Trời không giúp những ai không tự giúp mình. (Heaven never helps the man who will not act. )Sophocles

Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Những chướng ngại không thể làm cho bạn dừng lại. Nếu gặp phải một bức tường, đừng quay lại và bỏ cuộc, hãy tìm cách trèo lên, vượt qua hoặc đi vòng qua nó. (Obstacles don’t have to stop you. If you run into a wall, don’t turn around and give up. Figure out how to climb it, go through it, or work around it. )Michael Jordon
Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1 »» 2. Giải thích Phẩm Phương tiện »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1
»» 2. Giải thích Phẩm Phương tiện

(Lượt xem: 17)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - 2. Giải thích Phẩm Phương tiện

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Phần giải thích này có giản lược và mở rộng. Về giản lược cũng chia ra hai phần, trước hết nói nghĩa giản lược, sau đó lượng xét phân biệt.

KINH VĂN

Phẩm Phương tiện, thứ hai

GIẢN LƯỢC

1. Giải nghĩa giản lược


Trước hết nói nghĩa giản lược. Phương là giáo pháp, tiện là hoạt dụng [của giáo pháp]. Giáo pháp có vuông, có tròn, hoạt dụng có khác biệt, có đúng hợp. Như ba thừa quyền biến là khuôn vuông, nên là vuông; một thừa chân thật là khuôn tròn, nên là tròn. Nếu trí tuệ hướng theo khuôn vuông [Tam thừa] ắt khéo léo vận dụng pháp khác biệt quyền biến phù hợp với chúng sinh. Nếu trí tuệ hướng theo khuôn tròn [Nhất thừa] ắt khéo léo vận dụng pháp chân thật viên mãn thích hợp với chúng sinh.

Cũng giống như có người đưa tay chỉ lệch hướng thì mắt nhìn theo lệch hướng. Tay chỉ lệch hướng là ví cho pháp, con mắt nhìn theo là ví cho trí tuệ. Cho nên dùng pháp để giải thích nghĩa của “phương” thì sẽ dùng sự hoạt dụng để giải thích nghĩa của “tiện”. Nếu đưa tay chỉ bao quát, mắt nhìn theo thấy được khắp cả thì nên dùng sự ẩn mật để giải thích nghĩa của “phương”, dùng sự vi diệu nhiệm mầu để giải thích nghĩa của “tiện”.

Nêu pháp thiên lệch để giải thích phương tiện, hết thảy đều là tùy thuận mong muốn của chúng sinh, không phải bản hoài của chư Phật. Y theo kinh điển thì phải lìa mọi bám chấp dính mắc, ra khỏi mọi khổ não trong ba cõi. Cho nên đức Như Lai mới ân cần ngợi khen, tán thán các pháp phương tiện. Ý nghĩa này có thể dùng để giải thích chung cho các kinh khác, chẳng phải ý riêng của phẩm Phương tiện này.

Lại nữa, phương tiện là cửa vào. Gọi là cửa vào thì phải thông suốt, ấy là chủ thể thông suốt, đối tượng cũng thông suốt, mọi phương tiện giản lược quyền biến đều là giả lập để dẫn dắt, vì lẽ chân thật rốt ráo mà mở ra cửa vào phương tiện. Cho nên, lẽ chân thật rốt ráo được hiển bày là nhờ có phương tiện. Theo công năng hiển bày đó mà gọi tên, nên lấy ý nghĩa cửa vào để giải thích cho phương tiện. Y theo kinh điển trừ bỏ pháp phương tiện, chỉ bày tướng chân thật. Ý nghĩa này có thể dùng giải thích chung cho các kinh khác, cũng chẳng phải ý riêng của phẩm Phương tiện này.

Lại nữa, phương là ẩn mật, tiện là mầu nhiệm. Mầu nhiệm đạt nơi phương thức tức là chân thật ẩn mật, như hạt châu vô giá giấu kín trong chéo áo cùng với hạt châu trên đỉnh đầu đức vua, thật ra cũng chỉ là một hạt châu ấy, không phải hai, không có khác biệt; như người từ xa đến làm công với con trai ông trưởng giả cũng [chỉ là một người], không phải hai, không có khác biệt. Những lời như vậy là ẩn mật, là vi diệu nhiệm mầu. Như trong kinh này [Phật nói]: “Duy ngã tri thị tướng, thập phương Phật diệc nhiên. - 唯我知是相, 十方佛亦然。” (Chỉ riêng ta biết được tướng này, mười phương chư Phật cũng rõ biết như vậy.) Hoặc là: “Chỉ chỉ bất tu thuyết, ngã pháp diệu nan tư. - 止止不須說。我法妙難思。” (Thôi thôi chẳng cần nói, pháp của ta mầu nhiệm khó suy ngẫm.) Cho nên lấy sự ẩn mật để giải thích nghĩa chữ phương, lấy sự vi diệu nhiệm mầu để giải thích chữ tiện. Đây chính là ý nghĩa của phẩm kinh này, cho nên gọi là phẩm Phương tiện.

2. Lượng xét phân biệt

Về lượng xét phân biệt, cách thứ nhất giải thích theo tánh thể bên ngoài của phương tiện, quyền biến giáo hóa muôn loài, thuận theo ý của chúng sinh mà giảng nói. Tiếp đến cách thứ hai giải thích cũng theo tánh thể bên ngoài của phương tiện, quyền biến trong việc tự mình hành trì và giáo hóa chúng sinh, lại cũng thuận theo ý mình và chúng sinh mà giảng nói. Cuối cùng theo cách thứ ba là giải thích phương tiện đồng một tánh thể, tức là quyền biến tự mình hành trì, tùy theo ý mình mà giảng nói.

Giải thích phương tiện như cách thứ nhất là chẳng phải năng nhập cũng chẳng phải sở nhập. Giải thích phương tiện như cách thứ hai là năng nhập nhưng không phải sở nhập. Giải thích phương tiện như cách thứ ba là sở nhập nhưng không phải năng nhập. Cho nên biết rằng, tên gọi tuy giống nhau nhưng ý nghĩa rất khác biệt. Đa phần người đời không thấy được ý nghĩa này, chỉ tùy tiện giải thích phẩm Phương tiện. Đại lược là như vậy.

Hỏi: Mối tương quan giữa phương tiện với quyền thừa là thế nào?

Đáp: Có bốn trường hợp phân biệt. Thứ nhất là tự có phương tiện, phá bỏ quyền thừa. Thứ hai là quyền thừa phá bỏ phương tiện. Thứ ba là phương tiện hoàn thiện cho quyền thừa, quyền thừa hoàn thiện cho phương tiện. Thứ tư là phương tiện tức quyền thừa, quyền thừa tức là phương tiện.

Phương tiện phá bỏ quyền thừa nghĩa là cả bốn loại phương tiện[1] đều là những phương tiện ẩn mật, vi diệu nhiệm mầu. Những phương tiện như vậy phá bỏ được sự quyền biến theo ý chúng sinh.

Quyền thừa phá phương tiện là nói sự quyền biến đồng tánh thể, phá bỏ được phương tiện theo tánh thể bên ngoài.

Trường hợp phương tiện và quyền thừa hoàn thiện lẫn nhau cũng có thể hiểu được. Trường hợp phương tiện tức quyền thừa, quyền thừa tức phương tiện cũng có thể hiểu được. Đại lược là như thế.

Ba trường hợp trước có thể dùng để giải thích chung cho các kinh khác, riêng trường hợp thứ tư là ý nghĩa riêng của phẩm Phương tiện này. Cho nên kinh Chánh Pháp hoa gọi là phẩm Thiện Quyền. Quyền tức là phương tiện, không phải hai nghĩa, không có khác biệt. [Mỗi một hành vi như] cúi đầu, chắp tay... đều là Phật đạo. Phương tiện hay quyền biến khéo léo cũng đều là chân thật.

GIẢNG RỘNG

Trước hết nêu quan điểm các nhà cựu giải phân chia giáo pháp thành 5 thời,[2] bao gồm quyền pháp và thật pháp. Trước [thời kỳ] 12 năm [thuyết kinh A-hàm], [Phật dạy] quán chiếu sự việc vô thường, đó là quyền thuyết; soi chiếu lý vô thường, đó là lẽ chân thật, chỉ cho A-tỳ-đàm. Nay nói theo Thích luận thì phá vô thường là pháp đối trị, như vậy đều thuộc về pháp tất đàn thứ ba [là đối trị tất đàn], làm sao có sự chân thật? Cho nên ý nghĩa này nay không dùng đến. Sau [thời kỳ] 12 năm [thuyết kinh A-hàm, đức Phật] thuyết giảng giáo pháp Bát-nhã, quán chiếu các pháp hiện hữu đều là giả, đó là quyền thuyết, quán chiếu hiện hữu giả hợp ấy đều là không, đó là chân thật. Thích luận cũng bác bỏ ý nghĩa này. Khi quán chiếu trừ dứt niệm tưởng thì hết thảy ngôn ngữ cũng đều dứt sạch. Cho nên khi quán chiếu hiện hữu giả tạm thành không, là do quán tưởng mà thành. Nay cũng không dùng nghĩa này.

Tiếp đến [là thời kỳ Phật thuyết] các kinh Tịnh Danh, Tư Ích,[3] trong tâm quán chiếu soi rõ hai cảnh “có, không” là thật trí, ngoài cảnh biến động biết vận dụng hợp theo là quyền trí. Nay cho rằng nếu trong tâm soi chiếu, ngoài cảnh vận dụng thì đó là chia hai, chẳng phải nhập pháp môn Bất nhị [của Tịnh Danh]. Cho nên nay cũng không dùng nghĩa này.

Kế đến Pháp hoa quán chiếu “tam tam” (ba pháp tam) là quyền, quán chiếu “tứ nhất” (bốn pháp nhất) là thật.[4] Nay cho rằng, ba pháp quyền ấy chẳng bao giờ hợp với lẽ thật, một pháp thật cũng chẳng liên quan đến ba pháp quyền. Cho nên nay cũng không dùng nghĩa này.

Tiếp sau kinh Niết-bàn nói rằng, trước Kim Cang giảng vô thường là quyền biến, sau Kim Cang giảng thường là chân thật. Nay cho rằng nói trước chân như cũng là thường, nói sau như lượng trí cũng là quyền. [Ý nghĩa phân chia] năm thời quyền thật như vậy nay không dùng đến. Cho đến [ý nghĩa] mãn tự, bán tự[5] mà bốn tông dùng để làm sáng tỏ hai trí quyền thật, nay cũng không dùng.

Lại có người giải thích rằng, phương tiện là quyền biến theo lẽ, thật là thẩm xét chân thật. Lại nói phương tiện là quyền xảo linh hoạt, thật là đúng theo trí tuệ. Lại nói phương tiện là quyền biến giả lập, [như trong kinh này] giả lập ba xe bên ngoài cửa. Lại nữa, phương tiện là quyền biến thích nghi, vì thích nghi nên [Phật] thuyết dạy ba thừa. Lại nữa, quyền biến là tên gọi tương xứng, ví như [cùng một] quả cân, kéo ra bên ngoài đòn cân thì nặng xuống, kéo lùi về bên trong thì nhẹ lên, đưa về khoảng giữa thì thăng bằng.[6] [Ví dụ như vậy] phù hợp với trí tuệ Phật có thể quán chiếu soi xét lượng định. Những sự giải thích như vậy, mỗi thuyết đi theo một đường. Quyền biến theo lẽ và giả lập thì hạn chế nơi phạm vi áp dụng; quyền biến thích nghi thì hạn chế nơi pháp môn; quyền xảo linh hoạt hay tên gọi tương xứng thì hạn chế nơi trí năng. Mỗi thứ đều không bao hàm được hết ý nghĩa, không dung thông được chỗ vi diệu, nên nay không thể dùng để giải thích phẩm kinh này.

Lại có người phân hai trí [quyền thật] thành bốn loại. Loại thứ nhất [phân ra] quyền trí và thật trí. Loại thứ hai phân ra không trí và hữu trí. [Không trí] thì quán không, không có chứng đắc, xa lìa Nhị thừa; [hữu trí] thì đi vào cảnh giới có mà không nhiễm ô, ra khỏi cảnh giới phàm phu. Loại thứ ba cho rằng chỗ tĩnh lặng bên trong của không và có là thật trí, chỗ công dụng bên ngoài là quyền trí. Loại thứ tư cho rằng nghĩa thường trước Kim Cang là quyền trí, nghĩa vô thường sau Kim Cang là thật trí.

Hai trí của loại thứ nhất làm khởi sinh tín tâm. Hai trí của loại thứ hai làm khởi sinh sự hiểu biết. Hai trí của loại thứ ba có thể giáo hóa chúng sinh. Hai trí của loại thứ tư là thành tựu quả.

Hai trí được phân chia như vậy đều có ba lượt chuyển biến. Lượt thứ nhất xem hữu là tục đế, không là chân đế. Tiếp theo xem hữu và không đều thuộc tục đế, phi hữu phi không (chẳng phải có, chẳng phải không) là chân đế. Cuối cùng xem không và hữu là nhị, phi không phi hữu (chẳng phải không chẳng phải có) là bất nhị; nhị và bất nhị (phân hai và chẳng phân hai) đều thuộc về tục đế, phi nhị phi bất nhị (chẳng phân hai chẳng phải không phân hai) là chân đế.

Trí tuệ theo giáo tông cũng giống như vậy. Vì sao? Là vì theo vị nhân tất đàn. Vì có người nghe pháp trước chẳng ngộ nhưng nghe pháp sau được ngộ, cho nên [việc xác định] nhị đế[7] không đồng nhất.

Lại nữa, đức Như Lai thường y theo nhị đế để thuyết pháp, nên nhị đế có ba môn. Lời Phật dạy tuy nhiều nhưng đều không ra ngoài ba môn,[8] vì mục đích dần dần dẫn dắt chúng sinh. Phàm phu chấp rằng thân tâm đều thật có, nên [Phật] dạy rằng đều chẳng thật, chỉ tánh không của các pháp mới là chân thật. Phàm phu [theo lời dạy] liền xả bỏ chấp có, lại bám chấp nơi không, nên [Phật dạy] có với không đều là tục đế, chẳng phải có chẳng phải không mới là chân thật. [Phàm phu nghe lời dạy] buông xả cả hai bên có và không (nhị biên), lại vướng chấp vào Trung đạo. Cho nên đến lần thứ ba [Phật dạy] xa rời nhị biên, cũng không dính mắc vào Trung đạo, đó mới là chân thật. Đó là [tuần tự dẫn dắt] người trong 5 thừa.[9] Trước tiên dẫn dắt hạng phàm phu, khiến cho sinh khởi lòng tin, ra khỏi [sự bám chấp thân tâm là] thật có. Tiếp theo dẫn dắt hàng Nhị thừa, giúp cho nhập lẽ trung đạo. Cuối cùng dẫn dắt hàng Bồ Tát khiến cho xả bỏ cả sự thiên lệch [hai bên có không] cũng như trung đạo.

Lại vì người học lẽ trung đạo mà nói ba giả[10] là thế tục đế, ba giả đều không là chân đế, như vậy là đạt được ý nghĩa ban đầu. Tiếp đến [dạy rằng] không ba giả cho đến không với hữu đều là tục đế, chẳng phải không chẳng phải có (phi không phi hữu) mới là chân đế. Đại lược là như vậy.

Nay chỉ rõ những cách giải thích như vậy đều là dựa vào [sự phân chia] 5 thời [thuyết giáo][11] để nói theo ý riêng của mình, cũng như cách hiểu lần lượt dẫn lên từng bậc là không đúng. Có thể giải thích những kinh khác nhưng chẳng phải ý nghĩa của phẩm kinh này.

Kinh nói rằng “hết thảy chúng sinh đều được nhìn thấy” thì đâu có lúc nào là trước sau khai ngộ chẳng đồng? Lại nói rằng “thẳng đường xả bỏ phương tiện”, sao phải dùng pháp tuần tự thứ lớp để nhận hiểu pháp viên mãn vi diệu? Lại như ban đầu nêu dẫn [các giai đoạn] khởi sinh tín tâm, khởi sinh hiểu biết, giáo hóa chúng sinh, thành tựu quả, đâu có liên quan gì đến ý nghĩa ngộ nhập trong kinh này? Như ngài Thế Thân kể ra 17 tên gọi [của kinh Pháp hoa], trong đó tên thứ 13 là Đại xảo phương tiện.[12] Lại nữa, kinh Đại thừa Phương Tiện giảng rõ về 10 loại phương tiện, trong đó loại thứ 9 có tên là “Thiện xảo di Nhị thừa linh nhập Đại thừa Phương tiện ba-la-mật”. Cho nên biết rằng phẩm kinh này là phương tiện của Như Lai, dung nhiếp hết thảy các pháp, như hư không bao hàm tất cả sắc tướng, như biển lớn dung nạp tất cả các dòng nước, há có thể dùng [cách hiểu] của các bậc thầy thuộc một chi nhánh, một tông phái mà giải thích đại lược cả pháp giới được sao?

Nay giảng rõ về quyền thật thì trước tiên nêu ra 4 luận thuyết.[13] Thứ nhất, hết thảy các pháp đều là quyền; thứ hai, hết thảy các pháp đều là thật; thứ ba, hết thảy các pháp vừa là quyền, vừa là thật; thứ tư, hết thảy các pháp chẳng phải quyền, chẳng phải thật.

1. Hết thảy các pháp đều là quyền, [dựa trên lập luận] như kinh văn nói, các pháp đều [đúng thật] như thế, từ tánh, tướng, thể, lực, gốc, ngọn v.v. [không thể giảng nói,] nếu có dùng đến lời nói, ngôn ngữ, văn tự thì đều là quyền biến. [Cho nên hết thảy các pháp đều là quyền.]

2. Hết thảy các pháp đều là thật, [dựa trên lập luận] như kinh văn nói, đức Như Lai khéo léo thuyết dạy các pháp làm vui lòng đại chúng. Tâm đại chúng thể nhập lẽ thật là vui. Lại nữa, [kinh nói] “chư pháp từ xưa đến nay, tự tướng thường tịch diệt”. Lại nói rằng: “Hết thảy những gì Như Lai thuyết giảng đều đưa đến địa vị Nhất thiết trí.” Lại cũng nói: “Hết thảy đều chân thật không hư vọng.” Hơn nữa, bốn câu nêu ra của Đại kinh đều không thể dùng lời nói rõ.[14] [Cho nên hết thảy các pháp đều là thật.]

3. Hết thảy các pháp vừa quyền vừa thật, như kinh văn nói tướng như thật của các pháp là cùng lúc làm rõ hết thảy các pháp vừa là quyền, vừa là thật. Đơn cử như pháp quán bất tịnh là vừa chân thật, vừa hư vọng. Đại lược là như vậy. [Cho nên hết thảy các pháp đều là vừa quyền vừa thật.][15]

4. Hết thảy các pháp chẳng phải quyền chẳng phải thật, [dựa trên lập luận] như kinh văn nói “chẳng phải như, chẳng phải khác”, lại cũng chẳng phải các pháp ở trên, ở giữa, ở dưới, cũng chẳng phải các pháp hữu vi, vô vi, thật hay không thật. Không hư cũng không thật, đó là tướng như thật [của các pháp].

Nếu nói hết thảy các pháp đều là quyền thì dù xét điểm nào cũng không hợp lý.[16] [Bởi vì như vậy thì] ví như có đến trăm ngàn bậc thầy, mỗi thầy đều nêu ra trăm ngàn luận thuyết, thì cũng không có thuyết nào không phải là quyền. Giảng thuyết của đức Như Lai mà còn là quyền, huống chi những bậc thầy cõi người, có lý nào lại không phải quyền? Như đã nêu ra trước, nên tất cả đều là quyền. [Như vậy là không hợp lý.]

Nếu nói hết thảy các pháp đều là thật thì dù xét điểm nào cũng không hợp lý. [Bởi vì] chỉ có một sự thật này, thêm vào cái thứ hai ắt không phải thật. Chỉ có một đạo rốt ráo, lẽ nào lại có nhiều đạo rốt ráo? Như trước đã nêu về các vị thầy, tất cả đều bác bỏ việc thể nhập lẽ thật [mà cho rằng hết thảy các pháp đều là quyền], lẽ nào còn quay lại biện hộ cho căn bản của việc này?[17] [Như vậy là không hợp lý.]

Nếu nói hết thảy các pháp đều vừa quyền vừa thật thì lại xét điểm nào cũng không hợp lý.

[Cho nên] hết thảy các pháp ắt phải có cả quyền, có cả thật, không thể cho rằng chỉ có một đường hướng đúng mà không có những giải thuyết khác. Ngay trong mỗi một pháp cũng đều có quyền có thật, không thể nghiêng hẳn về một phía [mà cho rằng] chỉ có quyền hoặc chỉ có thật.

Nếu nói tất cả pháp chẳng phải quyền chẳng phải thật thì lại xét điểm nào cũng không hợp lý, sao phải phân vân gượng lập thành thuyết?

Chỉ nêu qua tên gọi [các luận thuyết] đã là như thế, chỉ nhìn từ xa cái huyền nhiệm mênh mông sáng tỏ là như thế, huống chi là luận sâu về tông chỉ khuynh hướng [của từng luận thuyết]?

Nay dùng luận thuyết có quyền, có thật, triển khai thành 10 pháp. Trong 10 pháp ấy lần lượt nêu 8 điều giải thích. Thứ nhất là kể ra 10 tên gọi; thứ hai nói trình tự sinh khởi; thứ ba là giải thích; thứ tư là dẫn chứng; thứ năm là tóm lại 10 pháp thành 3 loại quyền thật; thứ sáu là phân biệt 3 loại quyền thật, soi chiếu 3 tầng bậc nhị đế; thứ bảy là lược xét kinh điển để phán định quyền thật; thứ tám là lược nêu theo bản tích để phán định quyền thật.

1. Kể tên

[Hết thảy các pháp đều thuộc về 10 phạm trù được kể tên sau đây:] sự lý, lý giáo, giáo hành, phược thoát (trói buộc và giải thoát), nhân quả, thể dụng, tiệm đốn, khai hợp, thông biệt, tất đàn. Đó là 10 loại tên gọi [chung cho các pháp].

2. Trình tự sinh khởi

[Kinh Duy-ma-cật nói:] “Từ gốc là vô trụ mà lập nên hết thảy các pháp.” “Vô trụ” đó là lý, hết thảy các pháp là sự. [Vì có] lý sự cho nên có giáo pháp [thuyết dạy]. Do có giáo cho nên có hành [trì]. Do có hành nên có phược [trói buộc] hay [giải] thoát. Do có phược thoát nên thành nhân quả. Do có nhân quả nên có thể hiển bày, có dụng là công năng, từ đó mà có sự giáo hóa tuần tự theo thứ lớp (tiệm) hay nhanh chóng tức thời (đốn). Do mở ra tiệm đốn nên có khai (mở ra) hay hợp (hợp lại). Do khai hợp nên có phần lợi ích thông (chung) hay biệt (riêng). Do có phân biệt lợi ích thông biệt mà có bốn loại tất đàn.

Đó là 10 trình tự khởi sinh. Đại lược là như thế.

3. Giải thích

- Sự lý


Lý là chân như. Chân như vốn thanh tịnh, dù có Phật [ra đời] hay không có Phật vẫn thường như vậy, chẳng hề thay đổi, nên gọi là thật.

Sự tức là tâm, ý, thức... khởi lên các nghiệp tịnh hay bất tịnh, thay đổi biến động không ổn định nên gọi là quyền.

Nếu không có lý thì không lấy gì để lập nên sự, không có sự thì chẳng lấy gì để hiển lộ lý. Sự có công năng làm hiển lộ lý, cho nên ân cần ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Lý giáo

Lý và sự đã nói ở trước đều được gọi chung là lý, theo lệ như chân [đế] và tục [đế] đều gọi chung là đế. Chư Phật thể nhập [lý giáo này] nên thành bậc thánh. Thánh ấy là chân thật. [Chư Phật vì] muốn dùng pháp của mình [đã chứng đắc] mà cứu vớt chúng sinh, nên nhân nơi lý [thật đó] mà thiết lập giáo pháp; giáo đó tức là quyền. Không có giáo này thì chẳng lấy gì để hiển bày lý. Hiển bày được lý là nhờ có giáo, cho nên Như Lai ngợi khen xưng tán đó là phương tiện. Đại lược là như vậy.

- Giáo hành

Y theo giáo [pháp] để cầu [thật] tức khởi sinh hành vi chân chánh. Hành vi có khuynh hướng chuyển tiến, sâu cạn khác biệt, cho nên hành gọi là quyền. Giáo không có khuynh hướng chuyển tiến, sâu cạn khác biệt, cho nên giáo gọi là thật. Không có giáo thì chẳng lấy gì để lập nên hành, không có hành thì không lấy gì để hiểu được giáo. Hiểu được giáo là nhờ có hành, cho nên Như Lai ngợi khen xưng tán đó là phương tiện. Đại lược là như vậy.

- Phược thoát

Việc làm trái nghịch với lý ắt sinh trói buộc, tức là phược (縛). Sự trói buộc ấy là hư vọng, cho nên gọi là quyền. Việc làm thuận hợp với lý ắt được thoát (脫). Giải chỗ mê mờ nơi lý, cho nên gọi là thật. Không có trói buộc thì chẳng do đâu mà cầu giải thoát, nên được giải thoát là nhờ có sự trói buộc. Cũng giống như có người nhờ [bám vào] thây người chết giữa biển mà trôi giạt được vào bờ. Thây người chết ấy có công năng đưa người vào bờ, [cũng như sự trói buộc có công năng thúc đẩy tìm cầu giải thoát], cho nên ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Nhân quả

Nhân có khuynh hướng chuyển tiến vận dụng tạm thời cho nên gọi là quyền. Quả có đích đến cuối cùng vĩnh viễn chứng đắc cho nên gọi là thật. Không có quả thì nhân không có chỗ hướng về. Không có nhân thì quả không thể tự hiển hiện. Cho nên dùng hai pháp quán[18] làm phương tiện vào đạo. Đoạn trừ mê hoặc, thành tựu chánh nhân, thể nhập Trung đạo giải thoát là quả. Nếu không có hai pháp quán, làm sao khế hợp Trung đạo? Quả được thành tựu là do nhân, cho nên ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Thể dụng

Trước dùng phương tiện là nhân, sau dùng chánh quán thể nhập an trụ là quả. Từ chỗ an trụ phát xuất là thể và dụng. Thể là thật tướng nên không có phân biệt, dụng thì khởi lập hết thảy các pháp nên sai biệt cao thấp chẳng đồng. Cũng như mặt đất chỉ có một mà sinh ra đủ loại mầm chồi. Nếu không có mặt đất thì không thể sinh [các mầm chồi], không sinh thì chẳng lấy gì để hiển lộ. Ngược theo dòng chảy ắt tìm được nguồn nước, cho nên suy từ nơi dụng mà biết được thể. Hiển bày được thể là nhờ nơi dụng, cho nên ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Tiệm đốn

Tu tập nhân để chứng đắc quả hoặc từ nơi thể mà khởi sinh dụng, cả hai việc này đều [có nhanh có chậm], hoặc tuần tự theo thứ lớp (tiệm), hoặc thành tựu tức thời (đốn). Nay chỉ nêu rõ việc [từ nơi thể mà] khởi sinh dụng. Tuần tự theo thứ lớp (tiệm) mà khởi dụng là quyền, tức thời khởi sinh (đốn) là thật. Nhưng nếu không có tiệm dẫn khởi thì cũng không do đâu có thể tức thời vào đốn khởi. Từ nơi tiệm [là quyền] mà đạt được [đốn là] thật, cho nên ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Khai hợp

Từ nơi đốn mà khai trừ tiệm thì tiệm đó không tự hợp, cũng không hợp với đốn, cho nên gọi là quyền. Từ nơi tiệm mà rốt ráo lại hợp với đốn, cho nên gọi là thật. Do khai trừ [tiệm] mà hợp [với đốn], khai trừ như vậy có công năng đưa đến hợp, hợp ấy là từ nơi khai mà gọi thành tên, cho nên ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Thông biệt

Thông biệt ở đây là nói về lợi ích chung (thông) và riêng (biệt). Thông là lợi ích chưa rốt ráo,[19] không thường còn, [nên gọi là quyền]; biệt là lợi ích rốt ráo thường còn, [nên gọi là thật]. Nhưng đối với chỗ lợi ích thường còn, đạo hạnh tăng trưởng, [chúng sanh] lại thường sinh tâm thối thất, lui sụt, [cho nên Phật] dùng hóa thành để tiếp dẫn, khiến chúng sinh khởi tâm tưởng rằng đó là an ổn, rồi sau đó mới dẫn dắt [đi tiếp] đến bảo sở, [tức là quả vị giải thoát rốt ráo]. Nếu không có chỗ lợi ích chưa rốt ráo thì không đến được chỗ [lợi ích] thường còn. Cái chưa rốt ráo ấy có công năng làm hiển bày chỗ rốt ráo, cho nên ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Tất đàn

Tất đàn ở đây là nói bốn pháp tất đàn. Trong đó có ba pháp thuộc về thế gian cho nên là quyền.[20] Đệ nhất nghĩa [tất đàn] thuộc về xuất thế nên là thật. Không có pháp thế gian thì không thể đạt được pháp xuất thế, nhờ ba pháp tất đàn [thế gian] mà đạt được đệ nhất nghĩa tất đàn, cho nên Như Lai ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

Có thể vận dụng cả bốn luận đề[21] để giải thích 10 ý nghĩa quyền thật [như trên]. Trong đó có 3 ý là của những kinh khác, một ý là riêng của phẩm kinh này. Đại lược là như vậy.

4. Dẫn chứng

Mười ý nghĩa nêu trên được vận dụng phù hợp trong cả giáo pháp Đại thừa cũng như Tiểu thừa, thông suốt hết thảy các pháp.

[Trước hết nói nghĩa “sự lý”], như trong kinh Pháp hoa này nói: “Chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi.” “Ba cõi” đó là sự, “chẳng phải như ba cõi mà thấy”, đó là . [Hoặc như nghĩa “lý giáo”] thì các pháp vốn tịch diệt, không thể dùng lời nói diễn bày, đó là lý; dùng sức phương tiện vì 5 vị tỳ-kheo mà thuyết giảng,[22] đó là giáo. “Nếu nghe kinh này là khéo thực hành đạo Bồ Tát”, đó là ý nghĩa “giáo hành”. Lại nữa, [kinh nói] “việc làm của các ông chính là đạo Bồ Tát”. Người Phật tử tu hành theo đạo pháp rồi thì đời sau được thành Phật. Lại nữa, dùng đủ mọi nhân duyên để cầu Phật đạo, “chỉ cần lìa bỏ hư vọng gọi là giải thoát”. Khi chưa đạt được giải thoát hết thảy thì tận lực thực hành đạo pháp của chư Phật, cho đến [ngồi nơi] đạo tràng chứng thành Phật quả. Đại lược là như vậy.

[Kinh văn lại nói:] “Ta dùng Phật nhãn quán sát chúng sinh trong sáu đường, những ai vừa thấy được thân ta, nghe ta thuyết pháp thì hết thảy đều tin nhận, thể nhập được trí tuệ Như Lai, chỉ trừ những kẻ trước đó đã tu tập theo Tiểu thừa.” Đại lược là như thế.

[Kinh văn kể chuyện] đứa con cùng khổ [của ông trưởng giả], ban đầu bỏ nhà trốn đi [lưu lạc], sau đó quay về làm người được thuê hốt phân [trong chính nhà mình], cho đến cuối cùng được [ông trưởng giả] giao phó hết tài sản gia nghiệp. Giai đoạn trước chính là “hóa thành”, giai đoạn sau là dẫn đến “bảo sở”. [Kinh văn cũng nói: “Như Lai thương xót chúng sinh do] đủ mọi tham muốn, đủ mọi tánh tướng, ức niệm [trói buộc mãi trong luân hồi không có ngày thoát ra].” Đại lược là như vậy.

Như trên là trích dẫn chung trong cả bộ kinh để chứng minh, bây giờ sẽ trích dẫn riêng trong một phẩm [Phương tiện] này, tuy không theo trình tự [như trên] nhưng có đủ 10 ý nghĩa đã nêu.

[Kinh văn nói:] “Trí tuệ của chư Phật thâm sâu vô lượng. Pháp môn trí tuệ này rất khó nhận hiểu, rất khó thể nhập.” Hết thảy sự lý, cảnh trí... đều gọi là thật. Mở bày giảng giải giáo pháp A-hàm, đều là pháp môn trí tuệ. Đây là chứng minh nghĩa “lý giáo” luận quyền thật.

[Kinh văn nói:] “Khó nhận hiểu, khó thể nhập, hết thảy Thanh văn, Bích-chi Phật không thể rõ biết.” Đây là nghĩa “phược thoát” luận quyền thật.

[Trong câu kinh] từ “Vì sao vậy? Phật từng thân cận...” cho đến “... danh xưng được nghe biết rộng khắp”,[23] tức là nghĩa “giáo hành” luận quyền thật.

Câu kinh từ “Thành tựu sâu xa” cho đến “ý nghĩa khó hiểu hết”,[24] tức là nghĩa “thể dụng” luận quyền thật.

[Kinh văn lại nói:] “Ta từ thành Phật đến nay.” Thành Phật tức là quả, quả ấy tất phải có nhân, tức là nghĩa “nhân quả” luận quyền thật.

[Kinh văn nói:] “Đủ mọi nhân duyên, [đủ mọi] thí dụ” cho đến “khiến cho lìa xa những sự bám chấp”,[25] tức là nghĩa “tiệm đốn” luận quyền thật.

Kinh văn lại nói: “Vì sao vậy? Vì đức Như Lai có đầy đủ hết thảy các phương tiện, tri kiến, ba-la-mật.” Đây là nghĩa “khai hợp” luận quyền thật.

Kinh nói, chư Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời, vì muốn giúp cho chúng sinh khai mở, thấy biết, nhận hiểu, thể nhập được tri kiến Phật.[26] Đây là nghĩa lợi ích [“thông biệt”] luận quyền thật.

Kinh văn lại nói: “Nói tóm lại, [vô lượng vô biên các pháp chưa từng có,] Phật đều thành tựu.” Đây tức là nói thành tựu ba tất đàn, thành tựu [thuộc về thế gian]. [Lại nói:] “Thôi thôi, đừng nói nữa!” Đây là đệ nhất nghĩa tất đàn. Như trên chính là nghĩa “bốn tất đàn” luận quyền thật.

Lại nói: “Vì sao vậy? Chỗ thành tựu của Phật là pháp ít có, khó hiểu nhất, [chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến tận cùng tướng thật của các pháp.” Đây tức là lý. [Lại nói:] “Đó là nói tướng như thị của các pháp.” Đây tức là sự. Như vậy là nghĩa “lý sự” luận quyền thật.

Chỉ một đoạn kinh văn trường hàng như thế nêu rõ pháp quyền thật của năm đời Phật.[27] Hết thảy chư Phật cũng đều như vậy.

Tuy nhiên, luận Pháp hoa[28] còn giảng giải rằng chư Phật trí tuệ rất sâu xa, vì chứng đắc rất sâu xa. Chỗ sâu xa đó có 5 phương diện. Đó là nghĩa sâu xa, thể chân thật sâu xa, nội chứng sâu xa, chỗ nương tựa sâu xa và pháp Vô thượng sâu xa. Vô thượng sâu xa tức là chứng đắc Đại Bồ-đề. Gọi là pháp môn trí tuệ vì Phật giảng thuyết ý nghĩa A-hàm rất sâu xa. Điều này so với nghĩa “lý giáo” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng “Phật từng thân cận trăm ngàn đức Phật”, vì sự tu hành rất sâu xa. “Dũng mãnh tinh tấn, danh xưng được nghe biết rộng khắp”, vì công đức tăng trưởng sâu xa. Điều này so với nghĩa “giáo hành” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng “thành tựu pháp sâu xa chưa từng có”, vì “sự” vi diệu rất sâu xa. “Ý nghĩa khó hiểu hết”, vì nghĩa vô thượng rất sâu xa, thể nhập rất sâu xa. Điều này so với nghĩa “thể dụng” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng “Ta từ thành Phật đến nay”, là nói về pháp công đức thành tựu của Như Lai. Điều này so với nghĩa “nhân quả” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng “vô số phương tiện” tức là giáo hóa thành tựu và thuyết pháp thành tựu. Điều này so với nghĩa “tiệm đốn” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng, câu kinh từ “Phương tiện tri kiến của Như Lai” cho đến “thâm nhập không cùng tận”[29] chính là cảnh giới tự thân thành tựu không thể nghĩ bàn, vượt hơn hết thảy các vị Bồ Tát. Đây chính là làm sáng tỏ [ý nghĩa] lợi ích [thông biệt].

Luận giảng rằng, “[Như Lai] có thể phân biệt đủ mọi pháp, [khéo léo giảng thuyết các pháp, lời nói nhu hòa uyển chuyển] làm cho đại chúng được vui lòng”, chính là thành tựu về ngôn ngữ. Điều này so với nghĩa “lợi ích [thông biệt]” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng, kinh văn từ câu “Nói tóm lại, [vô lượng vô biên các pháp chưa từng có, Phật đều thành tựu]” cho đến “Thôi đừng nói nữa!” là có thể hóa độ chúng sinh thành tựu. Điều này so với nghĩa Tứ tất đàn phân biệt [chúng sanh] có thể hóa độ và không thể hóa độ thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng “Chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến tận cùng tướng thật của các pháp”, vì khả năng rõ biết của chư Phật do thành tựu vô lượng phước đức, là tánh thể pháp thân Như Lai chẳng biến đổi nên gọi là giác, có thể tự chứng đắc thành tựu, có thể tùy thuận chúng sinh, thuyết dạy hết thảy các tướng pháp... Điều này so với nghĩa “lý sự” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Bản luận [Pháp hoa] này giảng giải kinh Phật thuyết, nay giải rộng như trên phù hợp với lời của hai bậc thánh,[30] có thể nói là so với khế kinh (Tu-đa-la) và luận Pháp hoa (Ưu-ba-đề-xá) đều phù hợp.

5. Tóm kết các loại quyền thật

Mười pháp [quyền thật như kể trên] có đủ trong Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo, nên tính chung thành 40 pháp quyền thật.

Nếu tu tập theo Tạng giáo tự chứng được 10 pháp quyền thật này thì gọi là t hành quyền thật. Đem 10 pháp tự mình đã chứng ra giảng thuyết làm lợi ích chúng sinh thì gọi là hóa tha quyền thật. Mười pháp hóa tha hợp chung gọi là quyền, mười pháp tự hành hợp chung gọi là thật. Như vậy gọi là tự tha quyền thật.

Đối với người tu tập theo Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo cũng đem 10 pháp xếp vào 3 loại quyền thật như vậy.

Lại nữa, trong mỗi giáo pháp đều phân chia bốn pháp sự lý, giáo hành, phược thoát, nhân quả là tự hành quyền thật; hai pháp lý giáo, khai hợp là hóa tha quyền thật; bốn pháp thể dụng, tiệm đốn, thông biệt, tất đàn là tự tha quyền thật. Tuy [tứ giáo đều] gọi tên [ba loại quyền thật] giống nhau như vậy, nhưng ý nghĩa trong mỗi giáo pháp đều khác nhau.

Lại có cách phân chia khác. Trong Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo, [hết thảy các pháp] dù là [lợi ích] chung (thông) hay riêng (biệt), đều gọi chung là hóa tha quyền thật, vì tùy thuận ý người khác mà nói. Trong Viên giáo, [hết thảy các pháp] dù là [lợi ích] chung (thông) hay riêng (biệt), đều gọi chung là tự hành quyền thật, vì tùy thuận ý của chính mình mà nói. Các pháp hóa tha của Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo đều là quyền, các pháp tự hành [của Viên giáo] đều là thật, [nên gộp chung lại gọi là t tha quyn tht.]

Tiếp đến còn có thể phân chia theo bốn luận đề. Các pháp tùy theo ý người khác mà nói thì hết thảy đều là quyền; các pháp tự ý mình mà nói thì hết thảy đều là thật. Chấp nhận cả hai luận đề trên thì tất cả pháp vừa là quyền vừa là thật, phủ nhận cả hai luận đề trên thì hết thảy pháp chẳng phải quyền chẳng phải thật.

Kế đến là phân chia theo 3 cách giải thích [tên] phẩm kinh này.

Nếu [xét theo các pháp] tự hành, tự ý thì trong văn này gọi là pháp đạt được ở đạo tràng. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói là “nhờ tu đạo mà đạt được”. Luận Nhiếp Đại thừa gọi là “trí đúng thật như lý, đúng thật như lượng”. Đó đều là chỉ các pháp tự hành quyền thật, tùy tự ý mình mà nói, thuộc Viên giáo. Đức Phật tuy đối với các pháp không thể thuyết vẫn có khả năng dùng phương tiện để thuyết giảng, nhưng chúng sinh thì không đủ sức tiếp nhận. Nếu [Phật] vì xót thương mà riêng nói pháp này thì những chúng sinh được nghe cũng không thể hiểu được. Cho nên nói rằng “không thể thuyết, không thể thuyết”.

Cho nên gác lại việc [thuyết pháp “tự hành tự ý” như vậy] mà dùng các pháp tự hành quyền thật cùng với các pháp quyền thật của Biệt giáo để thuyết giảng cho chúng sinh. [Như vậy thì] những người thuộc căn cơ lớn, nếu nhanh nhạy liền có thể nhận hiểu ngay, nếu chậm lụt thì phải suy diễn quanh co rồi cũng nhận hiểu được. Nhưng với những người căn cơ nhỏ thì dù nhanh nhạy hay chậm lụt cũng đều không nhận hiểu được. Ý nghĩa này là nói về giáo pháp Hoa nghiêm.

Do đó, lại tạm gác việc thuyết pháp như vậy, chỉ riêng dùng các pháp quyền thật của Tạng giáo để thuyết giảng cho chúng sinh. [Như vậy thì] hàng căn cơ lớn, kẻ nhanh nhạy cũng như người chậm lụt, đối với mật ý ngấm ngầm có thể nhận hiểu được, nhưng ở phương diện hiển lộ thì không hiểu được. Đối với hàng căn cơ nhỏ, dù nhanh nhạy hay chậm lụt, chỉ có thể chứng biết nhưng không thể hiểu được. Ý nghĩa này là nói theo Tạng giáo.

Lại tạm gác việc thuyết pháp như vậy, nếu dùng đủ cả bốn loại quyền thật [của Tứ giáo] để giảng thuyết cho chúng sinh thì hàng căn cơ lớn dù nhanh nhạy hay chậm lụt, đều có thể hoặc nhận hiểu được ngay, hoặc do suy diễn mà hiểu. Hàng căn cơ nhỏ thì chỉ chứng biết mà đều không nhận hiểu được. Ý nghĩa này là nói về giáo pháp Phương đẳng.

Nếu xả bỏ các pháp quyền thật của Tạng giáo, chỉ dùng các pháp quyền thật của Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo để thuyết giảng cho chúng sinh thì hàng căn cơ lớn dù nhanh nhạy hay chậm lụt cũng đều nhận hiểu được, còn hàng căn cơ nhỏ chỉ chứng biết mà đều không hiểu được. Ý nghĩa này là nói về giáo pháp Bát-nhã.

Lại nếu xả bỏ ba loại quyền thật của Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo, chỉ riêng dùng các pháp tự hành quyền thật của Viên giáo để thuyết giảng cho chúng sinh, thì hết thảy các hàng căn cơ lớn hay nhỏ, nhanh nhạy hay chậm lụt cũng đều nhận hiểu được. Ý nghĩa này là nói về giáo pháp Pháp hoa.

Trí tuệ của đức Như Lai không gì không thông đạt, sáng suốt rõ biết thời cơ thích hợp cùng chỗ nên dùng hay không nên dùng. Do vậy mà [theo đó] giải thích [tên] phẩm kinh này, phương là các phương pháp, tiện là khéo léo vận dụng. Khéo léo vận dụng các phương pháp để thuyết giảng cho chúng sinh có thể nhận hiểu được, cho nên ân cần ngợi khen xưng tán là phương tiện. [Đây là cách thứ nhất để giải thích tên phẩm kinh này.]

Lại nữa, chỗ tự chứng của đức Như Lai, dù quyền hay thật đều không thể giảng nói. Vì thương xót chúng sinh mà nói các pháp quyền do Phật tự chứng để làm cửa ngõ [vào đạo]. Vì không thích hợp nên hết thảy chúng sinh đều không thể vào được. Cho nên pháp tự chứng [của Như Lai] cũng không thể giảng nói.

[Phật lại] thuyết các pháp quyền thật của Biệt giáo làm cửa ngõ vào đạo. Người lợi căn thì vào được, còn kẻ độn căn thì không thể vào. Cho nên đối với những chúng sinh không thích hợp thì các pháp quyền thật của Biệt giáo lại cũng không thể giảng nói.

Lại thuyết các pháp quyền thật của Tạng giáo để làm cửa ngõ vào đạo. Người lợi căn thì ngấm ngầm vào được, kẻ độn căn vẫn không thể vào, cho nên đối với chúng sinh không thích hợp vẫn không thể giảng nói.

Lại thuyết ba loại hóa tha quyền thật để làm cửa ngõ vào đạo. Người lợi căn vào được, kẻ độn căn vẫn không thể vào, nên đối với chúng sinh không thích hợp vẫn không thể giảng nói.

Lại thuyết hai loại hóa tha quyền thật để làm cửa ngõ vào đạo. Đối với người lợi căn thì vào được, những kẻ độn căn vẫn không thể vào, nên [các pháp này] vẫn không thể giảng nói với những chúng sinh không thích hợp.

Đức Phật liền xả bỏ ba loại hóa tha quyền thật, chỉ thuyết các pháp quyền tự hành. [Như vậy thì] những người lợi căn và độn căn đều có thể vào được.

Từ khởi đầu cho đến cuối cùng đều lấy phương tiện làm cửa ngõ [vào đạo] cho chúng sinh, cho nên Như Lai ngợi khen xưng tán phương tiện.

[Theo đó] giải thích [tên phẩm] này, phương tiện là cửa vào lẽ chân thật, tức là ý nghĩa như vậy. Phần giải thích trước nêu rõ việc Đức Như Lai khéo biết phương tiện, khéo vận dụng phương tiện. Phần giải thích này nêu rõ việc hành giả khéo tùy thuận phương tiện. Đại lược là như vậy. [Đây là cách giải thích thứ hai.]

Lại nữa, Như Lai tự tu chứng đạo, chỗ chứng đắc đối với hết thảy các phương tiện ngay đó cũng tức là chân thật, nhưng chỗ chân thật này lại không thể giảng nói. Tuy có thể giảng nói nhưng chúng sinh lại không thể ngay đó tức nhập lẽ thật.

[Đức Như Lai] dùng sức phương tiện đem pháp không thể tức nhập thuyết giảng thành một pháp tức nhập, những người lợi căn nhanh nhạy nhân đó có thể tức nhập lẽ thật, nhưng kẻ độn căn chậm lụt thì không thể.

Lại chỉ thuyết riêng một pháp không tức nhập. Những người lợi căn ngấm ngầm tức nhập, còn kẻ độn căn thì không thể.

Lại đem ba pháp không tức nhập thuyết giảng thành một pháp tức nhập. Những người lợi căn có thể nhân đó tức nhập, nhưng kẻ độn căn thì không thể.

Lại đem hai pháp không tức nhập thuyết giảng thành một pháp tức nhập. Những người lợi căn có thể tức nhập, nhưng kẻ độn căn vẫn không thể.

Lại bỏ đi ba pháp không tức nhập, chỉ riêng thuyết hết thảy các pháp đều tức nhập, người lợi căn hay độn căn đều có thể nhân đó tức nhập, nhờ nơi phương tiện đó mà đều thấy lẽ chân thật.

Hai cách [giải thích] trước đều vận dụng phương tiện, thuận theo phương tiện, riêng cách giải thích này thì ngay nơi phương tiện tức là chân thật. Chân thật tức là nhân trọn vẹn. Nhân trọn vẹn đó tức là phương tiện tự hành. Y theo phương tiện tự hành đó mà nay mới chứng nhập lẽ chân thật.

Theo cách giải thích tên phẩm kinh này ở đây thì phương tiện tức là chân thật, theo phương tiện tự hành mà đặt tên nên gọi là phẩm Phương tiện.

6. Phân biệt quyền thật, soi chiếu nhị đế

Phần trước đã phân biệt các loại quyền thật theo thông biệt cũng như xếp gộp thành các nhóm. Nay lại cũng dựa theo đó để luận về trí tuệ soi chiếu nên sẽ dễ dàng thấy được ý nghĩa.

Ví như Thông giáo dùng 10 loại [quyền thật] để làm rõ nghĩa hai trí tự hành, tức là soi chiếu tùy trí nhị đế.[31] Nếu Thông giáo dùng 10 loại quyền thật để tùy duyên [giáo hóa], tức là soi chiếu tùy tình nhị đế. Nếu gộp bốn pháp thành hai,[32] tức là soi chiếu tùy tình trí nhị đế.

Nếu phân chia [theo nhóm] để luận sự soi chiếu nhị đế thì [nhóm các loại] sự lý, giáo hành, phược thoát, nhân quả đều thuộc về pháp tự hành tự chứng, tức là soi chiếu tùy trí nhị đế. Hai loại lý giáo, khai hợp đều thuộc về hóa tha, tức là soi chiếu tùy tình nhị đế. Bốn loại thể dụng, tiệm đốn, thông biệt, tất đàn đều thuộc về cả tự hành và hóa tha, tức là soi chiếu tùy tình trí nhị đế.

Đối với Tạng giáo, Biệt giáo và Viên giáo, luận về soi chiếu nhị đế cũng đều dựa theo như trên mà nhận hiểu.

Lại nữa, Tam giáo có 30 loại [quyền thật] nhị trí, thuộc về hóa tha nhị trí nên đều soi chiếu tùy tình nhị đế.

Thông giáo và Biệt giáo tính chung có 60 loại [quyền thật nhị trí], thuộc về tự tha nhị trí, tức là soi chiếu tùy tình trí nhị đế.

Đôi khi cũng xếp chung [các pháp của] Thông giáo với Tạng giáo [thành 60 pháp quyền thật và] xem là [soi chiếu] tùy tình nhị đế.

Xét Viên giáo thì có 30 loại quyền thật, thuộc về tự hành nhị trí, nên chiếu soi tùy trí nhị đế.

Lại nữa, đối với Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo, dù là các pháp thông (chung khắp) hoặc biệt (dành riêng) cũng đều là tùy duyên [giáo hóa], cho nên đều thuộc về hóa tha nhị trí, soi chiếu tùy tình nhị đế.

Đối với Viên giáo, dù thông hay biệt cũng đều là tự hành nhị trí, tức là soi chiếu tùy trí nhị đế.

Nếu xem tất cả các pháp của Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo đều là quyền, tất cả các pháp của Viên giáo đều là thật, thì gộp chung lại là thuộc về tự tha nhị trí, soi chiếu tùy tình trí nhị đế.

7. Lược xét kinh điển phán định quyền thật

Giáo pháp Hoa nghiêm luận về giáo thuyết thì chỉ nói pháp viên mãn rốt ráo;[33] luận về giai đoạn thì giống như lúc sữa [còn nguyên vị thuần khiết]; luận về pháp hành thì [có đủ] một mặt tự hành, một mặt hóa tha; xem hết thảy người nghe [pháp] đều là Bồ Tát, riêng hàng Nhị thừa [ví như người] câm điếc, [không có khả năng tiếp nhận]; Bồ Tát hiện đời[34] cũng chưa thể khởi phát pháp quyền tự hành tùy trí chân thật. Nếu xét theo kinh văn [Pháp hoa] này thì chưa từng dạy người nghe những việc như thế.

Lược xét Tạng giáo, luận về giáo thuyết thì chỉ nói pháp chưa rốt ráo; luận về pháp hành thì chỉ một mặt hóa tha; luận về giai đoạn thì giống như lúc [sữa được chế biến thành] sữa đặc. Nếu xét theo kinh văn [Pháp hoa] này thì là người đứng ngoài cửa, mặc áo quần dơ bẩn, tay cầm đồ dùng hốt phân. Đó là chỉ hàng Nhị thừa.

Lược xét giáo pháp Phương đẳng, luận về giáo thuyết thì đối với pháp chưa rốt ráo mà luận giải rốt ráo; luận về pháp hành thì có ba loại hóa tha, một loại tự hành; luận về giai đoạn thì giống như lúc sữa đặc để yên đã đóng thành váng sữa (sinh tô). Nếu xét theo kinh văn [Pháp hoa] này thì [là người cùng tử đến lúc] trong lòng đã có niềm tin, vào ra [nhà trưởng giả] không gặp khó khăn.

Lược xét giáo pháp Bát-nhã, luận về giáo thuyết thì đem pháp chưa rốt ráo ra để luận giải rốt ráo; luận về pháp hành thì có hai loại hóa tha, một loại tự hành; luận về giai đoạn thì giống như lúc váng sữa sống (sinh tô) đã thành váng sữa chín (thục tô). Xét theo kinh văn [Pháp hoa] này thì [là người cùng tử đã đến lúc được ông trưởng giả] cho biết rõ hết thảy về mọi thứ tài sản.

Nay lược xét giáo pháp Pháp hoa, luận về giáo thuyết thì bỏ hẳn pháp chưa rốt ráo, chỉ luận pháp viên mãn rốt ráo; luận về pháp hành thì chỉ có tự hành; luận về giai đoạn thì [giống như lúc sữa đã chế biến xong,] chỉ thuần một vị đề-hồ. Nếu xét theo kinh văn thì là lúc trừ bỏ pháp quyền, hiển bày pháp thật, [như ông trưởng giả nói ra sự thật], “đây là con ta, do ta sinh ra, ta là cha nó”, rồi giao phó gia nghiệp, [tức là] thụ ký cho làm Phật.

Những gì các giáo pháp trước đây không nói thì đến lúc thuyết giảng Pháp hoa đều nói ra, chính thức xả bỏ phương tiện, chỉ thuyết giảng đạo Vô thượng. Cho nên đây là pháp quyền tự hành, cho nên gọi đây là phẩm Phương tiện.

Các giáo pháp khác, hoặc nói tự tha nhị trí, hoặc nói hóa tha nhị trí. Lại nữa, giáo pháp Hoa nghiêm đối với nhị Bồ Tát nói một pháp tự hành, một pháp hóa tha, không lưu tâm đến hàng Nhị thừa không nghe, không hiểu. Giáo pháp Tạng giáo thì đối với hàng Nhị thừa chỉ thuyết một mặt hóa tha, không lưu tâm đến Bồ Tát nên không có pháp tự hành. Giáo pháp Phương đẳng thì hướng đến cả Đại thừa, Tiểu thừa nên đối với Nhị thừa thuyết hai pháp hóa tha, đối với Bồ Tát thuyết một pháp tự hành, một pháp hóa tha. Giáo pháp Bát-nhã thì có ba, thuyết một pháp tự hành, hai pháp hóa tha, trong đó đối với Nhị thừa thuyết một pháp hóa tha, đối với Bồ Tát thuyết một pháp tự hành, một pháp hóa tha.

Giáo pháp Pháp hoa thì mở rộng đối với những người căn cơ đã thuần thục, chỉ giảng rõ một pháp tự hành, không luận đến hóa tha. Kinh văn nói rằng: “Bồ Tát nghe pháp này, những sự hoài nghi đều tiêu trừ, 1.200 vị A-la-hán, tất cả đều sẽ thành Phật.” Hết thảy chúng sinh đều sẽ thể nhập vào phương tiện tự hành, cho nên gọi tên là phẩm Phương tiện. Đại lược là như vậy.

8. Lược nêu bản tích phán định quyền thật

Xét về bản địa, đức Như Lai vốn từ lâu đã chứng đắc hết thảy các pháp quyền thật, gọi là tự hành. Vì thương xót thị hiện độ sinh[35] nên trong khoảng thời gian đó mới tuần tự thuyết dạy các giáo pháp Hoa nghiêm, A-hàm, Phương đẳng, Bát-nhã,[36] cho đến ngày nay[37] lại thị hiện tịch diệt nơi đạo tràng. Kèm theo pháp hóa tha của Biệt giáo, lại thuyết pháp tự hành. Kế đến thuyết riêng một pháp hóa tha [trong hội A-hàm]. Tiếp theo thuyết ba pháp hóa tha [trong hội Phương đẳng]. Tiếp nữa thuyết hai pháp hóa tha [trong hội Bát-nhã]. Sau lại thuyết không dùng ba pháp hóa tha. Những pháp như thế đều gọi chung là hóa tha quyền thật.

[Lại xét theo bản tích thì] các pháp quyền thuộc bản đều gọi là thật, các pháp thật thuộc tích đều gọi là quyền. Gộp chung lại tức là tự tha, quyền thật.

Kết lại như vậy có bốn luận đề: hết thảy đều là thật, hết thảy đều là quyền, hết thảy đều vừa quyền vừa thật, hết thảy đều chẳng phải quyền chẳng phải thật. Đại lược là như vậy.

Ngài Xá-lợi-phất,[38] xét theo bản địa vốn đã chứng đắc hết thảy các pháp quyền thật, tức là tự hành, nhưng thị hiện hình tích tại Lộc uyển riêng lãnh nhận pháp hóa tha; tại hội Phương đẳng một lần chịu quở trách, ba lần chịu bắt bẻ;[39] tại hội Bát-nhã thì [thị hiện] từ Nhị thừa chuyển sang Đại thừa; cho đến hội Pháp hoa từ bỏ ba thừa tỏ ngộ Phật thừa. Tất cả [những sự thị hiện đó] đều là hóa tha quyền thật. Xét theo bản nguyên thì quyền đó là thật, xét theo hình tích thị hiện thì thật đó là quyền, tức là tự tha quyền thật, cũng có đủ bốn luận đề như trước. Đại lược là như vậy.

Nếu xét từ chỗ thị hiện hình tích của Phật mà nói thì cũng là hóa tha quyền thật, cũng gọi là phẩm Phương tiện. Nếu xét từ chỗ dẫn vào nhân viên mãn, là pháp tự hành, cũng gọi là phẩm Phương tiện. Nếu xét từ các pháp quyền thị hiện hình tích của ngài Xá-lợi-phất thì cũng là phẩm Phương tiện. Nếu xét từ chỗ thị hiện hình tích của ngài Xá-lợi-phất nhập vào lẽ thật thì cũng là phẩm Phương tiện. Do hết thảy các nghĩa này cho nên gọi tên là phẩm Phương tiện.

Giải thích phần chánh thuyết

Từ phẩm [Phương Tiện] này cho đến hết 19 khổ kệ [đầu tiên] của phẩm Phân Biệt Công Đức,[40] hoặc sau phần kệ ấy đến hết đoạn văn “hiện tại tứ tín đệ tử”, là phần chánh thuyết.

Nếu phân chia theo cách có hai phần chánh thuyết thì từ đây đến hết phẩm “Thọ học vô học nhân ký”[41] là Tích môn chánh thuyết.

Nay tạm lấy theo phần Tích môn chánh thuyết, lại phân chia thêm thành hai phần. Phần thứ nhất từ đây trở đi,[42] nói sơ lược ý nghĩa trừ bỏ ba thừa, hiển bày một thừa duy nhất.[43] Phần thứ hai từ câu “cáo Xá-lợi-phất, nhữ dĩ ân cần...”[44] trở đi là nói rộng ý nghĩa trừ bỏ ba thừa, hiển bày Phật thừa.

Phần thứ nhất nói lược, lại chia thêm thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất là từ “Nhĩ thời Thế Tôn...” trở đi, đây là nói lược ý nghĩa trừ bỏ ba thừa, hiển bày Phật thừa. Đoạn thứ hai là từ “nhĩ thời đại chúng”[45] trở đi, nói nghĩa “động chấp sinh nghi”.

Giải thích phần văn trường hàng

Đoạn thứ nhất gồm có phần văn trường hàng và kệ tụng. Văn trường hàng lại chia thành hai phân đoạn, thứ nhất là dùng ngôn từ tán thán nhị trí, thứ hai là dứt ngôn từ tán thán nhị trí. Nếu không có lời nói ra thì không ai có thể biết được. Tuy nhiên, xưng tán tuyên dương thì lời nói không đủ nói hết nhị trí [quyền thật] của chư Phật như trước đã nói. Đại lược là như vậy.

Phân đoạn thứ nhất lại chia làm hai tiểu đoạn, thứ nhất là nêu rõ quyền thật của chư Phật, thứ hai là nêu rõ quyền thật của Đức Phật Thích-ca. Chư Phật đạo hạnh như nhau cho nên đều tán thán. Phần trên đã nói hào quang soi chiếu đến các cõi khác, ngài Di-lặc nêu hỏi việc đương thời, ngài Văn-thù dẫn việc đại chúng được nghe thuở xưa,[46] chính là nêu việc [chư Phật] khởi tâm thương xót [chúng sanh] mà xuất định, tức chỉ rõ đạo hạnh của chư Phật đều như nhau.

Phần kinh văn tán thán chư Phật lại chia làm ba. Thứ nhất là tán thán cả hai [trí quyền thật], thứ hai là giải thích cả hai và thứ ba là tóm kết cả hai.

Trong phần tán thán cả hai, trước tiên là mở đề của người chép kinh, sau đó là nội dung tán thán.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Thế Tôn an lành ra khỏi thiền định, bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trí tuệ của chư Phật rất sâu xa không thể suy lường, cửa trí tuệ ấy khó hiểu khó vào, hết thảy hàng Thanh văn, Phật Bích-chi đều không có khả năng rõ biết.

Kinh văn nói “bấy giờ”, đó là nói thời gian đúng vào lúc ấy.

“Đức Thế Tôn an lành ra khỏi thiền định”, Phật vẫn thường trụ trong định, ở đây vì sao lại nói “ra khỏi”? Điều này tự có những ý nghĩa thị hiện.

Chư Phật xưa kia trong quá khứ, trước khi thuyết giảng kinh [Pháp hoa] này đều nhập [tam-muội] Vô Lượng Nghĩa, tức là nhập [tam-muội] Pháp hoa. [Cho nên] đức Phật [Thích-ca] bây giờ cũng vậy. Đây là [đức Phật] thị hiện thế giới tất đàn [tùy thuận thế gian] nên thương xót [chúng sanh] mà từ định khởi.

[Đức Phật] từng trải pháp duyên, thảy đều xét rõ tinh tường lẽ thật, nên thuyết giảng ắt không sai lầm, làm tăng trưởng niềm tin của chúng sinh. Đây là [đức Phật] thị hiện v nhân tất đàn, thương xót [chúng sanh] mà từ định khởi.

Đức Phật trụ nơi tịch nhiên vắng lặng nhưng thường soi chiếu sáng suốt, như vậy mà còn phải nhập định rồi mới thuyết pháp, huống chi [những kẻ] tán tâm sao có thể ngông cuồng nói pháp? Đây là đối trị tất đàn, thương xót [chúng sanh] mà từ định khởi.

[Đức Phật] nhập định thì thuận theo duyên, tâm trụ yên nơi thật tướng, xuất định thì giúp cho chúng sinh được trụ yên nơi thật tướng. Đây là đ nht nghĩa tất đàn, thương xót [chúng sanh] nên từ định mà khởi.

[Đức Phật trụ] yên nơi 4 pháp [tất đàn] này cho nên nói rằng “an lành ra khỏi thiền định”.

“Bảo ngài Xá-lợi-phất”, là [nói với] bậc đệ nhất trí tuệ trong hàng Tiểu thừa. Đó là [Phật] muốn nhân đây phá bỏ trí nhỏ hẹp, hiển thị trí lớn rộng. Đây là nói các pháp khai, phế, hi, phú, như trong [Pháp hoa] Huyền Nghĩa nói là có 10 loại.[47]

Trên đây là câu văn của những người chép kinh dùng để mở đề.

Luận Pháp hoa[48] nói rằng: “Phật nhập tam-muội rất sâu, chánh niệm không dao động, dùng trí quán chiếu như thật,[49] từ tam-muội mà khởi.” Đây là hiển lộ sức tự tại mà đức Như Lai đã đạt được.

Khi đức Như Lai nhập định thì không điều gì có thể làm kinh động. Luận với ý nghĩa này phù hợp nhau. Đệ nhất nghĩa tất đàn vượt ngoài thế gian, cho nên không gì có thể làm kinh động. Bốn tất đàn không chướng ngại, cho nên được tự tại. Đại lược là như vậy.

[Phật nhập tam-muội tức trong tư thế] ngồi kết-già.[50] Từ xa xưa đến nay, chư Phật nhiều như số hạt bụi nhỏ, như số cát sông Hằng, cùng các đệ tử đều thực hành cách ngồi này. Lại nữa, ngồi kết già dù khởi lên niệm xấu mà còn khiến người khác sinh tâm cung kính, huống chi là [chân chánh] nhập vào cảnh giới sâu xa, lẽ nào lại chẳng làm cho hàng người, trời ưa mến hay sao? Lại nữa, đây chẳng phải pháp thọ dụng của thế gian, cũng chẳng chung cùng với ngoại đạo, có thể phá trừ quân ma phiền não, làm sinh khởi ba loại đạo Bồ-đề.[51] Đây là ý nghĩa của 4 tất đàn.

● Hỏi: Các kinh khác nói “buộc niệm ở phía trước” nghĩa là thế nào?

● Đáp: Quay lưng bỏ lại hình sắc, niệm tưởng thuộc cảnh giới phiền não, sinh tử ở sau, quán các duyên đưa đến tịch diệt, Niết-bàn ở trước. Cho nên, lẽ ra nên giải thích [việc buộc niệm duyên trước mặt] theo 4 nghĩa [như dưới đây]. Đại lược là như vậy.

● Hỏi: Vì sao lại ở nơi mặt?

● Đáp: Con người thường khởi sự ham muốn từ nơi khuôn mặt, mừng vui cũng lộ ra ở đó rồi sau mới lan đến toàn thân. Lại nữa, [trên thân] có 9 lỗ thải ra những chất bất tịnh thì riêng nơi mặt đã có 7 lỗ,[52] nên dùng [pháp quán] bất tịnh nơi đó để đối trị tham dục. Do vậy nên buộc niệm duyên ở mặt. Đó là ý nghĩa thứ nhất.

Lại nữa, 6 thức có đủ trên mặt nên tâm duyên theo nơi đó nhiều, biểu thị hết thảy hiền thánh đều chuộng lẽ không, tương ưng với không. Do vậy nên buộc duyên ở mặt. Đó là ý nghĩa thứ hai.

Lại nữa, nếu quán xét nơi mặt có thể phân biệt được 6 thức. Vì [tu tập quán xét] phân biệt nên buộc duyên ở mặt. Đó là ý nghĩa thứ ba.

Lại nữa, thân thể có 6 phần, trong đó đầu mặt là hơn hết, biểu thị trong các pháp thì tướng thật là hơn hết. Là pháp hơn hết cho nên buộc duyên ở mặt. Đó là ý nghĩa thứ tư.

Phần xưng tán nhị trí [lại chia ra thành hai], trước tiên xưng tán thật [trí], sau đó xưng tán quyền [trí].

Thật [trí] chính là trí tuệ của chư Phật, không phải ba loại [trí] hóa tha mà gọi là chư Phật. Hiển lộ sự chân thật của pháp tự hành, nên gọi là trí tuệ. Thể của trí tuệ này tức là một tâm ba trí.[53]

Kinh nói “rất sâu xa không thể suy lường” tức là lời ngợi khen xưng tán. Nêu rõ trí tuệ chân thật của Phật, soi xét ngược dòng, thấu triệt đến tận cùng của lý như, cho nên nói là rất sâu xa; lớn rộng khắp cùng biên tế pháp giới, cho nên gọi là không thể suy lường. “Rất sâu xa không thể suy lường”, [đó là nói] sâu xa ngang rộng, ví như cây có gốc rễ sâu thì cành lá rậm rạp, nguồn nước xa thì dòng chảy càng dài. Trí chân thật đã vậy thì trí quyền biến cũng giống như thế. Đại lược là như vậy.

Kinh nói “cửa trí tuệ ấy”, tức là xưng tán quyền trí. Đó đều là phương tiện tự hành trước khi vào đạo, có sức tiến tới theo đường hướng cho nên gọi là “cửa vào”. Từ cửa này mà vào được trong đạo. Trong đạo gọi là thật, trước khi vào đạo gọi là quyền.

Kinh nói “khó hiểu khó vào”, đó là lời xưng tán quyền trí. Không suy tính mà rõ biết, không phương thức mà đạt được chỗ vận dụng lớn lao. [Hành giả ở] 7 giai vị phương tiện[54] đều không thể ước độ suy lường, hàng Bồ Tát Thập trụ mới bắt đầu hiểu được và hàng Bồ Tát Thập địa mới thể nhập. Vì nêu chung các giai vị từ ban đầu, khoảng giữa cho đến sau cùng nên nói [pháp này] là khó gặp mà có thể biết, nhưng [kinh văn lại] nói riêng “hết thảy Thanh văn, Phật Bích-chi đều không có khả năng rõ biết”, đó là vì còn bám chấp nặng nề, cho nên phải có sự phá trừ riêng.

Ý nghĩa căn bản của Pháp thân vốn dùng tự hành quyền thật để hình dung phỏng theo, không có cách nào khác được, cho nên nói rằng không rõ biết. [Trong hội] Hoa nghiêm [Phật dùng pháp] đốn ngộ soi chiếu, [hàng Nhị thừa như] câm điếc, mù lòa mê muội, cho nên nói là không rõ biết. [Giữa hội] Phương đẳng, [đức Phật] quở trách [hàng Nhị thừa] bám chấp am cỏ [sống đời ẩn dật], cho nên nói là không rõ biết. [Đến hội] Bát-nhã [Phật] chuyển dạy giáo pháp vô tâm, [hàng Nhị thừa vẫn muốn] giữ một chút ý niệm, cho nên nói là không rõ biết. Đến nay [trong hội Pháp hoa này] khai mở căn cơ lớn lao, [điềm lành Phật] phóng hào quang, cõi đất chấn động, [hiển bày việc] chư Phật từ xưa đến nay, dù ở nơi đâu, đạo hạnh cũng tương đồng như nhau, [vậy mà hàng Nhị thừa] vẫn còn hoài nghi mê hoặc, cho nên nói là không rõ biết. Hàng Bồ Tát căn cơ nhanh nhạy thì mỗi mỗi đều rõ biết. Hàng Bồ Tát căn cơ chậm lụt thì cũng giống như Nhị thừa, cũng đều không rõ biết.

[Luận về] “cửa vào” ở đây, ngài Quang Trạch cho rằng phương tiện của Nhị thừa là “cửa vào” của kinh này. Như vậy thì phải có trao cho, có lấy lại, mà được như thế tức là vào được cửa. Nếu đúng vậy thì tại sao Đức Như Lai lại bác bỏ mà nói rằng [hàng Nhị thừa] không thể rõ biết? Đã không rõ biết thì tức là chẳng phải cửa vào [của Nhị thừa]. Cái được trao cho đó là khả năng cạn cợt nhất, vĩnh viễn không thể nhận hiểu. Đại lược là như vậy.

Nay giải thích rằng từ khi có phương tiện trí tuệ làm cửa vào thì thể nhập được trí tuệ Phật. Như kinh Anh Lạc nói: “Hai pháp quán là con đường phương tiện để thể nhập đệ nhất nghĩa đế của Trung đạo.” Lại nữa, trong Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo, mỗi giáo pháp đều có bốn môn[55] làm phương tiện để vào Trung đạo. Cách giải thích của ngài Quang Trạch thì đối với hai pháp quán chỉ thấy là một, đối với 12 môn [của ba giáo pháp] cũng chỉ thấy là một môn. Đại lược là như vậy.

Lại nữa, dùng trí tuệ phương tiện làm cửa vào để thể nhập trí phương tiện, tức là cả ba giáo pháp [Tạng, Thông, Biệt], mỗi giáo pháp đều có 4 môn cùng dạy người thể nhập chứng đắc. Nên từ chỗ có trí tuệ Phật làm cửa vào là thể nhập trí tuệ Phật. Như trên đã nói, do nhân viên mãn nên gọi là phẩm Phương tiện. Đó tức là dùng trí quán tự hành làm cửa vào, tức là “cửa trí tuệ” mà kinh này xưng tán. Trong bốn môn của Viên giáo thì đây là một. Từ chỗ chân thật thể nhập trí phương tiện cùng lúc soi chiếu Nhị đế tức là nghĩa này.

Giải thích như vậy là đầy đủ, rộng khắp, không giống như [cách giải thích của] ngài Quang Trạch chỉ nhỏ nhoi bó hẹp một nghĩa.

Nếu y theo luận giải, lấy [giáo pháp] A-hàm làm cửa vào, thì cần phải mở rộng theo pháp quán chuẩn mực của các giáo pháp, có thể rõ biết. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Vì sao vậy? Phật từng thân cận với trăm ngàn muôn ức vô số chư Phật, hết sức thực hành vô số đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, danh xưng được nghe biết rộng khắp, thành tựu pháp rất sâu xa chưa từng có, tùy chỗ thích hợp mà giảng thuyết, ý nghĩa khó hiểu.

[Kinh văn từ câu] “vì sao vậy” trở đi, [trước đây] ngài Quang Trạch cho là phần xưng tán đức Phật Thích-ca. Nay xét theo ý văn thì thấy là giải thích về hai trí [quyền thật] của chư Phật.

Kinh văn từ câu “Phật từng thân cận...” cho đến “hết sức thực hành vô số đạo pháp của chư Phật” là giải thích về trí tuệ chân thật của chư Phật. Đó là nhờ: bên ngoài thì được gặp rất nhiều vị Phật, cung kính vâng theo, đạt được chỗ chí yếu nên trí tuệ chân thật hết sức sâu xa; bên trong thì nội tâm tu hành thuần hậu, đem hết sức thực hành đạo pháp, cho nên trí tuệ chân thật không thể suy lường. [Trước đây] nói “không thể suy lường” tức là giải thích về chiều kích lớn rộng trùm khắp đương thời; chỗ này nói “rất sâu xa” tức là giải thích về chiều kích lâu dài xuyên suốt xưa nay.

Kinh văn nói “dũng mãnh tinh tấn, danh xưng được nghe biết rộng khắp”. Đây là giải thích về trí quyền biến của chư Phật. Cửa trí tuệ này khó hiểu khó vào, phải nhờ nơi sức dũng mãnh tinh tấn mới có thể vào được cửa khó vào. Vào được cửa [trí tuệ này] rồi thì ân trạch lợi ích thấm nhuần khắp chốn không giới hạn, muôn loài đều khâm phục ngưỡng mộ đức hạnh thù thắng. Cho nên nói là “danh xưng được nghe biết rộng khắp”.

Lại có thể phân chia câu kinh này thành hai phần. “Dũng mãnh tinh tấn” có thể vào được cửa pháp môn, tức là giải thích trí quyền biến sâu xa. “Danh xưng được nghe biết rộng khắp”, tức là giải thích trí quyền biến rộng khắp. Xét câu văn nói về quyền [trí] thì không có từ ngữ nào nói nghĩa sâu xa, rộng khắp, nhưng theo lệ thường nói về thật trí thì hiểu được là có những nghĩa này. Đại lược là như thế.

Từ câu “thành tựu pháp rất sâu xa” trở đi là tóm kết lại về cả hai trí [quyền, thật] của chư Phật. Xứng hợp lý rốt ráo cho nên nói là thành tựu; đạt đến cùng tận bờ [giải thoát bên] kia nên nói là rất sâu xa. Tóm kết như vậy thành [nói về] thật trí. Đúng thời cơ thích hợp nên nói là “tùy chỗ thích hợp”. Không phải chỗ mà 7 giai vị phương tiện rõ biết được, cho nên nói là khó nhận hiểu. Tóm kết như vậy thành [nói về] quyền trí.

Nương theo tình ắt che lấp lý, cho nên nói là khó nhận hiểu. Thấu hiểu nghĩa nên hiển lộ ý rõ ràng, nên nói là dễ rõ biết. Luận Nhiếp Đại thừa nói: “Đối với kinh liễu nghĩa thì y theo kinh văn để xác định ý nghĩa. Đối với kinh bất liễu nghĩa thì y theo ý nghĩa để xác định kinh văn.” Chính là nói ý nghĩa này.

Cũng có khi giải thích rằng, câu “thành tựu pháp rất sâu xa chưa từng có” là tóm kết nghĩa tự hành quyền thật, còn câu “tùy chỗ thích hợp mà giảng thuyết, ý nghĩa khó hiểu” là tóm kết ý nghĩa hóa tha quyền thật. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Xá-lợi-phất! Từ khi ta thành Phật đến nay, dùng đủ mọi nhân duyên, đủ mọi thí dụ, rộng nói các giáo pháp cùng vô số phương tiện, dẫn dắt chúng sinh khiến cho lìa bỏ mọi sự bám chấp.

Từ câu “Từ khi ta thành Phật đến nay” trở đi là xưng tán [hai trí] quyền thật của đức Phật Thích-ca. Các nhà cựu giải cho rằng [hai trí] quyền thật của đức Phật Thích-ca, câu nào cũng có ý xưng tán. Theo đó thì từ câu “Từ khi ta thành Phật đến nay” trở đi là xưng tán quyền trí. Từ câu “Vì sao vậy?” trở đi là giải thích quyền trí. Câu “Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa” là xưng tán thật trí. Từ câu “không có hạn lượng, không có ngăn ngại” trở đi là giải thích thật trí. Từ câu “Như Lai có thể phân biệt mọi điều” trở đi là tóm kết ý văn xưng tán thật trí.

Các nhà cựu giải phân tích phần này trước sau có ba ý.

Thứ nhất là xưng tán chung hai trí [quyền thật] của tất cả chư Phật, nêu rõ hai trí này tự thể đồng nhau ở chư Phật, mở ra xưng tán hai trí của đức Phật Thích-ca, nêu rõ công dụng của hai trí có khác biệt.

Thứ hai là nêu rõ chỗ cội nguồn thương xót thị hiện hình tích của chư Phật, cho nên trước tiên xưng tán thật trí, tiếp theo nêu rõ chỗ hiển bày sự thương xót đó, cho nên phần xưng tán đức Phật Thích-ca trước tiên xưng tán quyền trí.

Thứ ba, hiển lộ pháp tự hành của chư Phật nên trước tiên [nói việc] chứng đắc thật trí, nêu rõ pháp hóa tha của Phật Thích-ca nên trước tiên [nói việc] dùng quyền trí dẫn dắt kẻ sơ cơ, nhưng thị hiện sự ra đời và tịch diệt để hỗ tương [ý nghĩa] cho nhau, nêu rõ rằng dù tánh thể viên mãn cũng không thể khác biệt tồn tại [mãi mãi], nếu [thị hiện] thường tồn ắt mất đi yếu chỉ.

Nay cho rằng không đúng như sự giảng giải ấy. Chỉ cần y theo trình tự kinh văn thì ý nghĩa dễ hiểu, đâu cần gì phải biện luận quanh co khúc chiết? Hơn nữa, đã nói rằng đạo của chư Phật đều như nhau, vì sao lại giảng giải thành khác biệt? Như vậy chẳng khác nào người khéo xưng tán sự hiếu thuận mà lại đánh đập cha mẹ. Đại lược là như thế.

Phần kinh văn [xưng tán] Phật Thích-ca, nay cũng chia làm ba phần. Trước tiên là xưng tán hai trí quyền thật, tiếp là giải thích hai trí và cuối cùng là tóm kết về hai trí ấy.

[Câu kinh] “Từ khi ta thành Phật đến nay” là xưng tán thật trí. Nếu thật trí chưa viên mãn thì Phật đạo không thể thành tựu. [Cho nên,] đã nói là thành Phật thì [có nghĩa là] hết thảy đều thành tựu, tức là xưng tán trí tuệ Phật.

[Từ câu] “đủ mọi nhân duyên” trở đi là xưng tán quyền trí. Hơn 40 năm dùng ba loại hóa tha quyền thật để tùy nghi [giáo hóa] thích hợp mọi chúng sinh, cho nên nói là “đủ mọi nhân duyên”.

[Tiếp theo nói] “đủ mọi thí dụ”, đó là như trong Tiểu thừa lấy những ví dụ cây chuối, bọt nước... [để chỉ rõ sự hư huyễn, giả tạm, không bền chắc], còn trong Đại thừa thì lấy những ví dụ như thành càn-thát-bà, hình trong gương... [để chỉ rõ sự hư huyễn, không thật của các pháp]. Theo các bản luận giải thì Tiểu thừa ví như sữa, Đại thừa ví như đề-hồ.

[Kinh văn nói] “rộng nói các giáo pháp” nghĩa là đối với một pháp có thể giảng giải ra vô số ý nghĩa.

Lại nói “vô số phương tiện”. Đó là 7 loại phương tiện,[56] dẫn dắt chúng sinh xa lìa hết thảy mọi sự bám chấp; đó là thuyết giảng ngợi khen 10 nghiệp lành,[57] giúp chúng sinh xa lìa ba đường ác; đó là nói 10 nghiệp lành thanh tịnh, xa lìa Dục giới;[58] đó là thuyết giảng giáo pháp Tạng giáo, giúp chúng sinh xa lìa sự bám chấp vào kiến hoặc, tư hoặc; đó là thuyết giảng pháp Bồ Tát, giúp chúng sinh xa lìa sự bám chấp Niết-bàn; đó là thuyết giảng pháp Phật, giúp chúng sinh xa lìa sự bám chấp ưa muốn đối với pháp thuận đạo.

KINH VĂN

Vì sao vậy? Phương tiện, tri kiến ba-la-mật của đức Như Lai hết thảy đều trọn đủ. Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, không ngăn ngại, không thể suy lường, những phẩm đức như lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát tam-muội đều thâm nhập tận cùng, thành tựu hết thảy các pháp chưa từng có.

Từ câu “vì sao vậy” [trở đi] là giải thích cả hai trí quyền thật. Chữ “Như Lai” trong câu là giải thích về thật trí. Từ trong chân như thật tướng mà đến rồi thành tựu Phật đạo nên gọi là Như Lai. Đây là giải thích thành tựu thật trí. Chữ “phương tiện” là giải thích về quyền trí. Do nơi phương tiện thiện xảo nên mới có thể vận dụng đủ mọi nhân duyên. Kinh văn nói “tri kiến ba-la-mật” tức là cùng lúc nêu lên hai loại tri kiến quyền thật. Nhất thiết chủng trí [của chư Phật] gọi là rõ biết chân thật. Phật nhãn gọi là cái thấy chân thật. Đạo chủng trí gọi là sự rõ biết quyền biến. Pháp nhãn gọi là cái thấy quyền biến. Đạt đến tận cùng giới hạn của sự và lý nên gọi là ba-la-mật. [Kinh văn nói “hết thảy đều trọn đủ”, tức là chỗ rốt ráo của quyền thật. Nếu không nêu ý giải thích cả hai trí [quyền thật], đâu lẽ bỗng dưng lại nói “hết thảy đều”. [Cho nên] nói “hết thảy đều” là làm hiện rõ ý giải thích cả hai trí quyền thật.

Câu kinh “tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa” là tóm kết phần giải thích thêm cả hai trí quyền thật của Phật Thích-ca. “Tri kiến của Như Lai” là như trước đây đã nói. “Rộng lớn” là nêu rõ nghĩa rộng khắp, “sâu xa” là nêu rõ nghĩa xuyên suốt. Thật trí [của Như Lai] vốn chẳng thuộc về không gian hay thời gian, nhưng mượn ngôn từ để xưng tán nên phải luận rằng rộng khắp, xuyên suốt, soi chiếu cùng cực không có giới hạn, cũng như vật chứa càng lớn thì nắp đậy cũng càng lớn.

Từ câu “không ngăn ngại, không thể suy lường” trở đi là tóm kết về quyền trí. Pháp tự hành quyền biến là phương tiện trước khi vào đạo. Lược qua các pháp môn [ở đây] nên biết câu này rõ ràng tóm kết quyền trí, [bởi vì] thật trí không thể suy lường.[59] Ngài Quang Trạch cho rằng câu này giải thích thật trí. Không chỉ riêng ngài Quang Trạch [nói như vậy là] chẳng hiểu gì về thật trí, mà [các bậc thầy] vào đời nhà Lương cũng đều không biết rằng trí tuệ vô ngại vốn không thể suy lường.

Kinh nói “không thể suy lường” tức là chỉ tứ vô lượng tâm[60] của Phật, nói “không ngăn ngại” tức là bốn biện tài không ngăn ngại của Phật, đối với một từ ngữ, một ý nghĩa có thể ưa thích thuyết giảng thành vô số vô lượng [ý nghĩa] không cùng tận, nếu so với [năng lực của] các vị Bồ Tát Thông giáo, Biệt giáo thì chỉ như toàn cõi đất so với một chút đất trong móng tay.[61]

Kinh nói “lực” tức là thập lực, nói “vô sở úy” tức là tứ vô sở úy, nói “thiền” tức là thật tướng của bậc thiền cao tột nhất, nói “định” tức là định Thủ-lăng-nghiêm, nói “tam-muội” tức là Vương Tam-muội.

Kinh nói “thâm nhập tận cùng” là tóm kết thành chỗ sâu xa xuyên suốt, nói “thành tựu hết thảy các pháp chưa từng có” là tóm kết thành sự ngang rộng trùm khắp.

KINH VĂN

Xá-lợi-phất! Như Lai có thể phân biệt mọi điều, khéo giảng thuyết các pháp, lời lẽ êm dịu uyển chuyển, làm vui lòng đại chúng. Xá-lợi-phất! Theo chỗ cốt yếu mà nói thì Phật đã thành tựu hết vô lượng vô biên các pháp chưa từng có.

Từ câu “Xá-lợi-phất! Như Lai có thể phân biệt mọi điều” trở đi, theo các nhà cựu giải là tóm kết phần quyền thật ở trước, nay cho là mở ra phần muốn dứt tuyệt ngôn ngữ ở phía sau. Lại nêu nghĩa quyền thật là nguyên do dứt việc xưng tán.

Phần kinh văn này chia làm hai. Phần thứ nhất nêu nguyên do dứt việc xưng tán, phần thứ hai chỉ ra cảnh giới dứt tuyệt ngôn ngữ. Trịnh trọng, tức là biểu thị sự ân cần.[62] “Như Lai có thể phân biệt mọi điều, khéo giảng thuyết các pháp”,[63] đó là nêu quyền trí. “Lời lẽ êm dịu uyển chuyển làm vui lòng đại chúng”, đó là nêu thật trí.

Vì sao biết được như vậy? Vì như [kinh văn] phần trước đã nói về [chư Phật] ở quốc độ khác giảng thuyết pháp Đại thừa, rằng “âm thanh của Phật thanh tịnh, phát ra êm dịu uyển chuyển”,[64] đến phần sau ngài Xá-lợi-phất sau khi nghe hiểu lại thưa rằng “Được nghe âm thanh êm dịu uyển chuyển của Phật, thật sâu xa và hết sức vi diệu.”[65] Căn cứ vào hai đoạn kinh văn trước sau như vậy thì biết rõ là nêu lên thật trí.

Trong phần xưng tán ở trước thì trước xưng tán thật trí, sau xưng tán quyền trí. Nay [ở đoạn này] có hàm ý gì mà trước [xưng tán] quyền trí, sau xưng tán thật trí? Giải thích rằng, vì phần trước muốn mượn dùng ngôn ngữ, cho nên [bắt đầu] từ chỗ thật trí để mở ra nói về quyền trí, nay [trong phần này] muốn dứt tuyệt ngôn ngữ nên [bắt đầu] từ quyền trí để thâu tóm về thật trí.

Từ câu “Theo chỗ cốt yếu mà nói” là chỉ ra cảnh giới thật trí, vì “cốt yếu” là nói không gì có thể vượt hơn thật trí. “Vô lượng vô biên các pháp chưa từng có” là chỉ ra cảnh giới quyền trí.

Lại cũng giải rằng “cốt yếu” là đầu mối khai sáng, “vô lượng vô biên” là chỉ quyền trí, “các pháp chưa từng có” là chỉ thật trí. Nêu cả hai pháp [quyền thật] này để nói “Phật đã thành tựu hết”. Nhờ tu đạo mà chứng đắc nên những điều ấy làm sao có thể nói ra được? Nếu chỉ nêu một việc thì không thể nói là “thành tựu hết”, nay đã chỉ ra cả quyền và thật nên ý nghĩa này là sáng tỏ.

KINH VĂN

Thôi đi, Xá-lợi-phất! Không nên nói nữa. Vì sao vậy? Pháp mà Phật đã thành tựu cao tột khó hiểu ít có nhất, chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến chỗ rốt ráo.

Từ chữ “thôi đi” là phần thứ hai, tức là ý dứt tuyệt ngôn từ xưng tán.

Ấn sư[66] dạy rằng: “[Đức Phật] bảo ‘thôi đi’ là muốn làm [cho đại chúng] khởi sinh lòng nghi mà thưa thỉnh.” Ngài Tuệ Quán nói: “Pháp chân thật khó rõ biết, nên trước hết ngăn dứt để làm cho kẻ tầm thường kinh sợ.”

Nay giải thích rằng, pháp này sâu xa, vắng lặng, dứt tuyệt đường ngôn ngữ, tánh thể ấy không thể giảng thuyết bằng lời, cho nên phải dứt lời để xưng tán. Ví như có vì lòng từ bi mà thuyết giảng thì người nghe cũng không thể hiểu, còn bị tổn thương căn lành, cho nên [Phật dạy] phải dứt lời.

Từ câu “vì sao vậy” trở đi là giải thích ý nghĩa việc dứt lời xưng tán. Ý này lại chia thành hai phần. Thứ nhất, [chỉ ra rằng] đức Phật là bậc tối thượng, tu chứng thành tựu pháp tối thượng, cho nên không thể giảng nói. Thứ hai, nêu rõ cảnh giới hết sức sâu xa không thể nghĩ bàn, cho nên không thể giảng nói.

[Thứ nhất], từ câu “Pháp mà Phật đã thành tựu”[67] trở đi, nêu rõ pháp quyền thật của bậc tối thượng là rộng khắp trọn vẹn[68] nên không thể giảng nói. [Thứ hai], từ câu “chỉ Phật với Phật” trở đi, nêu rõ pháp quyền thật của bậc tối thượng là sâu xa xuyên suốt[69] nên không thể giảng nói.

[Kinh văn nói] “thành tựu” trái ngược với không thành tựu, cho đến “khó hiểu” trái ngược với dễ dàng nhận hiểu,[70] tức là làm sáng tỏ việc thành tựu theo ý nghĩa rộng khắp, do tu tập đạo pháp mà [tự mình] chứng đắc cho nên không thể giảng nói.

“Chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến chỗ rốt ráo.” Đó là nói [chư Phật thuyết pháp] lúc ban sơ và khoảng giữa, sự lợi lạc chưa đạt được đến tận cội nguồn, cũng giống như vào ngày 14 âm lịch thì ánh trăng [khuyết nên] còn chưa tỏa khắp. Riêng Phật với Phật mới đạt đến chỗ rốt ráo tận cùng của mọi giới hạn, giống như ánh trăng rằm, hình thể tròn đầy, ánh sáng chiếu khắp mọi nơi. Ý nghĩa thành tựu sâu xa xuyên suốt này là do tu tập đạo pháp mà [tự mình] chứng đắc nên không thể giảng nói.

KINH VĂN

Tướng thật của các pháp, đó là nói các pháp có tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, chỗ làm như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, từ gốc đến ngọn rốt ráo bình đẳng như vậy.

Từ câu “tướng thật của các pháp” trở đi tức là cảnh giới hết sức sâu xa, không thể nghĩ bàn, cho nên không thể giảng nói.

Ngài Quang Trạch nói: “Một câu đầu tiên nêu rõ hai trí.” “Các pháp” là nêu cảnh giới của quyền trí. Cả ba pháp tam[71] đều không phải một, cho nên nói là “các pháp”. Trong ba pháp [giáo, nhân, cơ] thì giáo là rõ rệt nhất. “Giáo” tất nhiên phải tùy nơi “cơ” nên vẫn có “nhân”. Do vậy mà biết ba pháp tam là thuộc về quyền trí.

“Thật tướng” là cảnh giới của thật trí. Chỉ một lẽ thật không hư dối cho nên gọi là thật tướng. Trong 4 pháp nhất,[72] hết thảy đều nêu lên một lý. Vì lý ấy là căn bản, cho nên là chân thật. Trong phần này có 9 luận đề,[73] giải thích lại 2 nghĩa [quyền thật] đã nêu trên.

Năm luận đề đầu tiên giải thích nghĩa quyền. “Tướng như vậy” nghĩa là nói giáo pháp Tam thừa tuy bao quát nhưng có thể phân biệt. “Tánh như vậy” nghĩa là giáo tánh Tam thừa dù phân chia chẳng thể thay đổi. “Thể như vậy” là nói tám âm thanh [thuyết pháp][74] trong Tam thừa, mỗi âm đều có tự thể, còn giáo pháp của hàng Bồ Tát thì lấy sáu ba-la-mật làm thể. Đại lược là như vậy.

“Lực như vậy” là nói Tam thừa dùng sức dạy dỗ dẫn dắt. “Chỗ làm như vậy” là nói giáo pháp Tam thừa có chỗ tạo tác.

Phần nói rộng về cảnh giới của thật trí đã lược bớt để không trùng lắp rườm rà. Thật cảnh có bốn pháp nhất, dùng bốn pháp để nói rộng một lý.[75] “Nhân như vậy” là cảnh sinh ra sự nhận hiểu chân thật là nguyên nhân, muôn điều lành đều hướng đến quả. “Duyên như vậy” là từ cảnh khởi phát thật trí làm duyên, dùng chỗ nhân hướng về làm quả, quả tương ứng với nhân là báo.

Hai luận đề cuối[76] là tóm kết cả quyền và thật. Phần “từ gốc đến ngọn” là tóm kết về quyền trí, trong đó “từ gốc” là nêu “hình tướng”, “đến ngọn” là nêu “hành vi”. Phần sau “rốt ráo bình đẳng” là tóm kết về thật trí, trong đó “rốt ráo” là tóm kết về nhân, “bình đẳng” là tóm kết về báo.

Các luận sư phái Địa luận ở phương bắc giải thích rằng: “Giáo pháp Tam thừa đều có đủ tướng tánh, quả báo, gốc ngọn.” Ngài Pháp Dao nói rằng: “Những tướng tánh như thế được giải thích ở đây là công năng soi chiếu của trí tuệ.” Tam thừa khởi lên khác biệt là tướng, rốt lại thành như vậy là tánh. Phát tâm là thể tùy theo tâm, sức kham nhẫn là lực. Chỗ tạo thành của lực, đó là tác. Do tạo tác chiêu cảm quả, đó là nhân. Nhân là nói việc đã thành, những gì thúc đẩy [việc ấy] là duyên. Duyên là nói lực [tác động từ] bên ngoài, rốt cùng tạo thành quả. [Quả] tương ứng với nhân là báo. Tướng là gốc, [là căn bản]; báo là ngọn, [là quả phát sinh]. Hết thảy đều đồng nhất đi đến cứu cánh rốt ráo.

“Như vậy”, là nói sự việc đúng thật như vậy, không sai khác. Ngài Huyền Sướng[77] lập luận chỉ căn cứ nơi quả vị Phật [không xét đến Tam thừa quyền biến]. Nói về tướng thì Thập lực [của Phật], mỗi lực đều có tướng mạo. Nói về tánh thì từ nơi các căn, mỗi căn đều có sự huân tập. Tập tánh không sửa đổi gọi là tánh, là cảnh giới của cả lực và tánh.

Nói về thể thì do căn tánh chẳng đồng nhau nên chỗ ham muốn cũng khác biệt. Vì nói lên chỗ trói buộc công năng của tâm nên lấy thể làm tên. Đây là cảnh giới [rốt ráo] của dục lực.

Lực là tên gọi khác của định. Các pháp thần thông biến hóa chuyển động, nếu không có định không thể vận dụng. Điều phục tâm, chế phục vọng loạn, nếu không có định thì không thể [đạt đến] vắng lặng. Cho nên lực là cảnh giới [rốt ráo] của thiền định.

Tạo tác, đó là nghiệp, tức là cảnh giới của nghiệp lực. Nói về nhân thì tu đạo là nhân có thể đưa đến Niết-bàn, tức đến chỗ cảnh giới [rốt ráo] của đạo lực. Duyên, nghĩa là cảnh giới duyên theo [nghiệp] lực đã tạo trong đời trước. Quả, nghĩa là dựa vào nhân tạo ra hiện nay mà chiêu cảm quả trong tương lai, là cảnh giới [rốt ráo] của lực thiên nhãn [có thể nhìn thấy]. Báo, nghĩa là báo ứng hiện nay dựa trên nhân đã tạo trong quá khứ, là cảnh giới [rốt ráo] của lậu tận lực. Cho nên nói báo tức là lậu tận.

Bản là tướng, [là gốc]; mạt là báo, [là ngọn]. Nhìn chung đều thuộc về cảnh giới của xứ phi xứ lực.

Những cách giải thích như trên tuy chẳng phải là không nhất quán, nhưng xét về lý thì không thông suốt, xét về văn nghĩa thì không thỏa đáng. Xét về văn nghĩa không thỏa đáng vì kinh văn đã nói “các pháp” thì pháp nào lại chẳng bao gồm, lẽ nào lại chỉ dừng ở [các pháp thuộc] Tam thừa? Xét về lý không thông suốt, vì kinh văn nói “thật tướng” thì có nơi nào mà không tồn tại, đâu chỉ ở nơi thể của nhân quả? Nếu thật trí chỉ riêng ở nơi Phật, thì Phật ấy hẳn không có quyền trí. Nếu quyền trí chỉ riêng ở nơi Tam thừa, thì Tam thừa hẳn vĩnh viễn không bao giờ có thật trí. Nếu nói [giáo pháp] Tam thừa chỉ có 5 [câu “như thị”][78] thì pháp quyền không đầy đủ, lại hoàn toàn không có pháp thật. Nếu nói 4 câu [như thị][79] chỉ ở nơi Phật, thì Phật hoàn toàn không có quyền, pháp thật lại cũng không đầy đủ. Ý nghĩa như vậy không liên quan gì đến phàm phu, nên kinh văn nói “các pháp” là không thể vận dụng. [Như vậy là] thật tướng không biến hiện khắp, mà ngoài thật tướng lại còn riêng có pháp khác.

Do có những lỗi như thế nên [cách giải thích trên] không vận dụng được.

Trong [Pháp hoa] luận thích, quyển 34, có giảng rõ rằng hết thảy các pháp, mỗi pháp đều có 9 loại [tính chất].

- Thứ nhất là mỗi pháp đều có thể riêng.

- Thứ hai là mỗi pháp đều có pháp riêng, như mắt và tai tuy có điểm giống nhau là đều do bốn đại hợp thành, nhưng mắt thì nhìn thấy, còn tai không thể thấy; như lửa thì có sức nóng là pháp riêng mà không thể thấm ướt...

- Thứ ba là mỗi pháp đều có năng lực riêng, như lửa lấy sức thiêu đốt làm năng lực, nước lấy sức thấm ướt làm năng lực.

- Thứ tư là mỗi pháp đều có nhân [tạo thành].

- Thứ năm là mỗi pháp đều có duyên.

- Thứ sáu là mỗi pháp đều có quả.

- Thứ bảy là mỗi pháp đều có tánh.

- Thứ tám là mỗi pháp đều có giới hạn ngăn ngại.

- Thứ chín là mỗi pháp đều có phương tiện khai thông.

Ngài Đạt-ma-uất-đa[80] đem 9 loại [tính chất này của các pháp] để so sánh tương hợp với 10 “như” trong kinh Pháp hoa.

Mỗi pháp đều có pháp riêng, tức là hợp với “chỗ làm như vậy” trong kinh Pháp hoa.

Mỗi pháp đều có giới hạn ngăn ngại, tức là hợp với “tướng như vậy” trong kinh Pháp hoa.

Mỗi pháp đều có quả, tức là hợp với “quả như vậy, báo như vậy” trong kinh Pháp hoa.

Mỗi pháp đều có phương tiện khai thông, tức là hợp với “từ gốc đến ngọn rốt ráo bình đẳng như vậy” trong kinh Pháp hoa.

Những pháp còn lại đều cùng tên [với các “như vậy” trong kinh] nên có thể nhận hiểu được.

Nay giải thích rõ văn cảnh này chia làm hai phần. Phần đầu có 1 câu, lược nêu chung về quyền thật, rõ ràng như ý văn. Phần tiếp theo 10 câu, giảng rộng về tướng của quyền thật. Việc giải thích sẽ chia thành 4 ý. Thứ nhất là vận dụng 10 pháp giới để giải thích, thứ hai là vận dụng Phật pháp giới để giải thích, thứ ba là vận dụng ý nghĩa khai hợp[81] để giải thích và thứ tư là vận dụng theo giai vị để giải thích.

[Trước hết,] kinh văn dùng “các pháp” nên vận dụng 10 pháp giới để giải thích. Kinh văn nói “Pháp mà Phật đã thành tựu cao tột khó hiểu ít có nhất” nên vận dụng Phật pháp giới để giải thích. Kinh văn [phần sau] nói “thôi thôi không nên nói, pháp Phật khó nghĩ bàn”[82] nên vận dụng ý nghĩa khai hợp để giải thích. Kinh văn nói “chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến chỗ rốt ráo” nên vận dụng các giai vị để giải thích.

________________________________________________

CHÚ THÍCH


[1]Văn Cú dùng “四種 - tứ chủng” để chỉ “四種方便 - tứ chủng phương tiện”, bao gồm tấn thú phương tiện (進趣方便), quyền xảo phương tiện (權巧方便), thí vi phương tiện (施為方便) và tập thành phương tiện (集成方便).

[2] Năm thời theo tông Thiên Thai bao gồm: 1. Thời Hoa nghiêm, sau khi đức Phật thành đạo, ngài giảng kinh Hoa nghiêm trong vòng 21 ngày cho hàng Bồ Tát. 2. Thời Lộc uyển: Sau khi giảng kinh Hoa nghiêm, những người có căn cơ thấp không thể hiểu, nên đức Phật nói pháp cho hàng cho hàng căn cơ thấp tại vườn Lộc uyển gần thành Ba-la-nại. Thời kỳ này là 12 năm, thuyết kinh A-hàm, nên cũng gọi là thời A-hàm; 3. Thời Phương đẳng, sơ khởi Đại thừa, như các kinh Duy-ma-cật, kinh Kim Quang Minh và kinh Thắng Man, chuyển từ Tiểu thừa sang Đại thừa, thời kì này là 8 năm; 4. Thời Bát-nhã: Đức Phật giảng kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa suốt 22 năm để giác ngộ chúng sinh về Tánh không; 5. Thời Pháp hoa, Niết-bàn: Đức Phật nói rõ mục tiêu tối hậu của giáo lý Tiểu thừa và Đại thừa đều là giải thoát, nên giáo pháp nầy còn gọi là Nhất thừa giáo, khẳng định sự hiện hữu của Phật tánh trong mỗi chúng sinh.

[3]Kinh Tịnh Danh tức kinh Duy-ma-cật. Kinh Tư Ích tức kinh Tư Ích Phạm thiên sở vấn. Thời kỳ được dẫn đây được gọi là thời Phương đẳng.

[4]Tam tam (三三), tức chỉ tam giáo (三教), tam nhân (三人) và tam cơ (三機) theo giáo lý tông Thiên Thai. Tứ nhất (四一), tức chỉ giáo nhất (教一), hành nhất (行一), nhân nhất (人一) và lý nhất (理一). Các ý nghĩa này sẽ được giảng giải ở phần sau.

[5]Nguyên tác dùng bán mãn (半滿), tức là bán tự (半字) và mãn tự (滿字), được dùng trong kinh Đại Bát Niết-bàn để chỉ giáo pháp quyền thừa chưa rốt ráo, không liễu nghĩa (bán tự - nửa chữ) và giáo pháp thật nghĩa, rốt ráo, liễu nghĩa (mãn tự - trọn chữ).

[6]Đây là nói loại cân xách (cân đòn) ngày xưa, dùng quả cân đưa ra vào trên một đòn cân dài có khắc vạch để định trọng lượng vật muốn cân.

[7] Chỉ tục đế tức chân lý tương đối và chân đế tức chân lý tuyệt đối.

[8] Ba môn được nói đến ở đây có lẽ là từ bi môn, trí tuệ môn và phương tiện môn.

[9] Năm thừa (ngũ thừa), chỉ Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa.

[10] Ba giả: tức pháp giả, thụ giả và danh giả. Pháp giả là quán thấy sắc ấm hư giả, không thật. Thụ giả là quán thấy thụ, tưởng, hành, thức, bốn ấm đều hư giả, không thật. Danh giả là cùng lúc quán thấy cả pháp và thụ đều hư giả không thật.

[11] Năm thời thuyết giáo: tức lý thuyết phân chia sự thuyết pháp của đức Phật thành 5 thời kỳ: 1. Hoa nghiêm, 2. Lộc uyển, 3. Phương đẳng, 4. Bát-nhã, 5. Pháp hoa, Niết-bàn.

[12] Nguyên tác dùng Thiên Thân (天親), chỉ ngài Thế Thân (世親). Trong Pháp hoa Kinh Luận, ngài Thế Thân nêu 17 tên gọi khác nhau của kinh Pháp hoa, nhằm hiển bày ý nghĩa của kinh, đó là: 1. Vô lượng nghĩa kinh, 2. Tối thắng Tu-đa-la, 3. Đại phương quảng kinh, 4. Giáo Bồ Tát pháp, 5. Nhất thiết chư Phật sở hộ niệm, 6. Nhất thiết chư Phật bí mật pháp, 7. Nhất thiết chư Phật chi tạng, 8. Nhất thiết chư Phật bí mật xứ, 9. Năng sinh nhất thiết chư Phật kinh, 10. Nhất thiết chư Phật chi đạo tràng, 11. Nhất thiết chư Phật sở chuyển pháp luân, 12. Nhất thiết chư Phật kiên cố xá-lợi, 13. Nhất thiết chư Phật Đại xảo phương tiện kinh, 14. Thuyết nhất thừa kinh, 15. Đệ nhất nghĩa trụ, 16. Diệu pháp liên hoa kinh, 17. Tối thượng pháp môn.

[13]Nguyên tác dùng “四句 - tứ cú”, nghĩa đen là bốn câu, tức là bốn câu nêu ra bốn luận đề, luận thuyết như được nói tiếp theo sau.

[14]Đại kinh ở đây chỉ kinh Đại Bát Niết-bàn. Bốn câu (tứ cú) ở đây là nói bốn luận thuyết về hiện hữu gồm: hiện hữu là có, là không, vừa có vừa không và chẳng phải có chẳng phải không.

[15] Trong nguyên tác đến đây là hết quyển 3, phần thượng, bắt đầu phần hạ.

[16] Nguyên văn nói “何所不破 - hà sở bất phá”. Trong sự tranh biện, “破 - phá” tức là chỉ ra chỗ không hợp lý của một luận thuyết. “不破 - Bất phá” là không chỉ ra được chỗ không hợp lý. “何所 - Hà sở” là cách dùng tương tự như “何處 - hà xứ”, nghĩa là “chỗ nào, điểm nào”. Ở đây đặt câu hỏi “có điểm nào mà không chỉ ra được chỗ không hợp lý”, cho nên hàm ý là tất cả đều vô lý, đều “có thể phá”.

[17] Nguyên tác dùng “樔窟 - sào quật”, nghĩa đen là “hang ổ, sào huyệt”, tức là nơi ẩn nấp để phát xuất, từ đó sinh ra, cho nên hiểu là nền tảng căn bản để phát sinh luận thuyết này.

[18] Nguyên tác dùng “nhị quán” (hai pháp quán), tức là quán không và quán giả. Hai pháp quán này dẫn đến pháp quán thứ ba là quán trung, tức là thể nhập Trung đạo.

[19]Nguyên văn dùng “半字 - bán tự” (nửa chữ) và “滿字 - mãn tự” (trọn chữ), lấy ý nghĩa theo kinh Đại Bát Niết-bàn để chỉ sự việc, ý nghĩa chưa rốt ráo (bán tự) và sự việc, ý nghĩa rốt ráo (mãn tự).

[20]Tất đàn (悉檀), phiên âm từ Phạn ngữ là siddhānta, dịch nghĩa là thành tựu. Bốn pháp tất đàn (tứ tất đàn) bao gồm thế giới tất đàn, vị nhân tất đàn, đối trị tất đàn và đệ nhất nghĩa tất đàn. Ba pháp trước được cho là thuộc về thế gian, pháp cuối cùng là xuất thế gian.

[21]Nguyên tác dùng “tứ cú” (bốn câu) để chỉ bốn luận đề, trong trường hợp đang nói ở đây thì có nghĩa là: tất cả đều là quyền, tất cả đều là thật, tất cả vừa là quyền vừa là thật và tất cả đều chẳng phải quyền chẳng phải thật.

[22] Tức là nói việc đức Phật thuyết giảng cho 5 vị tỳ-kheo thuộc nhóm Kiều-trần-như tại vườn Lộc uyển.

[23] Ở đây trích dẫn từ phẩm Phương tiện: “所以者何?佛曾親近百千萬億 無數諸佛,盡行諸佛無量道法,勇猛精進名稱普聞 - Sở dĩ giả hà? Phật tằng thân cận bá thiên vạn ức vô số chư Phật, tận hành chư Phật vô lượng đạo pháp, dũng mãnh tinh tấn danh xưng phổ văn.” ĐCT, T9, kinh số, 262, trang 5b, d.27 - 29.

[24] Câu kinh được trích dẫn là: “成就甚深未曾有法,隨宜所說意趣難解 - Thành tựu thậm thâm vị tằng hữu pháp, tùy nghi sở thuyết ý thú nan giải.” Kinh văn đã dẫn, trang 5, từ tờ b, d.29 đến tờ c, d.1.

[25] Trọn câu kinh này là: “種種因緣,種種譬喻,廣演言教無數方便,引導眾生令離諸著 - Chủng chủng nhân duyên, chủng chủng thí dụ, quảng diễn ngôn giáo vô số phương tiện, dẫn đạo chúng sinh linh ly chư trước.” Kinh văn đã dẫn, trang 5c, d.2 - 3.

[26] Câu này lược dẫn ý kinh, không phải trích dẫn nguyên văn.

[27] Năm đời Phật: chỉ đến chư Phật trong mười phương, chư Phật quá khứ, chư Phật vị lai, chư Phật hiện tại và Phật Thích-ca Mâu-ni.

[28] Tức là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu-ba-đề-xá (妙法蓮華經憂波提舍) là do Bồ Tát Thế Thân soạn, 2 quyển, ĐCT, T26, 1519.

[29] Nguyên văn câu kinh trích dẫn này là: “如來方便知見波羅蜜皆已具足。舍利弗!如來知見,廣大深遠,無量無礙,力,無所畏,禪定,解脫三昧,深入無際 - Như Lai phương tiện, tri kiến, ba-la-mật giai dĩ cụ túc. Xá-lợi-phất! Như Lai tri kiến, quảng đại thâm viễn, vô lượng vô ngại, lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát tam-muội, thâm nhập vô tế.”

[30]Hai bậc thánh: Kinh Pháp hoa do Phật thuyết, bản luận Pháp hoa do Bồ Tát Thế Thân soạn, cho nên nói là hai bậc thánh.

[31] Nhị đế ở đây chỉ giả đế (hết thảy các pháp đều giả tạm, không thật) và không đế (hết thảy các pháp bản chất đều là không). Tùy trí là dựa theo trí tuệ, khác với tùy tình là dựa theo tình thức.

[32] Tức là nói gộp hai pháp hóa tha thành một pháp quyền, hai pháp tự hành thành một pháp thật, thành ra hai pháp tự tha quyền thật, như phần trước đã giải thích.

[33] Nguyên tác là “滿字 - mãn tự”, lấy ý từ kinh Đại Bát Niết-bàn để chỉ giáo pháp viên mãn rốt ráo, giống như chữ viết trọn vẹn đủ nghĩa. Phần sau dùng “半字 - bán tự” cũng với ý so sánh tương tự, để chỉ giáo pháp quyền thừa, chưa rốt ráo.

[34] Nguyên tác dùng “生身菩薩 - sinh thân Bồ Tát”, nghĩa là vị Bồ Tát ngay trong đời hiện tại đang tu học pháp này, chưa tái sinh vào đời khác.

[35] Nguyên tác dùng “本地 - bản địa” và “垂迹 - thùy tích”. Bản là gốc, là căn bản, bản địa là nhìn từ chân thật rốt ráo vốn có. Thùy tích là sự thương xót thị hiện của chư Phật nhằm mục đích độ sinh, vốn không phải là hình tướng chân thật rốt ráo.

[36] Nguyên tác dùng “兼帶等說 - kiêm đái đẳng thuyết” (thuyết các pháp kiêm, đái v.v.), tức là chỉ bốn giai đoạn thuyết pháp của đức Phật được tông Thiên Thai gọi là “兼但對帶 - kiêm, đãn, đối, đái”, tương ứng với bốn thời kỳ: Hoa nghiêm, A-hàm, Phương đẳng, Bát-nhã. Giáo pháp Hoa nghiêm bao gồm cả Viên giáo và Biệt giáo nên gọi là “兼 - kiêm” (bao gồm). Giáo pháp A-hàm chỉ riêng của Tạng giáo nên gọi là “但 -đãn” (chỉ có). Giáo pháp Phương đẳng trình bày cả Tạng, Thông, Biệt, Viên đối chiếu so sánh nên gọi là “對 - đối” (đối chiếu). Giáo pháp Bát-nhã thuyết giảng cho Viên giáo là chính nhưng kèm theo cả Tạng, Thông, Biệt nên gọi là “帶 - đái” (mang theo). Giáo pháp Pháp hoa vượt ngoài cả “kiêm, đãn, đối, đái”, gọi là Diệu Pháp.

[37] Tức là thời điểm thuyết giảng kinh Pháp hoa, đức Phật báo trước sắp nhập Niết-bàn.

[38] Nguyên tác dùng Thân tử, tên khác của ngài Xá-lợi-phất.

[39]Nguyên tác dùng “一被三折 - nhất bị tam chiết”, chỉ việc ngài Xá-lợi-phất, trong kinh Duy-ma-cật sở thuyết, vì tạo duyên thuyết pháp mà một lần bị Phật quở trách (nhất bị), ba lần bị cư sĩ Duy-ma-cật bắt bẻ (tam chiết). Trong phẩm Phật quốc, ngài nương oai thần Phật khởi lên ý nghĩ rằng cõi Phật của đức Phật Thích-ca không thanh tịnh, nhân đó Phật quở trách và thuyết dạy ý nghĩa “tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh”. Trong phẩm Đệ tử, ngài đang ngồi thiền thì bị cư sĩ Duy-ma-cật bắt bẻ để nói ra ý nghĩa ngồi thiền theo Đại thừa. Trong phẩm Bất tư nghị, ngài khởi ý nghĩ về chỗ ngồi của đại chúng, liền bị Duy-ma-cật bắt bẻ để thuyết ra thời pháp về ý nghĩa cầu pháp. Cuối cùng, trong phẩm Hương Tích Phật, ngài khởi lên ý nghĩ về việc thọ trai của đại chúng, liền bị Duy-ma-cật bắt bẻ để nói ra ý nghĩa của việc nghe pháp. “Nhất bị tam chiết” như vậy đều là sự thị hiện để khơi mở giáo pháp, làm lợi ích chúng sinh.

[40]Tức là đến hết khổ kệ: “佛名聞十方,廣饒益眾生,一切具善根,以助無上心。 - Phật danh văn thập phương, quảng nhiêu ích chúng sinh, nhất thiết cụ thiện căn, dĩ trợ Vô thượng tâm.” (ĐCT, T9, 262, tr.44c, d.17-18.)

[41]Tức là đến hết d.27, tr.30b, kinh văn đã dẫn.

[42]Tức là từ chỗ khởi đầu phẩm Phương tiện, tr.5b, d.25, kinh văn đã dẫn.

[43]Nguyên tác là “開三顯一 - khai tam hiển nhất”, có nghĩa là khai trừ, phá bỏ đi nhận thức trước đây về ba thừa để hiển lộ nhận thức mới về một thừa duy nhất là Phật thừa, chỉ rõ các giáo pháp trước đây là quyền thuyết, chưa rốt ráo.

[44]Trang 7a, d.5, kinh văn đã dẫn.

[45]Trang 6a, d.28, kinh văn đã dẫn.

[46]Nguyên tác dùng “橫問 - hoành vấn” và “豎聞 - thụ văn”. Cách dùng của hoành và thụ trước đây đã giải thích. Hoành chỉ việc đương thời, xảy ra trong cùng một thời gian. Thụ (hay tung) chỉ việc xảy ra theo trình tự thời gian, có trước có sau.

[47] Các pháp khai, phế, hội, phú (開廢會覆): Khai là khai trừ, dứt bỏ, ở đây là trừ bỏ, vì trước đây chưa hiểu rõ nên thiết lập, sử dụng. Phế là phế bỏ, vì trước đây quyền biến nên tạm dùng trong giai đoạn, nay phế bỏ để tu tập tiến lên. Hội là hội nhập, nhận hiểu để thể nhập, ở đây là thể nhập vào lẽ chân thật rốt ráo mà trước đây chưa từng nhận hiểu. Phú là che lấp, che khuất đi, vì nay không thích hợp để dùng đến nữa. Pháp hoa Huyền Nghĩa (quyển 11) giảng về mười pháp “khai, phế, hội” trong cả Bản môn và Tích môn. Phần Văn Cú ở đây đang nói về Tích môn nên 10 pháp đó là: 1. Phá tam hiển nhất (破三顯一), 2. Phế tam hiển nhất (廢三顯一), 3. Khai tam hiển nhất (開三顯一), 4. Hội tam hiển nhất (會三顯一), 5. Trụ nhất hiển nhất (住一顯一), 6. Trụ tam hiển nhất (住三顯一), 7. Trụ phi tam phi nhất hiển nhất (住非三非一顯一), 8. Phú tam hiển nhất (覆三顯一), 9. Trụ tam dụng nhất (住三用一) và 10. Trụ nhất dụng tam (住一用三).

[48]Tức là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luận Ưu-ba-đề-xá (妙法蓮華經論優波提舍) của Bồ Tát Bà-tẩu-bàn-đậu (Vasubandhu - 婆藪般豆) tức Bồ Tát Thế Thân (世親) hay còn gọi là Thiên Thân (天親). (ĐCT, T26, 1520)

[49]Nguyên tác câu này trong luận Pháp hoa là “以如實智觀 - dĩ như thật trí quán”. Văn Cú trích dẫn thiếu chữ “以 - dĩ”. Chúng tôi dịch theo nguyên tác.

[50]Văn Cú dùng “跏趺坐 - già phu tọa”, tức là nói tắt của “結跏趺坐 - kết già phu tọa”, chỉ thế ngồi tọa thiền còn được gọi là liên hoa tọa (蓮花坐), cũng gọi là ngồi kết già hay ngồi xếp bằng, hai chân xếp vào đặt trên hai bắp vế, lưng thẳng, hai bàn tay để ngửa chồng lên nhau.

[51]Tức là ba loại tâm Bồ-đề, gồm trực tâm (tâm ngay thẳng chính trực), thâm tâm (tâm sâu vững, tin sâu Tam bảo) và đại bi tâm (tâm bi mẫn, thương xót tất cả chúng sanh).

[52] Chín lỗ thải chất bất tịnh là 2 lỗ mắt, 2 lỗ tai, 2 lỗ mũi, 1 lỗ miệng và 2 lỗ đại, tiểu tiện. Trong số này có 7 lỗ ở nơi mặt.

[53] Tức là trong một tâm có đủ ba trí: Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí. Nhất thiết trí có ở hàng Nhị thừa, Đạo chủng trí có ở hàng Bồ Tát và Nhất thiết chủng trí thì chỉ có chư Phật mới đạt được.

[54] Bảy giai vị phương tiện ở đây chỉ 1. Thanh văn, 2. Duyên giác (của Tạng giáo), 3. Thanh văn, 4. Duyên giác, 5. Bồ Tát (của Thông giáo), 6. Bồ Tát của Biệt giáo và 7. Bồ Tát của Viên giáo.

[55]Nguyên tác dùng “tứ môn” để chỉ hữu môn, không môn, diệc hữu diệc không môn và phi hữu phi không môn.

[56]Bảy loại phương tiện trong tông Thiên Thai có hai nghĩa. Thứ nhất là: 1. Nhân thừa, 2. Thiên thừa, 3. Thanh văn thừa, 4. Duyên giác thừa, 5. Bồ Tát Thừa của Tạng giáo, 6. Bồ Tát Thừa của Thông giáo và 7. Bồ Tát Thừa của Biệt giáo. Thứ hai là: 1. Thanh văn của Tạng giáo, 2. Duyên giác của Tạng giáo, 3. Thanh văn của Thông giáo, 4. Duyên giác của Thông giáo, 5. Bồ Tát của Thông giáo, 6. Bồ Tát của Biệt giáo, 7. Bồ Tát của Viên giáo. Đức Phật dùng các thừa này để dẫn dắt chúng sinh đến chỗ giải thoát rốt ráo nên gọi là phương tiện.

[57]Tức Thập thiện nghiệp, cũng gọi là Mười pháp lành, Thập thiện đạo, Thập thiện Chánh pháp, bao gồm các pháp là: 1. Không sát sinh, thường làm việc tha thứ và phóng sinh. 2. Không trộm cắp, thường tu hạnh bố thí, giúp đỡ, san sẻ với mọi người. 3. Không tà dâm, luôn giữ lòng chung thủy một vợ một chồng. 4. Không nói dối, luôn nói lời chân thật. 5. Không nói lời trau chuốt, thô tục, thường nói những lời có ý nghĩa, có ích lợi. 6. Không nói đâm thọc, gây chia rẽ, thường nói những lời tạo ra sự đoàn kết, thương yêu nhau. 7. Không nói lời độc ác, gây tổn hại, thường nói những lời ôn hòa, nhu thuận. 8. Không tham lam, luôn quán xét rằng mọi thứ của cải vật chất đều chỉ là giả tạm, không thường tồn. 9. Không sân khuể, thường tu tập hạnh từ bi, nhẫn nhục. 10. Không ngu mê, tà kiến, thường sáng suốt tu tập theo chánh kiến. Tu tập, thực hành mười nghiệp lành này thì xa lìa được ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

[58]Tức là nói những chúng sinh này nhờ tu nghiệp thanh tịnh nên không còn phải tái sinh vào Dục giới, chỉ sinh vào Sắc giới hoặc Vô sắc giới.

[59] Nguyên tác dùng “無若干 - vô nhược can”. Chữ “nhược can” nghĩa là “bao nhiêu”, dùng chỉ một số lượng, hạn lượng nào đó. Vô nhược can nghĩa là không có số lượng, không có hạn lượng, không thể suy lường, cũng không có giới hạn cuối cùng.

[60]Tức bốn tâm từ, bi, hỷ và xả, được gọi chung là bốn tâm vô lượng.

[61]Nguyên tác dùng “如甲上土方地 - như giáp thượng độ phương địa”. Chữ giáp, cũng thường dùng “指甲 - chỉ giáp” hay “爪甲 - trảo giáp”, chỉ móng tay. Giáp thượng độ là chút đất dính trong móng tay, ý nói rất ít, rất nhỏ; “phương địa” là so với cả cõi đất, mặt đất.

[62]Chỗ này Văn Cú xen vào giải thích chữ “鄭重 - trịnh trọng” nhưng điều hơi lạ là chúng ta không thấy hai chữ này xuất hiện trong kinh văn. Câu văn trong Văn Cú là: “鄭重者表殷勤也。 - Trịnh trọng giả, biểu ân cần giả.”

[63]Văn Cú trích câu kinh này thành “如來能善分別, 巧說諸法 - Như Lai năng thiện phân biệt, xảo thuyết chư pháp”, có lẽ chỉ chép lại theo ý kinh nên không chính xác với kinh văn. Chúng tôi chuyển dịch theo đúng kinh văn.

[64]Nguyên văn đoạn kinh văn này là: “又覩諸佛聖主師子, 演說經典微妙第一。其聲清淨,出柔軟音 - Hựu đổ chư Phật Thánh chủ Sư tử, diễn thuyết kinh điển vi diệu đệ nhất. Kỳ thanh thanh tịnh, xuất nhu nhuyễn âm.”

[65]Nguyên văn câu kinh này là: “聞佛柔軟音,深遠甚微妙 - Văn Phật nhu nhuyễn âm, thâm viễn thậm vi diệu.”

[66]Văn Cú Ký nói rằng Ấn sư là đệ tử của Long sư, Long sư là đệ tử của ngài Tuệ Viễn (334-416), chúng tôi vẫn chưa rõ đây là vị nào. Có một Ấn sư khác là ngài Tông Ấn, đời Tống, nhưng về niên đại cách xa thời điểm soạn Pháp hoa văn cú nên không thể là vị này.

[67]Văn Cú chép là “就佛成就 - tựu Phật thành tựu”, chúng tôi đã điều chỉnh chính xác theo kinh văn.

[68]Câu này hàm ý là không có giới hạn về không gian.

[69]Câu này hàm ý là không có giới hạn về thời gian.

[70]Văn Cú Ký cho rằng ở đây dùng chữ “乃至 - nãi chí” (cho đến) là vì lược bớt hai cụm từ ở giữa, là “第一 - đệ nhất” và “希有 - hy hữu”. Do vậy, nếu ngầm hiểu đầy đủ thì có thêm hai ý ở đây là “đệ nhất trái ngược với không phải đệ nhất” và “hy hữu trái ngược với không phải hy hữu”.

[71]Nguyên tác dùng “三三 - tam tam”, tức chỉ tam giáo (三教), tam nhân (三人) và tam cơ (三機).

[72]Nguyên tác dùng “四一 - tứ nhất”, tức là chỉ giáo nhất (教一), hành nhất (行一), nhân nhất (人一) và lý nhất (理一).

[73]Tức là nói đoạn kinh văn này: “所謂諸法如是相, 如是性, 如是體, 如是力, 如是作, 如是因, 如是緣, 如是果, 如是報 - Sở vị chư pháp như thị tướng, như thị tính, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo.” Nguyên tác nói “cửu cú” (9 câu) nhưng thật ra là chín luận đề “như thị” nêu lên trong câu này.

[74]Nguyên tác dùng “八音 - bát âm”, chỉ tám tính chất trong âm thanh thuyết pháp của Phật, bao gồm: 1. Tiếng rất tốt. Cũng gọi là tiếng êm tai. Nghĩa là tất cả các trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát v.v. tuy đều có tiếng tốt, nhưng chưa đạt đến cực điểm. Duy có tiếng nói của đức Phật là có khả năng làm cho người nghe không chán, được vào đạo nhiệm mầu. 2. Tiếng êm dịu. Nghĩa là tâm đức Phật hiền lành, cho nên tiếng Ngài nói ra rất êm dịu, thuận với tình cảm của mọi người, có thể khiến người nghe bỏ tính ương ngạnh, bướng bỉnh. 3. Tiếng hòa nhã. Nghĩa là đức Phật thường giữ đạo trung chính, vì thế tiếng Ngài nói ra hòa nhã nhẹ nhàng, làm cho người nghe cảm thấy thoải mái. 4. Tiếng trí tuệ tôn quí. Cũng gọi là tiếng vào lòng. Nghĩa là đức của Phật ở ngôi tôn quí, tâm trí tuệ sáng láng, tiếng Ngài nói ra khiến người nghe tôn trọng và trí hiểu biết được mở mang. 5. Không là tiếng đàn bà. Nghĩa là đức Phật ở trong định Thủ-lăng-nghiêm, có đức đại hùng, cho nên tiếng Ngài nói ra khiến tất cả người nghe đều kính và sợ, các ma trời, ngoại đạo đều qui phục. 6. Tiếng không lầm. Cũng gọi là tiếng rõ ràng. Nghĩa là trí của Phật tròn sáng, soi rọi không bị ngăn ngại, cho nên tiếng Ngài nói ra sâu xa chân thật, không có sai sót, khiến mọi người nghe đều được thấy hiểu ngay thẳng. 7. Tiếng sâu xa. Nghĩa là trí tuệ của Phật sâu thẳm, hành vị cao tột, vì thế tiếng Ngài nói ra như từ gần mà xa, suốt đến mười phương, khiến tiếng nói gần mà chẳng to, xa mà không nhỏ, đều hiểu được lý sâu xa thăm thẳm. 8. Tiếng không hết. Nghĩa là nguyện hành của đức Như Lai vô tận, ở trong pháp tạng vô tận, cho nên tiếng Ngài nói ra khiến người nghe mà tìm nghĩa của tiếng ấy thì vô cùng, vô tận.

[75]Nguyên tác dùng tứ nhất (四一), tức chỉ giáo nhất (教一), hành nhất (行一), nhân nhất (人一) và lý nhất (理一).

[76]Nguyên tác dùng “hậu nhị cú” (hai câu sau) nhưng thật ra là chỉ câu “如是本末究竟等 - như thị bản mạt cứu cánh đẳng” và muốn nói trong đó có hai phần: “như thị bản mạt” và “cứu cánh đẳng”.

[77] Văn Cú dùng “暢師 - Sướng sư”, tức chỉ ngài Huyền Sướng (416-484), họ Triệu, người Kim thành, Hà Tây (thuộc huyện Hoa, tỉnh Thiểm tây). Khi mới xuất gia hiệu là Tuệ Trí, sau theo học ngài Huyền Cao mới đổi hiệu là Huyền Sướng.

[78]Tức là nói các nghĩa “như thị tướng, như thị tính, như thị thể, như thị lực, như thị tác”.

[79]Tức là nói các nghĩa “như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo”.

[80]Đạt-ma-uất-đa (達磨欝多), phiên âm từ Phạn ngữ Dharmatrāta, cũng đọc là Đạt-ma-uất-đa-la (達磨欝多羅), nhưng thường gặp hơn là Đạt-ma-đa-la (達磨多羅), dịch ý là Pháp Cứu, Pháp Thượng. Ngài là Luận sư đã soạn bộ Tạp A-tỳ-đàm tâm luận (雜阿毘曇心論), 11 quyển, để giải thích A-tỳ-đàm tâm luận (阿毘曇心論), 4 quyển, của ngài Pháp Thắng.

[81]Nguyên tác dùng “離合 - ly hợp”, cũng đồng nghĩa như trong phần giảng giải dùng “開合 - khai hợp”. Chúng tôi dùng “khai hợp” ở đây để nhất quán, dễ hiểu hơn.

[82]Dẫn phần kệ tụng về sau trong kinh Pháp hoa: “止止不須說,我法妙難思。- Chỉ chỉ bất tu thuyết, ngã pháp diệu nan tư.”

    « Xem chương trước «      « Sách này có 11 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Rộng mở tâm hồn


An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự giết hại


Dưới cội Bồ-đề


Các tông phái đạo Phật

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.170 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...