Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn

Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Tôi tìm thấy hy vọng trong những ngày đen tối nhất và hướng về những gì tươi sáng nhất mà không phê phán hiện thực. (I find hope in the darkest of days, and focus in the brightest. I do not judge the universe.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Hãy nhớ rằng hạnh phúc nhất không phải là những người có được nhiều hơn, mà chính là những người cho đi nhiều hơn. (Remember that the happiest people are not those getting more, but those giving more.)H. Jackson Brown, Jr.
Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1 »» Dẫn nhập »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1
»» Dẫn nhập

(Lượt xem: 58)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Dẫn nhập

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT

Tông Thiên Thai có 3 bộ sách lớn được sử dụng làm giáo khoa căn bản, gọi chung là Thiên Thai tam đại bộ (天台三大部), cũng được gọi là Pháp hoa tam đại bộ (法華三大部). Ba bộ sách này đều do Đại sư Trí Khải thuyết giảng và được đệ tử ghi chép lại, gồm có Diệu pháp Liên hoa kinh văn cú,[1] Diệu pháp Liên hoa kinh huyền nghĩa[2] và Ma-ha chỉ quán.[3] Trong số này, Ma-ha chỉ quán được xem như một bộ sách hướng dẫn sự thực hành tu tập, trong khi Diệu pháp liên hoa kinh văn cú và Diệu pháp liên hoa kinh huyền nghĩa là hai bộ sách thuyết giảng về ý nghĩa kinh Diệu pháp liên hoa, tức là cung cấp phần giáo lý, hay lý thuyết nền tảng cho sự tu tập.

Kinh Diệu pháp liên hoa[4] do ngài Cưu-ma-la-thập[5] chuyển dịch từ Phạn ngữ sang Hán ngữ vào khoảng đời Hậu Tần (384-417). Ngài Trí Khải bắt đầu thuyết giảng kinh này vào khoảng năm 587. Như vậy, vào thời điểm đó bản dịch Hán ngữ kinh Pháp hoa được lưu hành đã hơn 150 năm và có thể đã trở thành một phần giáo pháp quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Tuy nhiên, có lẽ chỉ sau khi ngài Trí Khải sáng lập và phát triển tông Thiên Thai với một hệ thống giáo lý hoàn chỉnh lấy kinh Pháp hoa làm nền tảng, thì bộ kinh này mới phát huy được hết những ý nghĩa sâu xa huyền diệu cũng như tạo ra một ảnh hưởng lớn lao không thể phủ nhận đối với Phật giáo Đại thừa tại Trung Hoa. Do vậy, chúng ta có thể dễ dàng thấy được vai trò quan trọng của Pháp hoa văn cú trong việc xây dựng giáo lý tông Thiên Thai nói riêng và sự phát triển của Phật giáo Trung Hoa nói chung.

ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ

Đại sư Trí Khải (智顗大師) sinh năm 538, thị tịch vào năm 597, người họ Trần ở quận Dĩnh Xuyên (Hà Nam), gia đình đến ngụ cư ở huyện Hoa Dung (Kinh châu) và ngài sinh ra tại đây. Ngài có thế danh là Đức An (德安),[6] năm 18 tuổi đến Tương châu xuất gia thọ giới sa-di với ngài Pháp Tự (法緒) ở chùa Quả Nguyện (果願), được thầy ban pháp danh là Trí Khải (智顗). Về sau, ngài tu tập và giáo hóa đồ chúng ở núi Thiên Thai nên người đương thời gọi ngài là Đại sư Thiên Thai (天台大師). Khoảng năm 591, Tấn vương Dương Quảng nhiều lần thỉnh cầu, Đại sư liền đến Dương châu truyền giới Bồ Tát, nhân đó Tấn vương dâng tôn hiệu là Đại sư Trí Giả (智者大師).

Như vậy, Đại sư được người đời biết đến với cả ba danh xưng là Trí Khải, Trí Giả và Thiên Thai. Tuy nhiên, trong cả ba tên gọi này thì danh xưng Trí Khải được vị thầy ban cho lúc xuất gia là quan trọng nhất đối với người xuất gia, nên có thể xem là tên chính thức. Từ điển Bách Khoa nguồn mở, bản Hoa ngữ cho rằng Trí Giả là pháp hiệu của ngài.[7] Điều này không đúng, vì tôn hiệu do Tấn Vương dâng lên để thể hiện lòng tôn kính không thể được xem là pháp hiệu.

Về tên gọi Trí Khải, Từ điển Bách Khoa nguồn mở, bản tiếng Việt cho rằng phải đọc là Trí Di, viện dẫn Encyclopædia Britannica cho rằng chữ 顗 phải đọc là “di” mà không thể đọc là “khải” vì đó là cách phiên âm sai. Hơn nữa, Từ điển này còn trích dẫn: “... lấy theo tên thiền viện của Trí Di trên núi Thiên Thai... Tên ông thường hay bị phiên sai thành Trí Khải.”[8]

Trong thực tế, không có thiền viện nào mang tên Trí Di hay Trí Khải. Ngôi chùa trên núi Thiên Thai do Đại sư sáng lập ban đầu có tên là chùa Tu Thiền, sau đổi tên là chùa Quốc Thanh, và danh hiệu của Đại sư được tôn xưng theo tên núi, không phải tên chùa. Và như đã nói, pháp danh Trí Khải là do thầy của ngài ban cho.

Mặc dù những thông tin trong các từ điển trên hoàn toàn sai lệch, nhưng gần đây có rất nhiều người viện dẫn để cho rằng cách gọi tên Trí Khải là sai lầm cần thay đổi.

Thật ra, chữ 顗 trong tên gọi Trí Khải (智顗) có ít nhất là ba cách đọc sang âm Hán Việt với nghĩa khác nhau. Khi đọc là “ỷ”, chữ này có nghĩa là yên tĩnh, yên vui... Khi đọc là “nghĩ” sẽ có nghĩa là nghiêm cẩn, trang nghiêm. Cả hai cách đọc này có thể tìm thấy dễ dàng trong rất nhiều từ điển Hán Việt hiện đang lưu hành. Tuy nhiên, còn một cách đọc thứ ba chính là âm “khải”. Từ điển Khang Hy trích dẫn Tập vận ghi rõ: “【集韻】 五亥切, 音愷, 義同。” (Tập vận: Ngũ hợi thiết, âm khải, nghĩa đồng.) Theo giải thích này thì chữ 顗 có thể được đọc theo âm “khải” và mang nghĩa giống như chữ khải (愷) là vui mừng, yên ổn, chẳng hạn như khải ca (愷歌) là khúc nhạc vui mừng khi đoàn quân ra trận chiến thắng trở về. Như vậy, khi đặt pháp danh cho ngài, vị thầy là Đại sư Pháp Tự (法緒) đã chọn ý nghĩa và cách đọc thứ ba như vừa trình bày trên. Do đó, danh xưng Trí Khải được sử dụng quen thuộc từ xưa nay không có gì là sai lầm cả.

Đại sư từ thuở nhỏ đã có biểu hiện thông minh xuất chúng và trí nhớ siêu phàm. Năm 7 tuổi, ngài theo cha mẹ lên chùa, nghe chư tăng tụng phẩm kinh Phổ môn thoáng qua chỉ một lần đã nhớ và tụng lại được như quen thuộc từ lâu đời. Sau đó ngài nhiều lần có ý định xuất gia, nhưng cha mẹ quyến luyến không muốn chấp thuận. Cho nên mãi đến năm 18 tuổi, sau khi song thân đều đã qua đời, ngài mới chính thức xuất gia thọ giới sa-di ở chùa Quả Nguyện (果願). Năm 20 tuổi, ngài thọ Đại giới với Luật sư Tuệ Khoáng (慧曠律師). Năm 560, ngài đến núi Đại Tô ở Quang châu theo học với ngài Tuệ Tư (慧思). Sau một thời gian, nhân tụng phẩm Dược Vương trong kinh Pháp hoa, ngài hoát nhiên khai ngộ, từ đó được thầy giao cho việc giảng dạy đồ chúng.

Năm 575, ngài đến núi Thiên Thai (Chiết Giang) lập chùa ẩn tu. Đến khoảng năm 585, theo lời thỉnh cầu của vua nhà Trần, ngài xuống núi đến chùa Linh Diệu tại Kim Lăng khai đàn thuyết pháp, giảng giải luận Đại Trí độ và sau đó là kinh Nhân vương Bát-nhã ở Điện Thái Cực. Năm 587, tại chùa Quang Trạch, ngài bắt đầu thuyết giảng phần nội dung sau này được ghi chép thành Pháp hoa văn cú. Năm 593, ngài bắt đầu thuyết giảng Pháp hoa huyền nghĩa. Đương thời, tài năng thuyết giảng và biện luận của ngài hầu như không ai sánh kịp.

Thế nhưng, đóng góp quan trọng nhất của Đại sư Trí Khải không phải ở sự nghiệp thuyết giảng, cho dù chính điều đó khiến ngài trở nên một bậc thầy nổi tiếng và được sự kính trọng của cả hai triều vua Trần, Tùy. Đóng góp quan trọng nhất của ngài cho Phật giáo nói chung và Phật giáo Trung Hoa nói riêng chính là việc hệ thống hóa những giáo lý Phật giáo vào thời đó thành một hệ thống giáo pháp có sự cân bằng giữa nghiên cứu giáo lý và thực hành tu tập. Ngài là người đầu tiên đã sáng tạo ra phương pháp nghiên cứu kinh điển có hệ thống qua sự phân loại “ngũ thời bát giáo”,[9] đồng thời cũng đề ra phương pháp thực hành tu tập độc đáo qua pháp môn chỉ quán,[10] được trình bày cụ thể trong sách Ma-ha chỉ quán. Tông Thiên Thai do ngài sáng lập đã có một ảnh hưởng lớn lao và lâu dài đến sự phát triển của Phật giáo Trung Hoa.

Cuộc đời và sự nghiệp tu tập, hoằng hóa của Đại sư Trí Khải hầu như gắn liền với kinh Pháp hoa. Các giáo lý được ngài thuyết giảng đều dựa trên tinh thần của bộ kinh này. Ngài đến với đạo Phật từ ban sơ qua phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa, được tỏ ngộ qua sự hành trì phẩm Dược vương cũng trong kinh Pháp hoa, và 2 bộ trong số Thiên Thai tam đại bộ là giảng giải về kinh Pháp hoa. Điều này cho thấy vai trò hết sức quan trọng của Pháp hoa văn cú trong sự nghiệp hoằng pháp của Đại sư Trí Khải cũng như ảnh hưởng của bộ sách này đối với giáo lý tông Thiên Thai.

ĐÔI NÉT VỀ TÁC PHẨM

Pháp hoa văn cú gồm 10 quyển, mỗi quyển đều được chia thành hai phần thượng và hạ. Văn bản hiện nay trong Đại Chánh tạng được xếp ở Tập 34, số 1718, bắt đầu từ trang 1, tờ a, dòng 1 đến trang 149, tờ a, dòng 29, tức là khoảng 150 trang.

Với một số trang khiêm tốn như thế, tất nhiên lượng câu chữ trong văn bản cũng không quá nhiều, nhưng tác phẩm được trình bày qua một lối hành văn cực kỳ hàm súc, chứa đựng lượng thông tin lớn hơn rất nhiều so với thông thường. Điều này dẫn đến việc đọc hiểu văn bản không hề dễ dàng đối với độc giả thông thường, những người không có chuyên môn sâu về Phật học. Trong hầu hết các trường hợp, những vấn đề trong sách được trình bày theo khuynh hướng mặc định là người đọc đã nắm hiểu hoặc am tường hết thảy những thông tin liên quan, và do đó văn bản không giải thích, chỉ nêu thẳng ý chính của tác giả mà thôi. Nhưng chúng ta đều biết là thực tế không phải vậy, cho nên cách trình bày này đã trở thành một rào cản rất lớn cho sự đọc hiểu của đa số độc giả các thế hệ về sau.

Sự khó khăn này là khách quan, không chỉ là nhận thức chủ quan của một số người đọc. Chính những người đi trước cũng đã nhận ra được khó khăn này, và vì thế ngài Trạm Nhiên đã biên soạn Pháp hoa văn cú ký (法華文句記) để chú thích, giảng giải sách Pháp hoa văn cú. Điều này nghe có vẻ như lạ lùng đối với độc giả thời hiện đại, khi một bộ sách được soạn ra để giảng giải kinh Pháp hoa, rồi một bộ sách khác lại phải được biên soạn để giảng giải bộ sách ấy. Tuy nhiên, quả thật là với cách trình bày quá súc tích của Pháp hoa văn cú thì việc biên soạn một bộ sách để giảng giải nó là thực sự cần thiết. Trong thực tế, khi tiếp cận với văn bản Pháp hoa văn cú, bản thân chúng tôi cũng đã dựa vào nhiều giải thích trong Pháp hoa văn cú ký để có thể nhận hiểu nguyên tác trọn vẹn hơn.

Mặt khác, tiến trình hình thành của bộ Pháp hoa văn cú này cũng khá phức tạp. Trước tiên là từ những bài giảng của Đại sư bắt đầu vào khoảng năm 587 được Quán Đỉnh ghi chép lại, theo lời tựa của Thần Quýnh là có 20 quyển. Nguyên tác 20 quyển này có lẽ không còn tìm lại được nữa nên chúng ta không thể biết được nội dung ban đầu là như thế nào. Và cũng theo Thần Quýnh, phải đến hơn 150 năm sau mới có Hòa thượng Huyền Lãng là người đầu tiên nghĩ đến việc hoàn thiện bản văn. Vị này đã đưa ra nhận xét về nguyên tác (20 quyển) lúc đó là: “Nếu quán xét nơi nghĩa lý thì [bản văn này] thật khế hợp sâu xa với Phật thừa, nhưng tìm hiểu vào cấu trúc văn chương thì thường không theo thứ lớp thích hợp. Hoặc câu văn tương tục mà ý nghĩa dứt đoạn; hoặc câu văn theo sau mà ý nghĩa đã nêu ở trước; hoặc có cả đoạn văn dài trước khi mở đầu chương sách; hoặc đã dứt chương rồi, phần theo sau mới nêu lên ý nghĩa chương ấy... ...”[11]

Mặc dù vậy, ngài Huyền Lãng cũng đã rất phân vân trong việc chỉnh sửa bản văn. Nhiều người đã thỉnh cầu ngài làm việc này và nêu ý kiến rằng: “Ví như có sự so sánh thay đổi sắp xếp lại thì điều đó hẳn sẽ rộng làm lợi ích cho rất nhiều người.”[12] Do vậy, cuối cùng Hòa thượng đã quyết định bắt tay vào công việc hoàn thiện bản văn sau khi tự thân đã có lời khấn nguyện và được sự ứng mộng chấp thuận của Đại sư.

Trong công việc chỉnh sửa hoàn thiện này, ngoài sự chủ trì của Hòa Thượng Huyền Lãng là người “trí tuệ và công hạnh song toàn; công phu tu tập và nghiêm trì giới luật xem trọng như nhau; uyên thâm cả nội điển và ngoại điển”,[13] còn có sự góp sức của Thần Quýnh và các đồng sự, mà theo sự ghi nhận trong Lời tựa là đã “cùng thu thập, chọn lọc văn xưa”. Như vậy, công việc của các vị này có lẽ là cùng góp sức trong việc nhuận sắc văn bản, nghĩa là hoàn thiện về mặt văn chương. Chính vì công việc chủ yếu là nhuận sắc về văn chương nên Thần Quýnh mới nói trong Lời tựa là “thật lòng hổ thẹn không có được văn tài như Nhạn Môn”, hàm ý e sợ rằng văn tài của mình không xứng đáng với công việc quan trọng này.

Con số 20 quyển mà Thần Quýnh nói về bản văn được ghi chép ban đầu thật ra không phải là sự khác biệt về độ dài văn bản, bởi vì ngài Huyền Lãng đã thận trọng nói về công việc của ngài là: “Hết thảy đều tùy theo từng nơi mà sắp xếp thích hợp, thành tâm lượng xét, chẳng phải cẩu thả vì muốn có sự giống nhau hay khác nhau mà tùy tiện theo ý mình thêm bớt trong văn bản.” Với khuynh hướng đó, rõ ràng không thể có việc cắt bỏ một văn bản từ 20 quyển còn lại 10 quyển như hiện nay, một sự cắt bỏ quá nhiều. Do vậy, theo chúng tôi thì sự khác biệt về số quyển có lẽ chỉ do cách sắp xếp lại. Mỗi quyển hiện nay được chia thành hai phần thượng và hạ, rất có thể chính là 2 quyển trong cách phân chia ban đầu. Và nếu đúng vậy thì hoàn toàn hợp lý vì sự hoàn thiện do ngài Huyền Lãng thực hiện không thể làm thay đổi quá nhiều về độ dài văn bản.

Kể từ khi được hoàn chỉnh và lưu hành rộng rãi, Pháp hoa văn cú đã trở thành một trong những bản văn góp phần quan trọng tạo thành ảnh hưởng to lớn của tông Thiên Thai đối với Phật giáo Trung Hoa, suốt trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của tông phái này. Trong khi Thiền tông Trung Hoa thực sự phát triển mạnh mẽ từ sau Lục tổ Huệ Năng (638-713), xiển dương phương thức tu tập chủ trương “giáo ngoại biệt truyền”, chú trọng nhiều vào công phu hành trì thực chứng, thì tông Thiên Thai có một hệ thống phương pháp tu tập dung hòa hơn, xem trọng cả công phu thực hành cũng như việc nghiên cứu học tập giáo điển.

Hơn thế nữa, tông Thiên Thai có sự tổng hợp hầu như tất cả các phần giáo pháp của Phật giáo vào trong hệ thống giáo pháp chung của mình. Với hệ thống phân loại gồm Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo, tông Thiên Thai chủ trương tất cả mọi giáo pháp đều do đức Phật thuyết giảng nên đều có giá trị giáo hóa như nhau, chỉ do sự khác biệt về căn cơ của chúng sinh mà cần thiết phải có sự vận dụng khác biệt trong tiến trình tu tập. Tuy nhiên, những khác biệt đó chỉ mang tính tạm thời trong từng giai đoạn nhất định của người tu tập, và khi hướng đến mục đích giải thoát rốt ráo thì tất cả đều quy về một kết quả như nhau.

Khi nhận thức về giáo pháp theo cách này, tông Thiên Thai thực sự đã xóa bỏ được phần nào ranh giới khác biệt trước đó giữa các tông phái khác nhau trong đạo Phật. Với một cách nhìn thông thoáng và cởi mở hơn, người tu tập theo tông Thiên Thai có thể gạt bỏ được rất nhiều sự phân biệt không cần thiết để tập trung hoàn toàn vào nỗ lực tu tập theo phần giáo pháp thích hợp với bản thân mình.

Ngoài những điểm nêu trên, về mặt học thuật thì tông Thiên Thai cũng đóng góp một phương pháp luận đặc biệt mới mẻ và hợp lý hơn so với đương thời, giúp người tu tập trong Phật giáo có thể tự mình nghiên cứu giáo điển và áp dụng vào sự tu tập hành trì một cách cụ thể. Chính điều này đã dẫn đến nhiều sự chỉ trích và biện bác thẳng thắn đối với các bậc thầy đi trước, điều rất ít khi xảy ra trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa từ trước đó. Chúng ta có thể thấy rất rõ hiện tượng này khi đọc qua Pháp hoa văn cú.

Tất cả những nét đặc thù của tông Thiên Thai như nói trên đều bắt nguồn từ người sáng lập, Đại sư Trí Khải. Những điểm sáng tạo trong phương pháp tu tập cũng như trong nghiên cứu học thuật của ngài đã tạo thành sức sống cho tông Thiên Thai, giúp tông phái này có đủ khả năng song song tồn tại với Thiền tông ngay cả trong những thời kỳ mà Thiền tông phát triển cực thịnh. Do vậy, sự truyền thừa dài lâu của tông phái này rõ ràng là có sự đóng góp của những trước tác mà Đại sư để lại, trong đó có thể nhắc đến tầm quan trọng của Thiên Thai tam đại bộ nói chung và Pháp hoa văn cú nói riêng.

GIÁ TRỊ CỦA PHÁP HOA VĂN CÚ

Pháp hoa văn cú là nội dung giảng giải kinh Pháp hoa. Như vậy, lợi ích chính của sách này là giúp người Phật tử dễ dàng hơn trong việc nhận hiểu kinh Pháp hoa. Trong thực tế, kinh Pháp hoa là một bộ kinh quá quen thuộc với Phật tử Việt Nam và không ít người đã tụng đọc thuộc lòng bộ kinh này. Gần đây cũng có rất nhiều vị thầy giảng giải kinh Pháp hoa, và mỗi vị đều có sự đóng góp ít nhiều trong việc giúp người Phật tử thấu hiểu được những ý nghĩa nhiệm mầu trong kinh văn.

Tuy nhiên, sự giảng giải của Đại sư Trí Khải trong Pháp hoa văn cú có rất nhiều khác biệt. Trước hết, mặc dù là một bậc thầy sống cách đây gần 15 thế kỷ, nhưng Đại sư đã giảng giải bộ kinh này theo một tinh thần khai phóng và bằng một phương pháp luận rất khoa học. Lấy ví dụ như trước khi đưa ra cách nhận hiểu khác biệt của mình về một phần kinh văn, Đại sư thường nêu đầy đủ quan điểm, cách nhận hiểu của các bậc thầy trước đó (được gọi là cựu giải) hoặc cách nhận hiểu của những tông phái khác. Phương thức này giúp người đọc có được một sự nhận thức và lựa chọn khách quan, vì đã có cơ hội tiếp cận với nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề.

Điểm đặc biệt khác nữa là Pháp hoa văn cú vận dụng một phương thức phân tích chia chẻ kinh văn rất chi tiết. Để nêu ra ý nghĩa của mỗi đoạn kinh văn hoặc kệ tụng, Pháp hoa văn cú thường chia nhỏ dần các phần này thành những cấu trúc nhỏ hơn, rồi nhỏ hơn nữa... cho đến khi nêu ra được ý nghĩa chính của phần kinh văn hoặc kệ tụng đó. Bằng cách này, ý nghĩa kinh văn được phân tích, soi rọi đến mức độ chi tiết và rõ rệt nhất.

Pháp hoa văn cú cũng vận dụng phương pháp so sánh giữa kinh văn trong phần trường hàng (văn xuôi) với phần trùng tụng (kệ tụng). Điều này hết sức hữu ích trong việc làm rõ ý nghĩa kinh văn, bởi vì phần trùng tụng phần lớn là lặp lại ý nghĩa chính trong kinh văn trường hàng. Qua việc so sánh những cách diễn đạt giống nhau và khác nhau giữa hai phần, người giảng giải có thể nêu ra được những ý nghĩa ẩn mật nhất trong kinh văn. Ngoài ra, việc trùng tụng cũng không phải là “sao y bản chánh” từ văn trường hàng, mà là diễn đạt lại theo một cách khác. Do vậy, có khi ý nghĩa trong phần trùng tụng giúp làm rõ hơn ý nghĩa trong kinh văn trường hàng, và ngược lại cũng có nhiều ý nghĩa trong kinh văn trường hàng bị lược bớt đi trong phần kệ tụng. Chính nhờ sự phân tích, so sánh để chỉ ra những điểm khác biệt này mà ý nghĩa kinh văn được nhận hiểu một cách trọn vẹn, đầy đủ hơn.

Trên đây chỉ là nêu qua một số điểm nổi bật trong sự giảng giải kinh văn của Pháp hoa văn cú. Trong thực tế, bằng vào sự trải nghiệm của chúng tôi khi chuyển dịch Pháp hoa văn cú song song với chuyển dịch kinh Pháp hoa, chúng tôi đã nhận hiểu được rất nhiều ý nghĩa trong kinh văn mà trước đây dù đã tụng đọc nhiều lần nhưng vẫn chưa thấu hiểu rõ ràng. Cho nên, việc giúp người đọc nhận hiểu trọn vẹn hơn ý nghĩa kinh văn có thể nói là lợi ích lớn lao và quan trọng nhất của Pháp hoa văn cú.

CÁC BẢN VIỆT DỊCH

Hiện đã có ít nhất 2 bản Việt dịch của Pháp hoa văn cú. Bản thứ nhất được đưa vào Linh Sơn Pháp Bảo (LSPB) không rõ người dịch,[14] thuộc Tập 119, đã được lưu hành từ khoảng năm 2000. Bản Việt dịch thứ hai được Hòa thượng Thích Như Điển, Phương trượng chùa Viên giác (Đức quốc), thực hiện từ năm 2009 và đã hoàn tất xuất bản từ năm 2013. Như vậy, nếu chỉ nhìn về mặt văn bản thì độc giả Việt Nam đã có thể tiếp cận với toàn văn Pháp hoa văn cú bằng tiếng Việt từ nhiều năm qua.

Tuy nhiên, cũng giống như hầu hết các văn bản Hán cổ, nguyên tác Hán văn của Pháp hoa văn cú là một văn bản không dễ chuyển dịch. Nếu chỉ xét riêng thời điểm ra đời của văn bản từ cách đây đã gần 1.500 năm thì việc nhận hiểu được đã là một khó khăn. Khác biệt về nền tảng văn hóa cũng là một khó khăn khác, chẳng hạn như có những cách diễn đạt hay điển tích được xem là thông thường đối với người Trung Hoa vào thời điểm ra đời của văn bản, thì hiện nay là hoàn toàn xa lạ, không thể nào hiểu được.

Lấy ví dụ như nguyên tác nói “褒春秋之一言 - bao Xuân Thu chi nhất ngôn” là dựa vào nhận thức của người Trung Hoa thời đó, xem kinh Xuân Thu như một chuẩn mực của sự khen chê đối với mọi sự kiện trong lịch sử. Khi không hiểu được ý nghĩa này, bản LSPB đã dịch là “một lời khen ngợi hướng đến những người có tài trí”,[15] hoàn toàn đi lạc xa với nguyên tác. Câu “bao Xuân Thu chi nhất ngôn” phải được hiểu là “nêu một lời xưng tán đúng thật như kinh Xuân Thu”, và đồng thời cần đặt một chú giải để giải thích về chuẩn mực khen chê của kinh Xuân Thu theo nhận thức của người Trung Hoa thời đó. Đây chỉ là một trong rất nhiều ví dụ mà khi không có sự tìm hiểu về khác biệt nền tảng văn hóa thì không thể hiểu đúng văn bản.

Nhưng ngay cả khi không dùng đến điển tích, cách trình bày của Pháp hoa văn cú cũng cực kỳ cô đọng theo kiểu “ý tại ngôn ngoại”, nếu không có sự suy xét thận trọng thì không thể hiểu được. Chẳng hạn như câu văn này: “賴彌勒之慇懃, 迴文殊之靳固。- Lại Di-lặc chi ân cần, hồi Văn-thù chi cận cố.” Bản LSPB đã chuyển dịch là: “Lại nhờ Di-lặc ân cần dạy bảo, về với Văn-thù phụ giúp...”[16] Chỉ khi cân nhắc toàn văn cảnh, người chuyển dịch mới có thể hiểu được đây là đề cập đến việc ngài Di-lặc thưa hỏi ở đầu kinh Pháp hoa, và ngài Văn-thù nhân đó hồi đáp để toàn thể đại chúng hiểu được ý nghĩa những điềm lành vừa hiển hiện. Cho nên, câu văn này phải hiểu là: “Cậy nhờ có Bồ Tát Di-lặc quan tâm [thưa hỏi], Pháp vương tử Văn-thù hồi đáp.” Rõ ràng là ở đây nếu chỉ căn cứ vào câu chữ được dùng thì không thể thấu hiểu được dụng ý của tác giả. Và sự chuyển dịch sai lệch sẽ làm cho người đọc hiểu sai về văn bản, không tiếp nhận được những ý nghĩa sâu sắc của kinh văn được giảng giải.

Tính hàm súc của Pháp hoa văn cú cũng có thể được minh họa bằng một vài con số cụ thể. Toàn văn của nguyên tác từ đầu đến hết phần giảng giải phẩm Phương tiện trong kinh Pháp hoa là khoảng 63 trang chữ Hán, khi chuyển dịch chúng tôi đã phải biên soạn khoảng gần 1.000 chú thích cho phần này để giải thích về ý nghĩa và cách dùng từ ngữ trong nguyên tác. Chỉ riêng phần Lời tựa dài chưa đến 7 trang đã phải có đến 25 chú thích, trong đó một số chú thích là thiết yếu đến mức độ nếu không có thì người đọc sẽ không thể hiểu được. Chẳng hạn như hai chữ “tổn sinh” trong cụm từ “tăng đạo tổn sinh” (增道損生) nếu hiểu theo nghĩa thông thường của từ ngữ sẽ là “gây tổn hại đến sự sống”, nhưng bản văn lại sử dụng theo một ý nghĩa hoàn toàn khác là “làm giảm bớt đi biến dịch sinh tử”, hay nói cách khác là làm suy tổn khả năng tiếp diễn vòng sinh tử luân hồi, tức là một sự tiến bộ tích cực trong tu tập. Lại có những thuật ngữ như “thừa giới câu cấp” (乘戒俱急), đối với người không quen thuộc với giáo lý tông Thiên Thai thì không thể dựa vào từ ngữ để hiểu được ý nghĩa. Trong những trường hợp này, cần thiết phải có một sự chú thích rõ ràng thì người đọc mới có thể hiểu được. Bản LSPB đã dịch sát theo từng chữ là “thừa giới đều gấp”, và dịch như vậy thì người đọc thật ra không hiểu được gì. Trong thực tế, “thừa giới câu cấp” là một thuật ngữ đặc thù của tông Thiên Thai sẽ được giải thích trong quyển 2 của bộ sách này. “Thừa” ở đây chỉ sự tu tập thuộc về một trong ba thừa là Đại thừa, Trung thừa hoặc Tiểu thừa, và “cấp” nghĩa là tinh tấn, gấp rút trong sự tu tập, ngược lại với “hoãn” (緩) có nghĩa là chậm chạp, trì trệ. Do vậy, “thừa giới câu cấp” có nghĩa là đối với việc tu tập và nghiêm trì giới luật đều có sự tinh tấn, nỗ lực gấp rút để tiến bộ, đều xem trọng cả hai phương diện này như nhau mà không có sự buông thả, phóng túng.

Khoảng năm 2020, chúng tôi nhận được bản Việt dịch của Hòa thượng Thích Như Điển gửi từ Đức quốc sang Hoa Kỳ. Đồng quan điểm với chúng tôi về những nhận xét như trên nên Hòa thượng cũng đã tự nhận thấy phương thức chuyển dịch đơn thuần được áp dụng vào năm 2009 đã không thể lột tả hết được ý nghĩa sâu xa của văn bản này. Do vậy, ngay trang đầu tiên của tập sách nhận được, chúng tôi đã thấy thủ bút của Hòa thượng ghi rõ rằng: “Quyển này cần phải giảo chính lại.” Thấy được tinh thần cầu thị rất đáng khâm phục đó, chúng tôi đã cung kính thưa chuyện với Hòa thượng về việc nên chuyển dịch lại toàn bộ sách Pháp hoa văn cú này và được Hòa thượng hoan hỷ chuẩn thuận ngay. Đó chính là duyên khởi cho sự ra đời của bản trùng dịch này, mặc dù phải đợi đến giữa năm 2022 thì chúng tôi mới có đủ thuận duyên để bắt tay vào công việc.

VỀ BẢN VIỆT DỊCH NÀY

Nhận thức rõ về tầm quan trọng của bộ sách này cũng như những khó khăn phải vượt qua để có thể mang đến cho độc giả một bản dịch chuyển tải được những ý nghĩa sâu xa trong nguyên tác, chúng tôi đã hết sức thận trọng trong khả năng của mình để chuẩn bị cho một phương thức chuyển dịch khác biệt hơn thông thường.

Nói là khác biệt, bởi chúng tôi nhận thấy rằng nếu chỉ căn cứ hoàn toàn vào ngữ nghĩa trong văn bản để chuyển dịch, thì trong rất nhiều trường hợp chính bản thân người dịch cũng sẽ không hiểu hết được ý nghĩa của câu văn, đoạn văn mà mình đã chuyển dịch. Lý do là như đã giải thích ở phần trên, bản văn này không trình bày trọn vẹn vấn đề mà thường mặc định rằng người đọc đã sẵn có những kiến thức liên quan, do đó tác giả chỉ nêu thẳng ý kiến của mình mà không cần giải thích. Như vậy, để có thể hiểu được đầy đủ và chính xác câu chữ trình bày trong văn bản, độc giả cần phải tự mình trang bị những kiến thức liên quan đó.

Tuy nhiên, trong thực tế thì yêu cầu này có thể nói là hoàn toàn bất khả thi đối với đa số độc giả trong thời hiện đại, khi mà những kiến thức Phật học được xem là “phổ thông” của thời điểm tác phẩm này ra đời thì ngày nay không còn phổ thông nữa. Vì thế, cách giải quyết vấn đề hợp lý hơn là người chuyển dịch văn bản phải đảm nhận thêm vai trò thu thập các thông tin, kiến thức liên quan để đưa kèm vào văn bản, giúp độc giả có thể tiếp cận một văn bản hoàn chỉnh và nhờ đó mới có thể nhận hiểu được.

Để làm được điều này, chúng tôi buộc phải sử dụng thêm rất nhiều văn bản Hán ngữ liên quan khác, thay vì chỉ dựa vào văn bản Pháp hoa văn cú để chuyển dịch. Một trong các văn bản liên quan đó là Pháp hoa văn cú ký, như đã giới thiệu ở phần trên. Ngoài ra, hầu hết các bộ sớ giải kinh Pháp hoa cũng đều được chúng tôi tham khảo đến ở những nơi cần thiết nhằm hiểu rõ được ý tưởng trình bày trong nguyên tác.

Tuy nhiên, việc nhận hiểu văn bản chỉ là bước đầu. Để chuyển tải được những điều đã nhận hiểu được vào bản dịch thì không thể thực hiện theo cách chuyển dịch thông thường, bởi có rất nhiều ý tưởng cần phải đưa thêm vào mà không thực sự nhìn thấy được qua câu chữ trình bày trong nguyên tác. Do vậy, chúng tôi đã chọn phương thức đưa thêm các hàm ý vào bản dịch để làm rõ nghĩa, nhưng đặt tất cả những hàm ý thêm vào này trong các ngoặc vuông để độc giả dễ dàng nhận biết. Bằng cách này, chúng tôi nhận trách nhiệm về những gì đã đưa thêm vào bản dịch mà không làm thay đổi ý nghĩa thật có trong nguyên tác. Trong trường hợp độc giả không tán thành với những “thêm thắt” đó thì vẫn có thể tự mình loại bỏ.

Thế nhưng, những thông tin cần thiết để hiểu được văn bản cũng không thể đưa cả vào bản dịch theo cách trên, đơn giản chỉ là vì có quá nhiều những thông tin như vậy. Do đó, chúng tôi buộc phải sử dụng thêm nhiều chú giải để cung cấp cho độc giả những thông tin cần thiết này.

Điều tất nhiên là cách làm này tăng thêm khối lượng công việc, đòi hỏi thêm rất nhiều thời gian và công sức, nhưng đổi lại là một kết quả hoàn thiện hơn vì chúng tôi có thể chuyển dịch nguyên tác thành một bản dịch theo cách mà một độc giả hiện đại có thể nhận hiểu được.

Để minh họa cho sự khác biệt giữa cách dịch mà chúng tôi gọi là “đơn thuần” vì chỉ hoàn toàn dựa vào câu chữ trong nguyên tác, với cách chuyển dịch “mở rộng” mà chúng tôi vừa trình bày trên, chúng tôi xin giới thiệu ở đây một đoạn văn ngắn trong nguyên tác:

天親作論以七功德分序品, 五示現分方便品, 其餘品各有處分。昔河西憑, 江東瑤, 取此意節目經文, 末代尤煩。光宅轉細, 重雰翳於太清, 三光為之戢耀, 問津者所不貴。

- Thiên Thân tác luận dĩ thất công đức phân Tự phẩm, ngũ thị hiện phân Phương Tiện phẩm, kỳ phẩm các hữu xứ phân. Tích Hà Tây Bằng, Giang Đông Dao, thủ thử ý tiết mục kinh văn, mạt đại vưu phiền. Quang Trạch chuyển tế, trọng phân ế ư thái thanh, tam quang vi chi tập diệu, vấn tân giả sở bất quý.

Và dưới đây là phần Việt dịch của LSPB, có thể thấy là đã dịch theo phương thức “đơn thuần”, hoàn toàn dựa vào câu chữ trong bản văn:

“Ngài Thiên Thân tạo luận lấy thất công đức phân làm phẩm Tựa, lấy ngũ thị hiện phần làm phẩm Phương tiện, các phẩm còn lại đều có xứ phần. Xưa thì ông Bằng ở Hà Tây và ông Dao ở Giang Đông lấy ý này mà chia làm tiết mục kinh văn, sau này đặc biệt rườm rà. Có ngài Quang Trạch chuyển soạn tinh tế, như nhiều lớp mây mù che lấp bầu trời nhờ có ba thứ ánh sáng chiếu soi rõ ràng. Hỏi bến bờ vì sao không quý?”[17]

Khi vận dụng phương pháp “mở rộng”, chúng tôi đã chuyển dịch và chú giải đoạn văn này như sau:

Ngài Thiên Thân1 tạo [Pháp hoa kinh] luận dùng bảy công đức [thành tựu]2 để phân chia phẩm Tựa, lấy năm phần thị hiện3 [để phân chia] phẩm Phương tiện. Các phẩm khác cũng đều có chỗ phân chia. Từ xưa ở Hà Tây có [Thích Đạo] Bằng,4 Giang Đông có [Thích Pháp] Dao,5 đều dựa theo cách này để phân chia tiết mục kinh văn, hết sức rườm rà. Đến ngài Quang Trạch6 chuyển sang hướng phân chia tinh tế. [Nhưng chia nhỏ như vậy khác nào như] sương mù dày đặc che lấp bầu trời cao rộng, khiến cho ánh sáng mặt trời, mặt trăng và tinh tú đều ẩn khuất. Đây không phải chỗ đáng trân quý của người cầu học đạo.”7

Đoạn này cần 7 chú giải:

1. Tức Vasubandhu, còn gọi là Bồ Tát Thế Thân, một trong những vị Luận sư lỗi lạc của Phật giáo. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, cũng là một vị Luận sư Đại thừa nổi tiếng.

2. Bảy công đức thành tựu: 1. Tự phần thành tựu, 2. Chúng thành tựu, 3. Như Lai dục thuyết pháp thời chí thành tựu, 4. Sở y thuyết pháp tùy thuận uy nghi trụ thành tựu, 5. Y chỉ thuyết nhân thành tựu, 6. Đại chúng hiện tiền dục văn pháp thành tựu, 7. Văn-thù-sư-lợi đáp thành tựu. (Diệu Pháp Liên Hoa kinh luận Ưu-ba-đề-xá - ĐCT, T26, 1520, tr.10c, d.20 - 24)

3. Tức Ngũ thị hiện hay Ngũ phần, bao gồm: 1. Thán pháp thắng diệu phần, 2. Thán pháp sư công đức phần, 3. Trí chúng định nghi phần, 4. Định ký phần, 5. Đoạn nghi phần.

4. Tức ngài Thích Đạo Bằng (釋道憑), một danh tăng thời Bắc Ngụy, sinh vào khoảng năm 488, từng chú giải rất nhiều kinh luận.

5. Tức ngài Thích Pháp Dao (釋法瑤), hay Đàm Dao (曇瑤), tăng sĩ vào đời Tống, ở chùa Tiểu Sơn (小山寺) quận Ngô Hưng. Đến đời Tùy quận này đổi thành Hồ Châu, tức huyện Ô Trình. Ngài thị tịch trong khoảng niên hiệu Nguyên Huy (473-477).

6. Quang Trạch: tức ngài Thích Pháp Vân (467-529), trụ trì chùa Quang Trạch. Ngài cùng với hai vị Tăng Mân và Trí Tạng được tôn xưng là Tam Đại Pháp Sư của triều Lương. Ngài từng giảng kinh Pháp hoa tại chùa Quang Trạch vào khoảng những năm đầu thế kỷ 6 (502-505).

7. Nguyên tác ghi “問津者所不貴 - Vấn tân giả sở bất quý.” Pháp hoa văn cú ký giải thích rõ hơn: “津者,濟渡處也。- Tân giả, tế độ xứ dã.” Đoạn tiếp theo nêu hàm ý: “Như người hỏi đường đi, kẻ đáp không chỉ ngay lối cần đi mà chỉ nói rộng về các ngả đường quanh đó, thật không phải chỗ người hỏi đường cần biết.”

Sự khác biệt giữa hai phần chuyển dịch trên có thể dễ dàng nhận ra, và qua đó chúng ta có thể thấy rõ những ý nghĩa trong nguyên tác không thể nào được nhận hiểu đúng nếu dựa theo cách chuyển dịch “đơn thuần”. Khi thiếu sự tìm tòi mở rộng, rõ ràng là dịch giả rất dễ dàng chuyển dịch sai lệch hoàn toàn so với nguyên tác. Ngoài ra, nếu không có những chú giải như nêu trên, người đọc cũng không thể nào nhận hiểu được hết ý nghĩa của đoạn văn được chuyển dịch.

Ngoài những khó khăn trong việc chuyển dịch như đã nêu trên, Pháp hoa văn cú còn đặt ra cho người chuyển dịch một khó khăn khác nữa. Nội dung chính của Pháp hoa văn cú là giảng giải kinh Pháp hoa, và văn bản này được biên soạn với sự mặc định là người đọc đã thông thuộc hoặc ít nhất cũng là đã đọc qua kinh Pháp hoa mới có thể tiếp nhận được những sự giảng giải trong văn bản. Chính vì vậy, văn bản thường chỉ trích dẫn một vài câu trong một đoạn kinh văn hoặc kệ tụng để giảng giải về toàn bộ đoạn kinh văn hay kệ tụng đó. Điều này đưa đến một thực tế là, nếu người đọc hoàn toàn chưa thông thuộc kinh Pháp hoa thì rất khó theo dõi được các ý nghĩa giảng giải. Để vượt qua khó khăn này, người đọc có thể phải chọn giải pháp sử dụng một bản Việt dịch kinh Pháp hoa kèm theo với sách này.

Tuy nhiên, việc sử dụng các bản Việt dịch kinh Pháp hoa hiện đang lưu hành cũng có khó khăn. Chúng ta sẽ thử xét qua hai bản Việt dịch được dùng rộng rãi nhất hiện nay là bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh và bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Quang.

Trước hết, bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Quang sử dụng lối diễn ý thay vì đi sát theo nguyên tác Hán văn. Điều này sẽ khiến cho người đọc rất khó khăn khi sử dụng kèm theo với những giảng giải trong Pháp hoa văn cú, vì thực sự khó xác định được các đoạn kinh văn hoặc kệ tụng tương ứng. Lấy ví dụ như đoạn kệ tụng sau đây:

梵音慰喻我:
善哉釋迦文!
第一之導師,
得是無上法,
隨諸一切佛,
而用方便力。

Phạm âm úy dụ ngã:
Thiện tai Thích-ca văn!
Đệ nhất chi đạo sư,
Đắc thị Vô thượng pháp,
Tùy chư nhất thiết Phật,
Nhi dụng phương tiện lực.

Hòa thượng Thích Trí Quang chuyển dịch như sau:

Dùng tiếng Phạn thiên
Khuyến khích Như Lai,
Nói rằng tốt lắm
Thích Ca Thế Tôn!
Ngài là vị thầy
dẫn đạo bậc nhất!
Ngài đã hoàn thành
cái pháp tối thượng,
thì nên thể theo
hết thảy chư Phật
mà cùng dùng đến
nghệ thuật phương tiện.

Chúng ta thấy, 6 câu kệ trong nguyên tác đã được diễn đạt thành 12 câu để nói rộng ý. Tuy cách diễn dịch này vẫn chuyển dịch đúng ý kinh, nhưng nếu dựa vào đây để theo dõi phần giảng giải trong Pháp hoa văn cú thì không có sự tương ứng, quả thật rất khó kết nối.

Bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh đi sát hơn với nguyên tác Hán văn, có thể sẽ dễ dàng hơn trong việc xác định các đoạn kinh văn hoặc kệ tụng tương ứng để theo dõi sự giảng giải trong Pháp hoa văn cú, chẳng hạn như đoạn kệ tụng trên được dịch là:

Tiếng Phạm an ủi ta
Hay thay! Đức Thích-ca
Bậc Đạo sư thứ nhứt
Được pháp vô thượng ấy
Tùy theo tất cả Phật
Mà dùng sức phương tiện.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp khác, khó khăn lại nảy sinh khi Pháp hoa văn cú dẫn kinh văn để giảng giải nhưng sự giảng giải đó lại không phải lúc nào cũng phù hợp với cách nhận hiểu trong bản Việt dịch. Lấy ví dụ như đoạn kệ tụng sau đây:

文殊師利!
我住於此,
見聞若斯,
及千億事,
如是眾多,
今當略說。

Văn-thù-sư-lợi!
Ngã trụ ư thử
Kiến văn nhược tư
Cập thiên ức sự
Như thị chúng đa
Kim đương lược thuyết.

Hòa thượng Thích Trí Tịnh chuyển dịch như sau:

Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi!
Tôi ở tại nơi đây
Thấy nghe dường ấy đó
Và nghìn ức việc khác
Thấy rất nhiều như thế
Nay sẽ lược nói ra.

Trong bản dịch này, chúng ta thấy câu “như thị chúng đa” được hiểu nối tiếp với các sự việc để diễn đạt là “rất nhiều”. Tuy nhiên, khi dẫn những câu kệ này để giảng giải thì Pháp hoa văn cú lại giảng rằng câu “cập thiên ức sự” là nói về những sự việc trông thấy, trong khi câu “như thị chúng đa” là mở ra đề cập đến hội chúng gồm nhiều thành phần sau đó. Như vậy, “chúng đa” ở đây không phải “nhiều việc” mà là nhiều người, chỉ đến hội chúng đa dạng gồm cả Bồ Tát, Thanh văn, cư sĩ v.v. ở phần tiếp theo.

Tất nhiên ở đây chúng ta không phán xét đúng sai về hai cách nhận hiểu khác nhau của hai văn bản, nhưng nếu sử dụng một bản Việt dịch như vậy để dùng kèm theo với sự giảng giải của Pháp hoa văn cú thì rõ ràng là sự không tương hợp này khiến cho người đọc sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp nhận ý nghĩa, bởi sự khác biệt giữa phần Việt dịch kinh văn với phần giảng giải kinh văn.

Do những vấn đề nêu trên, chúng tôi đã quyết định thực hiện một bản Việt dịch kinh Pháp hoa và đưa kèm vào bản dịch Pháp hoa văn cú. Cách làm này sẽ bảo đảm được sự tương thích hoàn toàn giữa phần kinh văn được sử dụng kèm theo với những ý nghĩa giảng giải của Pháp hoa văn cú, đơn giản vì chúng tôi đã vận dụng chính những ý nghĩa giảng giải trong Pháp hoa văn cú để chuyển dịch kinh văn. Chúng tôi cũng xin lưu ý là việc đưa kèm bản Việt dịch kinh Pháp hoa vào khi chuyển dịch không tạo ra bất kỳ thay đổi nào đối với nguyên tác Pháp hoa văn cú. Do vậy, nếu muốn có một bản dịch hoàn toàn theo sát nguyên tác Hán văn của Pháp hoa văn cú, chúng ta chỉ cần loại bỏ các đoạn kinh văn được thêm vào. Tuy nhiên, do yêu cầu phân đoạn để phù hợp với giảng giải trong Pháp hoa văn cú, nên một số đoạn kinh sẽ được chấm câu lại khác biệt hơn so với bản kinh văn độc lập.

Tất nhiên là với cách làm này, khối lượng công việc phải tăng thêm đáng kể. Tuy nhiên, nếu xét về mặt hiệu quả đạt được thì đây lại là một sự lựa chọn hợp lý. Nhờ việc chuyển dịch kinh văn, chúng tôi càng hiểu sâu hơn các câu văn trong Pháp hoa văn cú, và nhờ chuyển dịch Pháp hoa văn cú, chúng tôi cũng dễ dàng hơn trong việc nhận hiểu ý nghĩa kinh văn. Trường hợp của câu kệ vừa dẫn trên là một ví dụ minh họa rất rõ cho việc này. Nhờ vào sự giảng giải của Pháp hoa văn cú, chúng tôi đã chuyển dịch đoạn kệ trên như sau:

Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Tôi ở tại nơi đây,
Thấy nghe những việc ấy,
Cùng muôn ngàn việc khác,
Hội chúng đủ hạng người,
Nay chỉ xin lược nói.

Như vậy, nói tóm lại thì bản dịch này không chỉ đơn thuần là một bản Việt dịch từ Pháp hoa văn cú, mà còn thể hiện toàn bộ những kết quả nghiên cứu mở rộng của chúng tôi về văn bản này, cộng với việc bổ sung bản Việt dịch kinh Pháp hoa kèm theo từng phần giảng giải trong sách.

Và như vậy, để giúp độc giả phân biệt rõ từng phần ý nghĩa trong khi đọc sách, chúng tôi đã áp dụng các hình thức trình bày như sau:

1. Tất cả các chú giải đặt ở cuối trang đều do chúng tôi biên soạn, nghĩa là hoàn toàn không có trong nguyên tác Hán văn. Hầu hết những thông tin được chúng tôi sử dụng đưa vào các chú giải này đều được dẫn nguồn rõ ràng, cùng với các tham chiếu đến những kinh điển được tham khảo trong Đại Chánh tạng nếu có. Những thông tin không thể dẫn nguồn có nghĩa là do chúng tôi tự tham khảo ở nhiều nguồn khác nhau và biên soạn tổng hợp lại. Trong trường hợp đó, chúng tôi tự chịu trách nhiệm về độ chính xác của những thông tin này.

2. Có những hàm ý trong văn bản do chúng tôi nhận hiểu và thêm vào, có nghĩa là không được diễn đạt rõ ràng bằng câu chữ trong nguyên tác nhưng chúng tôi nhận hiểu được khi chuyển dịch nên đưa thêm vào để giúp độc giả dễ nhận hiểu. Chẳng hạn như trong đoạn văn trích dẫn ở phần trước, nguyên tác chỉ nói “天親作論 - Thiên Thân tạo luận”, nhưng do nội dung theo sau nên chúng tôi biết rằng ở đây đề cập đến Pháp hoa kinh luận do ngài Thế Thân biên soạn, tên đầy đủ là “Diệu Pháp Liên Hoa kinh luận Ưu-ba-đề-xá” (妙法蓮華經論優波提舍). Vì thế, tuy nguyên tác chỉ nói “Thiên Thân tạo luận” nhưng trong bản dịch chúng tôi diễn đạt là “Ngài Thiên Thân tạo [Pháp hoa kinh] luận”. Những chữ thêm vào được đặt trong ngoặc vuông và độc giả có thể biết ngay là vốn không có trong nguyên tác.

3. Phần Việt dịch kinh Pháp hoa do chúng tôi chuyển dịch và đưa kèm vào được theo sau hai chữ KINH VĂN và in đậm, đặt trong khung có nền xám, phân biệt rất rõ với phần Việt dịch từ Pháp hoa văn cú. Ví dụ như dưới đây:



4. Ngoài ra, như đã nói, Pháp hoa văn cú vận dụng một phương thức phân tích văn bản rất chi ly để giải thích từng phần ý nghĩa. Mỗi phần kinh văn hay kệ tụng thường được chia nhỏ thành nhiều phần, rồi khi giảng giải lại tiếp tục chia nhỏ thêm nhiều lần nữa... Ở mỗi cấp độ chia nhỏ như vậy, nguyên tác chỉ dùng những cách nói rất đơn giản như “văn vi nhị”, “văn vi tam” v.v. mà không dùng thêm bất kỳ từ ngữ hay cách diễn đạt nào để thể hiện mức độ chia nhỏ của câu văn hay đoạn kệ đang giảng giải. Điều này chắc chắn sẽ làm cho độc giả rất khó theo dõi được cấu trúc thực sự của phần văn bản đang giảng giải. Do vậy, chúng tôi đã thêm vào các tiêu đề cho từng phần giảng giải, vốn không có trong nguyên tác, và đồng thời cũng thêm vào các cấp độ phân đoạn từ lớn đến nhỏ theo biểu đồ như sau:



Điều tất nhiên là không phải phần nội dung nào cũng bao gồm đủ các cấp độ phân chia như trên, nhưng đó là nói ở những phần được phân chia chi tiết nhất. Cũng có nhiều nơi mức độ phân chia đơn giản, ít chi tiết hơn và chỉ có các phần được chia thành đoạn, các đoạn được chia thành tiểu đoạn v.v.

Các ký hiệu dùng trong biểu đồ trên cũng được dùng trong sách để giúp độc giả dễ phân biệt.

5. Ngoài ra, để giúp độc giả tiện theo dõi cũng như ghi nhận cấu trúc tổng quát của mỗi phẩm kinh dựa theo cách phân đoạn của Pháp hoa văn cú khi giảng giải, chúng tôi cũng thực hiện các biểu đồ cấu trúc đặt ở đầu mỗi phẩm, ghi lại những cấu trúc phân chia chủ yếu trong phẩm đó.

6. Tất cả những câu kinh văn được Pháp hoa văn cú trích dẫn khi giảng giải đều sẽ được in nghiêng và đặt trong ngoặc kép để dễ nhận biết, phân biệt.

7. Với phương thức thực hiện như trên,văn bản hoàn tất sẽ có độ dày đến hơn ngàn trang giấy. Vì vậy chúng tôi phải chia ra thành 2 tập. Mặt khác, sự phân chia các quyển trong nguyên tác Hán văn chỉ dựa vào số trang để thuận tiện cho việc in ấn thuở xưa, hoàn toàn không dựa theo sự phân chia các nội dung trong sách. Vì thế trong bản Việt dịch này chúng tôi dựa theo nội dung giảng giải để phân chia lại, theo sát với việc giảng giải các phẩm trong kinh Pháp hoa. Tuy nhiên, các vị trí phân quyển trong nguyên tác đều sẽ được chúng tôi lưu ý ở chú thích.

LỜI KẾT

Khi bắt tay thực hiện công trình này, chúng tôi tự biết đã chọn một con đường khó đi. Ngoài những khó khăn về mặt ngôn ngữ còn là những nội dung giáo pháp sâu mầu trong kinh điển mà ngay cả những ai đã tu tập trọn đời cũng chưa dám tự nhận là mình đã thấu hiểu được hết. Bên cạnh đó, những cách lập luận, biện giải vô cùng khúc chiết lại được trình bày bằng một lối văn súc tích, thu gọn đến mức gần như tối giản khiến cho việc nhận hiểu rất dễ rơi vào sai lệch. Do vậy, người chuyển dịch phải luôn tỉnh giác trong từng trường hợp, phải tự xét lại qua mỗi một đoạn văn để xem chính mình đã thực sự hiểu rõ được ý nghĩa của đoạn văn ấy hay chưa. Và tất nhiên cũng có không ít lần chúng tôi đã phải tự điều chỉnh những nhầm lẫn hoặc sai sót trong cách nhận hiểu sau khi tham khảo qua nhiều thông tin liên quan khác, hoặc đơn giản chỉ là nhờ đối chiếu với các phần văn bản khác trong chính bộ sách này.

Bằng tất cả những sự nỗ lực và cẩn trọng như thế, chúng tôi hy vọng có thể mang đến cho độc giả một bản dịch tương xứng với tầm vóc quan trọng của nguyên tác. Tuy nhiên, với những hạn chế nhất định về năng lực và trình độ, hẳn không thể tránh khỏi ít nhiều khiếm khuyết trong tập sách này. Do đó, chúng tôi luôn để ngỏ mọi khả năng chỉnh sửa hoàn thiện hơn nữa trong tương lai và mong mỏi được đón nhận cũng như chân thành biết ơn những góp ý chỉ dạy từ quý độc giả gần xa.

Cuối cùng, nếu không nhờ có đủ những thuận duyên quan trọng thì chắc chắn tập sách này đã không thể ra đời. Do vậy, chúng tôi xin ghi nhận vắn tắt nơi đây những duyên lành đã tác động trực tiếp đến việc hình thành tập sách, và cũng xin bày tỏ lòng tri ân sâu xa đến vô số những nhân duyên gián tiếp không thể kể hết nơi đây, bởi tất cả đều đã góp phần theo một cách nào đó để nguồn giáo pháp sâu mầu của Đức Thế Tôn ngày hôm nay vẫn còn được lưu truyền và mang lại lợi ích lớn lao cho muôn loài.

Trước khi lưu hành tập sách này, con xin thành kính niệm ân và tưởng nhớ đến song thân đã khuất bóng. Cha mẹ đã ban tặng cho con thân người quý giá này, nuôi dưỡng con trong tình thương yêu vô bờ bến, giáo dưỡng và dẫn dắt con đi vào Chánh đạo, để hôm nay con mới có được cơ hội đóng góp chút sức mọn của mình vào một vài công việc có ý nghĩa cho cuộc đời.

Xin thành kính niệm ân Hòa thượng Thích Như Điển, bậc thầy tôn kính đã hoan hỷ tán trợ công việc của con về mọi phương diện, cũng như đã ban cho con những lời giáo huấn quý báu, giúp con luôn biết giữ gìn sự khiêm cung thành tín của người con Phật trong mọi hoàn cảnh cũng như luôn giữ vững được niềm tin nơi Tam bảo.

Xin bày tỏ nơi đây lòng biết ơn chân thành đối với anh Văn Công Tuấn, bậc đàn anh và là người bạn đồng hành đồng sự, đã khuyến khích cũng như đóng góp nhiều ý kiến quý giá trong việc hoàn thiện tập sách này; xin cảm ơn các Phật tử Nguyên Hùng, Nguyên Ân và nhiều vị đạo hữu khác mà tôi không thể kể tên hết nơi đây, các vị đã trực tiếp cũng như gián tiếp tạo điều kiện cho tôi có thể thực hiện hoàn tất công trình này.

Bằng vào công đức của việc lưu truyền giáo pháp, xin nguyện cho tất cả chúng sinh hữu tình đều dứt hết mọi khổ đau, được tiếp cận và tận hưởng niềm an vui chân thật nhờ vào Chánh pháp.

Trân trọng,

Nguyễn Minh Tiến


________________________________

CHÚ THÍCH

[1] Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú (妙法蓮華經文句), cũng được gọi tắt là Pháp hoa văn cú hay Văn Cú, gồm 10 quyển. (ĐCT, 34, 1718, tr.1)

[2] Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa (妙法蓮華經玄義), cũng được gọi tắt là Pháp hoa Huyền Nghĩa hay Huyền Nghĩa, gồm 10 quyển, được thu vào Đại Chánh tạng thuộc Tập 33, 1716, bắt đầu từ trang 681.

[3] Ma-ha Chỉ Quán (摩訶止觀), 10 quyển. (ĐCT, T46, 1911)

[4] Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (妙法蓮華經), gồm 7 quyển, gọi tắt là kinh Pháp hoa, được thu vào Đại Chánh tạng thuộc Tập 9, 262, bắt đầu từ trang 1.

[5] Cưu-ma-la-thập (鳩摩羅什), phiên âm từ Phạn ngữ Kumārajīva - cũng được gọi tắt là La-thập hoặc Thập sư. Ngài sinh năm 344, mất năm 413.

[6] Thông tin trong phần giới thiệu này dựa vào sách Tùy Thiên Thai Trí Giả Đại sư biệt truyện (隋天台智者大師別 傳) do đệ tử của ngài là Quán Đỉnh (灌頂) biên soạn. (ĐCT, T50, 2050)

[7] Nguồn zh.wikipedia.org, truy cập 28.7.2025: “俗姓陳,字德安,法名智顗,法號智者“ (tục tánh Trần, tự Đức An, pháp danh Trí Khải, pháp hiệu Trí Giả).

[8] Nguồn vi.wikipedia.org, truy cập 28.7.2025.

[9] Ngũ thời bát giáo (五時 八教): là hệ thống phân loại toàn bộ giáo pháp và phương thức giảng giải trong Phật giáo. Ngũ thời phân chia giáo pháp được đức Phật thuyết giảng thành 5 thời tiếp nối là thời Hoa nghiêm (華嚴時), thời A-hàm (阿含), thời Phương đẳng (方等時), thời Bát-nhã (般若時) và thời Pháp hoa - Niết-bàn (法華涅槃時). Bát giáo phân chia sự giảng giải và tu tập giáo pháp thành hóa nghi tứ giáo (化儀四教 - bốn phương thức giáo hóa) bao gồm đốn giáo (頓教), tiệm giáo (漸教), bí mật giáo (秘密教) và bất định giáo (不定) và hóa pháp tứ giáo (化法四教 - bốn nội dung giáo pháp) bao gồm Tạng giáo (藏教), Thông giáo (通教), Biệt giáo (別教) và Viên giáo (圓教). Hệ thống phân loại này về sau không chỉ giới hạn trong tông Thiên Thai mà đã mở rộng ảnh hưởng đến nhiều tông phái khác.

[10] Chỉ quán (止観): phân loại hai phương thức thiền tập căn bản. Thiền chỉ là dừng lắng vọng niệm, hướng đến định tâm và thiền quán là quán chiếu, suy xét để hiểu lý chân thật, hướng đến sự tỏ ngộ. Đại sư Trí Khải cũng phân chia ba loại chỉ quán, bao gồm tiệm thứ chỉ quán (漸次止観), tu tập tuần tự theo giới (giữ giới), định (tu chỉ), tuệ (tu quán), tức là chỉ trước quán sau; bất định chỉ quán (不定止観), linh hoạt xen nhau giữa chỉ và quán, không có trước sau; và viên đốn chỉ quán (圓頓止観), chỉ và quán dung nhiếp lẫn nhau, trong chỉ có quán, trong quán có chỉ, đồng thời tu tập viên dung không phân biệt trước sau.

[11] Thiên Thai Pháp hoa sớ tự (天台法華疏序), Kính Trung Sa-môn Thần Quýnh thuật (鏡中沙門神逈述): “觀其義趣深契佛乘, 尋其文勢, 時有不次。或文續義斷, 或文後義前, 或長行前 開其章, 或從後直述其義。 - Quán kỳ nghĩa thú thâm khế Phật thừa, tầm kỳ văn thế, thời hữu bất thứ. Hoặc văn tục nghĩa đoạn, hoặc văn hậu nghĩa tiền, hoặc trường hàng tiền khai kỳ chương, hoặc tùng hậu trực thuật kỳ nghĩa... ...” (ĐCT, T34, 1718, tr.1a, d.28 - tr.1b, d.2)

[12]Sách đã dẫn, ĐCT, T34, 1718, tr.1b, d.5: “儻更垂次比, 此則 弘益巨多。 - Thảng cánh thùy thứ tỷ, thử tắc hoằng ích cự đa.”

[13] Trích từ nội dung trong Lời tựa được Việt dịch ở đầu sách này.

[14] Các bản Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo đều không ghi tên người Việt dịch.

[15] Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, Tập 119, trang 4, d.7-8 từ dưới lên, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, 2000.

[16] LSPB, sách đã dẫn, trang 4, d.9-10 từ dưới lên.

[17] Linh Sơn Pháp Bảo, sách đã dẫn, Tập 119, trang 6.

« Sách này có 11 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.168 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...