III. TÓM LƯỢC VỀ NGUỒN 
          SANH TỘI:
          [826] 
          Các 
          hành được tạo hợp
          vô thường, khổ, vô ngã,
          chắc chắn chỉ Niết Bàn 
          được gọi là “vô ngã.”
          Đức Phật ví mặt trăng
          vào thời chưa xuất hiện,
          đức Phật tợ mặt trời
          vào lúc chưa mọc lên,
          không ai biết danh tánh
          ba Pháp Tướng chung ấy.
          Đã làm nhiều khổ hạnh
          đủ đầy ba-la-mật,
          các Đại Hùng xuất hiện 
          cùng các vị Phạm Thiên
          Pháp nhãn đã thực chứng,
          các vị giảng Chánh Pháp
          đoạn khổ thành tựu lạc.
          Phật Thích Ca Mâu Ni
          hiệu Aṅgīrasa
          thương tất cả chúng sanh
          là sư tử chúa rừng
          vượt hơn hẳn các loài
          đã thuyết giảng Tam Tạng:
          Kinh và Vi Diệu Pháp,
          Luật có tầm quan trọng.
          Chánh Pháp được như vầy
          nếu Luật còn tồn tại,
          bộ Phân Tích hai chúng,
          Hợp Phần (Đại Tiểu Phẩm), 
          (thêm nữa) các tiêu đề
          là vòng hoa được kết
          nhờ vào chính sợi chỉ
          tức là bộ Tập Yếu.
          Về bộ Tập Yếu ấy,
          nguồn gốc được xác định,
          phần phân tích, duyên khởi,
          được trình bày lối khác
          trong giới bổn ở trên;
          bởi thế, vị mến Pháp
          thuần thiện nên học tập 
          về bộ Tập Yếu này.
          Vào ngày lễ Bố Tát,
          các vị tụng điều giới
          trong hai bổn Phân Tích,
          còn tôi sẽ nói lên
          về nguồn gốc sanh tội,
          xin hãy lắng nghe tôi:
          Điều pārājika
          ấy là phần thứ nhất,
          kế phần khác điều hai,
          làm mai mối, nhắc nhở,
          và phần y phụ trội,
          lông cừu, Pháp từng câu,
          thực chứng, và hẹn trước,
          đạo tặc, và thuyết giảng,
          nữ đạo tặc, không phép,
          (tổng cộng) là mười ba. 
          [1]
          Các bậc trí nghĩ về
          phương thức nguồn sanh tội
          gồm mười ba điều ấy,                  
          
          ở đây được trình bày 
          tính theo nguồn sanh tội
          tương tợ mỗi một phần.
          *******
          [827] 
          Việc 
          đôi lứa, xuất tinh,
          việc xúc chạm thân thể,
          điều bất định thứ nhất,
          (tỳ khưu) đến ngụ trước, 
          (vật thực ni) môi giới,
          cùng vị ni chỗ kín,[2]
          (gia đình) hai vợ chồng,
          hai điều chỗ kín đáo,[3]
          ngón tay,[4] 
          giỡn trong nước,
          cú đánh, và giơ tay,
          năm mươi ba học pháp,
          dưới xương đòn (ở cổ),[5]
          vào làng (chỉ một mình), 
          từ người nam nhiễm dục,[6]
          lòng bàn tay, gậy ngắn,
          làm sạch sẽ (bằng nước),
          trải qua mùa trú mưa
          (không ra đi du hành),
          (không đi) việc giáo giới,
          không hầu cận sư thầy.
          Bảy mươi sáu điều này
          làm do thân và ý,
          tất cả các điều ấy
          có một nguồn sanh tội
          giống như Điều Thứ Nhất
          của Pārājika.
          Dứt 
          Nguồn Sanh Tội của điều Pārājika Thứ Nhất.
          [828] 
          Vật 
          chưa cho, giết người,
          thượng nhân, nói dâm dục,
          tình dục cho bản thân,
          (cáo tội) không nguyên cớ,
          có quan hệ khác biệt,
          điều bất định thứ nhì,
          giật lại (y đã cho),
          thuyết phục dâng (bản thân),
          nói dối, lời mắng nhiếc,
          đâm thọc, nói tội xấu,
          đào đất, (hại) thảo mộc,
          nói tránh né, phàn nàn,
          lôi kéo ra,[7] 
          tưới nước,
          (giáo giới) vì lợi lộc,
          (mời) vị đã ăn xong,
          gọi đi (rồi xua đuổi),[8]
          xem thường, gây sợ hãi,
          thu giấu, (hại) mạng sống,
          biết nước có sinh vật,
          hành sự (cũ khơi lại),
          chưa đủ (hai mươi tuổi),
          cộng trú (vị án treo),
          (sa di) bị trục xuất,
          theo Pháp,[9] 
          chê bai (Luật),
          (vị giả vờ) ngu dốt,
          (bôi nhọ) không nguyên cớ,[10]
          (gây nên) nỗi nghi hoặc,
          (chê hành sự) đúng Pháp,
          cho (y rồi phê phán),[11]
          thuyết phục dâng cá nhân,
          làm gì được (ni sư),
          ngoại thời (thành trong thời),
          (đổi y rồi) giật lại,
          (than phiền) vì hiểu sai, 
          (nguyền rủa về) địa ngục,
          (cản trở y) của nhóm,
          (ngăn cản) việc phân chia,
          (mong mỏi) không chắc chắn,
          (thâu hồi) Kaṭhina,
          (vị cố ý) quấy rầy,
          (lôi ra khỏi) ni viện,
          mắng nhiếc (vị tỳ khưu),
          bị kích động (chửi rủa),
          bỏn xẻn,[12] 
          người sản phụ,
          và vị còn cho bú,
          (chưa thực hành) hai năm
          học tập cùng hội chúng,[13]
          ba điều nữ kết hôn,
          và thiếu nữ ba điều,
          chưa đủ mười hai năm,
          chưa được sự chấp thuận,
          chưa phải lúc (tiếp độ),
          (nhẫn tâm) gây sầu khổ,
          thỏa thuận (nhóm cách ly)
          và hai vị một năm.
          Bảy mươi điều học này
          thực hiện do ba nguồn:
          thân và ý, không khẩu,
          khẩu và ý, không thân,
          được sanh từ ba cửa,
          giống như Điều Thứ Nhì
          của Pārājika.
          Dứt 
          Nguồn Sanh Tội của điều Pārājika Thứ Nhì.
          [829] 
          Mai 
          mối, (làm) cốc liêu,
          trú xá, và giặt y,
          nhận lãnh (y của ni),
          thọ nhận quá yêu cầu,
          của hai điều (căn dặn),
          và bởi người sứ giả,
          tơ tằm, thuần (màu đen),
          có hai phần, sáu năm,
          tọa cụ, họ xao lãng,[14]
          và thọ nhận vàng bạc,
          hai điều về trao đổi
          được tiến hành nhiều cách,
          bình bát chưa năm mảnh,
          choàng tắm mưa, chỉ sợi,
          dặn dò (việc dệt y),
          (cho đến) khung cửa lớn,[15]
          cho y, và may y,
          bánh ngọt (đầy ba bát),
          nhân duyên (trong bốn tháng),
          (và đốt lên) ngọn lửa,
          vật quý, ống đựng kim,
          giường nằm, độn bông gòn,
          tọa cụ, y đắp ghẻ,
          và vải choàng tắm mưa,
          (kích thước) đức Thiện Thệ,
          yêu cầu, sắm vật khác,
          hai thuộc về hội chúng,
          hai thuộc về của nhóm,
          cá nhân, choàng nhẹ, dày,
          hai điều đổ đồ thừa,
          (kích thước) choàng tắm ni,
          và với y sa-môn.[16]
          Cả năm mươi pháp này
          sanh lên từ sáu chỗ:
          do thân, không khẩu ý,
          do khẩu, không thân ý,
          thân và khẩu, không ý,
          thân và ý, không khẩu,
          khẩu và ý, không thân,
          được sanh từ ba chỗ,
          sáu nguồn sanh tội này
          giống như điều Mai Mối.
          Dứt 
          Nguồn Sanh Tội của điều Làm Mai Mối.
          [830] 
          Chia 
          rẽ, xu hướng theo,
          khó dạy, làm hư hỏng,
          tội xấu,[17] 
          tà kiến ác,
          (không trao) sự tùy thuận,[18]
          
          hai điều cười lớn tiếng,
          hai điều về tiếng động,
          (miệng có cơm) không nói,
          ngồi đất, chỗ thấp, đứng,
          đi sau, một bên (đường),[19]
          (vị ni) che giấu tội,
          xu hướng theo, nắm lấy,[20]
          phục hồi, nói lìa bỏ,[21]
          (trong tranh tụng) nào đó,[22]
          hai điều sống thân cận,
          tự đánh đấm (khóc lóc),
          tháo y, đệ tử bệnh,
          lại điều sống thân cận,[23]
          không dàn xếp, tu viện,[24]
          không hành lễ Tự Tứ,
          mỗi nửa tháng (không hỏi),
          (không dạy) đệ tử ni,
          hai điều (về tiếp độ)
          (nếu dâng) y, hầu hạ.
          Ba mươi bảy pháp này
          do thân, khẩu, và ý,
          tất cả có một nguồn 
          giống điều Nói Nhắc Nhở.
          Dứt 
          Nguồn Sanh Tội của điều Nói Nhắc Nhở.
          [831] 
          
          Kaṭhina ba điều 
          khi không còn hiệu lực,
          bình bát điều thứ nhất,
          dược phẩm, y đặc biệt,
          (trong rừng) có nguy hiểm,
          hai điều vị ra đi,[25]
          (giáo giới) ở ni viện,
          (vật thực) được thỉnh sau,
          không phải vật thực thừa,
          được thỉnh mời (bữa ăn),
          chú nguyện để dùng chung,
          (hậu cung) của đức vua,
          (vào làng) lúc sái thời,
          hướng dẫn sự phục vụ,
          (thọ lãnh) ở trong rừng,
          tranh chấp,[26] 
          và tích trữ,
          trước, sau, lúc sái thời,
          năm ngày, y căn bản,
          hai điều (không nguyện xả)
          y nội trợ, chỗ ngụ,
          (nặn mụt) phần dưới thân,
          và ngồi (trước tỳ khưu).
          Hai mươi chín điều này
          tất cả từ hai nguồn:
          thân và khẩu, không ý,
          (hoặc) sanh từ ba cửa,
          giống điều Kaṭhina.
          Dứt 
          Nguồn Sanh Tội của điều Kaṭhina.
          [832] 
          Việc 
          (mang vác) lông cừu,
          hai điều về nằm chung,
          chân giường tháo rời được,
          bữa ăn ở phước xá,
          (vật thực) dâng chung nhóm,
          lúc sái thời, tích trữ,
          nước và tăm xỉa răng,
          các đạo sĩ lõa thể,
          động binh, ngụ binh đội,
          nơi tập trận, (uống) rượu,
          chưa đủ (nửa tháng) tắm,
          hoại sắc, hai Phát Lộ,
          tỏi, đứng gần (phục vụ),
          (xem) vũ, tắm (lõa thể),
          nằm chung tấm trải, giường,
          trong, và ngoài quốc độ, 
          (du hành) trong mùa mưa,
          nhà triển lãm tranh vẽ,
          ghế cao, xe chỉ sợi,
          phục vụ (người tại gia),
          tự tay (cho vật thực),
          chỗ ngụ không tỳ khưu,
          dù, xe, và (mặc) váy,
          đồ trang sức, vật thơm,
          tẩm hương, tỳ khưu ni,
          cô ni tu tập sự,
          và vị sa di ni,
          nữ tại gia (xoa bóp),
          tội không mặc áo lót.
          Bốn mươi thêm bốn điều
          tất cả từ hai nguồn:
          do thân, không khẩu ý,
          thân và ý, không khẩu,
          giống như điều Lông Cừu.
          Dứt 
          Nguồn Sanh Tội của điều Lông Cừu.
          [833] 
          (Dạy 
          đọc Pháp) từng câu,
          ngoại trừ (có người nam),
          (giáo giới) chưa chỉ định,
          cũng thế khi trời lặn,
          về kiến thức nhảm nhí
          (học và dạy) hai điều,
          và hỏi chưa thỉnh ý.
          Bảy điều học tập này
          tất cả từ hai nguồn:
          do khẩu, không thân ý,
          sanh lên bởi khẩu ý
          nhưng không sanh do thân,
          như Pháp Theo Từng Câu.
          Dứt 
          Nguồn Sanh Tội của điều Pháp Theo Từng Câu.
          [834] 
          Đi 
          đường xa, chung thuyền,
          (vật thực) loại thượng hạng,
          (đi chung) với người nữ,
          cạo lông (ở chỗ kín),
          lúa nguyên hạt, được thỉnh,
          và tám ưng phát lộ.
          Mười lăm điều học này
          có bốn nguồn sanh tội:
          do thân không khẩu ý,
          sanh lên do thân khẩu
          chúng không sanh do ý,
          sanh lên do thân ý
          chúng không sanh do khẩu,
          do thân khẩu và ý,
          trí đức Phật quy định,
          như cách thức Đường Xa.
          Dứt 
          Nguồn Sanh Tội của điều Đường Xa.
          [835] 
          Đám 
          đạo tặc, lắng nghe,
          yêu cầu súp và cơm,
          bóng đêm, chỗ che khuất,
          khoảng trống, với giao lộ.
          Tất cả bảy điều này
          có hai nguồn sanh tội:
          sanh lên do thân ý
          chúng không sanh do khẩu,
          sanh lên do ba cửa,
          vị thân quyến mặt trời
          đã giảng nguồn sanh tội
          như điều Đám Đạo Tặc.
          Dứt 
          Nguồn Sanh Tội của điều Đám Người Đạo Tặc.
          [836] 
          Các 
          đấng là Như Lai
          không thuyết giảng Chánh Pháp
          đến kẻ tay cầm dù,
          cũng vậy tay cầm gậy,
          tay cầm dao, vũ khí,
          (mang) giày dép, trên xe,
          nằm, và ngồi ôm gối,
          đội khăn, và trùm đầu.
          Mười một điều chẳng thiếu
          tất cả từ một nguồn:
          sanh lên do khẩu ý
          chúng không sanh từ thân
          như điều Thuyết Giảng Pháp.
          Dứt 
          Nguồn Sanh Tội của điều Thuyết Giảng Pháp.
          [837] 
          
          (Pháp thượng nhân) thực chứng
          được sanh lên do thân
          không do khẩu và ý,
          và sanh lên do khẩu
          không do thân và ý,
          sanh lên do thân khẩu
          không sanh lên do ý.
          Tuyên bố sự Thực Chứng
          sanh lên từ ba nguồn.
          Dứt 
          Nguồn Sanh Tội của điều Thực Chứng.
          [838] 
          
          (Tiếp độ) nữ đạo tặc
          do khẩu và do ý                          
          
          và không sanh từ thân,
          được sanh từ ba cửa. 
          Điều tiếp độ nữ tặc
          bậc Pháp Vương xác định
          hai nguồn không tạo tác.
          Dứt 
          Nguồn Sanh Tội của điều Tiếp Độ Nữ Đạo Tặc.
          [839] 
          
          Người chưa được cho phép[27]
          có bốn cách không làm:
          (được sanh lên) do khẩu
          không do thân và ý,
          sanh lên do thân khẩu
          không sanh lên do ý,
          sanh lên do khẩu ý
          không sanh lên do thân,
          sanh lên từ ba chỗ.
          Dứt 
          Nguồn Sanh Tội của điều Chưa Được Phép.
          [840] 
          Tóm 
          lược nguồn sanh tội
          mười ba phần khéo giảng,
          làm, xác định không lầm
          phù hợp Pháp và Luật.
          Bậc trí nhớ điều này
          không lầm nguồn sanh tội.
          Dứt 
          phần tóm lược về Nguồn Sanh Tội.
          
          *******
      
        
        
          
          
          [1] 
          Do ba cửa thân khẩu ý có được sáu nguồn sanh tội. Các điều học có 
          nguồn sanh tội giống nhau đã được phân loại thành 13 nhóm và được 
          trình bày dưới đây. Chúng tôi đã thêm từ trong ngoặc đơn ở bài kệ để 
          dễ nhận ra điều học có liên quan và chỉ chú thích những điều học nào 
          xét thấy không được mô tả rõ ràng. Về việc này, ở bản chú giải ngài 
          Buddhaghosa có giải thích rõ hơn về các điều học và ở bản dịch tiếng 
          Anh cô I.B. Horner có ghi thêm tên điều học và số thứ tự .
 
        
          
          
          [2]
          Pācittiya 30 của tỳ khưu về việc cùng với tỳ khưu ni một với 
          một ngồi ở chỗ kín đáo.
 
        
          
          
          [3]
          Pācittiya 44 và 45 của tỳ khưu về việc cùng với người nữ ngồi ở 
          chỗ kín đáo được che khuất, hoặc một nam một nữ ngồi ở chỗ kín đáo.
 
        
          
          
          [4]
          Pācittiya 52 của tỳ khưu về việc dùng ngón tay thọc lét.
 
        
          
          
          [5]
          Pārājika 1 của tỳ khưu ni về việc xúc chạm với người nam.
 
        
          
          
          [6]
          Saṅghādisesa 5 của tỳ khưu ni về việc tự tay thọ nhận vật thực 
          từ tay người nam nhiễm dục vọng.
 
        
          
          
          [7]
          Pācittiya 17 của tỳ khưu về việc lôi kéo vị tỳ khưu ra khỏi trú 
          xá của hội chúng.
 
        
          
          
          [8]
          Pācittiya 42 của tỳ khưu về việc rủ vị tỳ khưu khác đi vào làng 
          khất thực rồi xua đuổi.
 
        
          
          
          [9]
          Pācittiya 71 của tỳ khưu về việc vị tỳ khưu khi được các tỳ 
          khưu nhắc nhở đúng theo Pháp vẫn không chịu nghe theo.
 
        
          
          
          [10]
          Pācittiya 76 của tỳ khưu về việc bôi nhọ với tội 
          saṅghādisesa không có nguyên cớ.
        
 
        
          
          
          [11]
          Pācittiya 81 của tỳ khưu về việc vị tỳ khưu thỏa thuận với hội 
          chúng cho y sau đó lại phê phán.
 
        
          
          
          [12]
          Pācittiya 55 của tỳ khưu ni về việc bỏn xẻn gia đình.
 
        
          
          
          [13]
          Pācittiya 64 của tỳ khưu ni về việc cô ni tu tập sự đã thực 
          hành điều học thuộc về sáu pháp trong hai năm (nhưng) chưa được hội 
          chúng chấp thuận.
        
 
        
          
          
          [14]
          Nissaggiya Pācittiya 17 của tỳ khưu về việc bảo tỳ khưu 
          ni không phải là thân quyến giặt lông cừu khiến các vi ni xao lãng 
          việc tu tập.
 
        
          
          
          [15]
          Pācittiya 19 của tỳ khưu về việc lợp mái của trú xá hai ba lớp, 
          v.v...
 
        
          
          
          [16]
          Pācittiya 28 của tỳ khưu ni về việc cho y của sa-môn đến người 
          nam tại gia, v.v...
        
 
        
          
          
          [17]
          Pācittiya 64 của tỳ khưu về việc che giấu tội xấu xa của vị tỳ 
          khưu khác.
 
        
          
          
          [18]
          Pācittiya 80 của tỳ khưu về việc không trao ra sự tùy thuận rồi 
          đứng dậy bỏ đi.
 
        
          
          
          [19] 
          Một số điều học thuộc các pháp sekhiya (ưng học pháp).
 
        
          
          
          [20]
          Pārājika 4 của tỳ khưu ni về việc thực hiện đầy đủ tám sự việc.
 
        
          
          
          [21]
          Saṅghādisesa 4 và 7 của tỳ khưu ni về việc phục hồi vị ni bị án 
          treo không xin phép và không quan tâm đến ước muốn của nhóm; điều kia 
          về việc vị tỳ khưu ni nổi giận, bất bình rồi nói lìa bỏ đức Phật, 
          .v.v...
 
        
          
          
          [22]
          Saṅghādisesa 8 của tỳ khưu ni về việc vị ni bị xử thua trong 
          một cuộc tranh tụng nào đó nên nói các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì 
          thương, vì ghét, v.v...
 
        
          
          
          [23]
          Pācittiya 36 của tỳ khưu ni về việc sống thân cận với nam gia 
          chủ hoặc với con trai gia chủ.
 
        
          
          
          [24]
          Pācittiya 51 của tỳ khưu ni về việc chưa báo trước mà đi vào tu 
          viện của tỳ khưu.
        
 
        
          
          
          [25]
          Pācittiya 14 và 15 của tỳ khưu về việc ra đi chưa thu dọn lại 
          giường ghế đã bày ra.
 
        
          
          
          [26]
          Saṅghādisesa 1 của tỳ khưu ni về việc tranh chấp và thưa kiện.
 
        
          
          
          [27]
          Pācittiya 80 của tỳ khưu ni về việc tiếp độ cô ni tu tập sự 
          không được cha mẹ và người chồng cho phép.