagga nữa.
          [1018] 
          Bao 
          nhiêu điều quy định
          ở thành Vesālī?
          Bao nhiêu đã thực hiện
          ở Rājagaha?
          Sāvatthi bao nhiêu?
          Bao nhiêu đã thực hiện
          ở thành Āḷavī? 
          Bao nhiêu điều quy định
          ở thành Kosambī?
          Bao nhiêu được đề cập
          ở trong xứ Sakka?
          Bao nhiêu điều quy định
          ở trong xứ Bhagga?
          Điều đã được con hỏi,
          xin Ngài nói điều ấy.
          - Mười điều đã quy định
          ở thành Vesālī.
          Hai mươi mốt đã làm
          ở Rājagaha.
          Hai trăm chín mươi bốn
          tất cả được thực hiện
          ở thành Sāvatthi.
          Sáu điều được quy định 
          ở thành Āḷavī. 
          Tám điều đã quy định
          ở thành Kosambī.
          Tám điều được đề cập
          ở trong xứ Sakka.
          Ba điều được quy định
          ở trong xứ Bhagga.
          Các điều được quy định
          ở thành Vesālī,
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Chuyện đôi lứa, mạng người,
          pháp thượng nhân, phụ trội,
          và màu đen, thực chứng,
          bữa ăn được thỉnh sau,
          tăm xỉa răng và nước,
          đạo sĩ phái lõa thể,
          nguyền rủa giữa các ni,
          mười điều ấy đã làm
          ở thành Vesālī.
          Các điều được quy định
          ở Rājagaha,
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Ở Rājagaha,
          lấy vật không được cho,
          và hai chuyện bôi nhọ,
          cả hai việc chia rẽ,
          y nội, và vàng bạc,
          chỉ sợi, vị phàn nàn,
          đồ khất thực môi giới,
          vật thực dâng chung nhóm,
          sái giờ, đi thăm viếng,
          việc tắm, thiếu hai mươi,
          sau khi đã cho y,
          hướng dẫn sự phục vụ,
          các điều ấy đã làm
          ở Rājagaha.
          Cũng chính ở nơi ấy,
          trên đỉnh núi, du hành,
          với sự ban thỏa thuận,
          (tất cả) hai mươi mốt.
          Các điều được quy định
          ở thành Sāvatthi,
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Bốn pārājika,
          tăng tàng là mười sáu,
          điều bất định có hai,
          hai mươi bốn ưng xả,
          một trăm năm mươi sáu
          điều nhỏ nhặt được nói,
          mười tội đáng chê trách,
          bảy mươi hai học pháp,
          tất cả đã thực hiện
          ở thành Sāvatthi
          là hai trăm chín bốn. 
          [1]
          Các điều được quy định
          ở thành Āḷavī,
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Cốc liêu, sợi tơ tằm,
          chỗ nằm, trong việc đào,
          “Thiên nhân, hãy đi đi,”
          tưới nước có sinh vật,
          sáu điều ấy đã làm
          ở thành Āḷavī.
          Các điều được quy định
          ở thành Kosambī,
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Trú xá lớn, khó dạy,
          (tránh né bằng) điều khác, 
          cánh cửa lớn, men say, 
          không tôn trọng, theo Pháp, 
          uống sữa là thứ tám.
          Các điều được quy định
          ở trong xứ Sakka,
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Lông cừu, và bình bát,
          giáo giới, và dược phẩm,
          kim, và ở trong rừng,
          sáu điều ấy ở thành
          Kapilavatthu.
          Nước để làm sạch sẽ,
          giáo giới được nói lên
          ở các tỳ khưu ni.
          Các điều được quy định
          ở trong xứ Bhagga,
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Đã đốt lửa sưởi ấm,
          dính thức ăn, cơm cặn.
          Bốn pārājika,
          tăng tàng là có bảy,
          tám nissaggiya,
          và các điều nhỏ nhặt
          (gồm có) ba mươi hai,
          hai điều đáng chê trách,
          ba điều ưng học pháp,
          như vậy năm mươi sáu
          được quy định bởi Phật
          là thân quyến mặt trời
          ở trong sáu thành phố. 
          Hai trăm chín mươi bốn
          tất cả được thực hiện
          ở thành Sāvatthi
          bởi Cồ Đàm danh tiếng.
          [1019] 
          Điều 
          gì chúng tôi hỏi
          ngài đều đã trả lời
          điều ấy được rõ ràng
          không có chút sai khác.
          Con hỏi đến điều khác,
          vậy xin ngài hãy nói:
          Tội nặng và tội nhẹ,
          dư sót, không dư sót,
          xấu xa, không xấu xa,
          và đến lần thứ ba,
          quy định chung và riêng,
          và các sự hư hỏng
          được làm cho lắng dịu
          với những dàn xếp nào?
          Xin Ngài hãy nói rõ
          tất cả các điều này
          chúng con đang lắng nghe
          lời dạy của Ngài đây.
          - Những điều nào là nặng
          gồm có ba mươi mốt,
          ở đây có tám điều
          là không còn dư sót,
          những tội nào là nặng 
          những tội ấy xấu xa,
          những tội nào xấu xa
          là hư hỏng về giới.
          Tội pārājika,
          saṅghādisesa
          được đề cập đến là:
          “Sự hư hỏng về giới.”
          Tội thullaccaya,
          và pācittiya,
          tội về ưng phát lộ,
          tác ác, và ác khẩu,
          và tội vị nguyền rủa,
          có ý định đùa giỡn,
          điều ấy được xác định:
          “Hư hỏng về hạnh kiểm.”
          [1020] 
          Tuệ 
          kém, si che phủ,
          chúng theo tri kiến nghịch
          tôn vinh phi chánh Pháp
          chê bai bậc Toàn Giác,
          điều ấy được xác định:
          “Hư hỏng về tri kiến.”
          [1021] Vì lý do nuôi mạng, vì nguyên nhân nuôi 
          mạng, vị có ước muốn xấu xa, bị thúc giục bởi ước muốn, rồi khoác lác 
          về pháp thượng nhân không có không thực chứng. Vì lý do nuôi mạng, vì 
          nguyên nhân nuôi mạng, vị thực hành việc mai mối. Vì lý do nuôi mạng, 
          vì nguyên nhân nuôi mạng, vị nói rằng: “Vị (tỳ khưu) nào sống trong 
          trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy là bậc A-la-hán.” Vì lý do nuôi 
          mạng, vì nguyên nhân nuôi mạng, vị tỳ khưu yêu cầu vật thực thượng 
          hạng vì lợi ích của bản thân rồi thọ thực. Vì lý do nuôi mạng, vì 
          nguyên nhân nuôi mạng, vị tỳ khưu ni yêu cầu vật thực thượng hạng vì 
          lợi ích của bản thân rồi thọ thực. Vì lý do nuôi mạng, vì nguyên nhân 
          nuôi mạng, vị không bị bệnh yêu cầu xúp hoặc cơm vì lợi ích của bản 
          thân rồi thọ thực. 
          Điều 
          ấy được xác định:
          “Hư hỏng về nuôi mạng.”
          [1022] 
          Mười 
          một điều (nhắc nhở)
          cho đến lần thứ ba,
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Xu hướng kẻ án treo,
          tám điều đến lần ba,
          (tỳ khưu) Ariṭṭha,
          ni Caṇḍakālī;
          đây là những điều ấy
          cho đến lần thứ ba.
          [1023] Bao nhiêu điều nên được cắt bớt? Bao nhiêu 
          điều nên được đập vỡ? Bao nhiêu điều nên được móc ra? Bao nhiêu điều
          pācittiya “(chỉ nguyên nhân ấy) không điều nào khác”? 
          Bao nhiêu sự đồng ý của các tỳ khưu? Bao nhiêu “sự đúng đắn (trong 
          trường hợp ấy)”? Bao nhiêu điều “tối đa”?
          Bao 
          nhiêu điều “dầu biết”
          được quy định bởi Phật
          là thân quyến mặt trời?
          Sáu điều nên được cắt bớt. Một điều nên được đập 
          vỡ. Một điều nên được móc ra. Bốn điều pācittiya “(chỉ 
          nguyên nhân ấy) không điều nào khác.” Bốn sự đồng ý của các tỳ 
          khưu. Bảy “sự đúng đắn (trong trường hợp ấy).” Mười bốn điều “tối 
          đa.”
          Mười 
          sáu điều “dầu biết”
          được quy định bởi Phật
          là thân quyến mặt trời.
          [1024] Hai trăm hai mươi điều học của các tỳ khưu 
          được đưa ra đọc tụng trong các lễ Uposatha, ba trăm lẻ bốn điều 
          học của các tỳ khưu ni được đưa ra đọc tụng trong các lễ Uposatha.
          Của 
          các vị tỳ khưu 
          bốn mươi sáu điều học
          không được quy định chung
          với các tỳ khưu ni.
          Của các tỳ khưu ni
          một trăm ba mươi điều
          không được quy định chung
          với các vị tỳ khưu.
          Một trăm bảy mươi sáu
          không chung cho cả hai,
          một trăm bảy mươi bốn
          cả hai đều thực hành.
          [1025] 
          Hai 
          trăm hai mươi điều
          của các vị tỳ khưu
          được đưa ra đọc tụng
          trong các lễ Bố Tát,
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Bốn pārājika,
          tăng tàng là mười ba,
          điều bất định có hai,
          đúng ba mươi ưng xả,
          chín hai điều nhỏ nhặt 
          bốn điều ưng phát lộ,
          bảy mươi hai ưng học.
          Hai trăm hai mươi điều học này của các tỳ khưu 
          được đưa ra đọc tụng trong các lễ Uposatha.
          [1026] 
          Ba 
          trăm lẻ bốn điều
          của các tỳ khưu ni
          được đưa ra đọc tụng
          trong các lễ Bố Tát
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Tám pārājika,
          tăng tàng là mười bảy,
          đúng ba mươi ưng xả,
          một trăm sáu mươi sáu
          gọi là điều nhỏ nhặt 
          tám điều ưng phát lộ,
          bảy mươi hai ưng học.
          Ba trăm lẻ bốn điều học này của các tỳ khưu ni 
          được đưa ra đọc tụng trong các lễ Uposatha.
          [1027] 
          Của 
          các vị tỳ khưu 
          bốn mươi sáu điều học
          không được quy định chung
          với các tỳ khưu ni,
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Sáu điều tội tăng tàng,
          hai bất định là tám,
          thêm mười hai ưng xả
          chúng thành hai mươi điều.
          Hai mươi hai điều nhỏ
          và bốn ưng phát lộ
          chúng thành bốn mươi sáu
          của các vị tỳ khưu 
          không được quy định chung
          với các tỳ khưu ni.
          [1028] 
          Của 
          các tỳ khưu ni
          một trăm ba mươi điều
          không được quy định chung
          với các vị tỳ khưu,
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Bốn pārājika,
          mười điều lìa hội chúng,
          mười hai điều ưng xả
          chín mươi sáu điều nhỏ
          và tám ưng phát lộ
          chúng thành trăm ba mươi
          của các tỳ khưu ni
          không được quy định chung
          với các vị tỳ khưu.
          [1029]
          Một 
          trăm bảy mươi sáu
          không chung cho cả hai,
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Bốn pārājika,
          tăng tàng là mười sáu,
          bất định là hai điều, 
          ưng xả hai mươi bốn,
          đúng một trăm mười tám
          gọi là điều nhỏ nhặt,
          mười hai ưng phát lộ,
          các điều này chính là
          một trăm bảy mươi sáu
          không chung cho cả hai.
          [1030]
          Một 
          trăm bảy mươi bốn
          cả hai đều thực hành,
          lắng nghe các điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Bốn pārājika,
          tăng tàng là bảy điều,
          điều ưng xả mười tám,
          bảy mươi giống như nhau 
          gọi là điều nhỏ nhặt,
          bảy mươi lăm ưng học,
          các điều này chính là
          một trăm bảy mươi bốn
          cả hai đều thực hành.
          [1031] 
          Tội 
          pārājika
          đúng tám (điều học) ấy
          điều vi phạm xấu xa
          như gốc cây thốt nốt,
          như chiếc lá úa vàng,
          như tảng đá bằng phẳng,
          như người đàn ông ấy 
          đầu đã bị chặt lìa
          như thốt nốt cụt ngọn
          chúng không còn phát triển.
          [1032]
          Hai 
          mươi ba tăng tàng,
          hai aniyata,
          bốn mươi hai ưng xả,
          một trăm tám mươi tám
          điều pācittiya,
          mười hai ưng phát lộ,
          bảy mươi lăm học pháp,
          chúng được làm lắng dịu
          bởi ba cách dàn xếp:
          do chính sự hiện diện,
          theo như đã thừa nhận,
          và dùng cỏ che lấp.
          [1033] 
          Bậc 
          Chiến Thắng đã giảng:
          hai Uposatha,
          hai Pavāraṇā,
          về bốn sự tranh tụng,
          đúng năm cách tụng đọc,
          bốn cách cũng không khác,
          và nhóm tội là bảy.
          [1034]
          Có 
          bốn sự tranh tụng
          chúng được làm lắng dịu
          bởi bảy cách dàn xếp:
          bởi hai, bốn, và ba,
          phận sự yên do một.
          [1035] 
          Điều 
          đã được gọi là
          “tội pārājika,”
          hãy lắng nghe điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Đã chết, bị thua trận,
          đã té, bị khước từ
          bởi các việc Chánh Pháp,
          ngay cả đồng cộng trú
          vị ấy cũng không còn,
          vì thế, được nói vậy.
          [1036]
          Điều 
          đã được gọi là
          “saṅghādisesa,”
          hãy lắng nghe điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Chính hội chúng ban cho
          việc parivāsa,
          trở lại từ ban đầu,
          ban cho mānatta,
          và giải cho khỏi tội,
          vì thế, được nói vậy.
          [1037]
          Điều 
          đã được gọi là
          “tội aniyata,”
          hãy lắng nghe điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Bất định không chắc chắn,
          điều học không quyết định,
          vị trí một trong ba
          nên gọi là “bất định.”
          [1038]
          Điều 
          đã được gọi là
          “tội thullaccaya,”
          hãy lắng nghe điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Vị nào khai trình tội
          ở chân của vị khác,
          và vị ghi nhận tội
          sự vi phạm không còn
          gây hại cho vị ấy,
          vì thế, được nói vậy.
          [1039]
          Điều 
          đã được gọi là
          “tội nissaggiya,”
          hãy lắng nghe điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Ở nơi giữa hội chúng,
          (hoặc là) ở giữa nhóm, 
          đến chỉ mỗi một vị,
          sau khi đã xả bỏ,
          rồi sám hối tội ấy,
          vì thế, được nói vậy.
          [1040]
          Điều 
          đã được gọi là
          “tội pācittiya,”
          hãy lắng nghe điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Vị đánh rơi thiện pháp
          đối nghịch lại Thánh đạo,
          do tâm bị mê mờ,
          vì thế, được nói vậy.
          [1041]
          Điều 
          đã được gọi là
          “tội tên ưng phát lộ,”
          hãy lắng nghe điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Vị tỳ khưu hiện diện
          không phải là thân quyến,
          sau khi đã tự mình 
          nhận lãnh rồi thọ thực
          vật thực của vị ni
          khó nhọc mới thành đạt, 
          được gọi “đáng chê trách.”
          Giữa những vị được mời,
          trong lúc đang thọ thực,
          nơi ấy tỳ khưu ni
          hướng dẫn theo ý thích,
          sau khi chẳng đuổi đi
          vị thọ thực nơi ấy
          được gọi “đáng chê trách.”
          Vị đi đến gia đình
          có tâm được tín thành
          nghèo nàn ít của cải,
          không bệnh ăn nơi ấy
          được gọi “đáng chê trách.”
          Nếu sống ở trong rừng,
          kinh hoàng có nguy hiểm
          không báo, ăn nơi ấy
          được gọi “đáng chê trách.”
          Tỳ khưu ni hiện diện
          không phải là thân quyến,
          vật được người khác thích:
          là bơ lỏng, dầu ăn,
          mật ong, đường mía, cá 
          thịt, sữa tươi, sữa đông
          yêu cầu cho bản thân,
          vị tỳ khưu ni ấy
          phạm tội đáng chê trách
          trong giáo pháp Thiện Thệ.
          [1042]
          Điều 
          đã được gọi là
          “tội tên dukkaṭa,”
          hãy lắng nghe điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Điều gọi là tác ác 
          là đã bị thua trận, 
          bị thất bại, té ngã; 
          người làm điều ác ấy
          công khai hoặc kín đáo,
          chúng gọi: “dukkaṭa,”
          vì thế, được nói vậy.
          [1043]
          Điều 
          đã được gọi là
          “tội dubbhāsita,”
          hãy lắng nghe điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Câu nói là ác khẩu
          được nói lên sái quấy 
          hoàn toàn bị ô nhiễm, 
          và các bậc tri thức
          chê trách về điều ấy
          vì thế, được nói vậy.
          [1044]
          Điều 
          đã được gọi là
          “tội tên sekhiya,”
          hãy lắng nghe điều ấy
          theo như lời giảng giải:
          Và sự thực hành này
          là trước tiên, đứng đầu,
          kiểm soát, và thu thúc
          của các vị đang tiến
          theo con đường thẳng tắp,
          của vị đang học tập
          là đang còn rèn luyện.
          Không thể nào có được
          sự học tập như vầy,
          vì thế, được nói vậy.
          Nước mưa bị văng lại 
          ở vật đã che đậy.
          Nước mưa không văng lại 
          ở vật được mở ra.
          Do đó, hãy mở ra 
          vật đã được che đậy,
          như vậy, ở vật ấy
          nước mưa không văng lại.
          Núi rừng là chỗ nương 
          của các loài thú vật,
          không gian là chỗ nương 
          của các loài có cánh,
          biến hoại là chỗ nương 
          của các pháp (hữu vi),
          Niết Bàn là chỗ nương 
          của bậc A-la-hán.
          Dứt 
          Sưu Tập Các Bài Kệ.
          
          Tóm lược chương này:
          [1045]
          Ở 
          trong bảy thành phố, 
          các điều được quy định
          và bốn sự hư hỏng,
          quy định chung hoặc riêng
          của các vị tỳ khưu
          và các tỳ khưu ni
          nhằm nâng đỡ giáo pháp,
          chương này (có tên gọi) 
          Sưu Tập Các Bài Kệ.
          
          *******
      
        
        
          
          
          [1] 
          Tổng cộng lại các giới đã được trình bày ở trên chỉ có 284 (?).