Quyển sách này tôi viết với hai mục đích chính:
Mục đích thứ nhất là muốn hệ thống hóa lại tư tưởng Tịnh Độ cho có lề lối và rõ ràng. Vì lâu nay những người tu và thực hành theo Tịnh Độ Tông tuy có thực hành đó, nhưng chưa rõ nguồn gốc, cũng như tôi mong mỏi những người Phật tử Việt Nam, đọc thêm cách hành trì về Tịnh Độ của các nước Phật Giáo khác và từ đó bổ sung thêm cách thực hành lâu nay của mình để được thành tựu hơn.
Mục đích thứ hai, tôi muốn giới thiệu tác phẩm này đến với những người Phật tử Đức, lâu nay vốn theo Phật giáo, nhưng không biết Phật Giáo Việt Nam một cách rõ ràng, nhất là pháp môn niệm Phật. Sau khi sách tiếng Việt được ấn tống xong, Thầy Hạnh Giới, Trụ trì Chùa Viên Giác Hannover, Đức quốc, sẽ dịch sách này ra tiếng Đức để quý Phật tử Đức có cơ hội nghiên cứu thêm.
Hai mục đích nêu trên rất rõ ràng, cho nên tôi mong mỏi quý độc giả trước tiên nên hiểu sơ qua về lịch sử Phật Giáo được truyền vào nước Việt Nam của chúng ta qua các nhà sử học, Phật học và qua kinh sách. Để từ đó chúng ta dễ nhận diện chỗ đứng của chúng ta vốn có tự ngàn xưa trong vấn đề vận hành bánh xe pháp ấy vào quê hương Đại Việt vậy.
Nguồn sử liệu thứ nhất khi tôi đọc được là quyển “Phật Giáo Việt Nam sử lược” của cố Hòa Thượng Thích Mật Thể. Quyển sách tuy khiêm tốn, nhưng cũng đã nói lên được những điều cần yếu cho người muốn tìm hiểu, học hỏi, có được sách vở để nghiên cứu. Quyển này Ngài cũng đã dựa vào quyển viết bằng tiếng Pháp của ông Trần Văn Giáp viết về “Lịch sử Việt Nam từ thời kỳ khởi nguyên cho đến thế kỷ 13”. Quyển sách đã chia rõ từng giai đoạn lịch sử và các triều đại trong suốt 1.300 năm ấy. Riêng cá nhân chúng tôi, chỉ muốn minh định về sự truyền vào và nhất là Tịnh Độ Tông mà thôi, chúng tôi không có tham vọng viết về lịch sử Phật Giáo Việt Nam, vì cho đến nay đã có bốn người viết rồi. Đó là ông Trần Văn Giáp, cố Hòa Thượng Thích Mật Thể, Nguyễn Lang tức Thiền Sư Thích Nhất Hạnh và Giáo Sư Tiến Sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát và ngoài ra ông Nguyễn Hiền Đức cũng đã có viết thêm về lịch sử Phật Giáo Việt Nam Đàng Trong nữa.
Cố Hòa Thượng Thích Mật Thể thì cho rằng: Đạo Phật dược du nhập vào Việt Nam chúng ta vào năm 198, nghĩa là cuối thế kỷ 2. Có các Ngài Khương Tăng Hội, Mâu Bác và Chi Cương Lương là những người đầu tiên hành đạo tại Giao Chỉ. Thuở ấy Việt Nam chúng ta bị Bắc Thuộc lần thứ 2, cho nên đa phần kinh điển hay cách tu đều rập khuôn theo Trung Quốc. Chỉ riêng Thiền Tông là có ghi chép sự truyền thừa rõ ràng từ Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi (? - 594) đến Giao Chỉ vào năm 580, nghĩa là cuối thế kỷ 6 và Ngài đã đến Trung Hoa gặp Tổ Tăng Xán (529 - 613) và Tổ bảo hãy xuôi Nam để truyền giáo. Do vậy Thiền Tông đã chính thức có mặt tại Việt Nam từ thuở ấy. Rồi Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Trúc Lâm Yên Tử, Lâm Tế, Tào Động v.v..., nhưng tuyệt nhiên không có đề cập đến ai là vị Tổ truyền Tịnh Độ Tông đến Việt Nam. Đây là một nghi vấn lớn, vì lẽ trong hiện tại những Phật tử Việt Nam tuy nói rằng thuộc Thiền Lâm Tế hay Tào Động, nhưng đa phần lại tu theo pháp môn Tịnh Độ, lý do vì sao thì chưa có ai trả lời thích đáng.
Vào giữa thập niên 80, 90 ở ngoại quốc chúng tôi đã đọc được bộ sách “Việt Nam Phật Giáo sử luận” gồm 3 tập của tác giả Nguyễn Lang tức là Thiền Sư Thích Nhất Hạnh. Đây là những tài liệu thật quý hiếm, vì ở ngoại quốc, nên Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh có nhiều cơ hội sưu tập tài liệu bằng chữ Hán và tiếng Pháp, tiếng Anh rất dễ dàng. Điều đặc biệt của sách này chứng minh rằng: Phật Giáo Việt Nam không phải được truyền vào trực tiếp từ Trung Hoa, mà trước khi Phật Giáo đến Trung Hoa, Phật Giáo đã có mặt tại Giao Châu rồi. Thay vì thế kỷ 2 thì Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh chứng minh là Phật Giáo từ Ấn Độ trực tiếp được truyền vào Giao Châu từ thế kỷ thứ nhất.
Ngài lý luận rằng: Những thương thuyền Ấn Độ ngày xưa trước khi sang buôn bán với người Trung Quốc tại kinh đô Bành Thành thì các tàu buôn phải ghé qua kinh đô Luy Lâu của Giao Chỉ trước. Khi đi họ có mang theo Tăng sĩ Ấn Độ để cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa và khi đến được đất Giao Châu họ phải ở lại đây mấy tháng chờ gió nồm mới có thể giăng buồm để tiếp tục sang Trung Quốc. Đây là thời gian để người Giao Chỉ làm quen với các nhà Sư và Phật Giáo lúc ban đầu.
Lý do khác mà nhà Sử học Nguyễn Lang đã đưa ra rằng: Ngày xưa đường bộ rất nguy hiểm, vì núi cao và thú dữ, cho nên những đoàn lái buôn không ai dám đi ngang qua rừng và sa mạc cả. Ngoài những sự hiểm trở của thiên nhiên ra còn có cả trộm cướp, lục lâm, thảo khấu nữa. Do vậy những người đi buôn giữa hai nước chẳng ai dại gì vừa bị mất mạng vừa tiêu tan tài sản nữa, nên họ đã chọn con đường biển.
Từ những lý do chính đáng trên, Thiền Sư Nhất Hạnh đã khẳng định rằng: Phật Giáo trước khi đến Trung Hoa đã có mặt tại Việt Nam rồi và điều chứng minh khác hơn cố Hòa Thượng Thích Mật Thể là không phải cuối thế kỷ 2, mà là thế kỷ nhất. Nhưng nếu đọc cho kỹ thì trong 3 quyển sử luận này cũng không chứng minh được về Tịnh Độ bắt nguồn phát xuất tại Giao Châu lúc nào và ai là vị Tổ Sư đầu tiên?
Khoảng giữa thập niên 90 có một tập sách đặc biệt về lịch sử Phật Giáo Việt Nam ra đời. Đó là “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tập I, II và III” do Giáo Sư Lê Mạnh Thát biên soạn. Đây là một tài liệu đáng tin cậy, vì lẽ Giáo Sư tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Hoa Kỳ và thông thạo nhiều ngôn ngữ cũng như có công tra cứu thật là tỉ mỉ, nhất là “Lục Độ Tập Kinh” có mặt trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Căn cứ vào bộ kinh cổ nhất của Giao Châu, Giáo Sư đã lập luận rằng: Phật Giáo Việt Nam đã được truyền vào thế kỷ nhất trước Tây lịch và 2 người Phật tử đầu tiên là Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung thuộc đời vua Hùng Vương thứ 18.
Điểm thứ hai đối với chúng tôi rất quan trọng. Đó là câu chuyện của Ngài Đàm Hoằng đã tu theo kinh Quán Vô Lượng Thọ và cuối đời tự thiêu ở núi Tiên Du Bắc Việt và mọi người trong thôn thấy toàn thân Ngài sáng chói và đi về hướng Tây. Dữ liệu này là một dữ liệu rất quan trọng để chúng ta có thể tìm ra manh mối của Tịnh Độ Tông bắt nguồn từ lúc nào.
Điều thứ ba mà Giáo Sư Lê Mạnh Thát muốn chứng minh cho chúng ta thấy là: Vua A Dục thuở ấy vào thế kỷ 3 trước Tây lịch có thể đã cho xây tháp tại xứ Giao Châu của chúng ta.
Nếu Phật Giáo Việt Nam được truyền qua ngả Ấn Độ từ thời vua Hùng Vương thứ 18, có nghĩa là trước cả Trung Hoa. Vì dưới thời vua Hán Minh Đế Phật Giáo mới được truyền vào Trung Hoa và vào năm 67, kinh Tứ Thập Nhị Chương mới được hai vị Sư Ấn Độ là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan dịch ra tiếng Trung Hoa tại kinh đô Lạc Dương. Điều này cũng có thể, vì ngày xưa nước Lâm Ấp có diện tích khá rộng, bao phủ cả nước Việt Nam, Thái Lan, Cao Miên và có biên giới giáp với Ấn Độ. Do vậy người Ấn Độ đến Lâm Ấp (tức Chiêm Thành cũ) dễ dàng hơn là đi qua Trung Hoa cả đường bộ lẫn đường thủy, cho nên Phật Giáo được truyền vào Giao Châu sớm hơn Trung Quốc vào thời vua Hùng Vương thứ 18 cũng là điều có thể tin được.
Từ điểm này liên hệ với điểm thứ ba như đã được trình bày ở trên là nước Lâm Ấp (Chiêm Thành cũ) đa phần theo Ấn Độ giáo vì dùng văn tự giống như chữ Phạn, mà ngày nay một số người Chiêm Thành còn sót lại tại Nha Trang, Phan Rang họ vẫn còn theo đạo này và dùng ngôn ngữ ấy. Từ đó chúng ta có thể tin được rằng một trong 84.000 ngọn tháp mà vua A Dục cho dựng lên vào thế kỷ 3 trước Tây lịch cũng có thể đã có mặt tại Lâm Ấp chăng?
Thế nhưng trong Đại Đường Tây Vức Ký, chúng tôi đã có cơ hội dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt cách đây mấy năm không thấy Ngài Huyền Trang đề cập đến có phù đồ (Stupa) nào được Vua A Dục cho dựng xây tại Lâm Ấp cả. Vì vào thời Ngài Huyền Trang ở thế kỷ 7, Lâm Ấp vẫn còn có mặt trên bản đồ thế giới, cho nên Ngài Phật Triệt mới có thể mời Thầy mình là người Ấn Độ là Ngài Bồ Đề Tiên Na đến Lâm Ấp dừng chân mấy năm trước khi qua Trung Quốc và sau đó sang Nhật Bản làm Khai nhãn Sư tượng Đại Phật chùa Đông Đại ở Nara vào năm 752.
Khi đọc đến câu chuyện của Ngài Đàm Hoằng tự thiêu, tôi lại liên tưởng đến Ngài Đàm Loan, Sơ Tổ Tịnh Độ Tông của Trung Hoa, chắc có cái gì đó liên hệ chăng? Do vậy mới tìm Phật Quang Đại Từ Điển của Hòa Thượng Thích Quảng Độ dịch tra cứu thì thấy như sau:
A. Ngài Đàm Hoằng và tư tưởng Tịnh Độ“Đàm Hoằng (? - 455)
Vị Tăng ở đời Lưu Tống thuộc Nam Triều, người Hoàng Long. Sư xuất gia từ nhỏ, chuyên tinh giới luật. Trong năm Vĩnh Sơ (420 - 422), Sư đến Quảng Đông, dừng chân ở Đài tự. Sau đó Sư đến chùa Tiên Sơn đất Giao Chỉ, thường tụng kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, phát nguyện vãng sanh Tây Phương. Năm Hiếu Kiến thứ 2 (455) Sư Vào núi tự thiêu rồi tịch. Mọi người trong thôn đều thấy toàn thân Sư sáng chói, ngồi trên lưng con nai bằng vàng đi về phương Tây. Thâm cảm sự lạ lùng ấy, mọi người thu nhặt tro xương của Sư, dựng tháp cúng dường.” (Phật Quang Đại Từ Điển trang 1587). (Xem Lương Cao Tăng truyện quyển 12).
Căn cứ vào truyện trên ta có thể đoán rằng Ngài Đàm Hoằng sinh ít nhất là vào cuối thế kỷ 4 và đầu thế kỷ 5, nghĩa là khoảng từ 390 - 400. Như vậy thời gian này là thời gian mà Ngài Huệ Viễn (334 - 416) có mặt tại Lô Sơn và đang chủ trương thành lập Bạch Liên Xã tại đó. Không biết lúc đương thời tại Trung Quốc, Ngài Đàm Hoằng có thọ giáo với Ngài Huệ Viễn để học kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ không? Để đến năm 420 - 422 ít ra Ngài Đàm Hoằng cũng đã 20 - 30 tuổi mới có thể một mình hay cùng bạn hữu Tăng nhân đi đến đất Giao Chỉ và trú tại chùa Tiên Sơn được. Khi Ngài đến có lẽ Ngài không nói được tiếng Việt, nhưng Ngài tụng kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ bằng chữ Hán thì chắc rằng người Giao Châu hiểu nội dung nhưng không nói được (vì thuở ấy Giao Châu đang thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 2 của Trung Quốc).
Nhưng trong quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tập 1” của Giáo Sư Lê Mạnh Thát thì còn diễn tả tỉ mỉ hơn như tiểu sử đã ghi trên rằng: Ngài Đàm Hoằng có ý định tự thiêu nên đã vào núi tìm củi để đó, chờ ngày phát nguyện thiêu thân cúng dường, nhưng dân làng Tiên Du (Bắc Việt) biết được ý định của Ngài, nên họ đã cho cất giấu tất cả củi đi. Thế rồi nhân ngày hội lớn của làng. Tất cả mọi người đều đi dự lễ, một mình ngài vào núi tìm củi tiếp, rồi tự hỏa thiêu, lúc dân làng phát hiện được thì sự việc đã xảy ra như đã trình bày ở trên.
Còn Ngài Đàm Loan (476 -?) tuy cùng pháp danh với ngài Đàm Hoằng, nhưng khi Ngài Đàm Loan sinh ra thì ngài Đàm Hoằng đã viên tịch (455) cũng có thể hai vị này cùng thờ chung một vị Thầy chăng? Vì lẽ Ngài Đàm Loan nhận được kinh Quán Vô Lượng Thọ từ Ngài Bồ Đề Lưu Chi tại kinh đô Lạc Dương (xem Phật Quang Đại Từ Điển trang 1589) và cũng tu theo pháp môn này có nguồn gốc liên tục từ Ngài Long Thọ đến Ngài Thế Thân, cho nên Phật Giáo Nhật Bản chọn Ngài Đàm Loan của Trung Quốc làm Sơ Tổ Tịnh Độ Tông Trung Quốc và Đệ tam Tổ Tịnh Độ Tông của Nhật Bản, mà không chọn Ngài Huệ Viễn.
Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng Tịnh Độ Tông được truyền vào Việt Nam vào năm 420. Ngài có thể là vị Sơ Tổ Tịnh Độ Tông của Việt Nam chăng? Nếu đúng vậy thì Tịnh Độ Tông được truyền vào Việt Nam còn trước cả Thiền Tông 160 năm, nghĩa là năm 580 Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi mới đến Việt Nam và từ đó Thiền Tông mới bắt đầu truyền thừa. Nhưng trước Ngài Đàm Hoằng là vị nào tu Tịnh Độ hay chỉ có Ngài Đàm Hoằng tu theo kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ mà thôi và sau Ngài Đàm Hoằng là vị nào đã tu theo pháp môn Tịnh Độ? Ở đây cũng có thể đem ra một kết luận sơ khởi là chúng ta nên chọn Ngài Long Thọ làm Sơ Tổ Tịnh Độ Tông, Ngài Thế Thân đệ nhị Tổ và khi Phật Giáo truyền thẳng vào Giao Châu ở thế kỷ 5 (420) thì Ngài Đàm Hoằng chúng ta tạm tôn xưng là Sơ Tổ Tịnh Độ Tông Việt Nam và là Đệ tam Tổ Tịnh Độ (sau Ngài Long Thọ, Thế Thân) như người Nhật đã chọn Ngài Đàm Loan làm Đệ tam Tổ Tịnh Độ cho Phật Giáo Nhật Bản vậy. Điều này không phải chúng ta thấy sang bắt quàng làm họ, mà có chứng cứ lịch sử và kinh điển rõ ràng. Đây chỉ là sự phát hiện tình cờ của chúng tôi thôi và mong rằng các bậc cao minh có thể chỉ giáo thêm.
Về phần tư tưởng và cách lập Tông của Ngài Long Thọ và Ngài Thế Thân chúng ta không cần phải đề cập đến ở đây nữa, nhưng riêng vị Tổ Sư Đàm Hoằng tương đối đặc biệt đối với những người Phật tử Việt Nam tu theo pháp môn Tịnh Độ, nên chúng ta cần nghiên cứu sâu xa thêm một ít nữa.
Ngài Đàm Hoằng đến Việt Nam tu trên chùa Tiên Sơn núi Tiên Du thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Đây là tỉnh lỵ mà được nhiều triều đại vua chúa Việt Nam sau khi độc lập giành tự chủ cho đất nước (năm 938) đến thời vua Lý Thái Tổ (1010) đã cho chọn làm kinh Đô. Do địa thế thuận lợi và qua lại dễ dàng với Trung Quốc vì trước đó từ năm 43 trước Tây lịch đến năm 938, gần 1000 năm như thế Việt Nam bị Bắc thuộc lần thứ 2. Cho nên người Trung Quốc có mặt thường xuyên tại Giao Châu, giống như người Trung Quốc có mặt tại Tây Tạng từ năm 1959 đến nay (2011). Người Tây Tạng vẫn giữ văn hóa và Tôn Giáo của Tây Tạng, còn người Trung Quốc thì cai trị, muốn cho dân Tây Tạng bị đồng hóa như họ đã muốn thực hiện chính sách này đối với người Việt Nam gần 1.000 năm nhưng vẫn không thành công. Vì lẽ dân tộc nào cũng có quyền tự trị của họ cả. Họ có văn hóa riêng, ngôn ngữ riêng, tập quán riêng... thì không thể đồng hóa họ được.
Như vậy, Ngài Đàm Hoằng đã đến Giao Châu (Bắc Ninh) từ Quảng Đông (biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc). Lúc ấy có lẽ không phải Ngài đến để tỵ nạn mà đến để hoằng pháp lợi sanh cho người Trung Quốc và người Việt Nam đang sinh sống tại Giao Châu thuở ấy. Việc này cũng tương tự như tình hình của người Việt Nam trong hiện tại. Trước và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã có hơn 2 triệu người Việt Nam có mặt khắp nơi trên thế giới. Đi đến đâu, sau khi đã được sống an cư, lạc nghiệp thì người Việt Nam đều xây dựng Chùa chiền để làm chỗ dựa tinh thần trong lúc gia đình có quan, hôn, tang, tế v.v... đây là điều cần thiết. Do vậy Phật tử có thể thỉnh những vị Thầy cùng đi chung với mình đến đất nước ấy, Chùa ấy trú ngụ, hoặc giả liên lạc về Việt Nam để thỉnh chư Tăng, Ni sang hoằng hóa tại các nước có người Việt Nam.
Câu chuyện hơn 1.500 năm trước tại Giao Châu chắc cũng như vậy thôi, không khác gì bây giờ mấy. Nghĩa là Ngài Đàm Hoằng đã có mặt tại Việt Nam vào năm 420 - 422. Thời gian này đất Giao Châu chắc chỉ rộng đến Nghệ An, Thanh Hóa là cùng và người Giao Châu cũng có tín tâm với đạo Phật nên đã xây Chùa trên núi cho Sư ở, gọi là Tiên Sơn tự. Chùa núi thì chắc rằng đơn giản hơn chùa ở phố thị. Nơi ấy hằng ngày Sư Đàm Hoằng vào núi đốn củi, hái rau, trái cây rừng về để dùng bữa qua ngày. Đêm đến tụng kinh A Di Đà. Nếu những ngày vía lớn thì kinh Vô Lượng Thọ và trước khi đi ngủ cũng như sau khi ngủ Ngài Đàm Hoằng ngồi tọa thiền để quán 16 phép quán như Đức Phật đã dạy cho Hoàng Hậu Vy Đề Hy thuở Phật còn tại tiền.
Đến năm 455 thì Ngài Đàm Hoằng tự thiêu. Trong các kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà chúng ta không thấy đề cập đến vấn đề tự thiêu, nhưng trong kinh Pháp Hoa phẩm thứ 23 nói về Ngài Dược Vương và Dược Thượng Bồ Tát khi muốn cúng dường Phật, đã tự đốt cánh tay và thân của mình. Đây là hạnh nguyện cúng dường bố thí Ba La Mật. Trong kinh Kim Cang cũng có đoạn nói về việc khi Đức Thế Tôn còn là một vị Bồ Tát cũng đã hy sinh thân này mà không trụ vào chỗ nào cả, nên bị Tiên Nhơn xẻ thịt, nhưng Ngài không chấp vào đó. Như vậy hình thức cúng dường bằng thân thể của mình lên chư Phật và chư Bồ Tát đã có từ lâu, nhưng không phải là một việc thường được khuyến khích, mà là việc đáng quan tâm.
Sau khi tự thiêu xong dân làng thấy Ngài ngồi trên lưng con nai vàng đi về hướng Tây. Hướng Tây có nghĩa là Tây Phương Cực Lạc. Vì trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Đức Phật đã chỉ cho Hoàng Hậu Vy Đề Hy và những chúng sanh đời sau này nên quán như thế này, nên quán như thế kia ... và việc quán ấy đã được thành tựu, cho nên chư Thánh chúng đến đón về Tây. Con nai vàng tượng trưng cho hào quang của Đức Phật A Di Đà. Vì Vô Lượng Quang (A Di Đà) là ánh sáng màu vàng chiếu khắp cả vô lượng thế giới, đến khi niệm niệm đã thành thục khi thân trung ấm đã lìa khỏi thân tứ đại thì tâm thức được sanh lên thế giới Tây Phương Cực Lạc và chứng vào quả vị Thượng Phẩm Thượng Sanh. Lúc ấy ngồi trên hoa sen, sẽ nghe Đức Phật A Di Đà thuyết pháp.
Hình ảnh con nai vàng và hình ảnh hướng về Tây là hình ảnh giải thoát sanh tử của Ngài Đàm Hoằng để sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đây không chỉ là biểu hiện qua hình tướng, mà là kết quả một đời tu hành, thanh tịnh giữ giới của Ngài. Nếu Ngài viên tịch năm 455, tức là Ngài đã ở Việt Nam được 35 năm. Trong 35 năm ấy chắc Ngài đã giáo hóa không ít đồ chúng tại Chùa Tiên Sơn tu theo pháp môn Tịnh Độ. Tuy rằng trước đó và sau đó không có vị Tổ Sư nào cho ta thấy rõ ràng là đã tu pháp môn này, nhưng điều ấy không quan trọng. Nếu chúng ta xem lại lịch sử thì chúng ta sẽ thấy từ vị Tổ thứ nhất đến vị Tổ thứ 2 cách xa rất nhiều thế kỷ. Ví dụ như:
Sau khi Đức Phật nói kinh A Di Đà (tiểu bổn) cho Ngài Xá Lợi Phất nghe tại nước Xá Vệ, nơi vườn cây của Thái Tử Kỳ Đà và Trưởng giả Cấp Cô Độc, sau đó Đức Phật nói kinh Vô Lượng Thọ (đại bản A Di Đà) cho Ngài A Nan và ngài A Thuyết Thị nghe tại núi Kỳ Xà Quật và cuối cùng Đức Phật đã nói kinh Quán Vô Lượng Thọ cho Hoàng Hậu Vy Đề Hy và Ngài A Nan nghe tại núi Linh Thứu. Kể từ đó cho đến sau khi Đức Thích Tôn nhập diệt và trải qua 4 thời kỳ kết tập kinh điển khác nhau, chúng ta không nghe vị Tổ nào đề cập đến 3 kinh căn bản này cả. Mãi cho đến khi Ngài Long Thọ ra đời tại miền Nam Ấn Độ (thế kỷ 2 sau Tây lịch), nghĩa là sau Đức Phật nhập diệt gần 900 năm, Ngài Long Thọ mới xiển dương pháp môn Tịnh Độ qua Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận và Ngài không phải chỉ là Sơ Tổ của Tịnh Độ Tông tại Ấn Độ mà còn là Tổ Sư của 8 Tông phái khác nữa. Rồi đến Ngài Thế Thân em ruột Ngài Vô Trước là Tổ thứ 2 của Tịnh Độ Tông Ấn Độ, Nhật Bản, Việt Nam và Trung Hoa cũng cách nhau hàng 200 năm. Vì Ngài Thế Thân sinh vào thế kỷ 4, thứ 5 sau Tây lịch. Từ Vãng Sanh Luận trong Du Già Sư Địa Luận, người ta biết rằng Ngài Thế Thân đã dùng Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận của Ngài Long Thọ làm căn bản để phát triển Tịnh Độ. Do vậy mà Tịnh Độ Tông Nhật Bản mới dễ dàng chấp nhận như vậy và dĩ nhiên là Ngài Thế Thân cũng như Ngài Long Thọ đã dựa theo 3 kinh Tịnh Độ làm tư tưởng của pháp môn này.
Từ Ngài Thế Thân qua Ngài Đàm Hoằng hay Ngài Đàm Loan rất hữu lý, vì chỉ cùng nhau trong thế kỷ 5 hay trễ hơn là vài ba chục năm sau, tư tưởng Tịnh Độ này được truyền vào Trung Quốc để đến cuối thế kỷ 5, đầu thế kỷ 6, Ngài Đàm Loan đã trở thành Sơ Tổ Tịnh Độ Tông của Trung Hoa. Rồi từ Ngài Thiện Đạo (613 - 681) Tổ thứ 3 của Tịnh Độ Tông Trung Hoa truyền tư tưởng này cho Ngài Nguyên Tín của Nhật Bản (942 - 1017) cách xa nhau đã là trên dưới 300 năm. Trong 300 năm ấy là thời gian cần thiết để tư tưởng của ba kinh Tịnh Độ thâm nhập vào xứ mặt trời ấy. Rồi từ Ngài Nguyên Tín đến Ngài Nguyên Không Pháp Nhiên (1133 - 1212) cũng cách nhau trên dưới 200 năm như vậy, Ngài Pháp Nhiên mới có thời gian nắm bắt được sự truyền thừa và Tông chỉ của Tịnh Độ Tông. Chỉ trừ Ngài Thân Loan và Ngài Pháp Nhiên là Thầy trò trực tiếp truyền cho nhau về Tông Tịnh Độ này, ngoài ra giữa các vị Tổ với nhau, thời gian xa nhau như muôn vạn dặm. Ở đây không gian không quan trọng bằng tư tưởng. Vị nào có tư tưởng khế hợp với khế cơ và khế lý của vị đi trước hay đúng với tinh thần của 3 kinh Tịnh Độ, thì vị ấy đời sau sẽ được suy tôn làm Tổ. Ít có vị nào khi còn sống được vinh hạnh này, chỉ trừ Ngài Ca Diếp lãnh hội trực tiếp tâm thiền từ Đức Phật cũng như nhiều vị Tổ Sư Thiền Tông khác.
Từ đó chúng ta có một cái nhìn thông thoáng hơn về Tịnh Độ Việt Nam cũng vậy. Nghĩa là sau khi đã tạm thiết lập được các vị Tổ Sư Tịnh Độ ban đầu rồi, thì những vị sau, chúng ta sẽ lần lượt dò tìm theo sử liệu để đề nghị và nếu có nhiều vị Tôn Túc hoan hỷ, đúng theo lịch sử thì chúng ta sẽ có một sự truyền thừa rõ rệt. Dẫu cho vị Tổ thứ 2 của Tịnh Độ Tông Việt Nam cách Ngài Đàm Hoằng 1.000 năm hay 1.500 năm cũng không có gì quan trọng cả.
Đọc lịch sử Nhật Bản nói về Việt Nam, họ cũng chỉ bắt đầu vào năm 938 khi Ngô Quyền dẹp tan quân Nam Hán và xưng Vương. Như vậy Bà Trưng, Bà Triệu (thế kỷ nhất trước Tây lịch) Lý Nam Đế (thế kỷ 6) đi đâu hết rồi? Ngoài ra còn 18 đời Hùng Vương nữa? Nếu đọc sử Trung Quốc lại còn thê thảm hơn nữa. Họ xem đất nước Giao Châu, Lâm Ấp là những nước chư hầu, triều cống họ thì trước sau cũng thuộc về họ thôi! Đây là mộng đế vương của Tần Thủy Hoàng, của Thành Cát Tư Hãn vẫn còn hiện diện trong đầu óc của những người Trung Quốc bảo thủ ngày nay.
Quý vị nào có cơ hội đi Trung Quốc đến Hàng Châu tại chùa Bạch Ẩn, quý vị sẽ thấy một dãy núi họ gọi là “Thiên Trúc Tây lai phùng” có nghĩa là “núi từ phía Tây đến - Thiên Trúc (Ấn Độ). Đâu có núi nào bay được. Thế mà người Trung Quốc còn làm cho núi bay được. Đó là chưa kể tứ đại danh sơn của Phật Giáo như: Phổ Đà Sơn nơi thị hiện của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, Cửu Hoa Sơn nơi thị hiện của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, Nga Mi Sơn nơi thị hiện của Đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát và Ngũ Đài Sơn nơi thị hiện của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Nghĩa là: Bi, trí của các vị Bồ Tát đều dồn về hết Trung Quốc, trong khi đó tại Việt Nam, Đại Hàn, Ấn Độ v.v... các vị Bồ Tát ấy ở chỗ nào?
Thế kỷ 20, khi Ngài Tuyên Hóa đến hoằng pháp tại Hoa Kỳ, Ngài cũng đã dùng tinh thần của Trung Quốc để lập nên 4 đạo tràng cho 4 vị Bồ Tát này tại Mỹ Quốc như sau:
- San Diego: Nơi thị hiện của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
- Los Angeles: Nơi thị hiện của Đức Đại Thế Chí Bồ Tát.
- San Francisco: Nơi thị hiện của Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
- Seattle: Nơi thị hiện của Đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
Rồi 100 năm sau, 200 năm sau hay nhẫn đến 1.000 năm sau nữa những nơi này sẽ trở thành những đạo tràng linh hiển của những vị Bồ Tát này.
Nhìn lịch sử Việt Nam từ sau thời Lý Nam Đế khởi nghĩa vào thế kỷ 6 đến thế kỷ 10 chúng ta rất đau lòng. Vì dân tộc vốn bị ách đô hộ lầm than của các Thái Thú, ngay cả đời Đường là đời văn minh nhất của lịch sử Trung Hoa và lịch sử thế giới, nhưng tìm đâu ra được những Đỗ Thuận giả làm người chèo đò để đối đáp với Lý Giác sứ giả của Trung Hoa về con ngỗng đang bơi lội trên sông ấy.
Rồi tới Khuông Việt Thái Sư đời vua Lê Đại Hành. Vào năm 981 Ngài là vị Tăng Thống đầu tiên của Đại Việt nhưng cho tới giờ này chúng ta cũng không còn được lưu truyền những gì thuộc về phương pháp tu hành của Ngài và ngay như cả Thiền Sư Vạn Hạnh làm Quốc sư cho triều nhà Lý cũng vậy. Dĩ nhiên nhờ bài thơ:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Hòa Thượng Mật Thể dịch:
Thân như bóng xế chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rồi
Sá chi suy thạnh cuộc đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
Nhờ đó chúng ta biết được quan điểm về cuộc đời, thế thái nhân tình, ngôi cao chức trọng v.v... rồi cũng chỉ là sương rơi trên đầu ngọn cỏ theo tinh thần Thiền Học mà thôi. Còn Tịnh Độ thì sao?
Dĩ nhiên cho tới các đời sau vẫn thường không thấy nhắc đến. Mãi cho đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi mà Thiền Tông không còn thịnh hành như những thế kỷ trước ở Việt Nam nữa, thì Tịnh Độ bắt đầu khởi sắc, nhưng chưa biết vị Sư nào vừa tu Thiền vừa tu Tịnh, rồi cổ xúy Tịnh Độ để Tịnh Độ phát huy được như ngày hôm nay. Mong rằng những nhà nghiên cứu sẽ tiếp tục làm việc ấy.
Ví dụ như Ngài Nguyên Tín ở Nhật vào thế kỷ 10, 11 (942 - 1017) Ngài tu ở núi Tỉ Duệ, một mặt Ngài cổ xúy Tịnh Độ Tông, nhưng Ngài vẫn tu Thiền tại đó. Vì núi Tỉ Duệ là nơi tổ hợp các Tông phái của Thiên Thai. Sau này nhờ đó mà Ngài Nguyên Không Pháp Nhiên mới dựa vào lời nguyện thứ 18 của Đức Di Đà qua Ngài Nguyên Tín mà Ngài Thiện Đạo đã truyền đạt. Từ đó Tông Tịnh Độ tại Nhật mới phát triển mạnh mẽ và rỡ ràng được.
Hoặc giả Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư (904 - 975) cũng vậy. Ngài là Tổ Sư Thiền và chủ trương rằng: “Dù cho có nghìn thuyết khác nhau, rốt cuộc cũng quy về một pháp và muôn pháp quy về một tâm, các kinh như: Pháp Hoa, Bát Nhã, Tư Ích, Hoa Nghiêm, Viên Giác, Lăng Nghiêm, Đại Tập... cũng chỉ là nhiều tên của một pháp mà thôi. Điều quan trọng là ở chỗ quán xét tâm và đạt được nhất tâm...”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 7138). Một tâm ấy là gì? đó là giác ngộ, tâm giải thoát sanh tử luân hồi.
Trong 13 vị Tổ Thiền Tông của Trung Hoa đã có 7 vị Tổ cuối đời nghiêng về Tịnh Độ và người ta cho rằng Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư đã nói ra những điều này:
- “Đời mạt pháp, mười người tu Thiền chỉ chứng có một người.
- Mười người tu Tịnh Độ đều chứng cả mười.
- Nếu người nào vừa tu Thiền lẫn tu Tịnh Độ thì chẳng khác nào cọp mọc thêm sừng.
- Đời mạt pháp mà Thiền cũng không tu, Tịnh Độ cũng không tu, chết xuống chỉ có cột đồng và nước sôi.”
Đây là những lời dạy rất quan trọng.
Thế kỷ 10 là thế kỷ Thiền và Tịnh tại Trung Quốc đều phát triển mạnh và dĩ nhiên lúc ấy cũng đã bắt đầu đến gần kề thời mạt pháp rồi, nếu có một Thiền Sư nào đó chủ trương việc trên, quả là lợi lạc cho cả Thiền và Tịnh Độ.
Ví dụ như trường hợp của chúng tôi thuộc thế hệ truyền thừa thứ 41 của dòng Thiền Lâm Tế, Chúc Thánh của Ngài Minh Hải, Pháp Bảo. Thế mà có được bao nhiêu Chùa thuộc môn phái này tại Việt Nam cũng như hải ngoại chuyên tu Thiền, mà trong hiện tại chỉ thấy tu Tịnh Độ là chính, Còn Thiền phụ thuộc mà thôi. Đây là một bằng chứng cụ thể để chúng ta có thể tham khảo thêm việc thay đổi từ Thiền sang Tịnh Độ hay từ Tịnh Độ sang Thiền để những thế hệ đi sau dễ bề hành xử hơn.
Nếu những người tu theo Tịnh Độ Tông của Việt Nam chúng ta chấp nhận Ngài Đàm Hoằng làm Tổ Sư khai sáng Tông này thì chúng ta nên nghiên cứu thêm về pháp tu của Ngài.
Theo lịch sử cho biết thì Ngài hay tụng Kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ có hai phần Thượng và Hạ. Phần Thượng kinh này nói về nội dung của 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà khi Ngài còn là một Pháp Tạng Tỳ Kheo đã lập nguyện dõng mãnh trước Ngài Thế Tự Tại Vương Như Lai. Trong 48 lời nguyện này quan trọng nhất là lời nguyện thứ 18, 19 và 20.
Lời nguyện này có nội dung như sau: Giả sử khi thành Phật, chúng sanh mười phương hết lòng tin ưa, mong muốn sanh về cõi nước tôi, xưng danh hiệu tôi cho đến mười niệm mà chẳng được sanh, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác, chỉ trừ những kẻ tạo tội ngũ nghịch, chê bai chánh pháp.
Lâu nay các vị Đại Sư và Phật tử Trung Hoa cũng như Việt Nam đều chú trọng đến “10 niệm nhất tâm” mới được vãng sanh, nhưng đa phần đã quên đi vấn đề quan trọng về bản nguyện lực của Đức Phật A Di Đà. Bản nguyện đó là gì? đó là mệnh đề đầu và mệnh đề cuối của tất cả 48 lời nguyện. Nghĩa là: “Giả sử khi thành Phật... mà chẳng được sanh, tôi không giữ ngôi Chánh đẳng Chánh giác”. Đây chính là việc quyết định để hành giả được vãng sanh. Chữ giả sử có nghĩa là lúc chưa thành Phật mà còn như vậy, nhưng bây giờ thì Đức Phật A Di Đà đâu còn là Pháp Tạng Tỳ Kheo nữa, mà Ngài đã giữ ngôi chánh giác rồi. Cho nên việc sanh về theo lối đới nghiệp vãng sanh của các chúng sanh trong 10 phương vô biên quốc độ là do tha lực của Ngài, do bản nguyện lực của Ngài giúp cho chúng ta về đó, chứ không phải do tự lực niệm Phật hay trong 10 niệm nhất tâm. Nói như Ngài Thân Loan rằng: Chỉ cần niệm Phật là được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Vì việc vãng sanh ấy không phải do tự mình làm mà do bổn nguyện lực của Đức A Di Đà đã phát nguyện ra như vậy.
Tôi, một Tăng sĩ Việt Nam sinh ra giữa thế kỷ 20 (1949) và đang sống vào đầu thế kỷ 21 này (2011) hoàn toàn đồng ý với lối lập luận của Ngài Thân Loan Nhật Bản và Ngài Thiện Đạo Trung Hoa. Có nghĩa là cứ niệm Phật, ấy là Nhân. Còn Quả, tự nhiên chúng ta sẽ được tha lực của Đức Phật A Di Đà đưa về cảnh giới Tây Phương Cực Lạc.
Bổn nguyện lực ấy cũng giống như những loại chim nói Pháp, gió thổi, hoa sen nở, nhạc trời chúc tụng... nơi cõi Tây Phương Cực Lạc trong Kinh Tiểu bản A Di Đà đã diễn tả. Tất cả đều do Đức Phật A Di Đà hóa hiện nên. Vậy thì việc dùng tha lực và bổn nguyện để đưa một chúng sanh sau khi lâm chung từ Ta Bà về Tịnh Độ đối với Đức Phật A Di Đà đâu có gì là khó khăn mà lâu nay chúng ta chỉ quanh quẩn ở 10 niệm nhất tâm hay không nhất tâm?
Về quyển Hạ của Kinh Vô Lượng Thọ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho biết rằng ai tu Pháp gì, giữ giới gì thì sanh về nơi chín phẩm liên hoa ở thế giới Cực Lạc. Đồng thời Ngài cũng nhắc cho chúng sanh biết về đời ác năm trược, chúng sanh đã phạm nhiều lỗi lầm, phải biết ăn năn sám hối thì không bị sanh vào thai cung biên địa nơi Hạ phẩm Hạ sanh. Tuy rằng niệm Phật có thể Phật đến tiếp dẫn về Tây Phương được, nhưng 500 tiểu kiếp nằm trong Hạ phẩm Hạ sanh quả là thời gian không phải ngắn. Chỉ có một điều duy nhất là không bị luân hồi sanh tử trở lại Ta Bà mà thôi.
Việc tiếp theo chúng ta thấy như lịch sử cho biết rằng: Ngài Đàm Hoằng tu theo Kinh Thập Lục Quán tức là Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Ngài quán 16 phép tuần tự như sau:
- Quán mặt trời sắp lặn
- Quán tưởng nước như băng đá
- Quán tưởng mặt đất
- Quán tưởng cây báu
- Quán tưởng nước tám công đức
- Quán tưởng cõi Cực Lạc toàn là sự quý lạ
- Quán tưởng tòa sen báu
- Quán tưởng hình tượng
- Quán khắp tướng toàn sắc thân của Phật
- Quán tưởng sắc thân chơn thật của Bồ Tát Quán Thế Âm
- Quán tưởng sắc thân của Đức Đại Thế Chí
- Quán tưởng cùng khắp khi được sanh về thế giới Cực Lạc
- Quán tưởng Phật A Di Đà cùng nhị vị Bồ Tát và chúng sanh đều có thân giống nhau
- Quán tưởng vãng sanh của những người thuộc bậc Thượng phẩm
- Quán tưởng vãng sanh của những người thuộc bậc Trung phẩm
- Quán tưởng vãng sanh của những người thuộc bậc Hạ phẩm.
Chữ quán có nghĩa là xem xét, soi rọi, chiếu đến, nhất tâm, tập trung chú ý v.v… trong khi quán tưởng bà Vy Đề Hy đã thành tựu. Ngài Đàm Hoằng cũng thành tựu, nên sau khi Ngài Đàm Hoằng tự thiêu vào năm 455 tại núi Tiên Du Bắc Việt Nam mới được vãng sanh.
Như vậy là trong Thiền luôn luôn có Tịnh và trong Tịnh luôn luôn có Thiền. Nếu chỉ tụng kinh niệm Phật mà không quán tưởng thì tâm ta sẽ loạn động. Do vậy 16 cách quán trên theo kinh Quán Vô Lượng Thọ là giúp cho hành giả tu theo pháp môn vãng sanh Tịnh Độ có cơ hội tập trung tư tưởng vào một nơi để việc quán sát được thành tựu.
Kinh A Di Đà là một bản kinh cổ. Ngày nay các học giả Âu Mỹ đã tìm ra được cả bản tiếng Sanskrit và Hán Văn. Riêng bản kinh Quán Vô Lượng Thọ thì chỉ còn Hán Văn chứ không có bản chữ Phạn. Do vậy có nhiều người nghi ngờ. Nhưng điều này không quan trọng. Vì có lẽ sau khi bản kinh Quán Vô Lượng Thọ từ Ấn Độ truyền qua Trung Quốc và sau khi đã được dịch sang chữ Hán rồi thì bản gốc mất đi. Nếu cần, các học giả tiếng Sanskrit bây giờ cũng có thể dịch ngược lại từ chữ Hán sang tiếng Sanskrit cũng không có gì khó khăn. Vì lịch sử đã chứng minh 3 bản kinh trên là kinh gốc của những người tu theo pháp môn Tịnh Độ và kinh này do chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra, chứ không phải chư Tổ về sau tạo ra 3 kinh này.
Ngay như Tịnh Độ và Tánh Không vẫn có trong kinh A Hàm (Phật Giáo Nguyên Thủy), chứ không phải là không có. Sau này vào thế kỷ 2, Ngài Long Thọ mới chú thích rõ ràng hơn qua Trung Quán và Tánh Không hay Tịnh Độ, nhưng vẫn dựa vào căn bản từ ban đầu để phát triển.
Ví dụ, Phật bảo rằng: Ai hiểu được pháp duyên sanh là hiểu Phật và ai hiểu được Phật thì người ấy hiểu pháp. Vậy pháp duyên sanh là gì vậy?
Đó là: “Các pháp đều do nhân duyên sanh, các pháp đều do nhân duyên diệt và tự tánh của các pháp là không”.
Theo Ngài Ấn Thuận cho biết rằng cái không qua nhân duyên sanh ấy là cái không của Trung Quán và Bát Nhã sau này, không phải tự nhiên mà không được. Cái không này ngay từ buổi ban đầu Ngài Xá Lợi Phất mới nghe qua từ Ngài A Thuyết Thị đã chứng quả dự lưu, mà chưa phải cần gặp trực tiếp với Đức Phật, để từ đó Ngài Xá Lợi Phất về rủ Ngài Mục Kiền Liên cùng dẫn 1.000 đệ tử của 2 Ngài đến quy y với Đức Phật. Vì lâu nay Ngài Xá Lợi Phất vốn là thủ lãnh của nhóm mình và đã đi cầu học khắp Đông Tây, nhưng chưa nghe hoặc thấy một vị Đạo Sư nào nói được như vậy. Sau đó Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên đến trực tiếp đảnh lễ xin xuất gia thọ pháp cùng với 1.000 vị Đệ Tử của mình với Đức Phật.
Điều căn bản ở đây là hành trì lễ bái, tụng kinh A Di Đà và niệm Phật. Ở chốn u tịch của núi rừng Tiên Du thuộc chùa Tiên Sơn ấy Ngài Đàm Hoằng tuy là người Trung Quốc, nhưng ở đó suốt 35 năm (từ 420-455) Ngài đã gây được ảnh hưởng lớn trong quần chúng người Việt Nam. Do vậy chắc chắn đã có rất nhiều người đến tu và học pháp môn Tịnh Độ với Ngài, nhưng vì lẽ Tịnh Độ không trực tiếp truyền từ Thầy qua trò như Thiền Tông cho nên việc truyền thừa không trở thành một dòng kệ liên tục, nhưng hy vọng rằng từ đây về sau chúng ta có nhiều phương tiện hơn để làm cho sáng tỏ vấn đề này.
Việc niệm Phật cũng vậy. Có lẽ Ngài niệm theo tiếng Trung Hoa là: Nam Mô A MI TÀ FO. Đây là âm vận của tiếng Quảng Đông và ngay cả tiếng Phổ Thông ngày nay cũng vậy. Sở dĩ người Trung Hoa niệm như vậy, vì trong những chữ cái của Hán ngữ không có vần D và không có vần Đ như tiếng Việt Nam. Trong khi Việt Nam chúng ta niệm là: Nam Mô A Di Đà Phật thì Trung Quốc niệm là: Nam Mô A MI TÀ FO. Trong khi đó người Nhật thì niệm rằng: Namu Amida Butsu. Chữ Butsu sau cùng có nghĩa là Phật và Amida có nghĩa là A Di Đà. Dầu cho có niệm theo nguyên thủy tiếng Sanskrit Namo Amitabha Buddha thì cũng không sao cả. Vì trong chữ: Amitabha, A Di Đà, A MI TÀ, Amida v.v… tất cả nó cũng chỉ có nghĩa là Vô Lượng Quang. Chúng ta không cần phải phân tích là niệm đúng hay sai âm điệu. Vì lẽ người nước nào thì niệm theo nước ấy. Chư Phật và Chư Bồ Tát vẫn hiểu như thường.
Chúng ta nên hiểu cặn kẽ về Tịnh Độ và Tịnh Độ Tông để có một cái nhìn cụ thể hơn.
“Tịnh Độ gọi đủ là Thanh Tịnh Độ, Thanh Tịnh quốc độ, Thanh Tịnh Phật sát, cũng gọi là Tịnh Sát, Tịnh giới, Tịnh phương, Tịnh vực, Tịnh thế giới, Tịnh Diệu Độ, Diệu Độ, Phật sát, Phật quốc. Đối lại với Tịnh Độ là uế độ, uế quốc.
[Tịnh độ] chỉ cho cõi nước thanh tịnh, là nơi an trụ của Phật. Trái lại, những nơi mà chúng sanh cư trú có các phiền não ô uế nên gọi là uế độ, uế quốc. Tịnh Độ là giáo thuyết nói trong các kinh Đại Thừa, còn Tiểu Thừa thì lấy Niết Bàn Vô Dư thân tro trí bặt làm lý tưởng, nên không có thuyết này. Vì Phật Giáo Đại Thừa cho rằng Niết Bàn có tác dụng tích cực, chư Phật đã được Niết Bàn, mỗi vị đều ở Tịnh Độ của mình để giáo hóa chúng sanh, cho nên hễ nơi nào có Phật an trụ thì đó là Tịnh Độ. Kinh A Súc Phật Quốc quyển thượng, kinh Phóng Quang Bát Nhã quyển 19, kinh Vô Lượng Thọ quyển thượng… đều cho rằng Tịnh Độ là thế giới thanh tịnh trang nghiêm do Chư Phật kiến lập bằng những công đức đã được tích lũy trong vô lượng vĩnh kiếp khi các Ngài hành đạo Bồ Tát ở địa vị tu nhân, đã khởi thệ nguyện tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh. Phẩm Phật quốc trong kinh Duy Ma quyển thượng thì cho rằng hễ tâm tịnh thì độ tịnh, thế giới Ta Bà tức là Tịnh Độ Thường Tịch Quang. Nếu tâm chúng sanh bất tịnh thì cõi này chính là cõi uế ác bất tịnh, còn chỗ Phật thấy thanh tịnh thì trở thành vô lượng công đức trang nghiêm. Tịnh Độ Linh Sơn của kinh Pháp Hoa, thế giới Liên Hoa Tạng của kinh Hoa Nghiêm, Tịnh Độ Mật Nghiêm của kinh Đại Thừa Mật Nghiêm… đều lấy thuyết Tâm Tịnh Độ tịnh làm gốc. Còn kinh Vô Lượng Thọ thì nói rằng ngoài thế giới Ta Bà ra còn có các Tịnh Độ khác, cũng có Tịnh Độ ở vị lai được thành tựu mỗi khi có vị Bổ xứ Bồ Tát thành Phật, hai loại Tịnh Độ này đều là các cõi nước được hoàn thành sau khi có vị Bồ Tát Bổ xứ thành Phật qua giai đoạn tu nhân theo bản nguyện của mình, là nơi chúng sanh nguyện sanh về.
Còn các Tịnh Độ ở các phương khác thì có thế giới Cực Lạc ở phương Tây của Đức Phật A Di Đà, thế giới Diệu Hỷ ở phương Đông của Đức Phật A Súc, thế giới Tịnh Lưu Ly ở phương Đông của Đức Phật Dược Sư… vì các Tịnh Độ của Chư Phật nói trên cách thế giới Ta Bà với một phương vị nhất định nên gọi là Thập Phương Tịnh Độ.
Thế giới Cực Lạc (Phạn: Sukhavati) cũng được gọi là Diệu Lạc, An Lạc, An Dưỡng, Lạc Bang, là Tịnh Độ ở phương Tây rất được Tông Tịnh Độ xem trọng. Tịnh Độ này là chỉ cho báo độ do Bồ Tát tu nhân hạnh mà cảm được quả báo, hoặc chỉ cho ứng Hóa Độ mà Đức Phật giả hiện ra để cứu độ chúng sanh hoặc chỉ cho Tịnh Độ có thật ở phương Tây cách thế giới Ta Bà hơn 10 vạn ức Phật độ, hoặc lại chỉ cho Tịnh Độ hiện ra trong tâm chúng sanh. Ngoài ra Tịnh Độ còn có biên địa, nghi thành, Thai cung giải mạn giới… là Hóa độ dành cho những người còn hoài nghi Phật trí được sanh đến.
Tông Tịnh Độ cho rằng Báo độ thực tại ở phương Tây, những người sanh về cõi này sẽ được hưởng 10 điều lợi lạc sau đây.
Thánh chúng đến đón: Lúc lâm chung được Đức Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát Quan Âm, Thế Chí đến đón về Tịnh Độ.
Hoa sen vừa mới nở: Gá sinh trong hoa sen sinh về Tịnh Độ, cho nên lúc hoa sen vừa mới nở thì liền được thấy cõi Tịnh Độ rất trang nghiêm thanh tịnh.
Thân tướng có thần thông: Thân được 32 tướng tốt đẹp và 5 thứ thần thông như Thiên nhãn…
Năm cảnh giới vi diệu: Được năm cảnh thù thắng sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Vui sướng vô lượng: Được hưởng các niềm vui vô tận.
Tiếp dẫn kết duyên: Được những ân nhân kết duyên từ trước thân đến Tịnh Độ đón tiếp.
Thánh chúng cùng hội họp: Các chúng Bồ Tát đều đến nhóm họp ở một chỗ.
Thấy Phật nghe pháp: Sinh về Tịnh Độ được thấy Đức Phật và nghe Ngài nói pháp.
Tùy tâm cúng dường Phật: Tùy tâm cúng dường chư Phật ở 10 phương.
Tăng tiến Phật đạo: Tu hành tinh tấn, cuối cùng chứng quả thành Phật.
Về vị trí Tịnh Độ, sự trang nghiêm, chủng loại dân cư… các kinh nói không giống nhau, vì khi còn ở địa vị tu nhân, các vị Bồ Tát phát nguyện không đồng. Nếu đứng trên lập trường sử học mà nhận xét sự miêu tả khác nhau giữa Tịnh Độ của Phật A Súc và Tịnh Độ của Phật A Di Đà thì có thể thấy được sự biến thiên của một loại phát triển, như cõi Phật A Súc có người nữ, nhân dân đều mặc y phục được lấy ra từ cây, có 3 đường thềm báu đi suốt đến cõi trời Đao Lợi, có thể xem đây là tư tưởng tương đối sớm. Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà thì không có người nữ, đều là hóa sanh, được thân thể hư vô tự nhiên. Luận Nhiếp Đại Thừa quyển hạ thì cho Tịnh Độ là xứ sở vi diệu ở ngoài 3 cõi. So sánh sự hơn, kém khác nhau giữa các Tịnh Độ của chư Phật, trong các kinh đều có ghi chép.
Về chủng loại Tịnh Độ, ở thời đại Ngài Vô Trước (khoảng thế kỷ IV, V) có thuyết 3 thân là Tự tính thân, Thọ dụng thân và Biến hóa thân. Thân biến hóa của Phật thị hiện 8 tướng ở uế độ, thân thọ dụng trụ trong thế giới Liên Hoa tạng có 18 thứ viên mãn thanh tịnh, tức tùy theo Báo thân, Hóa thân của Phật mà có thanh tịnh, ô uế khác nhau. Luận Duy Thức quyển 10 có thuyết tứ thân tứ độ (4 thân 4 cõi), Đại Thừa nghĩa chương quyển 19 chia Tịnh Độ làm 3 loại là Sự Tịnh Độ, Tướng Tịnh Độ và Chân Tịnh Độ, Duy Ma kinh lược sớ quyển 1 thì lập 4 loại Tịnh Độ, Phàm Thánh đồng cư độ, Phương Tiện Hữu Dư độ, Thật Báo vô chướng ngại (Trang Nghiêm) độ và Thường Tịch Quang độ. Hoa Nghiêm kinh thám huyền ký quyển 3, y cứ vào sự bất đồng giữa Tam Thừa và Nhất Thừa mà nói các Tịnh Độ khác nhau". (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 6142-6144).
(Xem thêm Phật độ, Cực Lạc Thế Giới)
Như vậy Tịnh Độ thì có rất nhiều cõi, mà Cực Lạc chỉ có một mà thôi. Vì cõi này là cõi do Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ ở phương Tây và khi còn là một Pháp Tạng Tỳ Kheo, Ngài đã phát ra 48 lời nguyện để trang nghiêm cõi Phật ấy. Cõi Cực Lạc còn gọi là cõi: Phàm Thánh đồng cư độ. Vì lẽ có những kẻ thai cung biên địa cũng được sanh vào đây phải chờ trong hoa sen đến 500 Tiểu Kiếp mới nghe được chư vị Bồ Tát thuyết pháp
Cõi Cực Lạc là cõi hóa sanh. Tất cả đều do sự hóa hiện của Đức Phật A Di Đà. Vì đây là bổn nguyện lực của Ngài. Do tha lực ấy mà những chúng sanh ở thời kỳ mạt pháp này nương vào danh hiệu của Ngài để nhớ nghĩ, tụng niệm thì Ngài sẽ đưa về cảnh giới Cực Lạc sau khi lâm chung.
Cõi Tịnh Độ của Phật A Súc lại có người nữ trong khi cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà thì không. Vì lời nguyện thứ 35 của Đức Phật A Di Đà đã xác nhận như vậy.
Chư Tổ ra đời ở cõi Ta Bà đa phần nối tiếp tư tưởng này của Đức Phật A Di Đà và nương theo pháp trì danh hay quán tưởng để được sanh về cõi Cực Lạc sau khi lâm chung. Vì là cõi hóa sanh và hóa thân, nên ở đó dự được 10 niềm vui thù thắng như trên vừa kể.
Phương Tiện Hữu Dư Độ là cõi Tịnh Độ mà chư Phật dùng phương tiện để hóa hiện ra và còn những điều kiện cần thiết nữa, để được sanh về cõi Tịnh Độ chân thật. Điều này hay cõi này cũng giống như Hóa Thành Dụ trong kinh Pháp Hoa vậy.
Thường Tịch Quang độ là cõi Tịnh Độ nơi đó chỉ có ánh sáng chiếu suốt. Các chúng sanh sanh về đây toàn những bậc có trí tuệ, thượng căn thượng trí, đã thoát ly sanh tử luân hồi.
Thật Báo trang nghiêm hay Thật Báo vô chướng ngại độ là cõi Tịnh Độ chân thật trang nghiêm thanh tịnh bình đẳng, không có gì làm chướng ngại cho con đường tu hành cả.
Trên đây chỉ là cách gọi cõi giải thoát sanh tử mà thôi và cũng tùy theo từng thời gian, trường hợp và môn phái khác nhau mà gọi về cõi giải thoát này. Ví dụ như Ngài Thánh Nghiêm gọi có 4 cõi Tịnh Độ là: Nhân gian Tịnh Độ, Thiên quốc Tịnh Độ, Phật quốc Tịnh Độ và Tự tâm Tịnh Độ. Trong khi đó những vị Thiền Sư thì gọi rằng: Tịnh Độ là đây, chốn này v.v… nghĩa là tất cả đều tùy thuộc vào cách gọi của mỗi Tông riêng biệt để chỉ về cõi thanh tịnh giải thoát ấy.
Từ khi Phật Giáo được truyền vào Việt Nam vào đầu kỷ nguyên Tây lịch cho đến nay (2011) kể ra cũng đã trên dưới 2.000 năm lịch sử. Chỉ có Thiền Tông là tương đối có sự truyền thừa rõ ràng, nay Tịnh Độ Tông cũng đang bắt đầu nối kết lại, còn những Tông khác như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Thiên Thai, Luật Tông, Mật Tông v.v… chưa thấy có nơi nào hoàn thành được sử liệu truyền thừa này. Mong rằng trong mai hậu những người thuộc những Tông phái trên thực hiện được việc này.
Trong khi Trung Quốc và Nhật Bản từ khi Phật Giáo được truyền vào, họ đã lập thành 13 Tông rõ rệt và mỗi Tông đều có những vị Tổ kế tiếp nhau truyền thừa cho môn phái của mình. Đây là một bức tranh phối cảnh rất đẹp cho Phật Giáo mỗi nước. Vì vậy sau đây chúng ta thử tìm hiểu về Tịnh Độ Tông của Trung Hoa và Nhật Bản như thế nào.
“Tịnh Độ Tông là Tông Phái Phật Giáo lấy việc vãng sanh Tịnh Độ Cực Lạc làm mục đích. Một trong 13 Tông của Trung Quốc và một trong 13 Tông của Nhật Bản.
Tịnh Độ là chỉ cho cõi nước thanh tịnh, cõi nước trang nghiêm, tức là xứ sở được trang nghiêm bằng các công đức thanh tịnh. Tịnh Độ Tông cũng gọi là Liên Tông, vì Ngài Huệ Viễn đời Đông Tấn kết Bạch Liên Xã (Hội sen trắng) ở Lô Sơn, lấy ý nghĩa người sanh về Tịnh Độ phương Tây đều hóa sinh trong hoa sen, do đó cõi nước Cực Lạc cũng gọi là Liên Bang (cõi nước hoa sen). Tông này đặc biệt lấy việc xưng niệm Phật làm pháp tu hành, chủ yếu nhờ vào tha lực của bản nguyện Di Đà, cầu mong được sanh về Tịnh Độ Cực Lạc phương Tây, vì thế nên còn được gọi là Niệm Phật Tông.
Tư Tưởng Tịnh Độ là y cứ vào 3 bộ kinh do Đức Phật Thích Ca giảng thuyết. Đó là kinh Vô Lượng Thọ do Phật giảng nói ở núi Kỳ Xà Quật, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật được giảng nói ở thành Vương Xá và kinh A Di Đà được Phật giảng ở vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 900 năm, Ngài Thế Thân soạn luận vãng sanh Tịnh Độ, rồi đến các luận sư Mã Minh, Long Thọ trình bày ý nghĩa then chốt của 3 bộ kinh trên mà hoằng truyền tông Tịnh Độ. Niên hiệu Vĩnh Bình năm đầu (508) đời Bắc Ngụy, Ngài Bồ Đề Lưu Chi đến Trung Quốc, dạy kinh Quán Vô Lượng Thọ cho Ngài Đàm Loan, trao truyền đầy đủ kinh luận Tịnh Độ, mở ra một thời đại mới cho sự tiến triển của pháp môn Tịnh Độ ở Trung Quốc.
Về việc truyền dịch kinh điển Tịnh Độ ở Trung Quốc thì đầu tiên là các Ngài Chi Lâu Ca Sấm và Trúc Phật Sóc cùng dịch kinh Bát Chu Tam Muội (năm 179), Ngài Chi Khiêm đời Tam Quốc dịch kinh Đại Bản A Di Đà 2 quyển (kinh Vô Lượng Thọ), Ngài Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác 2 quyển. Ngoài ra còn có kinh Tuệ Ấn Tam Muội và kinh Vô Lượng Môn Vi Mật Trì do Ngài Chi Khiêm dịch, kinh Đức Quang Thái Tử, kinh Quyết Định Tổng Trì và A Di Đà Phật kệ… do Ngài Trúc Pháp Hộ dịch.
Năm Hoằng Thủy thứ 3 (401) đời Diêu Tần, Ngài Cưu Ma La Thập dịch kinh A Di Đà, luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa… nói qua về sự trang nghiêm Tịnh Độ Cực Lạc, là các bộ kinh luận được đọc tụng thịnh hành nhất xưa nay. Về sau tiếp tục có Ngài Đàm Vô Sấm đời Bắc Lương dịch kinh Bi Hoa 10 quyển (năm 419), Ngài Bảo Vân đời Lưu Tống dịch kinh Tân Vô Lượng Thọ 2 quyển (năm 421), Ngài Cương Lương Da Xá đời Lưu Tống dịch kinh Quán Vô Lượng Thọ 2 quyển (424). Người đời sau gọi chung Kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà là Tịnh Độ tam kinh. Đến đây, sự truyền dịch kinh điển đã được hoàn bị.
Pháp môn Tịnh Độ ở Trung Quốc chủ yếu là Di Lặc Tịnh Độ và Di Đà Tịnh Độ. Về tín ngưỡng Tịnh Độ Di Lặc thì đầu tiên là Ngài Đạo An đời Tây Tấn, Ngài có soạn luận Tịnh Độ 6 quyển, nguyện sanh Tịnh Độ Di Lặc ở cõi Đâu Suất, các Ngài Huyền Trang và Khang Cơ đời Đường cũng hành trì và quy y Tịnh Độ Di Lặc. Nhưng từ đó về sau, vì ít người tu và người hoằng dương cũng ít nên Tịnh Độ Di Lặc dần dần suy vi, nhường chỗ cho sự hưng thịnh của tín ngưỡng Di Đà và Tịnh Độ Di Đà bèn trở thành đại biểu cho Tịnh Độ của chư Phật. Người hoằng dương Tịnh Độ Di Đà mạnh nhất là Ngài Huệ Viễn đời Đông Tấn, Ngài kết Bạch Liên Xã ở Lô Sơn, cùng với mọi người chuyên tu tam muội Niệm Phật, theo yếu chỉ kinh Bát Chu Tam Muội để mong được vãng sanh thấy Phật. Đây là tổ chức kết đoàn niệm Phật đầu tiên ở Trung Quốc và cũng là dòng chính của Tịnh Độ Trung Quốc. Thời Tuyên Vũ Đế nhà Bắc Ngụy, Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá nguyện sinh kệ của Ngài Thế Thân, Ngài Đàm Loan chú giải, soạn thuật vãng sanh luận chú, lại y cứ vào luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa của Ngài Long Thọ mà nêu rõ sự khác nhau giữa Nan hành đạo (đạo khó thực hành) và Dị hành đạo (đạo dễ thực hành), giữa tự lực và tha lực, cho rằng nương nhờ vào bổn nguyện tha lực là đạo phương tiện dễ thực hành trong cõi đời có 5 thứ nhơ nhớp, xấu ác, bắt đầu mở ra nghĩa căn bản của việc lập giáo Tịnh Độ, đồng thời chuyên chú trong việc trì danh niệm Phật để cầu sinh Tịnh Độ. Đến đời Đường các Ngài Đạo Xước, Thiện Đạo… noi theo giáo chỉ của Ngài Đàm Loan hết sức đề cao năng lực bản nguyện, lại chủ xướng tư tưởng mạt pháp để vạch ra con đường then chốt thích ứng với thời giáo. Ngài Đạo Xước soạn An Lạc tập, bác bỏ kiến giải sai lầm của những người khác, mở ra con đường trọng yếu cho chúng sanh trong thời mạt pháp, đồng thời căn cứ vào thuyết Dị hành đạo và Nan hành đạo của Ngài Đàm Loan mà lập giáo phái Tịnh Độ môn và Thánh Đạo môn. Ngài Thiện Đạo soạn Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ, nêu rõ các kiến giải sai lầm xưa nay, xác định giáo nghĩa và giáo tướng Tịnh Độ, đồng thời theo các Ngài Đàm Loan, Đạo Xước mà lập Chính Hạnh, Tạp Hạnh để đặt vững nền tảng cho hệ thống giáo nghĩa độc lập của Tịnh Độ. Về sau, Ngài Hoài Cảm soạn luận Thích Tịnh độ quần nghi, Ngài Thiếu Khang mở rộng Tông này. Từ Ngài Đàm Loan đến Ngài Thiếu Khang được gọi là: “Chấn Đán ngũ Tổ” (5 vị Tổ Sư Tịnh Độ Trung Quốc). Thời bấy giờ, các vị Đại Sư ở Trường An mỗi vị cũng có soạn chú sớ các kinh A Di Đà, Quán Vô Lượng Thọ… sự nghiên cứu kinh điển Tịnh Độ đã đạt đến điểm cao.
Vào đầu năm Khai Nguyên đời Đường, Ngài Tuệ Nhật từ Ấn Độ trở về Trung Quốc, thấy các Thiền gia đương thời coi Tịnh Độ là “Thuyết Phương Tiện” để dẫn dắt người ngu, nên đã cực lực phản đối và đề xướng sự cần thiết phải niệm Phật cầu vãng sanh. Ngài Tuệ Nhật chủ trương trì giới và niệm Phật cùng thực hành, Thiền Định và Tịnh Độ đều tu, Giáo và Thiền hợp nhất, hồi hướng tất cả công đức tu hành nguyện cầu vãng sanh Tịnh Độ. Các Ngài Thừa Viễn, Pháp Chiếu, Phi Tích… kế thừa thuyết này, lấy Tam Muội niệm Phật làm pháp môn Thiền Định sâu xa mầu nhiệm không gì hơn, cực lực bài xích sự tọa thiền để lòng trống rỗng của Thiền Tăng. Do đó, tông Tịnh Độ Trung Quốc ở đời Đường có thể chia làm 3 hệ thống, đó là hệ thống Ngài Huệ Viễn (phái luận lý, có tánh thường thức), hệ thống Ngài Thiện Đạo (phái Phật nguyện, đặt nặng tín ngưỡng) và hệ thống Ngài Từ Mẫn Tuệ Nhật (phái Diệu Hữu, không bỏ môn hạnh). Bấy giờ, Thiền Tăng có những vị chủ trương gần giống với phái Ngài Tuệ Nhật, như Ngài Tuyên Thập học trò Ngũ Tổ đề xướng phái Nam Sơn niệm Phật môn Thiền Tông, Ngài Nam Dương Tuệ Trung đệ tử Lục Tổ đề xướng Giải Hành kiêm tu (hiểu và làm cùng tu). Đến Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ là cháu đích tôn của Ngài Pháp Nhãn đời Hậu Chu lại tận lực hoằng dương Thiền Tịnh song tu, Tăng tục đời Tống đều kế thừa di phong này của Ngài Diên Thọ. Tông Thiên Thai cũng có nhiều vị kính tin Tịnh Độ và hiểu nghĩa Tịnh Độ, trong đó Ngài Tứ Minh Tri Lễ đời Tống là nổi tiếng nhất với bộ Quán kinh sớ diệu tông sao do Ngài soạn, thuyết “Ước tâm quán Phật” của Ngài chính là “Thai Tịnh dung hợp luận” vốn được các nhà Thiên Thai xem trọng. Từ đời Nguyên về sau, phong cách Thiền Tịnh song tu lại càng thịnh hành hơn, các Ngài Trung Phong Minh Bản, Thiên Như Duy Tắc… đều quy tâm Tịnh Độ. Đến đời Minh, các vị như Sở Sơn Thiệu Kỳ, Không Cốc Cảnh Long, Nhất Nguyên Tông Bản, Vân Thê Châu Hoằng, Hoành Sơn Đức Thanh, Cổ Sơn Nguyên Hiền… nối tiếp nhau đề xướng thuyết “Thiền Tịnh hợp hành”. Nhất là Ngài Vân Thê Châu Hoằng chuyên tu tam muội niệm Phật, chú giải kinh Di Đà, soạn các sách hoằng dương ý chỉ Thiền Tịnh nhất trí, cảm hóa được giới Phật Giáo nói chung rất rộng rãi. Các nhà Thiên Thai cũng có những vị như Cừ Am Đại Hựu, U Khê Truyền Đăng, Linh Phong Trí Húc đề xướng luận thuyết Tam học nhất nguyên, chủ trương tam học Thần, Giáo, Luật đều quy về pháp môn Tịnh Độ. Bấy giờ, các vị Cư sĩ như Trang Quảng Hoàn, Viên Hoành Đạo… cũng đều soạn sách để hoằng truyền Tịnh Độ. Đến đời Thanh, tín ngưỡng Tịnh Độ phần nhiều do các Cư sĩ đề xướng. Bành Thiệu Thăng, cha con Hi Tốc, biên soạn vãng sinh truyện và chỉ tán Tây Phương. Khoảng các năm Khang Hy, Càn Long, Ngài Thật Hiền Tư Tề, kế thừa di phong của Ngài Châu Hoành, kết liên xã ở Hàng Châu, giáo hóa rất rộng, tôn các Ngài Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo là 3 vị Tổ Sư Tịnh Độ đầu tiên, được mọi người tín ngưỡng. Vào đầu đời Dân Quốc, ngoài Cư sĩ Dương Nhân Sơn tận lực đề xướng, còn có Ngài Ấn Quang chủ trương pháp môn Tịnh Độ là bản hoài xuất thế của Đức Phật, ra sức làm các việc cứu giúp xã hội, tăng tục các nơi lần lượt làm sống lại phong trào kết xã niệm Phật.
Tại Nhật Bản Ngài Nguyên Không (1133-1212) có soạn bộ Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập, trong sách này Ngài đã dự định tuyên ngôn khai tông. Đặc biệt tôn sùng tam kinh nhất luận (ba bộ kinh Tịnh Độ và một bộ luận Tịnh Độ) và giáo thuyết của Ngài Thiện Đạo thuộc Tịnh Độ giáo Trung Quốc, cho nên đề cao luận thuyết “Thiên y Thiện Đạo” (Nương riêng vào Ngài Thiện Đạo). Trong ba cặp đối lập: Nan hành và Dị hành, Thánh Đạo và Tịnh Độ, Tự lực và Tha lực thì chỉ chọn lấy Dị hành, Tịnh Độ và Tha lực niệm Phật. Năm Thừa An thứ 5 (1175) Ngài Nguyên Không từ núi Tỷ Duệ dời đến ở Các Thủy, đề cao chuyên tu niệm Phật, chủ trương hạnh tu an tâm (lòng tin), sau đó khởi hành (trong 5 chánh hạnh lấy hạnh niệm Phật làm chủ yếu) rồi đến tác nghiệp (tứ tu), đồng thời nhấn mạnh tính chất quan trọng của việc xưng niệm danh hiệu Phật. Tông phái này tuy phủ định công đức của giới luật và việc xây Chùa, Tháp, nhưng nói chung vẫn xem trọng giới hạnh.
Sau khi Ngài Nguyên Không thị tịch, đệ tử chia ra làm 5 phái:
Phái Trấn Tây của Ngài Biện A: Chủ trương nghĩa các hạnh vãng sanh.
Phái Tây Sơn của Ngài Chứng Không: Chủ trương nghĩa các hạnh không sinh.
Phái chùa Trường Lạc của Ngài Long Khoan: Chủ trương nghĩa vãng sanh hóa sinh.
Phái chùa Cửu Phẩm của Ngài Trường Tây: chủ trương nghĩa các hạnh bản nguyện.
Phái Nhất Niệm của Ngài Hạnh Tây: chủ trương nghĩa nhất niệm nghiệp thành.
Tông Tịnh Độ lấy 3 kinh một luận (kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ và luận Vãng Sanh) làm điển cứ trọng yếu để thành lập tông. Về chú thích ba kinh một luận thì có Lược luận An Lạc Tịnh độ nghĩa (giải thích sơ lược kinh Vô Lượng Thọ), Vãng sanh luận chú (chú thích luận vãng sanh) do Ngài Đàm Loan soạn, An Lạc tập (căn cứ theo kinh Quán Vô Lượng Thọ trình bày nghĩa cốt yếu của việc vãng sanh Tịnh Độ) do Ngài Đạo Xước soạn, Quán Vô Lượng Thọ kinh sớ (phát huy nghĩa sâu kín của Quán kinh và giải thích câu văn trong kinh này), do Ngài Thiện Đạo soạn.
Ngoài ra, Pháp sự tán, Vãng sanh lễ tán, Quán niệm pháp môn bát chu tán cũng do Ngài Thiện Đạo soạn, quy định hành nghi vãng sanh Tịnh Độ, đều là căn cứ vào yếu điểm của tông này và cũng nổi tiếng một thời.
Tông nghĩa của Tông này là lấy hành nghiệp trong tâm hành giả (người tu Tịnh Độ) làm nhân bên trong, lấy nguyện lực của Phật Di Đà làm duyên bên ngoài, nếu nhân trong duyên ngoài ứng hợp nhau thì sinh về cõi nước An Lạc. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 6153-6156)
(Xem thêm: Niệm Phật, Đâu Suất Vãng Sanh, Tịnh Độ)
Xem về ý nghĩa của Tịnh Độ và lịch sử Tịnh Độ Tông của Trung Hoa và Nhật Bản, chúng ta người Việt Nam không khỏi mủi lòng. Vì lẽ họ có những vị Tổ Sư Tịnh Độ khai Tông lập giáo rõ ràng. Còn chúng ta có cả 2.000 năm làm quen, tiếp xúc tu học với pháp môn này mà hầu như vắng bặt những bậc hiền nhân ấy. Có lẽ dưới đây là những lý do chính đáng chăng.
Lý do thứ nhất về ngôn ngữ văn tự. Chữ Phạn và tiếng Hán hoàn toàn khác nhau. Cho nên muốn cho người Trung Quốc hiểu ý kinh, bắt buộc các vị Đại Sư ban đầu đến Trung Hoa phải học tiếng Trung Quốc để dịch những kinh, luật, luận ấy ra tiếng Hoa. Ví dụ như Ngài Cưu Ma La Thập, Ngài Bồ Đề Lưu Chi v.v… Sau một thời gian Phật pháp được truyền vào sâu rộng ở đất Trung Hoa rồi, các Đại Sư như: An Thế Cao, Pháp Hiển, Huyền Trang, Khuy Cơ v.v… tự dịch thẳng từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Quốc. Đây là những mốc của lịch sử lúc ban đầu.
Lý do thứ hai mà người Việt Nam dễ dàng chấp nhận trong thời gian 1.000 năm đô hộ của người Trung Quốc (từ năm 43 trước Tây lịch đến năm 938) những kinh sách nào đã được dịch ra tiếng Trung Hoa rồi thì người Việt Nam cứ lấy đó làm kinh sách gối đầu để đọc tụng, hành trì và hầu như không cần sáng tạo nữa. Vì đã có người làm sẵn rồi.
Mặc dầu tiếng Hán Việt có khác tiếng Hán Nôm. Cũng là chữ Nho, nhưng chỉ có người Việt Nam đọc hiểu, trong khi đó người Trung Quốc đọc không hiểu. Tại sao các bậc Đại Sư Việt Nam chúng ta thuở ấy không dùng loại văn tự này để khai tông lập giáo? Ngay như Nhật Bản và Đại Hàn, chữ Hán họ còn dùng cho đến ngày hôm nay (2011), trong khi đó Việt Nam chúng ta đã chính thức không còn dùng chữ Hán ở học đường cách nay chừng một trăm năm, nhưng so với Nhật và Đại Hàn chúng ta có tiến xa hơn họ hay chăng?
Ngài Hoằng Pháp, Chơn Ngôn Tông Nhật Bản là cha đẻ của tiếng Hiragana và Katakana từ thế kỷ 13 và những Kinh, Luật, Luận nào được truyền vào Nhật Bản hầu hết đã được dịch, chú giải ra tiếng Nhật để đọc cho dễ hiểu. Vì cách phát âm và văn phạm của Nhật ngữ và Hán ngữ hoàn toàn khác nhau. Trường hợp Đại Hàn cũng tương tự như Nhật. Trong khi đó Việt Nam chúng ta nếu cái gì nơi Trung Quốc sản xuất ra thì chỉ cần đem về Việt Nam tiêu thụ, chứ không cần phiên âm, giải thích, lập tông gì cả thì quả là một mất mát quá lớn lao cho lớp người sinh sau muốn tìm ra cội nguồn của Tịnh Độ tại quê hương Đại Việt này.
Ngay cả trong Chùa, Viện Phật Giáo Việt Nam cho đến ngày nay (2011) đa phần cũng còn tụng kinh bằng âm Hán Việt, chỉ một ít kinh điển được dịch ra hẳn tiếng Việt như: Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Lương Hoàng Sám thì được tụng hoàn toàn bằng ngôn ngữ tiếng Việt từ giữa năm 1950 trở lại đây, nhưng rất tiếc đây không phải là những bộ kinh chính yếu của những người tu theo pháp môn Tịnh Độ.
May thay cách đây hơn 10 năm có Thượng Tọa Thích Thiện Thông sang Đức thăm người em ruột đang ở Koblenz, Đức quốc, sau đó ghé thăm Chùa Viên Giác tại Hannover. Thầy ấy gặp tôi 2 lần và mỗi lần gặp đều mang theo những bản thảo đã dịch và đánh máy xong và có ý trao lại cho tôi để được xuất bản ở ngoại quốc. Tôi lấy đó làm vui và nhờ vậy mà bây giờ Ba Kinh Tịnh Độ chúng ta đã có hoàn toàn bằng tiếng Việt. Ba kinh này Thầy đã dịch ra Việt ngữ từ năm 1983 - Phật lịch 2526 tại Việt Nam và năm 2005 xuất bản lần đầu tiên tại Đức để năm 2008 - Phật lịch 2552 lại tái bản một lần nữa. Văn Thầy dịch rất hay, trong sáng, dễ hiểu. Thường thường Thầy dịch theo lối 4 chữ rất dễ đọc và dễ tụng.
Thầy tâm sự với tôi rằng: Trình độ văn hóa của Thầy mới học tới lớp 9 thôi, nghĩa là chưa xong Trung Học, con nhà nghèo phải nghỉ học sớm và sau đó đi xuất gia, nhưng mắt kém cũng chẳng học được bao nhiêu, nên Thầy đã học Thiền với Hòa Thượng Thích Thanh Từ, nhưng sau đó Thầy đau phổi nặng, nhất là thời kỳ sau năm 1975 Việt Nam chúng ta chẳng có đủ phương tiện để chữa trị. Thầy bảo rằng: Tôi phát tâm niệm Phật, thay vì ngồi Thiền. Thế mà bịnh lại hết. Từ đó Thầy tin sâu pháp môn Tịnh Độ cũng như bắt đầu dịch những kinh căn bản thuộc Tông này. Có như thế chúng ta ngày hôm nay mới có cơ hội đọc, tụng bằng tiếng Việt.
Một điều đặc biệt nữa là Thầy tự học chữ Hán, nhưng Hán văn Thầy rất giỏi. Trong Đại Tạng Kinh 10 chữ, Thầy đọc thông hết cả 10. Quả là một vị Thầy có chí và đã đóng góp cho Tịnh Độ Tông Việt Nam không ít trong thời buổi ban đầu ấy. Chẳng may giữa chừng của chuyến thăm lần thứ hai tại Đức quốc, Thầy đã ra đi ở tuổi đời và đạo còn quá trẻ, chỉ trên dưới 60, sau khi Thầy đã giảng xong 48 lời nguyện Đức Di Đà vào ngày 30 tháng 6 năm 2000 lúc 10 giờ 30 phút. Cố Thượng Tọa còn để lại Chùa Viên Giác một số bản thảo nữa, tôi sẽ cố gắng in thành sách và đây là những tài liệu cần thiết cho những người học Phật sau này khi muốn nghiên cứu hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ.
Nhìn vào Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại chúng ta tìm được Cố Hòa Thượng Thích Thiện Thanh, Trụ trì chùa Phật Tổ tại Long Beach, California, Hoa Kỳ, cũng là người có tâm Việt hóa kinh điển để lớp sau khỏi bỡ ngỡ khi chữ Hán càng ngày càng ít người biết đọc, biết viết, nhất là lớp người được sinh ra ở ngoại quốc ngày nay. Nhưng Hòa Thượng Thích Thiện Thanh cũng chủ trương dịch các kinh căn bản ra tiếng Việt chứ không phải riêng cho Tông Tịnh Độ.
Nhìn toàn bộ kinh sách Việt Nam đã, đang sử dụng ngày nay hầu hết được trích dịch, tham cứu, tra khảo theo tinh thần của kinh điển Trung Hoa và ngay cả người Việt Nam tu Tịnh Độ cũng lấy 13 vị Tổ Tịnh Độ Trung Hoa làm Tổ của mình. Quả là điều hơi chướng. Vì 13 vị Tổ này không có vị nào đến hoằng pháp giáo hóa tại Việt Nam cả. Do vậy chúng tôi đề nghị nên lấy Ngài Đàm Hoằng (? - 455) làm Sơ Tổ Tịnh Độ Tông Việt Nam. Vì Ngài đã ở Giao Châu từ năm 420 đến 455, cả 35 năm như thế, Ngài là người có công không nhỏ cho việc truyền thừa pháp môn Tịnh Độ cho người Việt Nam thuở ấy. Nếu chúng ta chấp nhận được Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi là Sơ Tổ của Thiền Tông Việt Nam thì chúng ta cũng có thể chấp nhận Ngài Đàm Hoằng là Sơ Tổ của Tịnh Độ Việt Nam vậy. Vì Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi người Ấn Độ, đến Trung Quốc và gặp Tổ thứ 3 Tăng Xán, Ngài bảo Ngài Tỳ Ni nên xuôi Nam. Do vậy Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi mới trở thành Sơ Tổ Thiền Tông tại Việt Nam. Ở đây Ngài Đàm Hoằng cũng người Trung Quốc, mà cũng đã ở tại Giao Châu trong một thời gian lâu, tu theo pháp môn Tịnh Độ. Vậy, tại sao chúng ta không thể dễ dàng chấp nhận cho vấn đề này?
Một lộ trình sâu xa và dài thăm thẳm để tìm lại căn nguyên của 2.000 năm lịch sử không đơn thuần chỉ trong một vài quyển sách như thế này. Vậy chúng tôi mong rằng những vị nào quan tâm đến Tịnh Độ Tông Việt Nam từ lúc mới được truyền vào cho đến thế kỷ 21 này thì xin bổ túc cho những đề nghị của chúng tôi cũng như tìm thêm sử liệu và dẫn chứng, để người đi sau dễ dàng tra cứu hơn.
Ngay cả bây giờ, nếu có hỏi một người tu Tịnh Độ Việt Nam nào đó, bất cứ ở trong hay ngoài nước “Ai là Tổ Tịnh Độ Tông Việt Nam”, thì họ sẽ không ngần ngại trả lời là Hòa Thượng Thiền Tâm hay Hòa Thượng Trí Tịnh. Vậy những phần sau chúng tôi để dành cho những nghiên cứu này về hai vị Hòa Thượng đương đại và sau khi tìm hiểu chúng ta thử đưa ra một nhận xét về việc phiên dịch, trước tác cũng như tư tưởng của các Ngài về Tịnh Độ Tông như thế nào?
B. Ngài Thiền Tâm và tư tưởng Tịnh Độ Năm 1979 tôi chủ trương xuất bản báo Viên Giác và cho đến nay 2011, trải qua gần 33 năm, Viên Giác đã ra được 6 số bộ cũ của năm 1979-1980 và bắt đầu từ năm 1981 đến nay ra bộ mới khổ A4 gồm 100 trang đánh máy và đã xuất bản đến số 186. Mỗi năm ra 6 số và mỗi lần phát hành độ 5.000 đến 6.000 bản, gởi đi 42 nước trên thế giới. Riêng số Xuân mỗi năm có số lượng in nhiều hơn và số trang cũng gấp đôi số thường. Đây là một trong những tờ báo Phật Giáo ở ngoại quốc có số phát hành nhiều và sống lâu đời nhất.
Ban đầu chúng tôi rất khan hiếm bài vở. Vì lẽ cái gì cũng mới mẻ, nên phải viết thư xin bài, hay có ai đó quen biết cũng gợi ý để cho họ viết bài đóng góp cho Viên Giác. Ban Biên Tập thuở ban đầu chỉ có một vài người và năm nay kỷ niệm 33 năm Báo Viên Giác, số người cộng tác trực tiếp và gián tiếp cho Báo Viên Giác đã lên đến hằng trăm. Do vậy bài vở rất dồi dào, súc tích.
Thuở ban đầu Viên Giác chỉ trích đăng những bài giáo lý thuộc về Đạo Phật, một vài bài viết về quê hương và một ít tin tức của Giáo Hội ở trong cũng như ngoài nước. Nhưng sau này khi Viên Giác được nhiều người đọc ủng hộ thì Viên Giác chia ra nhiều mục rõ ràng như: Thư Tòa Soạn, mục về Tôn Giáo, mục về sáng tác thơ văn, tùy bút, trang tiếng Đức, trang Thiếu Nhi, Tin Thế Giới, Tin Việt Nam, trang Y Học, Hộp Thư Viên Giác, Phương Danh Cúng Dường, Cáo Phó, Tin Vui v.v… Một Ban Biên Tập đã hình thành và vị nào có trách nhiệm phần nào thì lo cho phần ấy. Riêng tôi vừa làm Chủ Nhiệm và vừa phải lo phần Tôn Giáo cho tờ báo, nên tôi đã đi tìm sách vở để có đăng hằng kỳ. May sao lúc ấy, độ năm 1981 - 1984 tôi đã trích đăng “Lá Thư Tịnh Độ” của Liên Du và nhiều độc giả rất thích về mục này. Trong thời gian ấy báo Viên Giác cũng gởi đến cho các trại tỵ nạn tại Đông Nam Á Châu để cho đồng bào Việt Nam chờ đi định cư tại các nước thứ ba có cơ hội đọc. Một hôm tôi nhận được một lá thư từ đảo gởi qua, cho biết là có dịp đọc được báo Viên Giác và có xem qua mục “Lá Thư Tịnh Độ” của Liên Du và Thầy Hải Quang xưng là cháu của Hòa Thượng Thiền Tâm. Còn sách ấy nhan đề là “Long Thơ Tịnh Độ” chứ không phải là “Lá Thư Tịnh Độ”. Tôi đọc vậy thì biết vậy, chứ thật ra trước khi tôi đi du học Nhật Bản vào năm 1972 cũng chưa có dịp gặp Ngài Thiền Tâm ở Việt Nam, nên đã chẳng rõ biết bút hiệu của Ngài. Từ đó về sau Viên Giác đã cho đăng hết tập sách này. Đây là cái duyên ban đầu để chúng tôi biết về Hòa Thượng Thích Thiền Tâm.
Sau này có đọc những sách dịch của Ngài như: “Tịnh Độ Thập Nghi Luận”, “Niệm Phật Thập Yếu, “Kinh Niệm Phật Ba La Mật” v.v… và nhất là sau này Thượng Tọa Hải Quang đã đến Hoa Kỳ, trú tại chùa Pháp Hoa ở Arizona thì có liên lạc nhiều hơn và đã nhận được nhiều sách vở in lại của Cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm cho Thư Viện chùa Viên Giác Hannover. Thuở ấy và ngay cả bây giờ, đây là những tài liệu nghiên cứu rất quý giá bằng Việt ngữ cho những ai tu theo pháp môn Tịnh Độ.
Trên trang nhà quangduc.com có đăng Tiểu Sử và công trạng của Ngài, tiện đây tôi xin tải đăng để tất cả chúng ta cùng đọc.
“Hòa Thượng pháp danh là Thiền Tâm, Pháp hiệu Liên Du, Pháp tự Vô Nhất, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, xuất gia vào năm Ất Dậu (1945) với Đại Lão Hòa Thượng Thích Thành Đạo tại chùa Sắc Tứ Linh Thứu (Xoài Hột, Mỹ Tho) thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43.
Hòa Thượng sanh vào năm Ất Sửu (1925) tại xã Bình Xuân, quận Hòa Đồng, tỉnh Gò Công (hiện nay là tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là Cụ Ông Nguyễn Văn Hưng, thân mẫu là Cụ Bà Giác Ân Trần Thị Dung. Ngài là người con trai thứ ba trong số bốn con trai của gia đình. Năm 1948 thọ giới Sa Di, năm 1950 thọ Cụ Túc giới tại giới đàn Ấn Quang, Sàigòn.
Năm 1951 Ngài hoàn tất chương trình Trung Đẳng Phật Học tại Phật Học Đường Liên Hải và Ấn Quang.
Năm 1954 Ngài hoàn tất Cao Đẳng Phật Học tại Phật Học Đường Nam Việt với hạng “tối ưu”.
Năm 1955-1964 Ngài nhập thất tịnh tu qua các trụ xứ tại Cái Bè (Mỹ Tho) và Vang Quới (Bến Tre).
Năm 1964, tuân lệnh triệu hồi của Giáo Hội, Ngài trở về Sàigòn đảm nhận việc thành lập và giữ chức vụ Giám Đốc viện “Cao Đẳng Chuyên Biệt Phật Học” tại An Dưỡng Địa, Phú Lâm (tức là Chùa Huệ Nghiêm hiện nay). Đồng thời Ngài phụ trách Phân khoa Phật Học tại Đại Học Vạn Hạnh (Giáo Sư dạy Duy Thức học). Cũng như làm Giáo Thọ sư tại các Ni Trường Dược Sư, Từ Nghiêm.
Năm 1967, Hòa Thượng về Đại Ninh kiến lập Hương Quang tịnh thất, chuẩn bị ẩn tu.
Năm 1968 Hòa Thượng chính thức hoàn trả chức vụ lại cho Viện Hóa Đạo, về hẳn tại Ấp Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, bế quan tịnh tu.
Năm 1970-1974 qua sự tha thiết thỉnh cầu của tứ chúng, Ngài tạm thời ra thất, kiến lập Hương Nghiêm Tịnh Viện (cho chư Tăng) và Phương Liên Tịnh Xá (cho chư Ni). Mở khóa tu học “Tịnh Độ Chuyên Biệt” tại 2 đạo tràng này trong 3 năm liên tiếp.
Kể từ năm 1975, Hòa Thượng hoàn toàn viễn ly với bên ngoài, bế quan tịnh tu “vô thời hạn”. Ngài dự biết trước ngày giờ vãng sanh hơn 6 tháng.
Đến 4 giờ sáng ngày 21 tháng 11 âm lịch năm Nhâm Thân (1992) Hòa Thượng cho gọi Thị Giả và cũng là Trưởng Tử của Hòa Thượng là Ni Sư Thích Nữ Thanh Nguyệt, triệu tập các môn đồ, pháp quyến vào trong tịnh thất hộ niệm.
Đúng 6 giờ 15 phút sáng Ngài lưu lại bài kệ sau cùng và an nhiên thị tịch ngay trên bản tọa (chỗ ngồi). Ngài hưởng thọ tuổi đời 68 và Tăng lạp 48, hạ lạp 42.
Ngài là một bậc Cao Tăng đắc đạo và được vãng sanh về Cực Lạc trong thời cận đại này. Ngoài các công nghiệp Tịnh Độ ra, Hòa Thượng còn có lưu lại một hạt “ngũ sắc Kim Cang nha xỉ xá lợi” (một răng cấm 5 màu còn nguyên vẹn cứng như kim cương, được bảo toàn kỹ lưỡng).
Hòa Thượng đã lưu lại cho đời một số kinh sách (đại lược như sau):
A. Phẩm dịch:
- Đại Bi Tâm Đà La Ni kinh
- Quán Vô Lượng Thọ kinh
- Đại Nhựt kinh
- Hương quê Cực Lạc
- Tịnh Độ Thập Nghi Luận
- Thiện ác Nhân quả Báo ứng kinh
- Nhân quả Luân hồi tạp lục ký
- Tam Bảo cảm ứng yếu lược lục
- Lá Thư Tịnh Độ
- Niệm Phật Ba La Mật kinh
- Liên Tông Thập Tam Tổ
- Tịnh Độ Hoặc Vấn
B. Soạn Thuật:
- Duy Thức học cương yếu
- Phật học tinh yếu (1, 2,3)
- Tịnh học tân lương (1, 2, 3)
- Niệm Phật Thập Yếu
- Mấy điệu sen thanh (1, 2, 3, 4, 5, 6, 7)
- Tây phương Nhật khóa
- Tịnh Độ Pháp Nghi
- Mật Tạng Phật Giáo Việt Nam
- Niệm Phật Tam Muội
- Những Ngày Chay …
Riêng quyển “Niệm Phật Thập Yếu” được xem như là quyển sách gối đầu - hoằng dương Tịnh Độ có giá trị bậc nhất hiện thời.
C. Trứ tác:
- Thiền Tâm thi tập (gồm hơn 1.000 bài thơ đạo đủ các thể loại)
- Ẩn tu ngẫu vịnh bá bát thi (108 bài “Vịnh ẩn tu”).
Hòa Thượng là một vị Đại Tôn Sư hoằng dương cả hai pháp môn Tịnh Độ cùng Mật Tông lừng lẫy nhất của Phật Giáo Việt Nam thời hiện đại…”
Đọc qua Tiểu Sử của Ngài chúng ta thấy được những điểm chính yếu như sau:
Điểm thứ nhất là trong 48 năm xuất gia hành đạo của Ngài, Ngài đã dành ra 3 lần tịnh tu nhập thất, tất cả là 30 năm. Lần thứ nhất 10 năm, kể từ năm 1955-1964. Lần thứ hai 3 năm từ năm 1968 đến 1970 và lần thứ 3 Ngài đã quyết bế quan vô thời hạn trong thời gian từ 1975 đến lúc vãng sanh vào năm 1992, tức là 17 năm.
Hơn phân nửa đời tu, Ngài đã ở trong thất. Chắc chắn đây là thời gian Ngài tịnh tu, dịch kinh, viết sách, hạ thủ công phu, cho đến ngày viên mãn. Nếu Ngài không có 30 năm trong thất ấy, chúng ta ngày nay chắc không được lợi lạc gì nhiều. Vì chính công hạnh tu hành của Ngài cũng như những sáng tác của Ngài là một giá trị tâm linh cao cả, khó gì có thể sánh được.
Thứ hai là Ngài đã chuyên tu về pháp môn Tịnh Độ, cho nên những kinh điển Ngài phiên dịch từ chữ Hán đều có liên quan đến Pháp này. Ngay cả những sáng tác, soạn thuật, Ngài cũng đã chọn những danh từ đều có liên hệ với hoa sen, cũng như cảnh giới Tây Phương Cực Lạc.
Thứ ba là Ngài không từ nan trọng trách Giáo Hội đã giao phó để dạy dỗ Tăng Ni, Phật Tử và tạo lập đạo tràng để cho Tăng Ni có nơi tu học.
Đây có thể gọi là ba trách vụ chánh, khi hành hạnh Bồ Tát ở thế giới khó độ này, Ngài đã ra tay tế độ quần sanh để đến ngày viên mãn, Ngài đã biết được ngày giờ ra đi trước đó 6 tháng và còn lưu lại xỉ nha xá lợi nữa. Sau khi Ngài viên tịch có người đệ tử hiệu là Bảo Đăng ở Hoa Kỳ có ghi lại những điều cảm ứng và hành trạng của Ngài trong sách "Vô Nhất Đại Sư". Nếu quý vị nào cần tham khảo, xin vào mạng để truy cập.
Theo Tiểu Sử của Ngài như trên đã cho biết, chúng ta tìm hiểu về quyển “Niệm Phật Thập Yếu” được xem là sách gối đầu giường cho những người tu Tịnh Độ. Vậy chúng ta hãy dành thời gian đi vào nội dung của sách qua một số phần trích nguyên văn như sau:
LỜI PHI LỘBản thảo quyển này vừa viết xong, có vài ba Đại Đức hỏi mượn luân phiên nhau xem, rồi cật vấn:- Chúng tôi thấy chư vị hoằng dương về Thiền Tông dường như có ý bài xích Tịnh Độ. Chẳng hạn như trong quyển “Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất” có câu: Niệm Phật tụng kinh đều là vọng tưởng. Còn trong đây lại bảo: Môn Tịnh Độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba căn, thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mật. Xem ra cũng dường như có ý cho rằng Tịnh Độ là độc thắng, sự việc ấy như thế nào? Đáp: Không phải thế đâu. Mỗi môn đều có tông chỉ riêng. Các bậc hoằng dương tùy theo chỗ lập pháp của mình, bao nhiêu phương tiện thuyết giáo đều đi về những tông chỉ ấy. Như bên Thiền lấy: Chỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật, làm Tông chỉ. Tịnh Độ môn lấy: Một đời vãng sanh, được bất thối chẳng làm tông. Bên Hoa Nghiêm lấy: Lìa thế gian, nhập pháp giới làm tông. Thiên Thai giáo lấy: Mở, bày, trung đạo làm tông. Pháp Tướng môn lấy: Nhiếp muôn pháp về Chân Duy Thức làm tông. Mật Giáo lấy: Tam mật tương ưng, tức thân thành Phật làm tông. Luật môn lấy: Nhiếp thân ngữ ý và Thi La tánh (giới tánh) làm tông.Cho nên lời nói bên Thiền ở trên, không phải bác Tịnh Độ, hay bác niệm Phật tụng kinh, mà chính là phá sự chấp kiến về Phật và Pháp của người tu. Nếu niệm Phật và tụng kinh là thấp kém, sai lầm, tại sao từ Đức Thế Tôn cho đến chư Bồ Tát, Tổ Sư đều ngợi khen khuyên dạy tụng kinh niệm Phật? Nên biết, Vĩnh Minh Thiền Sư, tương truyền là hóa thân của Phật A Di Đà, mỗi ngày đều tụng một bộ Pháp Hoa. Lại nữa, Phổ Am Đại Sư cũng nhân tụng kinh Hoa Nghiêm mà được ngộ đạo. Sự thuyết giáo của Tịnh Độ cũng thế, không phải bác bỏ phái Thiền Tông, chỉ nói là chỗ đặc sắc thiết yếu của bản môn, để cho học giả suy xét tìm hiểu sâu rộng thêm, mà tùy thích tùy cơ, chọn đường thu nhập.Lại nữa, mỗi môn tuy tông chỉ không đồng, nhưng đều là phương tiện dẫn chung về Phật tánh. Như một đô thành lớn có 8 ngõ đi vào, mà ngõ nào cũng tập trung về đô thị ấy. Các tông đại khái chia ra làm hai là Không môn và Hữu môn. Không môn thì phương tiện lý tánh đi vào. Hữu môn từ phương tiện sự tướng đi vào. Nhưng đi đến chỗ tận cùng thì dung hội tất cả. Sự tức lý, lý tức sự, tánh tức tướng, tướng tức tánh. Nói cách khác: Sắc tức là không, không tức là sắc, không và sắc chẳng khác nhau. Cho nên khi xưa có một vị Đại Sư tham thiền ngộ đạo, nhưng lại mật tu về Tịnh Độ. Lúc lâm chung Ngài lưu kệ phó chúc cho đại chúng, rồi niệm Phật vãng sanh. Một vị Thiền giả bỗng lên tiếng hỏi: Cực Lạc là cõi hữu vi, sao Tôn Đức lại cầu về làm chi? Đại Sư quát bảo: Ngươi nói vô vi ngoài hữu vi mà có hay sao? Thiền giả nghe xong chợt tỉnh ngộ. Thế nên Thiền và Tịnh đồng về một mục tiêu. Hữu môn cùng Không môn tuy dường tương hoại mà thật ra tương thành cho nhau vậy.Đến khi nói: Tịnh Độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba căn và thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mật chính là lời khai thị của chư cổ đức như: Liên Trì, Triệt Ngộ, Ngẫu Ích, Kiên Mật. Các Đại Sư này là những bậc long tượng trong một thời, sau khi tham thiền ngộ đạo, lại xương minh về lý mầu của Tịnh Độ pháp môn. Như Triệt Ngộ Đại sư, trong tập Ngữ Lục bảo rằng: “Một câu A Di Đà, tâm yếu của Phật ta. Dọc quán suốt 5 thời, ngang gồm thâu 8 giáo.” Và Kiên Mật Đại sư sau khi quán sát thời cơ, trong Tam Đại Yếu cũng bảo: Đời nay tham thiền chẳng nỡ không kiêng Tịnh Độ, phòng khi chưa chứng đạo bị thối chuyển, há chẳng kinh sợ lạnh lòng? Một câu A Di Đà, nếu không phải là bậc thượng căn, đại triệt, đại ngộ, tất không thể hoàn toàn đề khởi. Nhưng với câu này, kẻ hạ căn tối ngu vẫn chẳng chút chi kém thiếu. Thế nên, thuốc không quý tiện, lành bệnh là thuốc hay; pháp chẳng cao thấp, hợp cơ là pháp diệu. Tịnh Độ với Thiền Tông thật ra chẳng thấp cao hơn kém. Nhưng luận về căn cơ, thì Thiền Tông duy bậc thượng căn mới có thể được lợi ích, còn môn Tịnh Độ thì gồm nhiếp cả ba căn, hạng nào nếu tu cũng đều dễ thành kết quả. Luận về thời tiết thì thời mạt pháp này, người trung, hạ căn nhiều, bậc thượng căn rất ít. Nếu muốn đi đến thành quả giải thoát một cách chắc chắn, tất phải chú tâm về Tịnh Độ pháp môn. Đây do bởi lòng đại bi của Phật, Tổ, vì quán thấy rõ thời cơ muốn cho chúng sanh sớm thoát nỗi khổ luân hồi, nên trong các kinh luận đã nhiều phen nhắc nhở. Điều này là một sự kiện rất quan yếu và hết sức xác thật.Tuy nhiên, như trong kinh nói: Chúng sanh sở thích và tánh dục có muôn ngàn sai biệt không đồng, nên chư Phật phải mở vô lượng pháp môn mới có thể thâu nhiếp hết được. Vì vậy Tịnh Độ tuy hợp thời, song chỉ thích ứng một phần, không thể hợp với sở thích của tất cả mọi người, nên cần phải có Thiền Tông và các môn khác để cho chúng sanh đều nhờ lợi ích và Phật Pháp được đầy đủ sâu rộng. Cho dù đã tùy căn cơ, sở thích của mình mà chọn môn Tịnh Độ, thâm ý của Tác Giả vẫn mong cho Thiền Tông và các môn khác được lan truyền rộng trên đất nước này. Còn những môn khác, nếu đem lại cho chúng sanh dù một điểm lợi ích nhỏ nhoi nào, bút giả cũng xin hết lòng tùy hỷ. Tóm lại, Hữu môn và Không môn nói chung, Thiền Tông và Tịnh Độ nói riêng, đồng cùng đi về chân tánh. Tuy hai mà một, đều nương tựa để hiển tỏ thành tựu lẫn nhau và cũng đều rất cần có mặt trên xứ Việt Nam, cho đến cả thế giới.Mấy vị Đại Đức sau khi nghe xong đều tỏ ý tán đồng. Nhân tiện, bút giả lại trần thuật bài kệ của Tây Trai lão nhơn để kết luận và chứng tỏ người xưa cũng đã từng đồng quan điểm ấy:Tức tâm là độ lý không ngoaTịnh khác Thiền đâu, vẫn một nhàSắc hiển trang nghiêm miền diệu hữuKhông kiêm vô ngại cõi hằng saTrời Tây sáng đẹp màu châu ngọcNguyện Phật bao la đức hải hàNgoảnh lại đường tu, ai sớm tỉnh?Nỗi thương ác đạo mỗi vào raThích Thiền Tâmcẩn chí(Hết trích)
Đây là lời tựa của cuốn "Niệm Phật Thập Yếu". Cuối lời tựa không để năm tháng, nhưng ở "Lời sau cùng" của sách thì ghi là Ngày Phật Đản 2515. Tức cách đây 40 năm (2555-2515) nghĩa là sách này được viết và in hoàn thành năm 1971.
Đây là quyển sách tương đối quan trọng. Vì là thời gian thứ 2 sau 13 năm nhập thất tất cả của cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm. Trong lời tựa này chúng ta thấy rõ rằng: Ngài chọn pháp môn Tịnh Độ là chánh, nhưng những pháp môn khác, Ngài vẫn dung hòa để đi đến một điểm chung là giác ngộ và thoát ly sanh tử luân hồi. Điều này cũng dễ hiểu thôi. Vì thuở ấy vào năm 1971, 1972 Việt Nam chúng ta bị chiến tranh loạn lạc, Thiền Tông đang trong thời kỳ khôi phục lại và Mật Tông cũng vậy. Do đó Ngài không muốn làm phật lòng những pháp hữu của Ngài đương đại, cho nên mới trung dung như vậy, nhưng nếu chúng ta nhìn lịch sử phát triển Tịnh Độ Tông của Trung Hoa thời Đường hay Tịnh Độ Tông Nhật Bản thời Ngài Thân Loan thì khác hẳn. Các vị Đạo Sư là Tổ Sư Tịnh Độ chủ trương phát triển không ngừng nghỉ, đến điểm cao tột của Tịnh Độ, khiến cho các Tông Phái khác ganh tị nên mới tấu lên triều đình (Nhật), do vậy Tịnh Độ Tông phải điêu đứng một thời vào thế kỷ 13 (xin xem chương về Ngài Thân Loan và Ngài Pháp Nhiên). Từ đó các vị Đạo Sư này chủ trương rõ ràng rằng: Thiền là Thiền, Tịnh là Tịnh. Chứ không có cái chung được. Chủ trương như thế cũng có lý do của nó, nhưng xin thưa, mỗi người sinh ra trong đời này tùy theo trong từng thời gian hiện thế để mang đạo vào đời, cho nên quý Ngài mới phương tiện nói ra những điều như thế. Vậy thì đúng, sai chỉ có tính cách tương đối và tuyệt nhiên không có vấn đề tuyệt đối qua nhận thức trên.
Sau đây là mục lục chi tiết của sách Nieemjff Thập Yếu:
Chương 1: Niệm Phật phải vì giải thoát sanh tử
Mục A. Môn Tịnh Độ, một pháp hợp thời cơ
Tiết 1. Bắc Phương Phật Giáo với nhân duyên Tịnh Độ
Tiết 2. Những huyền ký về Tịnh Độ
Tiết 3. Sự chuyển hướng từ Thiền sang Tịnh
Mục B. Môn Tịnh Độ với vấn đề sanh tử
Tiết 4. Niệm Phật thế nào mới hợp với bản ý của Phật?
Tiết 5. Tám mối khổ lớn
Mục C. Biết khổ phải ý thức đến sự giải thoát
Tiết 6. Quán về sự khổ luân hồi
Tiết 7. Muốn sớm thoát khổ, nên tu Tịnh Độ
Chương 2: Niệm Phật phải phát lòng Bồ Đề
Mục A. Luận về Bồ Đề tâm
Tiết 8. Ý nghĩa của Bồ Đề tâm
Tiết 9. Bồ Đề tâm với môn Tịnh Độ
Mục B. Những công hạnh của Bồ Đề tâm
Tiết 10. Làm thế nào để phát lòng Bồ Đề
Tiết 11. Những huấn thị về Bồ Đề tâm
Mục C. Ba sự kiện thiết yếu đối với Bồ Đề tâm
Tiết 12. Đường sanh tử nhiều nguy hiểm
Tiết 13. Cầu giải thoát ngay trong hiện kiếp
Tiết 14. Làm thế nào để thành mãn Bồ Đề tâm
Chương 3: Niệm Phật phải dứt trừ lòng nghi
Mục A. Lòng tin cửa vào Tịnh Độ
Tiết 15. Sự trọng yếu của lòng tin
Tiết 16. Những điều làm giảm phá niềm tin
Mục B. Giải thích các điều nghi
Tiết 17. Những mối nghi thông thường về Tịnh Độ
Tiết 18. Những mối nghi thiệp lý
Tiết 19. Những mối nghi căn cứ theo Kinh Điển
Tiết 20. Cần phá lối chấp nhị biên
Chương 4: Niệm Phật phải quyết định nguyện
Mục A. Nguyện thiết, động lực chánh của sự vãng sanh
Tiết 21. Tánh cách trọng yếu của sự phát nguyện
Tiết 22. Kinh văn khuyên phát nguyện
Tiết 23. Thử xét qua những tâm nguyện cầu vãng sanh
Mục B. Giới thiệu lời văn phát nguyện của tiền nhơn
Tiết 24. Văn phát nguyện của Ngài Liên Trì và Từ Vân
Tiết 25. Phát nguyện cần phải khẩn thiết
Chương 5: Niệm Phật phải hành trì cho thiết thật vãng sanh
Mục A. Môn niệm Phật với Tứ Đoạt và Tứ Hạnh
Tiết 26. Hạnh tinh chuyên cũng là điểm không thể thiếu
Tiết 27. Niệm Phật với Tứ Đoạt
Tiết 28. Niệm Phật với Tứ Hạnh
Mục B. Khái luận về các phương pháp niệm Phật
Tiết 29. Bốn môn niệm Phật
Tiết 30. Mười phương thức trì danh
Mục C. Đi vào đường lối thực hành
Tiết 31. Bốn môn Tam Muội
Tiết 32. Ba phần hành trì
Tiết 33. Cách đối trị hôn trầm tán loạn
Chương 6: Niệm Phật phải đoạn tuyệt phiền não
Mục A. Lược đàm về tham phiền não
Tiết 34. Phương diện khai tâm
Tiết 35. Đối trị dục nhiễm
Tiết 36. Đối trị tham vi tế
Mục B. Lược đàm về sân phiền não
Tiết 37. Phương pháp đối trị sân
Tiết 38. Cách đoạn tuyệt thị phi
Tiết 39. Những lời khuyên răn về việc thị phi
Mục C. Lược đàm về si phiền não
Tiết 40. Nói chung về nghiệp si
Tiết 41. Phải diệt niệm buồn chán
Tiết 42. Cách đối trị tổng quát
Chương 7: Niệm Phật phải khắc kỳ cầu chứng nghiệm
Mục A. Nên định kỳ kiết thất
Tiết 43. Sự sống chết lớn lao
Tiết 44. Ý nghĩa kiết thất
Tiết 45. Cách đả thất
Mục B. Quyết định cầu nguyện
Tiết 46. Sự và lý
Tiết 47. Sự trì, lý trì
Tiết 48. Sự nhứt tâm, lý nhứt tâm
Mục C. Cảnh giới phát hiện
Tiết 49. Nội cảnh giới
Tiết 50. Ngoại cảnh giới
Tiết 51. Biện ma cảnh
Tiết 52. Các loại ma
Chương 8: Niệm Phật phải bền lâu, không gián đoạn
Mục A. Yếu điểm của môn Tịnh Độ
Tiết 53. Phải nhớ chí nguyện để tinh tấn
Tiết 54. Pháp môn thoát sanh tử trong một đời
Tiết 55. Niệm Phật chớ sợ cười, đừng chờ hẹn
Mục B. Làm thế nào niệm được bền lâu?
Tiết 56. Phải tuần tự tiến tu
Tiết 57. Nên cầu tinh thuần, đừng tham nhiều
Tiết 58. Chớ để mất phần nhập phẩm
Mục C. Tịnh Độ, môn giải thoát đặc biệt
Tiết 59. Niệm Phật, phương pháp dễ tu
Tiết 60. Từ tán tâm sẽ đi đến tịnh tâm
Tiết 61. Mười phương Tịnh Độ và Đâu Suất Tịnh Độ
Chương 9: Niệm Phật phải an nhẫn các chướng duyên
Mục A. Nói lược về các duyên khảo
Tiết 62. Vài nguyên nhân của các chướng duyên
Tiết 63. Các duyên ma khảo
Mục B. Phương thức hóa giải chướng duyên
Tiết 64. Lời khuyên dạy của Cổ Đức
Tiết 65. Cách giữ vững tâm không thối chuyển
Mục C. Những gương về sự an nhẫn
Tiết 66. Sự an nhẫn của Cư sĩ Trần Vạn Dật
Chương 10: Niệm Phật phải dự bị lúc lâm chung
Mục A. Những dự bị cần thiết cho lúc lâm chung
Tiết 67. Dự bị về ngoại duyên
Tiết 68. Dự bị về tinh thần
Mục B. Sự khẩn yếu lúc lâm chung
Tiết 69. Thỉnh bậc tri thức khai thị
Tiết 70. Cách thức trợ niệm
Mục C. Điều khẩn yếu sau khi mãn phần
Tiết 71. Khi tắt hơi cho đến lúc truy tiến
Tiết 72. Những gương được mất về sự trợ niệm
Sách này tổng cộng là 388 trang, gồm 10 Chương, 28 Mục A, B, C và 72 Tiết. Đây là một quyển sách hướng dẫn cho hành giả tu theo Pháp môn niệm Phật người Việt Nam một cách rõ ràng, khúc chiết và hầu như tổng hợp được tư tưởng của các vị Tổ Tịnh Độ Trung Hoa. Dĩ nhiên trong 10 điều cần yếu Niệm Phật để vãng sanh này không ra ngoài những gì chư Phật và chư Tổ đã dạy. Vì Cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm rất giỏi chữ Hán, cho nên nhờ những sách dịch ấy mà Ngài đã tạo thành tư tưởng của mình. Vả lại trong 30 năm tịnh tu, nhập thất, hành trì ấy, nhất là thời gian từ năm 1975 đến 1992, thời gian 17 năm sau cùng của đời Ngài ở Đại Ninh rất quan trọng. Thời gian ấy là thời điểm khó khăn nhất về mọi mặt, đã xảy ra trên quê hương Việt Nam của chúng ta, nhứt là về phương diện Tôn Giáo. Do vậy sự nhập thất, bế môn “vô thời hạn” ấy rất có giá trị cho việc vãng sanh biết trước giờ ra đi của Ngài.
Ở đây hậu học cần biết một tư tưởng Tịnh Độ của Tịnh Độ Tông Việt Nam khác với Tịnh Độ Tông Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng như thế nào, nhưng vẫn chưa tìm ra tư tưởng lớn ấy như Ngài Thân Loan, Pháp Nhiên (Nhật), Đàm Loan, Đạo Xước (Trung Hoa), Thầy của Ngài Tulku Thondrup (Tây Tạng) v.v… Do vậy Việt Nam chúng ta cần phải có một tư tưởng về Tịnh Độ đặc biệt như vậy. Tuy nhiên người Phật Tử Việt Nam vẫn lầm rằng: Ngài Thiền Tâm là Sơ Tổ của Tịnh Độ Tông Việt Nam, nhưng nếu kể từ Ngài Đàm Hoằng (455) đến Ngài Thiền Tâm (1992), giữa hai Ngài cách xa nhau là 1.537 năm lịch sử. Dĩ nhiên giữa thời gian ấy, nay mai những người tu theo pháp môn Tịnh Độ Việt Nam sẽ tìm ra được những vị khác đã kế thừa và có khai tông lập giáo rõ ràng trong khoảng hơn 1.500 năm lịch sử ấy thì lúc bấy giờ việc tôn phong các vị Tổ như Ngài Thiền Tâm cũng không muộn.
Dẫu sao đi nữa trong thế kỷ 20, riêng nước Việt Nam chỉ có Cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm là người xiển dương Tịnh Độ theo khuôn mẫu của người Trung Quốc ở Việt Nam rất là rõ ràng và thành công hết mực. Nhờ vậy mà hậu thế mới có cơ hội tìm hiểu, tra cứu v.v…
Ba Kinh Tịnh Độ vẫn là 3 bản kinh gốc mà các vị Tổ Sư như Ngài Long Thọ, Thế Thân (Ấn Độ), Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo (Trung Hoa), Nguyên Tín, Nguyên Không Pháp Nhiên, Thân Loan (Nhật Bản) hay Ngài Dodrupchen (Tây Tạng) v.v… mỗi vị Tổ Sư của các quốc gia ấy đã rút tỉa ra được những phương pháp tu hay niệm Phật quán tưởng cho Phật Tử của họ. Riêng Việt Nam chúng ta chưa thấy được một vị Tổ Sư Tịnh Độ nào có được một cái nhìn rõ ràng như vậy, mà hầu như chỉ rập khuôn theo lối cũ của người Trung Quốc. Vì Trung Quốc không phải là Việt Nam. Hy vọng chúng ta sẽ tìm được tư tưởng này ở những nhà nghiên cứu khác.
Sau đây chúng ta điểm lại “Lời Sau Cùng” trong sách Niệm Phật Thập Yếu của Cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm đã soạn cách đây 40 năm về trước.
“Người xưa bảo: Trứ thư nghi tại vãn niên. Đây ý nói: Viết sách nên đợi lúc tuổi già, tuổi càng lớn càng đầy đủ hiểu biết kinh nghiệm, quyển sách viết ra giá trị mới có thể được thành toàn. Bút giả chưa phải tuổi già mượn chỗ kinh nghiệm cùng sự hiểu biết tất còn nhiều thiếu sót, song vì cấp thiết trong sự lợi tha, lại chẳng biết vô thường sẽ đến ngày nào, nên gắng gượng xin đem chút ngu thành kiến dâng bày thức giả. Đây xin nói là trứ tác, song phần lớn đều rút lời trong kinh Phật, ý kiến của chư Cổ Đức cùng các bậc thiện tri thức mà góp thành. Nên thiết tưởng cũng có thể đem lại lợi ích phần nào cho bạn đọc.
Khi xưa Sở Thạch Đại Sư có hai câu thi:
Nhơn sanh bá tuế thất tuần hy
Vãng sự hồi quan tận giác phi!
Lời này thốt ra trong lúc Ngài đã thất tuần, ý than:
Kiếp người tuy nói trăm năm, nhưng sống được 70 tuổi cũng rất ít có.
Và tuổi đời 70 như Ngài khi quay nhìn việc cũ, thấy mình đều lỗi lầm.
Một bậc Cao Tăng mà còn tự phê kiểm dường ấy, thì hạng người phàm thường sự lầm lỗi biết là bao nhiêu? Cho nên khi bút giả nghĩ mình tội chướng còn dẫy đầy, tự độ chưa xong mà nói đến chuyện khuyên nhắc người, đôi lúc cũng hổ thẹn bàng hoàng ngập ngừng không muốn viết. Nhưng nghĩ lại danh từ khuyến hóa thật ra mình chẳng dám đương, nhưng lấy tánh cách người trong biển khổ gắng kêu nhắc đồng bạn cùng vượt qua biển khổ, để mong cho mình nhờ chút ảnh hưởng đó tiêu bớt phần nào tội chướng nên mới không ngần ngại.
Nhớ lại thuở đời nhà Minh bên Trung Hoa, ông La Điện có soạn bài thi Tỉnh Thế như sau:
Vội vội vàng vàng khổ nhọc cầu
Mưa mưa nắng nắng trải xuân thu.
Hôm hôm sớm sớm lo sinh kế,
Lãng lãng quên quên thấy bạc đầu.
Thị thị phi phi không kết liễu,
Phiền phiền não não những bi ưu.
Rành rành rõ rõ một đường đạo
Vạn vạn ngàn ngàn chẳng chịu tu.
Lời văn trên tuy thô sơ, dường như không có đạo lý chi sâu sắc, nhưng đã đem tất cả hành vi và chướng nghiệp trong đời sống của kiếp người mô tả ra rất rõ ràng. Ai có thể tránh khỏi khuôn khổ của bài thi trên đây và cố gắng tu hành, mới gọi là người đi trên đường giải thoát.
Ông La Điện sở dĩ có lời than trên đây, bởi thấy biển tục dễ chìm, đường tu khó bước. Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Đức Phật dạy nhơn sanh có 20 việc khó:
- Nghèo khổ bố thí là khó
- Giàu sang học đạo là khó
- Xả thân quyết chết là khó
- Xem được kinh Phật là khó
- Nhịn sắc lìa dục là khó
- Sanh gặp đời Phật là khó
- Thấy tốt không cầu là khó
- Bị nhục chẳng giận là khó
- Có thế không ỷ là khó
- Gặp việc vô tâm là khó
- Học rộng nghiên tầm nhiều là khó
- Trừ bỏ ngã mạn là khó
- Không khinh kẻ chưa học là khó
- Tâm hành bình đẳng là khó
- Chẳng nói việc thị phi là khó
- Được gặp thiện tri thức là khó
- Thấy tánh học đạo là khó
- Tùy duyên độ người là khó
- Thấy cảnh không động là khó
- Khéo biết dùng phương tiện là khó.
Trong 20 điều trên, nơi đây chỉ xin nói lược qua ít chi tiết. Như nghèo khổ bố thí là khó, bởi nghèo khổ dầu muốn bố thí, nhưng ngặt vì có lòng mà thiếu sức. Nếu gắng gượng bố thí, tất ảnh hưởng đến sự sống của mình, nên mới thành khó. Hoặc như giàu sang học đạo khó, bởi giàu sang tuy có sức bố thí, song lại bị cảnh dục lạc lôi cuốn, khó buông bỏ thân tâm để tu hành. Sanh gặp đời Phật là khó, như luận Trí Độ nói: Ở thành Xá Vệ gồm 9 ức dân mà chỉ có 3 ức người được gặp thấy Phật, ba ức người tuy nghe danh tin tưởng nhưng không thấy Phật và 3 ức người hoàn toàn không được nghe biết cũng không được thấy. Đức Phật ở tại xứ này giáo hóa trước sau 25 năm, mà còn có 3 ức người (tức là 300.000 người) không thấy gặp nghe biết, thì những kẻ sanh nhằm đời Phật nhưng vẫn ở cách xa, hoặc sanh trước hay sau khi Phật ra đời, tất cơ duyên gặp Phật hoặc nghe Phật Pháp là điều không phải dễ. Nhưng tuy không gặp được Phật mà y theo chánh pháp tu hành, thì cũng như gặp Phật. Nếu không theo lời Phật dạy, dù ở gần Phật, vẫn là cách xa. Như khi xưa Đề Bà Đạt Đa là em họ của Phật, Tỳ Kheo Thiện Tinh làm thị giả cho Phật 20 năm, vì không giữ đúng theo đường đạo, nên kết cuộc đều bị đọa địa ngục. Bà lão ở phía Đông thành Xá Vệ, sanh đồng năm tháng ngày giờ với Phật, nhưng vì vô duyên nên không muốn thấy gặp Phật.
Cho nên được thấy Phật nghe pháp, y theo lời dạy phụng hành, phải là người có nhiều căn lành phước đức nhơn duyên. Nay Như Lai đã nhập diệt, các bậc thiện tri thức thay thế Phật ra hoằng dương đạo pháp, nếu thân cận nghe theo lời khuyên dạy tu hành, tất cũng được giải thoát. Nhưng kẻ căn lành sơ bạc, gặp thiện tri thức cũng khó. Dù có duyên được thấy mặt nghe pháp, song nếu không hiểu nghĩa lý, hoặc chấp vào hình thức bên ngoài mà chẳng chịu tin theo, thì cũng đều vô ích. Theo kinh Phạm Võng và Hoa Nghiêm, muốn tìm cầu thiện tri thức, đừng câu nệ theo hình thức bên ngoài, như chớ chấp kẻ đó trẻ tuổi, nghèo nàn, địa vị thấp, hoặc dòng dõi hạ tiện, tướng mạo xấu xa, các căn chẳng đủ, mà chỉ cầu nguyện thông hiểu Phật Pháp, có thể làm lợi ích cho mình. Lại đối với bậc thiện tri thức chớ nên tìm cầu sự lỗi lầm, bởi vị đó có khi vì mật hạnh tu hành, vì phương tiện hóa độ, hoặc đạo lực tuy cao song tập khí còn chưa dứt, nên mới có hành động như vậy. Nếu chấp nê hình thức, tìm cầu lỗi lầm, tất không được lợi ích trên đường đạo.
Khi Phật còn tại thế, Ngài Ca Lưu Đà Di có thói quen miệng nhơi qua nhơi lại như trâu, Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc tánh ưa soi gương trang điểm, một vị Tỳ Kheo thích leo lên cây nhảy chuyền, một vị Tỳ Kheo khác nói với ai hay lên giọng xưng mi tao lớn lối. Nhưng sự thật 4 vị này đều đã chứng quả A La Hán cả. Bởi kiếp trước một vị làm thân trâu, một vị là kỹ nữ, một vị làm thân khỉ và một vị là dòng quý tộc Bà La Môn, nhiều đời ở trong hoàn cảnh đó, đến nay tuy đắc quả, song tập quán dư thừa hãy còn.
Lại như Đức Lục Tổ vì thấy người học Phật thời ấy ưa chấp nói theo kinh văn, không nhận ngay Phật tánh, nên mới thị hiện làm kẻ dốt, Ngọc Lam thiền sư vì muốn tránh duyên để tu hành nên mới giả người điên cuồng, quần áo lôi thôi, ăn nói không chừng độ. Hư Vân Hòa Thượng vì thấy người thời mạt pháp, phần nhiều thân xuất gia, mà tâm không xuất gia, nên tuy đã ngộ đạo mà thường để râu tóc. Mật ý chỉ cho đạo không phải ở nơi đầu tròn áo vuông. Nhưng đương thời của các vị ấy, cũng có nhiều kẻ chê bai chỉ trích Đức Lục Tổ là dốt nát, Ngài Ngọc Lam là điên khùng, Hư Vân thượng nhân là người phạm quy luật thiền môn. Cho nên nhìn tìm bậc thiện tri thức khó là như thế. Mấy điều này người học Phật cũng nên hiểu, để bớt sự cố chấp và tránh lỗi khinh báng Tăng Ni. Còn các việc khó kia có thể suy ra để hiểu.
Tuy nhiên, khó và dễ là pháp đối đãi, trong khó có dễ, trong dễ có khó. Nếu nhận hiểu và quyết tâm thì các việc khó chẳng phải không thể làm được. Như thuở đời Phật Tỳ Bà Thi, có hai vợ chồng ông Kế La Di, nghèo đến đỗi mặc chung một chiếc khố, khi chồng đi làm vợ phải lõa thể đóng cửa ở nhà, vợ thay phiên đi làm thì chồng cũng y như vậy. Nhưng khi nghe chư Tăng đi khuyến hóa, bảo bố thí sẽ có phước tránh cảnh nghèo khổ, hai vợ chồng bàn luận nhau đem chiếc khố duy nhất ấy trao qua cửa sổ bố thí, đành cam cùng chịu lõa thể đóng cửa nằm chết trong nhà. Do sự quyết tâm làm lành đó, khiến cho vị Quốc Vương hay được, đem y phục và tiền của giúp đỡ. Từ đó về sau, mỗi đời sanh ra, hai vợ chồng đều có y phục che thân và sau cùng đều chứng đạo quả. Cho nên tuy nghèo khổ, bố thí là khó, nhưng nếu hiểu cái nhân nghèo nàn do bởi không bố thí, rồi quyết tâm cam chịu thiếu kém khổ cực, đem của riêng để tu phước, tất việc bố thí cũng có thể làm.
Lại như vua Thuận Trị nhà Thanh, lên ngôi hồi 6 tuổi, 24 tuổi từ bỏ vương vị, theo Ngọc Lâm quốc sư đầu Phật xuất gia. Làm một vị Hoàng đế giàu sang tột bực, ở lầu rồng gác phượng, ăn hải vị sơn hào, phi tần có cả hàng ngàn trang tuyệt sắc giai nhân, quyền lực nắm cả thần dân trong một nước, sự phú quý còn chi hơn? Nhưng nếu nhận rõ sự phước lạc thế gian vô thường như mộng huyễn, cảnh chân như thường tịch mới thật là vui, thì tuy nói giàu sang học đạo khó, song đã quyết tâm, tất cũng có thể thực hành. Ngoài ra, nghèo khổ quá tu hành vẫn thật khó, nhưng nếu có chí cũng chẳng phải không làm được. Như thuở Phật Thích Ca còn ở đời, có một bà lão rất nghèo khổ, ở mướn cho người từ hồi 13 tuổi, đến 80 tuổi vẫn còn vất vả. Ban ngày làm việc không ngơi nghỉ, đêm nào cũng phải giã gạo đến canh hai, gà gáy sáng đã thức dậy quây quần bên cối xay bột. Hoàn cảnh cực nhọc không rảnh rỗi như thế, muốn tu hành là một sự vạn nan. Nhưng nhờ tôn giả Ca Chiên Diên khuyến hóa, nên mỗi buổi tối sau khi giã gạo xong, bà tắm rửa thay đổi y phục, ngồi tu niệm đến quá nửa đêm mới đi nghỉ. Nhờ sự quyết tâm cố gắng đó, mà sau khi chết bà được sanh lên làm vị Thiên Tử ở cung trời Dạ Ma.
Kính thưa quý vị! Thân người khó được, pháp Phật khó nghe. Nay quý vị được thân người và có duyên xem đến quyển này, tức là đã gặp được pháp môn thành Phật mầu nhiệm. Dù gặp phải hoàn cảnh khó khăn, xin quý vị nhận rõ duyên đời khổ mộng, quyết chí tu hành, để hoa sen báu bên trời Tây được nở thêm những hàng thượng thiện.
Ngày Phật Đản 2515Thích Thiền TâmKính phụng.(Hết trích)
Phật Đản năm 2515 tức nhằm năm 1971. Nghĩa là cách đây 40 năm về trước. Lúc ấy Cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm được 46 tuổi đời và 26 tuổi đạo với 2 lần nhập thất tổng cộng 13 năm. Đây là một vị Đại Sư đặc biệt lỗi lạc của Việt Nam chúng ta thuở ấy.
Nếu ai đó đọc lời phi lộ, rồi 10 chương của sách cũng như lời cuối sách này thì thấy có cái gì đó cách xa thời gian. Vì lẽ ở lời cuối sách người ta muốn xem kết luận của tác giả như thế nào, nhưng đa phần tác giả đã đem chuyện bên Tàu và Ấn Độ về 20 việc khó làm để chấm dứt quyển sách thật là tiếc. Ước gì tác giả nói thêm về tư tưởng của Tịnh Độ Tông Việt Nam để người đọc nhận chân về giá trị tuyệt vời của quyển sách này. Do đó độc giả cảm thấy hụt hẫng sau khi gấp sách lại. Có lẽ lời cuối này viết vào thời gian năm 1971 là thời gian Đại Sư đa đoan với công việc kiến tạo Hương Nghiêm Tịnh Viện cho chư Tăng và Phương Liên Tịnh Xứ cho Ni, nên ít có thời gian để nhuận lại bản chính. Còn 10 điều cần yếu cho pháp môn niệm Phật ấy có lẽ Đại Sư đã viết trong thời gian nhập thất lần thứ 2 từ năm 1968 đến năm 1970, nên nội dung rất là sâu sắc.
Từ những điểm căn bản bên trên ở vào Chương thứ 8 tác giả sách này sẽ chọn ra một pháp tu cho riêng Phật Tử Việt Nam chúng ta khi phát tâm tu theo Pháp Môn Tịnh Độ, để từ đó chúng ta có cái nhìn thực tiễn cho một Việt Nam Phật Giáo ở vào thế kỷ 21 này.
C. Tư Tưởng Tịnh Độ thời hiện tạiTôi được cái phước là tuy sinh ra giữa thời kỳ chiến tranh của Việt Nam, nhưng không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh nhiều như bao nhiêu người khác. Vì lẽ khi tôi đi xuất gia (1964) đã không bị động viên đi lính, được hoãn dịch với lý do Tôn Giáo. Nhờ kết quả của học trường Đời và trường Đạo mà tôi được đi du học Nhật Bản (1972). Trong khi đó ở tại quê hương mình, có không biết bao nhiêu người đã nằm xuống để bảo vệ mảnh đất hình cong như chữ S ấy.
Rồi 30 tháng 4 năm 1975 đến, khi ấy tôi đang ở tại Tokyo, mỗi ngày nhìn bản đồ trên truyền hình Nhật, thấy những vệt đỏ cứ lan dần hết miền Nam Việt Nam, lòng quặn đau không kể xiết, để rồi cho đến 1976-1979 v.v… những năm Việt Nam đóng cửa với thế giới bên ngoài. Khi ấy ở ngoại quốc tâm trạng của tôi cũng như của bao nhiêu người Việt ly hương khác, không biết diễn tả sao cho hết nỗi nhớ thương trong muôn thuở. Trong khi cái khổ ở quê nhà từ đời sống tinh thần đến vật chất, thì tôi đang ở Âu Châu. Do vậy ân đức này tôi chẳng biết chia sẻ cùng ai. Chỉ biết rằng mình là người đang có phước hơn nhiều người khác. Cho nên phải luôn luôn cố gắng để làm một cái gì đó, được lợi lạc cho quần sanh, là điều mà tôi luôn nghĩ tới.
Tôi đi xuất gia ở chùa Viên Giác và chùa Phước Lâm tại Hội An từ năm 1964-1968. Sau đó vào Sàigòn tu học tại chùa Hưng Long, để ngày 22 tháng 2 năm 1972 rời Việt Nam đi du học Nhật Bản, cho đến nay khi quyển sách này nằm trên tay quý vị (2012) là đúng 40 năm tôi đã sống trên xứ người, có đầy đủ phương tiện và tự do để tu, học và thực hành giáo lý từ bi, trí tuệ, giải thoát của Đức Phật.
Tôi sinh ra vào giữa thế kỷ 20 và bây giờ là đầu thế kỷ 21. Ở vào lứa tuổi 63 như thế này đã là tuổi thọ trong cuộc đời và gần 50 năm xuất gia tu học ấy đã cho tôi có một cơ hội để đi chỗ này, đến chỗ kia, học việc này, nghiên cứu vấn đề kia v.v… để rồi ngồi nhìn lại tiến trình của mình đã đi qua, giáo lý ấy, cuộc sống ấy đã giúp được gì cho mình và từ đó đem kết quả của sự tu học và hiểu biết ấy dâng lên Tam Bảo và trang trải tấm lòng của mình cho tha nhân, nhằm giúp đỡ cũng như bổ sung những gì xưa nay còn thiếu, hầu tạo nên một phong trào tu học lành mạnh vững vàng hơn.
Khi phát tâm đi xuất gia, tôi chẳng biết chọn lựa là gì. Vì thuở ấy chỉ nương theo Thầy Bổn Sư đã quy y ngũ giới cho từ năm 1963 và cứ thế, cứ thế lầm lủi mãi trên dặm trường thiên lý ấy, chứ không cần biết Tịnh Độ là gì hay Thiền, Mật là gì cả. Vì ai làm sao, mình làm vậy. Thuở ấy khi mới vào Chùa, các Chú Tiểu Sa Di lớn tuổi hơn và vào Chùa trước thì chỉ bày lại cho các Chú mới vào. Đầu tiên là học Kinh, mà khó nhất là Kinh Lăng Nghiêm. Khi học, chẳng biết nghĩa đã đành, mà cũng chẳng có ai giải thích cho mình tại sao phải tụng kinh này vào buổi sáng. Còn kinh A Di Đà, Sám Hối, Mông Sơn Thí Thực lại tụng vào buổi chiều. Tối thì tụng nghi thức Tịnh Độ. Người vào Chùa sau, luôn luôn xem người đi trước là thần tượng hay kẻ hiểu biết hơn mình. Do vậy có thứ lớp vô hình nào đó để giúp cho kẻ sơ cơ có được cái đà để tiến. Dĩ nhiên bên trên còn Thầy Trụ Trì nữa, nhưng những gì đến được với Ngài Trụ Trì phải qua 5, 7 lớp rào cản, đâu phải dễ dàng trực tiếp thưa thỉnh điều gì. Ngay cả khi gặp Ngài Trụ Trì đi qua, Tăng Chúng phải cúi rạp mình xuống, im lặng chắp hai tay xá chào. Chỉ vậy thôi. Còn ý nghĩa kinh điển thì sau này học trong những mùa An Cư Kiết Hạ mới rõ, chứ thuở ban đầu chỉ biết chấp nhận mà thôi.
Tôi vào chùa Viên Giác Hội An xin Bổn Sư của tôi là Cố Hòa Thượng Thích Long Trí để đi xuất gia. Ngài lúc ấy sau năm 1963 tranh đấu với nhà Ngô bị thương tích đầy người, nên Ngài phải vào Sàigòn chữa trị, nên Ngài đã viết thư cho Hòa Thượng Như Vạn, Trụ trì Tổ Đình Phước Lâm cũng ở tại Hội An và cho tôi ở đó, đến ngày 19 tháng 6 âm lịch năm 1964 (Giáp Thìn) là ngày vía Quan Thế Âm, sau khi Thầy tôi đi chữa bệnh ở Sàigòn về, cho người ra Phước Lâm gọi tôi về chùa Viên Giác tại Hội An để xuống tóc.
Viên Giác là một chùa cũ của làng Minh Hương để lại. Người Hoa vào năm 1640 đã từ bỏ quê hương của họ, vì họ chống lại nhà Thanh mới lên ngôi và có ý phục Minh, cho nên rất nhiều người bỏ nước ra đi đến Việt Nam chúng ta. Thuở ấy Chúa Nguyễn Phúc Chu đã giao thương với người ngoại quốc từ những năm trước đó tại cửa biển Hội An này, nên việc đón tiếp người Trung Quốc chạy lánh nạn ở Đàng Trong này không có gì khó khăn mấy. Thế là 5 Bang của Trung Quốc gồm: Phước Kiến, Triều Châu, Quảng Đông, Hải Nam và Hẹ là những Bang nằm gần biên giới miền Bắc Việt Nam, lại tiếp cận với biển, nên họ đã di chuyển dễ dàng đến cửa biển Hội An. Thuở ấy Đàng Ngoài do Vua Lê, Chúa Trịnh sợ uy danh của nhà Thanh nên không cho người Minh Hương đến tỵ nạn.
Chữ Minh có nghĩa là nhà Minh và Hương (香) đây là hương thơm của nhà Minh. Ý họ muốn vọng về cố hương, luyến tiếc một triều đại như vậy, nhưng sau này vào thế kỷ 19, khoảng 1821 trở đi vua Minh Mạng đã đổi chữ Hương là hương thơm, thành chữ Hương (鄕) có nghĩa là quê hương, làng mạc của người nhà Minh. Nhưng cả hai cách phát âm, tiếng Việt đều đọc là Minh Hương, dù trong chữ Hán viết khác nhau.
Họ đi đến đâu cũng buôn bán, lập chùa, miếu v.v… Trong quyển Hải Ngoại Ký Sự của Ngài Thạch Liên Thích Đại Sán khi đến Hội An và Đàng Trong đã viết rất rõ về địa danh, phong tục cũng như chùa viện tại xứ này. Ngày nay thành phố cổ Hội An đã được Liên Hiệp Quốc (cơ quan Văn Hóa) công nhận là di sản Văn hóa Thế giới vì tính chất đặc thù của nó như đã được trình bày ở trên. Chùa thì còn có Thầy trụ trì, chứ Đình thì mỗi năm xuân thu nhị kỳ tế lễ, hoặc những ngày rằm, mồng một mới có hương chức, làng xã đến, còn những ngày thường thì ít ai trông nom, nên vào khoảng năm 1950, Hương Hào Cẩm Phô và Minh Hương đã cúng chùa này cho Sư Phụ tôi về trụ trì (xem thêm Châu Ngọc Hồi Ký). Sau khi nhận Đình này, Thầy tôi chắc cũng khổ công lắm. Vì Đình chỉ thờ Thần chứ đâu có thờ Phật và họ cúng mặn chứ đâu có cúng chay. Do vậy đưa Phật lên thờ và cải đổi từ chuyện ăn mặn sang ăn chay đâu phải là một vài năm.
Sau ngày 20 tháng 7 năm 1954, ngày chia đôi đất nước ở sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, miền Nam có cơ hội để xây dựng lại đất nước. Trong đó có niềm tin Tôn Giáo, nhưng đến năm 1963, thời gian chỉ 9 năm thôi cũng chưa củng cố, sửa sang được gì nhiều thì bao nhiêu cuộc tranh đấu đã xảy ra. Cho nên việc phát triển Phật Giáo thuở ấy cũng chẳng phải là điều đơn giản.
Khi tu học tại chùa Phước Lâm, tôi được Hòa Thượng trụ trì Thích Như Vạn kể lại cho nghe về Thiền Sư Minh Giác, chuyện Đại Lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thọ giới Tỳ Kheo với Cố Đại Lão Hòa Thượng Vĩnh Gia tại Chùa này. Tôi cũng hãnh diện lây. Vì mình được tu học dưới mái Chùa này từ năm 1964 đến năm 1966 là điều hạnh phúc vô cùng.
Chuyện được kể rằng: Chùa Phước Lâm này là Tổ Đình quan trọng thứ 2 sau Tổ Đình Chúc Thánh. Vì Ngài Thiệt Dinh là đệ tử của Tổ Minh Hải ra thành lập chùa này. Ngài Thiệt Dinh đối với Lâm Tế Chúc Thánh cũng quan trọng như Ngài Liễu Quán đối với Lâm Tế Nguyên Thiều vậy. Ngài Nguyên Thiều là người Trung Quốc đến Việt Nam truyền đạo và Ngài Liễu Quán là vị Tổ Việt Nam được truyền thừa qua hệ phái này. Ngài Thiệt Dinh cũng như vậy, là người Việt Nam và nhận được sự truyền thừa trực tiếp từ Ngài Tổ Sư Minh Hải người Trung Quốc từ cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 18. Tất cả đều là Thiền Lâm Tế hết, nhưng điều đặc biệt là chúng tôi ít thấy Chùa nào ngồi Thiền mà đa phần là theo nghi thức Tịnh Độ. Tuổi thơ chúng tôi lúc bấy giờ chỉ biết chấp nhận chứ ít tọc mạch. Sau này lớn lên mới có những câu hỏi như vậy được đặt ra.
Ngài Minh Giác người Quảng Ngãi ra chùa Phước Lâm tại Hội An để xuất gia. Sau một thời gian có giặc Mọi xâm lấn bờ cõi phía Nam, cho nên Ngài xin Tổ Sư trụ trì chùa Phước Lâm về Quảng Ngãi để dẹp giặc. Sau khi đánh giặc yên, Ngài trở lại Hội An và phát nguyện quét chợ 20 năm để sám hối những tội lỗi khi ra chiến trường cầm quân đánh giặc. Do vậy sau này vua Tự Đức mới có 2 câu đối phong cho chùa Phước Lâm, hiện nay vẫn còn thờ. Đối rằng:
Bình Man, tảo thị lưỡng độ gian lao; xuất gia kỳ, phát nguyện vưu kỳ, bát trật sanh thiên thành chánh giác.Tạo tượng, chú chung, nhị thung công đức, cách cựu hảo, đảnh tân cố hảo, thiên thu giác thế vĩnh truyền đăng.Nghĩa:
Dẹp giặc, quét chợ, mấy độ gian lao, xuất gia lạ, phát nguyện càng thêm lạ, tám mươi vãng sanh thành chánh giácLàm chùa, đúc chuông, biết bao công đức, sửa cũ đẹp, làm mới lại càng đẹp, ngàn năm sáng mãi ngọn đèn thiền.(Bản dịch của Thích Hạnh Niệm)
Quả là tuyệt vời. Tuổi 15, 16 vào chùa được nghe những mẩu chuyện như vậy thật là oai hùng. Đặc biệt là con dân của xứ Quảng.
Rồi việc xưa được truyền lại, thuở Cố Đại Lão Hòa Thượng Vĩnh Gia còn sanh tiền, Ngài đã làm Đàn Đầu Hòa Thượng cho Giới Đàn năm 1911 (Tân Hợi) lúc ấy cả Đức Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết và Đức Đệ Nhị Tăng Thống Thích Giác Nhiên cũng đã thọ giới Tỳ Kheo tại giới đàn này. Quả là vinh dự biết bao nhiêu. Điều ấy chứng tỏ rằng: Vào đầu thế kỷ 20, Hội An Phật Giáo đã giữ một vai trò quan trọng và Cố Hòa Thượng Vĩnh Gia vì đạo cao đức trọng nên mới được những giới tử từ Huế gởi vào đây thọ giới. Đây là sự hãnh diện của người xứ Quảng. Do vậy có một vài Thầy tuyên bố rằng: “Xứ Quảng Nam không có Tăng Thống, nhưng đã đào tạo ra Tăng Thống.” Điều ấy hẳn có lý, với những lý do đã nêu trên.
Ngài Minh Hải thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 34, đến Việt Nam truyền cho Ngài Thiệt Dinh ở thế hệ thứ 35 và đến chúng tôi với pháp danh chữ NHƯ đứng đầu thuộc Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 41. Đây là truyền pháp thôi. Chứ thời nay không còn truyền tâm nữa. Nay trở lại một chút xa xưa để tìm lại cội nguồn của Tông Phong này.
“Lâm Tế Nghĩa Huyền (? - 867)
Là Thiền Sư Trung Quốc, Tổ khai sáng của Tông Lâm Tế, sống vào đời Đường, người Nam Hoa, Tào Châu (Hà Nam) họ Hình.
Ngài xuất gia từ thuở nhỏ và rất hâm mộ Thiền Tông. Sau khi thọ giới Cụ Túc, Ngài đến Giang Tây tham yết Ngài Hoàng Bá Hi Vận, sau đó tham lễ Ngài Cao An Đại Ngu, Ngài Qui Sơn Linh Hựu v.v… cuối cùng trở về Hoàng Bá và được ấn khả.
Năm Đại Trung thứ 8 (854) đời vua Tuyên Tông nhà Đường, Ngài đến trụ ở Lâm Tế tại Trấn Châu thuộc tỉnh Hà Bắc, đặt ra cơ pháp tam huyền, tam yếu, tứ liệu giản v.v… để tiếp dắt người học, Ngài thường dùng tiếng hét để hiển bày đại cơ đại dụng. Đối với hành giả tham Thiền, Ngài rất nghiêm khắc, nhưng người học lại theo về rất đông. Môn phong hưng thịnh, gây dựng thành một phái Thiền Lâm Tế nổi tiếng ở Trung Quốc.
Ngài tịch vào năm 867 Tây lịch, không rõ tuổi thọ. Vua ban thụy hiệu là “Tuệ Chiếu Thiền Sư”. Đệ tử nối pháp gồm có 22 vị như: Hưng Hóa Tồn Tưởng, Tam Thánh Tuệ Nhiên, Quán Khê Chí Nhàn v.v… đều là những bậc tông tượng trong Thiền Lâm”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 2737).
(Xem Lâm Tế Tuệ Chiếu Thiền Sư tháp ký, Tống Cao Tăng truyện quyển 12, Cảnh Đức truyền đăng lục quyển 12, Truyền Pháp chánh tông ký quyển 7).
Ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền là Sơ Tổ của Tông Lâm Tế tại Trung Hoa, truyền xuống đời thứ 34 là Ngài Minh Hải Pháp Bảo. Đó là thời gian từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 16. Cuối thế kỷ 16 Ngài Minh Hải sang Việt Nam và từ đó đến nay đã truyền đến đời 41 (Như), 42 (Thị), 43 (Đồng), 44 (Chúc), 45 (Thánh), 46 (Thọ) v.v… Như vậy kể từ khi truyền thừa tông này đến bây giờ gần 1.200 năm vẫn chưa gián đoạn. Sau này thì hình thức quy củ Thiền Lâm Tế không còn tồn tại như thuở xưa nữa, mà ngay cả quê hương của Tổ Lâm Tế bây giờ cũng vậy, đã biến dạng rất nhiều. Riêng tại Việt Nam từ bao giờ chẳng rõ, Lâm Tế Tông đã chấp nhận Tịnh Độ một cách dễ dàng và bây giờ Tông này tuy nói là Thiền, nhưng đa phần thực hành pháp môn Tịnh Độ.
Ở Việt Nam từ bao giờ Chư Sơn Thiền Đức trong các Thiền Lâm tự gọi mình là Thiền Tịnh song tu cũng chưa rõ. Vì lẽ không có vị Thiền Sư nào chủ trương như Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư của Trung Hoa vào cuối đời Đường đầu nhà Tống cả. Vả lại cũng không có vị Tổ Sư nào của Tịnh Độ xuất hiện trong các thế kỷ này một cách rõ ràng, để cho chúng ta thấy rằng: Tại sao lại chuyển Thiền qua Tịnh Độ dễ dàng như vậy?
Theo thiển nghĩ của chúng tôi, sau khi các vị Thiền Sư có gốc gác từ Trung Quốc đến truyền tông Thiền cho người Việt Nam và nhất là sau ngày các Ngài viên tịch, thì tại bản địa Việt Nam đã có cái gốc là Tịnh Độ rồi. Do vậy Pháp Môn này tương đối dễ tu và dễ khế hợp với người Việt Nam hơn, cho nên trong Chùa Thiền đã ảnh hưởng hầu hết là Tịnh Độ.
Ngay như Cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm chủ trương tu theo pháp môn Tịnh Độ, nhưng Ngài thuộc dòng Thiền Lâm Tế chánh tông đời thứ 43 và Hòa Thượng Thích Trí Tịnh năm nay đã 95 tuổi, Ngài là người chủ trương Việt hóa kinh điển sớm nhất trong thế kỷ 20, Ngài tu theo pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật A Di Đà, nhưng trong Tiểu sử của Ngài, Ngài vẫn thuộc dòng Thiền Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41. Như vậy, dầu là Lâm Tế Chúc Thánh, Lâm Tế Nguyên Thiều, Lâm Tế Chánh Tông, Lâm Tế Gia Phổ v.v… cũng đều bắt nguồn từ Ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền bên Trung Quốc và truyền mãi cho đến ngày nay. Sau 1.200 năm lịch sử, sự truyền thừa ấy vẫn không gián đoạn. Chỉ có vấn đề truyền theo dòng kệ của mỗi vị Tổ, do vậy mà các đời lại chênh lệch nhau.
Vào đầu thập niên 60, khi tôi vào xuất gia, tại các chùa miền Trung vẫn còn tụng kinh chữ Hán, sau này thì có kinh Hán Việt theo quyển “Thiền Môn Nhựt Tụng” từ chữ Trung Quốc dịch ra âm Việt ngữ. Thuở ấy có ít bài văn kinh tụng bằng tiếng Việt, ngoại trừ những kinh Pháp Hoa, Dược Sư, Vu Lan đã được dịch ra Việt ngữ trước đó. Năm 1965 tôi đã thuộc lòng bài “quy mạng nghĩa” của Thầy Nhất Hạnh dịch ra tiếng Việt và sau này có Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải cũng dịch bài này sang tiếng Việt rất hay và có mang đầy đủ ý nghĩa Tịnh Độ của nó. Ví dụ câu:
Rừng thơm hương biến từ sỏi đá
Địa ngục bừng khai đóa bạch liên
Người trong hỏa ngục hiện tiền
Nhờ nương thần lực sanh liền Lạc Bang …
Ni Trưởng Trí Hải đã dịch những câu này từ chữ Hán là:
… biến tác hương lâm
ẩm đồng, thực thiết chi đồ
hóa sanh Tịnh Độ …
Những câu này trong bài của Hòa Thượng Nhất Hạnh không dịch được như vậy mà Ngài dịch là:
Những nơi khổ thú trầm luân
Hào quang chiếu diệu hiện thân tốt lành
Chỉ cần thấy dạng nghe danh
Muôn loài thoát khỏi ngục hình đớn đau …
Dĩ nhiên văn dịch của Hòa Thượng Nhất Hạnh rất hay, nhưng Ngài tránh chữ Lạc Bang hay Hoa Sen. Vì đó là cảnh giới của “Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ”, nhưng Ni Trưởng Trí Hải đã dịch được điều này quả là một việc làm bất khả tư nghì.
Tuy nhiên 4 câu cuối của bài Sám Quy Mạng này Hòa Thượng Nhất Hạnh dịch hay hơn Ni Trưởng Trí Hải nhiều. Đó là:
Hư không dù có chuyển di
Nguyện con muôn kiếp chẳng hề lung lay
Nguyện cầu vạn pháp xưa nay
Hoàn thành trí nghiệp đến cây Bồ Đề
Nguyên văn chữ Hán Việt là:
Hư không hữu tận
Ngã nguyện vô cùng
Tình dữ vô tình
Đồng viên chủng trí
Ni Trưởng Trí Hải dịch là:
Cùng chúng sanh đồng lên bến giác
Tánh hư không dầu mất vô biên
Nguyện con vô tận triền miên
Mong cho tất cả đồng nên Bồ Đề
Thật sự ra về việc dịch, có vô số cách dịch, nhưng thế nào là một sự dịch hay? Đó là dịch thoát ý và không sai với ý chánh nhiều, khiến cho người đọc dễ hiểu và dễ lãnh hội. Nếu dịch đúng chữ và đúng ý hoàn toàn với câu văn xưa thì ngày nay người đọc sẽ chẳng hiểu gì cả. Ngay cả đoạn văn của bài Sám Quy Mạng ở trên, người tu Thiền dịch khác, mà người tu Tịnh Độ dịch khác.
Vào cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 này đã có nhiều bản kinh dịch rất thoát. Vì lẽ tiếng Việt đã thành thạo từ học đường cũng như trong các Tăng học viện. Ngày xưa, đầu thế kỷ 20, Việt Nam chúng ta vẫn còn thi Tú Tài, Cử Nhân, Tiến Sĩ bằng chữ Nho và sau này là tiếng Pháp, trong khi đó tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ mà trở thành sinh ngữ 2, chứ không còn là quốc ngữ nữa. Do vậy Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hay Thầy của Ngài là Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh là những người tiên phong trong vấn đề Việt hóa chữ quốc ngữ này. Kế tiếp có Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, là nhà phiên dịch kinh tạng Việt Nam từ chữ Hán sang tiếng Việt. Vậy chúng ta thử tìm hiểu cuộc đời của Ngài cũng như công việc phiên dịch trước tác của Ngài, nơi trang nhà quangduc.com như sau:
“Hòa Thượng Thích Trí Tịnh thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 2 tháng 9 năm Đinh Tỵ (17.10.1917) tại làng Mỹ An Hưng (Cái Tàu Thượng), huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là ông Nguyễn Văn Cân và thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ ông qua đời lúc Hòa Thượng lên ba, Cụ bà cũng theo ông lúc Ngài vừa lên bảy.
. . . . .
Nhờ đã gieo căn lành từ nhiều kiếp, sớm giác ngộ đời là huyễn, thế sự phù du, nên sau một thời gian đi chiêm bái khắp chốn Thiền môn trong tỉnh đều không hài lòng, ngài mới tìm lên Núi Cấm, vì nghĩ ở đó sẽ có những bậc chân tu. Hòa Thượng tìm lên núi, lần lượt đến chùa Vạn Linh cầu xin xuất gia.
Hòa Thượng trụ trì ở đây Pháp Húy là Hồng Xứng. Khi vừa trông thấy, Tổ liền ấn chứng “Các ông đừng khinh ông này, vì đời trước ổng đã từng làm Hòa Thượng, nhưng có tội hay nhìn con gái, nên nay bị bệnh con mắt suốt đời.” Sau khi được Tổ cho phép xuất gia, ban cho Pháp danh là Thiện Chánh, hiệu Hân Tịnh, húy Nhật Bình, tiếp nối dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41.
Sau khi xuất gia, Hòa Thượng chuyên lo niệm Phật tịnh tu, được một thời gian Hòa Thượng xin đi tham học với Chư Sơn Thiền Đức trong Tỉnh, và nghiên cứu những tài liệu về Phật Pháp in trong tạp chí Từ Bi Âm do Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học chùa Linh Sơn Sàigòn ấn hành, rồi đi ra miền Trung tham học ở chùa Liên Tôn, Bình Định.
Năm 1936, Hòa Thượng ra Huế gặp quý Hòa Thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa vừa mãn khóa tại chùa Tây Thiên do Hòa Thượng Giác Nhiên, là Tăng Thống thứ hai của Giáo Hội PGVN Thống Nhất làm trụ trì và Hòa Thượng Thiền Tôn làm Giám Đốc. Khi Hòa Thượng được vào học thì lớp này đang học năm thứ 6 Sơ Cấp, Hòa Thượng tiếp tục học lên Trung Cấp và học lớp Cao Đẳng tại Phật Học Đường Báo Quốc do Ngài Tường Vân (Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết) làm Giám Đốc, Hòa Thượng Trí Độ làm Đốc Giáo.
Năm 1941, Hòa Thượng thọ Sa Di giới tại chùa Quốc Ân và được Sư Cụ Trí Độ cho pháp tự là Trí Tịnh.
Năm 1945, mãn khóa Cao Đẳng Phật Học, lúc ấy tình hình chiến cuộc leo thang, vật giá khó khăn. Lớp học dời về Tòng Lâm Kim Sơn, sau này vì nạn đói Huế cũng như ở miền Bắc, trường không thể duy trì được, nên Ban Giám Đốc cũng như Hội An Nam Phật Học quyết định giao trách nhiệm cho Hòa Thượng hướng dẫn một số chư Tăng vào Nam để tiếp tục mở trường cho chư Tăng tu học.
. . . . .
Để viên mãn tam đàn Cụ Túc, năm 1945 Hòa Thượng được đăng đàn thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát tại chùa Vạn An, Sa Đéc do Hòa Thượng Kim Huê làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
Năm 1952, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt được thành lập tại Sàigòn, Hòa Thượng giữ chức Trưởng Ban Giáo Dục và Trưởng Ban Giám Luật, kiêm Ủy viên phiên dịch Tam Tạng và Phó Trị Sự Trưởng.
. . . . .
Năm 1955, với chí nguyện hoằng dương Tịnh Độ, Hòa Thượng lại thành lập Cực Lạc Liên Hữu khuyên người niệm Phật cầu nguyện vãng sanh tại chùa Vạn Đức.
. . . . .
Năm 1962, Hòa Thượng được Giáo Hội Tăng Già Trung Phần cử làm Phó Viện Trưởng Viện Phật Học Trung Phần Nha Trang, thay cho Hòa Thượng Trí Quang vì bận Phật sự ở Sàigòn.
Năm 1964, Hòa Thượng được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cử làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự.
Năm 1968-1971 Hòa Thượng làm Ban giảng huấn Phật Học Viện Huệ Nghiêm và dạy cho lớp này 3 năm.
Năm 1970 Hòa Thượng được Hòa Thượng Thích Minh Châu mời làm Khoa Trưởng Phân Khoa Phật Học thuộc Đại Học Vạn Hạnh đến năm 1975.
Năm 1971, sau khi Giáo Hội thành lập Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm, Hòa Thượng được cử làm Viện Trưởng từ năm 1971 đến năm 1991.
Ngày 5.7.1973 Hòa Thượng được cử làm Chủ Tịch Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng thuộc Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
. . . . .
Từ năm 1960 đến 2002, hơn 40 năm ấy Hòa Thượng đã được cung thỉnh vào các Giới Đàn trong cương vị của: Tuyên luật sư, Yết Ma, Giáo Thọ A Xà Lê, Hòa Thượng Đàn Đầu v.v…
Riêng về việc phiên dịch trước tác từ chữ Hán sang tiếng Việt, Hòa Thượng là một trong những vị đi đầu trong lãnh vực này. Ví dụ như:
Kinh Pháp Hoa
Kinh Hoa Nghiêm trọn bộ 8 cuốn
Kinh Đại Bát Niết Bàn trọn bộ 9 cuốn
Kinh Đại Bát Nhã (600 cuốn chữ Hán)
Kinh Đại Bảo Tích trọn bộ 9 tập
Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Kinh Địa Tạng
Kinh Tam Bảo
Kinh Pháp Hoa Cương Yếu tóm tắt
Kinh Pháp Hoa Thông Nghĩa tóm tắt
Luật Tỳ Kheo giới bổn
Luật Bồ Tát giới bổn
Đường về Cực Lạc
Cực Lạc liên huân tập
Ngộ tánh luận
Pháp Hoa Cương Yếu
Kinh A Di Đà
Kinh Quán Phật Vô Lượng Thọ
Kinh Vô Lượng Thọ
Khi đọc xong Tiểu Sử của Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, chúng ta có những nhận xét như sau:
Sau khi Ngài đi tham học tại các Phật Học Viện ở miền Trung (Bình Định và Huế) về Nam năm 1945, lúc ấy Ngài 28 tuổi. Đây là lứa tuổi năng nổ nhất để làm những công việc Phật sự như thành lập cơ sở để Chư Tăng có nơi tu học và đào tạo Tăng tài. Khi Hòa Thượng ở Bình Định và Huế đã được thọ giáo với các bậc Đạo Sư như Đức Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, Đức Đệ Nhị Tăng Thống Thích Giác Nhiên, Hòa Thượng Thiền Tôn (Huế), Pháp Sư Thích Trí Độ (Bình Định) đều là những bậc danh Tăng thuở bấy giờ, cho nên sở học của Ngài càng uyên thâm hơn nữa. Do vậy Giáo Hội Tăng Già Nam Việt mới cung thỉnh Ngài vào Ủy viên phiên dịch Tam Tạng. Đây có thể là lần đầu tiên Việt Nam chúng ta mới thành lập Ủy Ban này. Thời điểm ấy vào năm 1952, tức là vào giữa thế kỷ 20.
Đến năm 1955 trong khi Cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm chuẩn bị vào thất lần đầu 10 năm cho đến năm 1964 thì Hòa Thượng Thích Trí Tịnh đã bắt đầu hoằng dương Tịnh Độ và thành lập Cực Lạc Liên Hữu. Có lẽ Hòa Thượng cũng dựa theo những tông chỉ của chư Tổ Trung Hoa, khuyên người phát tâm niệm Phật, cầu vãng sanh, chứ không lập ra một Tông Phái Tịnh Độ riêng như Nhật Bản hay Tây Tạng. Tuy nhiên đây cũng là những tiếng nói quan trọng cho việc phát triển cũng như thành lập Tịnh Độ Tông tại Việt Nam vào giữa thế kỷ 20 như thế.
Điều kế tiếp là ở vào thời điểm nào Hòa Thượng cũng hướng về Tăng Ni và Giáo Hội để bồi đắp nhân tài. Vì nếu Giáo Hội không có người truyền thừa và kế nghiệp các bậc Đại Sư đi trước thì ai là người lo giềng mối cho Đạo Phật bây giờ.
Điểm thứ ba rất quan trọng là Hòa Thượng đã dịch những bộ kinh cần yếu cho hàng Tứ Chúng tu học, hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ. Dường như kinh đầu tiên là kinh Pháp Hoa. Kinh này có 7 quyển và gồm 28 phẩm. Chữ Hán nguyên thủy do Ngài Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn vào đời nhà Diêu Tần độ chừng hơn 60.000 chữ, nhưng khi Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch ra tiếng Việt thì trên 77.000 chữ. Vì bản thân tôi và Đại Chúng chùa Viên Giác Hannover, Đức quốc, đã phát nguyện lạy kinh Pháp Hoa mỗi chữ mỗi lạy trong những mùa An Cư Kiết Hạ vào cuối thế kỷ 20, mỗi đêm từ 300 đến 350 lạy, nên mới rõ được như vậy. Đây là bộ kinh đa phần người Việt Nam rất ưa chuộng trì tụng và lễ bái.
Rồi những bộ kinh khác cũng được lần lượt ra đời trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước như vậy. Cho đến nay, tuy Hòa Thượng đã hoàn thành 19 đề kinh, nhưng tổng cộng chắc không dưới 100 quyển. Mỗi quyển dày độ 700 trang. Đây là công việc phải miệt mài suốt cả một đời người chứ không phải chỉ năm mười năm mà có thể ngồi phiên dịch được như vậy.
Đặc biệt về Tịnh Độ, Hòa Thượng đã dịch 3 kinh căn bản và còn dịch thêm Đường Về Cực Lạc cũng như Cực Lạc Liên Huân Tập nữa. Điều ấy đã nói lên được tầm quan trọng trong việc tu tập cũng như hành trì về pháp môn Tịnh Độ của Ngài.
Năm nay (2011) Ngài đã 95 tuổi. Tuy không còn dịch thuật trước tác gì nữa, nhưng Ngài vẫn luôn niệm danh hiệu A Di Đà Phật và nếu có vị Tăng nào đó đến hỏi Ngài pháp môn tu thì Ngài bảo rằng: “hãy niệm Phật đi” hay “mấy ông cứ tụng kinh, lễ bái đi”. Như vậy người xưa đã nhờ niệm Phật và tụng kinh lễ bái mà sống gần một thế kỷ với đời với đạo. Nhờ niệm Phật mà trí tuệ khai thông, minh mẫn, sáng suốt. Tuy mắt Hòa Thượng không tỏ lắm, như Tổ Hồng Xứng đã ấn chứng cho Hòa Thượng từ năm mới tầm Sư học đạo, nhưng tâm của Hòa Thượng bừng sáng qua công đức phiên dịch và chú giải những kinh sách quan trọng của Đại Thừa. Điều này chẳng khác nào Ngài A Na Luật thuở xưa, khi Đức Thế Tôn còn tại thế.
Trình độ tu và học ngày xưa so với bây giờ khác nhau nhiều lắm. Ví dụ như ngày xưa tốt nghiệp Cử Nhân thì bây giờ tương đương với Tiến Sĩ. Ngày xưa tốt nghiệp Trung Học so với bây giờ là Cử Nhân. Ngày nay người tốt nghiệp rất nhiều, nhưng vì không trọng sự tu chỉ mong cầu sự học, cho nên bằng cấp chẳng làm nên được con người là vậy. Do vậy chúng ta phải cảm ơn những bậc tiền bối. Nếu không có người phát nguyện lúc ban đầu như thế thì cho đến bao giờ chúng ta mới có được một Đại Tạng kinh tiếng Việt Nam. Nhìn lịch sử chúng ta thấy khi Phật Giáo được truyền vào Tây Tạng ở thế kỷ 7 thì các Đạo Sư, các nhà phiên dịch chú giải đã bắt đầu gom thành Tam Tạng Thánh Điển ngay từ lúc ấy. Nghĩa là cách đây hơn 1.300 năm Tây Tạng đã có Đại Tạng kinh bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ rồi.
Trung Hoa cũng vậy, họ có không biết bao nhiêu Đại Tạng bằng chữ Hán từ đời Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh hay Nhật Bản có Đại Tạng từ thời vua Đại Chánh cũng như trước đó nữa. Còn chúng ta vẫn để nguyên chữ Hán thì làm sao thế hệ đi sau có thể hiểu được?
Nếu không nhờ vào những bậc phiên dịch chú giải kinh điển như các Ngài: Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Hòa Thượng Thích Đổng Minh, Hòa Thượng Thích Huyền Vi, Hòa Thượng Thích Đức Niệm, Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh, Hòa Thượng Thích Trí Chơn, Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, Hòa Thượng Thích Thiên Ân, Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Hòa Thượng Thích Quảng Độ … Sư Bà Thích Nữ Diệu Không, Sư Bà Thích Nữ Như Thanh, Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải v.v… thì biết bao giờ chúng ta mới có được một Đại Tạng kinh bằng tiếng Việt hoàn toàn. May thay! Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh ở Đài Loan là người đã chủ xướng việc in ấn và phát hành Đại Tạng tiếng Việt này. Hy vọng trong vài năm nữa mọi việc sẽ hoàn tất. Công đức thật không có gì có thể so sánh được.
Riêng phần tư tưởng của Tịnh Độ Tông Việt Nam, chính tác giả đang có hoài bão tìm ra tông tích và hệ thống thành một sự truyền thừa rõ rệt, để thế hệ đi sau khỏi bỡ ngỡ khi muốn tìm về nguồn cội của mình. Sau đây chúng ta thử tìm hiểu cách tu Tịnh Độ của Việt Nam như thế nào, để từ đó chúng ta mới có thể so sánh với Tịnh Độ của những nước khác.
Nói Tịnh Độ có nghĩa là chỉ cho một phương khác rồi, không phải là phương này. Vì phương này là uế độ. Do vậy tu theo Tịnh Độ tức là phát nguyện vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà sau khi thân trung ấm đã sẽ tái sanh về đó. Thế nhưng chư Tăng Ni Việt Nam đã hành trì những gì để lo cho người sống và người sắp vãng sanh?
Đa phần nếu một bệnh nhân đang đau nặng thì thân nhân thỉnh chư Tăng Ni đến nhà, hoặc giả thân nhân sắm sửa lễ vật đi về chùa để dâng cúng Tam Bảo và tụng kinh cầu nguyện. Nếu cầu cho bình an thì tụng Pháp Hoa hay Dược Sư, nếu thấy nghiệp dĩ nặng nề thì tụng Thủy Sám, Lương Hoàng Sám. Nếu thấy sắp lâm chung thì tụng kinh A Di Đà và sau khi lâm chung thì tuần thất, tại tư gia hay chùa thường tụng kinh Địa Tạng. Chính bản thân chúng tôi sinh ra và lớn lên trên quê hương ấy, nhưng ít thấy chư Tăng Ni tụng kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ bao giờ. Về sau này ở trong nước và ngoại quốc có những đạo tràng tu theo Pháp môn Tịnh Độ mới thấy có trì tụng 2 trong 3 bộ kinh quan trọng của Tịnh Độ Tông này. Việc niệm Phật, đối với Phật Tử Việt Nam thì thường hơn, nhưng ít có quán tưởng đi cùng. Niệm là niệm thôi, không có cái gì khác đi kèm theo như Tây Tạng hay Trung Quốc.
Việt Nam Phật Giáo hay chủ trương lễ nghi cúng kiến nhiều hơn là giảng thuyết cho Phật Tử nghe về ý nghĩa vô thường hay đi đầu thai hoặc kiếp khác như thế nào, mà đa phần đám tang cầu nguyện cho người chết các Ban Hộ Niệm ê a suốt ngày, khiến cho buổi lễ trở thành tế lễ nhiều hơn là sự lợi lạc về tâm linh cho cả người sống lẫn người mất. Lẽ ra ngoài việc tụng niệm rồi, chư Tăng Ni nên giảng pháp cho Phật Tử nghe để họ hiểu về thế nào là niệm Phật? Thế nào là cận tử nghiệp? Thế nào là luân hồi, tái sanh? Thế nào là 25 cõi hữu tình v.v… Ở đây chỉ thấy thuần là chuông, mõ, linh, tang và ê a tán tụng. Tôi không phản đối vấn đề tán tụng. Điều ấy rất quý, nhưng xin dành một nửa thì giờ cúng kiến, thỉnh một vị Pháp Sư giảng pháp cho gia đình thì lợi lạc hơn nhiều. Vì trong cơ hội đau buồn, mất mát như vậy người thân trong gia đình dễ cảm nhận được hơn. Từ đó họ mới phát tâm tu học, làm phước, bố thí, cúng dường v.v…
Ngoài ra đa phần chư Tăng Ni chỉ tụng chữ Hán hoặc âm Hán Việt, khiến cho thế hệ trẻ không hiểu, do vậy chúng sẽ chán nản. Từ những điểm này khiến cho nhiều người ít quan tâm đến Đạo Phật. Vả lại những buổi lễ thường kéo dài từ 1 đến 2 tiếng đồng hồ mà nghe chẳng hiểu gì cả. Quả là chẳng có tác dụng tích cực nào. Như vậy tại sao chư Tăng Ni vẫn tiếp tục như thế?
Những lễ chẩn tế, vớt vong v.v… thường tổ chức ít nhất là một ngày và nhiều nhất là 3 ngày đến 7 ngày, tùy theo hoàn cảnh của mỗi gia đình. Tuy nhiên cũng giấy sớ, tụng kinh, đề phan, vớt vong, tiến linh… nhưng ít thấy thuyết giảng giống như trường hợp của Tây Tạng. Do vậy thần thức của người mất lẫn người còn sống thiếu định hướng.
Ngay cả bây giờ vẫn còn nhiều người tu theo Pháp môn Tịnh Độ, nhưng chẳng hiểu ý nghĩa của câu Nam Mô A Di Đà Phật là gì? Do vậy làm sao có thể tạo thêm người hiểu biết về giáo lý Đạo Phật, khi nhà Chùa cần đến việc hộ niệm hay tống táng cho những người thân hoặc bạn đạo của mình. Chẳng có vị nào hướng dẫn được một cách rõ ràng là trước khi mất phải làm sao, sau khi mất phải làm gì hay trong khi mất phải làm thế nào để cho được lợi lạc cả người sống lẫn người chết. Lúc sống đa phần ít ai lo việc này, vì ai cũng kiêng cử và sợ chết. Thế nhưng khi việc chết xảy ra cho người thân, cho gia đình thì trở nên quýnh quáng, phải chạy đầu này hỏi cái này, đầu kia hỏi cái kia. Mỗi người bày mỗi cách, chẳng biết đâu mà theo. Do vậy mới bảo là “tang gia bối rối”. Nếu có chuẩn bị trước, chắc chắn không có vấn đề này.
Điều đầu tiên là người còn sống, nhất là lúc tỉnh táo nên viết di chúc rõ ràng. Nếu có hai người chứng cùng ký tên trước mặt Luật sư thì quá quý. Ví dụ trong khi người mẹ muốn rằng khi mất thì nên thiêu, nhưng người chồng hoặc con trai thì ngược lại. Do vậy phải cần làm di chúc trước khi mất. Vì nếu không làm theo di chúc thì người mất sẽ khó an lạc để đi đầu thai ở cảnh giới cao hơn. Hoặc giả người chết muốn hiến các cơ quan còn tốt của mình cho y khoa, nhưng gia đình không chịu. Nếu làm ngược lại với di chúc, chắc rằng người chết rất phiền não. Vì họ không thực hành được Bồ Tát hạnh của họ, cho nên cần phải làm di chúc là vậy.
Đó là chưa nói đến việc ở ngoại quốc về vấn đề bất đồng ngôn ngữ nữa, làm thế nào để giải thích cho nhân viên y tế của bệnh viện biết rằng: Theo truyền thống của Phật Giáo sau khi tắt thở 8 tiếng đồng hồ, không ai được động đến tử thi của người mất, kể cả người thân, nếu không làm tờ giao kết trước bằng tiếng Việt và tiếng Anh, Đức hay Pháp ngữ thì khó thể thực hiện vấn đề này, nếu không chuẩn bị trước đó. Riêng ở Đức hay phạm vi của những nước Âu Châu có sử dụng tiếng Đức thì nên tham cứu tài liệu có sẵn này nơi luận án Tiến Sĩ của Thầy Hạnh Giả, là đệ tử xuất gia của chúng tôi đang dạy về Phân khoa Tôn Giáo học tại Đại Học Hannover, Đức quốc, thì rõ hơn. Tiêu đề của luận án này viết bằng tiếng Đức và được chính Thầy ấy dịch ra tiếng Việt gọi là: “Tang lễ của người Phật Tử Việt Nam ở Đức & Sự duy trì và thích nghi tại Hải Ngoại”. Đây là một luận án hay đã được hai ông Professor của Đại Học Hannover (Dr. Antes và Dr. Baumann) cho điểm một - tối ưu, và ngay cả bản thân chúng tôi cũng vậy đã giúp Thầy ấy cùng dịch ra tiếng Việt cũng như giảo chánh những điều cần thiết thì thấy rằng luận án này quý hóa vô cùng cho những ai là Phật Tử đang sinh sống tại Đức quốc cũng như những vùng lân cận.
Riêng ở trong nước, cho tới giờ này việc tang chế, ma chay vẫn còn rất phức tạp. Vì mỗi địa phương bày ra mỗi cách khác nhau, càng giàu có chừng nào thì càng làm rình rang chừng ấy, nhưng nội dung thì ít có lợi lạc cho người mất, cốt chỉ để làm thỏa lòng người sống mà thôi. Ví dụ như ai muốn thiêu thì thiêu, chôn thì chôn. Dựng bia, làm mả mồ như thế nào cũng được, nhưng ở ngoại quốc thì không thể làm như vậy. Tất cả đều là luật.
Ví dụ như ở Việt Nam một nghi lễ tống táng cho một người giàu có có thể đi rình rang ở ngoài đường làm cản trở giao thông công cộng, trong khi đó ở ngoại quốc việc này tuyệt đối không xảy ra, chỉ trừ những quan chức lớn như Tổng Thống, Vua, Hoàng Hậu qua đời, mới có những nghi lễ công cộng như vậy, còn đa phần thì đơn giản. Bất cứ là ai, nhiều lắm là được cử hành 2 tiếng đồng hồ ở nghĩa địa mà thôi. Vì trước đó và sau đó còn nhiều đám tang khác họ cũng cần thì giờ như mình nữa. Do đó tang chế ở Tây Phương càng ngày càng đơn giản thì chư Tăng Ni cũng chỉ có một số thời gian nhất định như vậy phải làm sao vừa thuyết giảng, vừa làm lễ, tụng kinh, cúng vong, chia buồn trong vòng 1 đến 2 tiếng đồng hồ mà thôi.
Sau đó về chùa hay về nhà có thì giờ nhiều hơn thì có thể du di, nhưng ở tại nơi công cộng lễ nghi cho người chết chỉ được phép như vậy, ngoài ra ít có trường hợp ngoại lệ, dẫu cho có phải trả thêm tiền.
Có lẽ thời buổi hiện tại con người dùng đến máy bay, hỏa tiễn, xe hỏa, xe hơi v.v… cho nên mọi công việc trong đời thường đều bị trói buộc bởi chiếc đồng hồ đang đeo nơi tay. Ví dụ như ngày xưa nếu có người giàu có mất, người ta thường mua quan tài thật tốt và liệm người chết để trong nhà cho đến 49 ngày hay 100 ngày để làm lễ cầu nguyện và cũng sẽ cho mọi người biết rằng gia đình mình là như thế như thế, nhưng ngày nay mọi việc đã không còn như xưa nữa.
Điều quan trọng chúng tôi muốn trình bày ở đây là chính người mất, khi còn sống phải lo tu tạo phước đức, tụng kinh niệm Phật, cầu đới nghiệp vãng sanh, để khi giờ cận tử nghiệp đến không còn bỡ ngỡ nữa và cũng khuyên gia đình làm lành lánh dữ, không tạo ác nghiệp trong khi người chết đi chọn nghiệp để đầu thai, ít nhất là trong thời gian 49 ngày. Bởi vì thời gian này là thời gian quyết định cho tâm thức kia đi ngang, đi lên hay đi xuống.
Riêng phần chư Tăng Ni cố gắng dành nhiều thời gian giảng pháp cho người sống lẫn người chết trong thời gian ma chay cũng như tuần thất thì quý hóa vô cùng. Vì có như vậy người chưa hiểu đạo trong gia đình sẽ sớm hiểu, biết đâu chừng sau này những người ấy sẽ quy y Tam Bảo. Vì họ hiểu rõ lý duyên sanh cũng như vô thường, sanh diệt v.v… Dĩ nhiên khi tang chủ muốn có được phước báu cho người mất lẫn người còn sống thì cần cúng dường Tam Bảo tùy theo khả năng của gia đình để giúp đỡ chùa và chính gia đình của người quá vãng cũng được lợi lạc nữa.
Chư Tăng Ni, nhất là những người đại diện cho Tịnh Độ Tông có thể giảng giải kinh A Di Đà, kinh Địa Tạng v.v… trước và sau khi làm lễ cho người quá cố thì tốt biết dường bao. Vì người đi tham dự lễ và chính thân nhân cũng cần biết chư Tăng Ni đang tụng kinh gì. Không giải thích, có thể họ cũng cảm nhận được rằng chư Tăng Ni đang tụng kinh, nhưng ý nghĩa ra sao thì làm sao rõ hết được.
Ví dụ như trong hiện tại có nhiều người tin theo hiện tượng vãng sanh hoặc tổ chức tam thời hệ niệm v.v… chư Tăng Ni phải biết rõ điều này để giải thích, không mang tính mê tín cầu sanh, mà phải theo nguyên tắc đi đầu thai theo kinh điển mà chư Phật, chư Tổ đã dạy.
Như vậy đối với những người tu theo pháp môn Tịnh Độ không phải chỉ lúc chết mới tu hay mới mời Thầy đến làm đám, mà ngay khi còn sống, khi là một người Phật Tử tại gia mọi người đã phải thực hiện niệm câu Phật hiệu Nam Mô A Di Đà Phật nằm lòng rồi, để đến khi lâm chung không còn bỡ ngỡ nữa.
Ở chương cuối chúng tôi cố gắng sẽ trở lại vấn đề này một cách có chương cú hơn và hy vọng người Phật Tử Việt Nam khi tu theo Pháp môn Tịnh Độ, chúng ta biết rõ ràng là con đường nào chúng ta đang đi và con đường nào chúng ta sẽ đến.
Ai ăn thì cũng sẽ no. Ai tu thì cũng sẽ chứng, nhưng no như thế nào và chứng như thế nào thì đó là câu hỏi, mà câu trả lời đã có sẵn nơi mỗi người của chúng ta và chỉ cần khơi dậy một niềm tin, một cách thực tập rõ ràng thì ai ai trong chúng ta cũng sẽ được lợi lạc vô cùng.