“Đại chúng ấy gặp việc chưa từng có, hoan hỉ chắp tay”Tiếp đến giải thích về điềm lành “trong lòng đại chúng hoan hỷ”. Đại chúng thấy trời mưa hoa, cõi đất chấn động, biết rằng nước pháp cam lộ sắp được rưới xuống nên trong lòng hân hoan tràn ngập vui mừng. Điều này biểu thị một khi căn cơ lớn lao phát khởi sẽ cảm được sự ứng hiện thù thắng.
● Hỏi: Chuyện vui buồn ghét giận là những tình cảm thông thường, sao có thể xem là điềm lành?
● Đáp: Hoa trời mưa xuống làm vui mắt, cõi đất chấn động nên tâm rung động. Kinh Đại Bát Niết-bàn
[1] nói rằng: “Lúc [cõi đất] chấn động có thể làm cho tâm chúng sinh động.” Hoa [trời rơi], đất [chấn động], là những điềm lành bên ngoài. Tâm hoan hỷ là điềm lành bên trong, đây không phải niềm vui thông thường. [Đại chúng] trước đây tuy cũng từng hoan hỷ vui mừng, nhưng không có việc động tâm vui mừng mà vẫn có thể một lòng chiêm ngưỡng Phật. Như vậy sao có thể nói không phải là điềm lành?
Nếu nói sự hoan hỷ này làm động tâm năm ấm thì đó là ý nghĩa trong hai cõi trời người. Nếu nói hoan hỷ làm động tâm vô lậu chân đế thì đó là ý nghĩa theo Tạng giáo và Thông giáo. Nếu [hiểu] sự hoan hỷ rung động ấy tức là tâm giả tạm thì đó là ý nghĩa theo Biệt giáo. Nếu [hiểu] sự hoan hỷ ấy rung động tâm thật tướng thì đó là ý nghĩa thuộc về Viên giáo.
KINH VĂNLúc bấy giờ, đức Phật phóng hào quang từ nơi tướng bạch hào giữa hai chân mày, soi chiếu 18.000 thế giới ở phương đông, không một nơi nào không soi thấu, phía dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ, phía trên chiếu đến cõi trời A-ca-ni-trá.“Lúc bấy giờ, đức Phật phóng hào quang từ nơi tướng bạch hào giữa hai chân mày”
Tiếp theo giảng rõ điềm lành đức Phật phóng hào quang. Đây là biểu thị việc [Phật] tùy theo căn cơ thích hợp mà thiết lập giáo pháp, phá trừ nghi hoặc. Tướng bạch hào (lông trắng) [giữa hai chân mày của Phật] là đầy đủ mọi công đức. Kinh Quán Phật Hải Tam-muội
[2] nói rằng: “Lúc Phật vừa sinh ra, lông trắng ấy kéo ra dài 5 thước.
[3] Khi Phật tu khổ hạnh, [lông trắng ấy kéo ra] dài 14 thước.
[4] Khi thành Phật thì [lông trắng ấy kéo ra] dài 15 thước. Lông ấy trong ngoài đều trong suốt rỗng không như ống ngọc lưu ly trắng thanh tịnh. Từ lúc [Bồ Tát] mới phát tâm cho đến khoảng thời gian tu hành mọi công hạnh, thị hiện đủ mọi tướng mạo, cho đến khi nhập Niết-bàn, tất cả mọi công đức đều hiện ra trong tướng lông trắng này. Lông trắng này nằm giữa hai chân mày. Điều này biểu thị Trung đạo, là [chân] thường. Lông này mềm mại biểu thị [chân] lạc. [Lông ấy rất dài nhưng] duỗi ra cuộn vào dễ dàng không trở ngại là biểu thị [chân] ngã. Lông có màu trắng trong sạch biểu thị [chân] tịnh.
[Đức Phật] phóng hào quang phá tan tăm tối biểu thị Trung đạo sinh trí tuệ. Hào quang chiếu sáng cõi này, cõi khác, biểu thị sự tự giác, giác tha.
Lại nữa, Nhị thừa tuy đạt được Không đế và Giả đế
[5] nhưng chưa rõ được Trung đạo, cũng giống như có hai chân mày nhưng không có tướng bạch hào [ở giữa]. Biệt giáo tuy rõ biết Tam đế [giống như có tướng bạch hào] nhưng không thể trong lông trắng ấy có đủ hết thảy các pháp. Nên biết rằng, từ [ban sơ phát tâm] đến cuối cùng [nhập Niết-bàn], hết thảy sự việc trong pháp giới đều hiển hiện đầy đủ trong tướng bạch hào [của Phật]. Đó là biểu thị ý nghĩa theo Viên giáo.
Ngoài ra, các kinh nói về sự phóng hào quang [của Phật] không giống nhau. Theo kinh Đại phẩm [Bát-nhã] thì từ tướng hình bánh xe có ngàn nan hoa dưới bàn chân Phật lên đến nhục kế trên đỉnh đầu, mỗi một nơi đều phóng ra 60.000 ức tia hào quang, như kinh ấy có nói rộng ra. Kinh Đại Bát Niết-bàn thì nói [đức Phật] phóng quang từ nơi miệng.
[6] Kinh [Pháp hoa] này nói [Phật] phóng hào quang từ tướng bạch hào [giữa hai chân mày]. Nhân duyên thích hợp [của mỗi kinh] đều khác nhau.
Lại nữa, khi hào quang thâu lại cũng chẳng giống nhau. Kinh A-dục Vương
[7] nói: “[Hào quang] thâu lại nhập vào sau lưng [Phật] là muốn ghi việc quá khứ, [hào quang] thâu lại nhập vào phía trước [ngực] là muốn ghi việc vị lai.” Không thấy nói ghi việc hiện tại. Ý riêng tôi cho rằng việc [hào quang] thâu vào hai bên hông [có ý nghĩa] ghi việc hiện tại.
[Hào quang] thâu vào bàn chân là ghi việc địa ngục, thâu vào gót chân là ghi việc súc sinh, thâu vào ngón chân là ghi việc cõi quỷ, thâu vào đầu gối là ghi việc loài người, thâu vào lòng bàn tay trái là ghi việc của Thiết luân vương, thâu vào lòng bàn tay phải là ghi việc của Kim luân vương cùng việc của chư thiên, thâu vào giữa rốn là ghi việc của hàng Thanh văn, thâu vào miệng là ghi việc của hàng Duyên giác, thâu vào nơi tướng bạch hào là ghi việc của hàng Bồ Tát và thâu vào nơi nhục kế [trên đỉnh đầu] là ghi việc của Phật. Nay trong kinh [Pháp hoa] này nói việc phóng hào quang màu trắng nhưng không thấy kinh văn nói việc thâu lại hào quang, là do có sự lược bớt.
Lại cũng giải thích rằng: Phóng hào quang chiếu soi là [biểu thị việc trong] hiện tại, thâu hào quang lại là biểu thị việc của tương lai. Kinh này chủ yếu luận về việc ở cõi này hay cõi kia thì đạo của chư Phật cũng đều như nhau, cho nên nói chủ yếu về việc phóng hào quang. Nếu giảng rõ việc đạo của chư Phật đều giống nhau, [thì chỗ giống nhau đó] tức là khai, thị, ngộ, nhập [tri kiến Phật], tự nhiên đạt được. Nay đã nói việc phóng hào quang là chính thì việc thâu hào quang trở vào là phụ. Do vậy nên [kinh văn] lược bớt không nói hết.
Nếu hiểu rằng thân Phật cao một trượng sáu thước đang phóng quang, đó là theo ý nghĩa của Tạng giáo. Nếu hiểu rằng thân Phật cao một trượng sáu thước cũng là đức Phật Thế Tôn tôn quý nhất đang phóng quang, đó là theo ý nghĩa của Thông giáo. Nếu thấy chỉ có Phật Thế Tôn tôn quý nhất đang phóng quang, đó là ý nghĩa theo Biệt giáo. Nếu thấy thân Phật cao một trượng sáu thước đó cũng tức là pháp thân Tỳ-lô-giá-na đang phóng quang, đó là ý nghĩa theo Viên giáo.
Các nhà cựu giải cho rằng sáu điềm lành ở cõi này mở rộng đến tận cõi trời Hữu đỉnh.
[8] Nay xem trong kinh văn [từ chỗ] nói [hào quang] “soi chiếu 18.000 thế giới ở phương đông” trở đi là nói về điềm lành ở các cõi khác. Cho nên thêm bớt thay đổi [cách hiểu] đều là do con người. Các nhà cựu giải nói rằng, thật ra là [hào quang] chiếu khắp mười phương. Soi chiếu về phương đông là biểu thị nhân quả Nhất thừa vượt hơn hết so với các loại nhân quả khác. 10.000 là số tròn, biểu thị quả vị viên mãn, 8.000 là số khuyết, biểu thị nhân quả chưa trọn đủ. Nếu [hào quang] soi chiếu về phương đông đã có ý nghĩa đầy đủ rồi, thì soi chiếu chín phương khác đâu còn biểu thị được gì nữa?
Nay nêu rõ rằng, phương đông là [ý nghĩa] khởi đầu, biểu thị Thập trụ là các giai vị đầu tiên. Thuyết pháp theo Tích môn là Bồ Tát mang thân xác thịt,
[9] thấy được lý đạo sáng tỏ rõ ràng, thể nhập các giai vị Thập trụ, khai mở tri kiến Phật. Chỉ nêu chỗ ban đầu như vậy tức là rõ biết được khoảng giữa và [các giai vị] về sau. [Kinh văn] nói “không một nơi nào không soi thấu” cho nên biết rằng các phương khác cũng đều như vậy, các giai vị khác cũng đều như vậy.
Nếu thuyết pháp theo Bản môn thì chư Phật bốn phương vân tập là biểu thị pháp thân Bồ Tát tăng trưởng trí tuệ Trung đạo, suy giảm dần biến dịch sinh tử,
[10] bốn giai vị
[11] đều tăng trưởng.
Giải thích theo quán tâm thì 18.000 là ước định về 18 giới.
[12] Nói rộng ra 100 pháp giới có 1.000 tánh tướng, [nhân với 18 giới] tức thành ra 18.000. Những cảnh giới này còn chưa khai mở trí tuệ Phật, nay sắp khai mở, cho nên dùng con số này để biểu thị.
Kinh văn nói “phía dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ, phía trên chiếu đến cõi trời A-ca-ni-trá”, tức là nói 6 pháp giới [phàm phu]. Lại [nói] thấy được chư Phật, Bồ Tát, các vị tỳ-kheo v.v. đó là nói đầy đủ mười pháp giới. Cho nên kinh văn nói là “không một nơi nào không soi thấu”, tức là ý nghĩa này.
Nếu phân kinh văn nói về cõi này thì [điềm lành phóng quang] là tướng thứ sáu, nếu nói về những cõi khác thì [điềm lành phóng quang] này là tướng tổng quát soi chiếu các cõi.
Tiếp đến làm rõ sáu điềm lành trong việc [phóng hào quang] soi chiếu các cõi khác. [Điềm lành] thứ nhất là thấy [hết thảy chúng sinh trong] sáu đường, thứ hai là thấy chư Phật, tức là nói trên thánh dưới phàm hợp thành một cặp. [Điềm lành] thứ ba là nghe Phật thuyết pháp, thứ tư là bốn chúng đạt đạo, tức là nói người và pháp hợp thành một cặp. [Điềm lành] thứ năm là thấy Bồ Tát tu hành công hạnh, thứ sáu là thấy Phật nhập Niết-bàn, tức là nói chỗ khởi đầu và kết thúc hợp thành một cặp.
Nếu có chúng sinh có thể giáo hóa, liền có Phật có khả năng giáo hóa. Có Phật là có thuyết pháp, có thuyết pháp tức là có đệ tử. Có đệ tử tức là có tu hành công hạnh ban đầu. Có tu công hạnh ban đầu tức là có đạt đến kết quả cuối cùng.
Nếu như sáu điềm lành ở cõi này là điềm báo chung tất cả chúng sinh sẽ được tự giác, thì sáu điềm lành ở cõi kia là điềm báo chung tất cả chúng sinh sẽ được giác tha. Lại nữa, sáu điềm lành ở cõi này và cõi kia là biểu thị đạo của Phật ở bất cứ nơi đâu cũng đều như nhau.
KINH VĂNTừ nơi thế giới này thấy hết thảy sáu đường chúng sinh các cõi kia,[13] lại thấy chư Phật hiện tại ở các cõi ấy cùng nghe được những kinh điển giáo pháp mà chư Phật ấy thuyết giảng, cùng thấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, những vị tu hành đạt đạo. Lại thấy các vị Đại Bồ Tát, đủ mọi nhân duyên, đủ mọi tín giải, đủ mọi tướng mạo, thực hành đạo Bồ Tát. Lại thấy chư Phật nhập Niết-bàn; lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết-bàn, đại chúng thu xá-lợi Phật, dựng tháp thờ bằng bảy món báu.Từ câu “từ nơi thế giới này thấy hết thảy sáu đường chúng sinh cõi kia” cho đến “thực hành đạo Bồ Tát”
[14] là thị hiện cõi kia vốn cũng đồng như cõi này.
Từ câu “lại thấy chư Phật nhập Niết-bàn” cho đến “dựng tháp bằng bảy báu”
[15] là thị hiện cõi này rồi sẽ đồng như cõi kia.
Phần nói giản lược đến đây là hết. Lại nói rộng ra thì từ chỗ “thấy hết thảy sáu đường chúng sanh” là thị hiện đức Phật ở cõi kia vì thế gian có 5 sự uế trược cho nên mới xuất hiện ở đời. Đức Phật ở cõi này cũng giống như vậy. Ý nghĩa [Phật] ra đời ở hai cõi đều giống nhau.
“Cùng nghe được những kinh điển giáo pháp mà chư Phật ấy thuyết giảng” là thị hiện đức Phật ở cõi kia ban sơ [thuyết giảng] từ một pháp vô tướng, không phải đốn mà đốn, so với ở cõi này [đức Phật] ban đầu thuyết kinh Hoa nghiêm, ý nghĩa giống nhau.
Từ câu “cùng thấy các vị tỳ-kheo...” ở cõi kia là thị hiện đức Phật cõi kia [thuyết pháp] không phải tiệm mà tiệm, so với đức Phật ở cõi này tiếp theo giảng thuyết Tam tạng giáo điển, ý nghĩa giống nhau.
Từ câu “lại thấy các vị Đại Bồ Tát” trở đi là thị hiện đức Phật ở cõi kia sau khi thuyết Tam tạng giáo điển rồi lại thuyết các kinh Phương đẳng, Bát-nhã, so với đức Phật cõi này thuyết các kinh sau Tam tạng giáo điển thì ý nghĩa giống nhau.
Từ câu “lại thấy chư Phật nhập Niết-bàn” cho đến “dựng tháp thờ bằng bảy món báu” là thị hiện đức Phật ở cõi kia sau khi thuyết kinh Bát-nhã liền khai trừ pháp quyền biến, hiển lộ pháp chân thật, thâu vô lượng pháp nhập vào một pháp, báo trước việc nhập Niết-bàn, hoàn tất việc giáo hóa, [đại chúng] dựng tháp. Hào quang chiếu đến cõi kia [khiến cho mọi việc] từ trước đến sau, rốt ráo đều hiện ra rõ ràng trước mắt [đại chúng], cho nên biết rằng ở cõi này [đức Phật cũng] từ một pháp sinh ra vô lượng pháp, không phải đốn mà đốn, không phải tiệm mà tiệm. Những việc như vậy đã hoàn tất, tất nhiên [đức Phật cũng sẽ] thâu vô lượng pháp nhập vào một pháp, trừ bỏ quyền biến, hiển lộ chân thật, dừng việc giáo hóa, quay về nguồn chân, so với [đức Phật] cõi kia cũng đồng như nhau.
[Kinh văn nói] “đủ mọi nhân duyên”, đó là nói [đức Phật] thuở xưa tích lũy việc lành là nhân, ngày nay giáo hóa [chúng sanh] là duyên. Nếu nói chi tiết hơn thì đó chính là sau khi thuyết giảng Tam tạng giáo điển, đức Phật giảng rõ [ý nghĩa] “cộng” và “bất cộng”
[16] trong Bát-nhã là nhân, các pháp trợ đạo, giới, định, tuệ là duyên. Lại ước định người trong ba thừa tức là có đủ mọi nhân duyên. Các hạng người “cộng” và “bất cộng” cũng có đủ mọi nhân duyên.
Kinh nói “đủ mọi tướng mạo”, đó là nói mỗi hạng người “cộng” hay “bất cộng” đều có [phân ra theo] bốn pháp môn [Tạng, Thông, Biệt, Viên], mỗi một pháp môn lại có vô số tướng mạo. Năm trăm vị tỳ-kheo, mỗi vị đều nói ra bản nhân của chính mình, tức là ý nghĩa này. Hạng “bất cộng” trong bốn pháp môn lại cũng như vậy. Cho nên biết rằng có vô số các loại tướng mạo nhân duyên sai biệt. Đây là điều mà ở cõi kia với cõi này đều giống như nhau. Ở cõi kia thị hiện rõ tướng nhân duyên tướng mạo như thế rồi lại thể nhập một nhân, một duyên, một tướng, một mạo. Nên biết rằng ở cõi này cũng đồng như cõi kia.
KINH VĂNLúc bấy giờ Bồ Tát Di-lặc nghĩ rằng: “Nay đức Thế Tôn hiện tướng thần biến, do nhân duyên gì mà có điềm lành này? Nay đức Thế Tôn đã nhập tam-muội, việc biến hiện hy hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai? Ai có thể giải đáp?” Rồi lại nghĩ rằng: “Ngài Văn-thù-sư-lợi là con đấng Pháp vương, đã từng thân cận cúng dường vô số chư Phật trong quá khứ, chắc hẳn đã từng được thấy tướng ít có này, nay ta nên thưa hỏi.” Lúc ấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cùng với chư thiên, loài rồng, quỷ thần... cũng đều nghĩ rằng: “Tướng thần thông hào quang chiếu sáng của đức Phật, nay biết thưa hỏi ai?”Từ câu “Lúc bấy giờ Bồ Tát Di-lặc nghĩ rằng” cho đến “nay nên hỏi ai” là phần mở đầu niệm nghi.
Kinh văn phần này có hai ý. Một là niệm nghi của Bồ Tát Di-lặc, hai là niệm nghi của đại chúng.
Niệm nghi của ngài Di-lặc lại có ba ý. Một là nghĩ đến sáu điềm lành, hai là nghĩ đến việc nên hỏi ai, ba là nghĩ đến ngài Văn-thù. Khi khởi lên ý niệm nghĩ đến ngài Văn-thù thì niệm thứ hai mất đi, chỉ còn niệm thứ nhất [về sáu điềm lành], hợp thành một niệm nghi.
[Ngài Di-lặc nghĩ: “Nay đức Thế Tôn hiện tướng] thần biến.” Thần là bên trong, biến là bên ngoài. Thần gọi là “lòng trời”, tức là trí tuệ tự nhiên bên trong. Biến gọi là biến động, tức là sáu điềm lành hiện rõ bên ngoài.
Kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Đức Phật trụ nơi pháp không phân biệt, có thể hiện thần thông.” Đấng Pháp vương pháp lực siêu việt che trùm hết thảy. Ngài Di-lặc không lường được sự biến đổi bên ngoài, cũng không rõ biết được trí tuệ bên trong, cho nên khởi niệm như vậy. Nói chung, kẻ tầm thường không thể rõ biết người có phương thuật, kẻ tán loạn không thể rõ biết người có định tâm, người phàm không thể rõ biết các bậc thánh, hàng tiểu thánh không thể rõ biết [bậc Đại Thanh văn như ngài] Xá-lợi-phất, ngài Xá-lợi-phất không thể rõ biết hàng Bồ Tát, hàng Bồ Tát không thể rõ biết bậc [Nhất sinh bổ xứ], bậc Nhất sinh bổ xứ không thể rõ biết Đấng Tôn quý tối cực. [Sự thị hiện này của đức Thế Tôn] cũng là chỗ tối cực nên ngài Di-lặc không thể rõ biết.
Lại nói rằng, ngài Di-lặc [đã từng] ở nơi các đức Phật trồng nhiều căn lành, lẽ nào [đối với việc này] không mơ hồ biết được phần nào hay sao? [Nên biết,] đây là [vì sự giáo hóa chúng sinh nên cần] che khuất chỗ rõ biết, thị hiện như không biết, dùng phương tiện quyền biến mà nói là không biết.
Về đại chúng thì [ở đây nói] khởi lên 2 ý niệm. Một là ý niệm chính về 6 điềm lành và thứ hai là ý niệm chưa biết hỏi ai [về việc này]. Nếu theo [nội dung] phần kệ bên dưới để hiểu chỗ này thì thấy có 3 ý niệm. Trong lời kệ, [ngài Di-lặc] nói: “Bốn chúng đều ngưỡng vọng, mong đợi ngài và tôi.”
[17] Nếu không có ý niệm thứ ba [là nghĩ đến ngài Văn-thù] thì làm sao có sự ngưỡng vọng, nhìn ngài Văn-thù mong đợi? [Kinh văn] chỗ này không nói đủ, đó là muốn [người đọc tự] suy ra nghĩa vị [Bồ Tát] Bổ xứ có cương vị cao hơn [đại chúng].
Theo các nhà cựu giải thì [vị Bổ xứ] cương vị cao hơn [đại chúng] có ba ý. Thứ nhất là [Nhất sinh] Bổ xứ, [chỉ còn một đời nữa thành Phật], thứ hai là có đủ ba ý niệm [nghi], thứ ba là có thể nêu câu hỏi. Do ý nghĩa này nên [phần nói về] đại chúng thiếu đi một niệm [nghi].
● Hỏi: Hai vị Văn-thù, Di-lặc về đức độ và giai vị đều như nhau, đều chỉ kém Phật, vì sao lại có kẻ hỏi người đáp?
● Đáp: Nói chung, cơ duyên tuy có nhưng vốn ở nơi không, giai vị tuy đồng như nhau nhưng vai trò chủ khách phải thích nghi khác nhau. [Thứ nhất là vì] bậc Thánh [giáo hóa] tùy cơ duyên, nhưng không có người thưa hỏi thì không thể đáp. [Thứ hai là vì] pháp môn có quyền có thật. Vị Bồ Tát Bổ xứ quyền thừa nên thưa hỏi, vị Bồ Tát Bổ xứ chân thật nên giải đáp. [Thứ ba là vì tuy cùng tu tập] từ thuở xưa nhưng có lâu xa, có gần đây hơn. [Vị Bồ Tát tu tập] gần đây hơn nên thưa hỏi, [vị Bồ Tát tu tập] rất lâu xa nên giải đáp. [Thứ tư là dựa theo] danh xưng để có sự thuận tiện, dễ dàng [nhận hiểu. Danh xưng] Di-lặc có nghĩa là “từ”, từ tâm [thương xót] vì chúng sinh nên thưa hỏi. [Danh xưng] Văn-thù có nghĩa là “diệu đức”, đức độ cao quý nên giải đáp. Đó là bốn cách giải thích để hiểu rõ ý nghĩa kinh văn.
[18]KINH VĂNLúc bấy giờ, Bồ Tát Di-lặc muốn dứt mối nghi của mình, lại quán sát thấy được tâm nghi của bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng chư thiên, loài rồng, quỷ thần... nên thưa hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: “Do nhân duyên gì mà có điềm lành Phật hiện tướng thần thông, phóng hào quang lớn chiếu đến 18.000 thế giới ở phương đông, [đại chúng] thấy hết được những cõi Phật trang nghiêm nơi ấy?”Khi ấy, Bồ Tát Di-lặc muốn lặp lại ý nghĩa trên liền đọc kệ thưa hỏi rằng:
Từ câu “Lúc bấy giờ Bồ Tát Di-lặc muốn dứt mối nghi của mình” đến hết phần kệ tụng là Tự của phần phát vấn. Kinh văn phần này lại có hai phần, gồm văn trường hàng và kệ tụng. Cấu trúc lại chia ra phần tự nghi [của ngài Di-lặc], phần tha nghi [của đại chúng] và phần phát vấn [nêu câu hỏi]. Trong phần phát vấn lại chia ra nói về cõi này và nói về các cõi khác, như trong nội dung kinh văn.
Do ý nghĩa gì mà có phần kệ tụng? Luận Tỳ-bà-sa của ngài Long Thọ nói rằng: Thứ nhất là tùy theo quốc độ, như Ấn Độ thì có thuyết [giải thích rằng văn trường hàng như] rải hoa, [còn kệ tụng như] xâu kết hoa lại thành vòng hoa, giống như trong phần Tự này thì phía sau có phần [kết lại] để ghi nhớ. Thứ hai là tùy theo sự ưa thích không giống nhau, có người ưa thích văn xuôi [trường hàng], cũng có người ưa thích lối văn vần [kệ tụng]. Thứ ba là tùy theo sự nhận hiểu của chúng sinh chẳng giống nhau, có người đọc kinh văn [trường hàng] mà nhận hiểu được, hoặc có người nhờ đọc văn vần [kệ tụng] mà nhận hiểu được. Thứ tư là tùy theo căn cơ nhanh nhạy hoặc trì độn [của người nghe]. Người căn cơ nhanh nhạy chỉ nghe qua một lần liền nhận hiểu, kẻ căn cơ trì độn thì phải được nghe lặp lại rồi mới nhận hiểu.”
Lại nói rằng, điều này để biểu hiện đức Phật ân cần thuyết dạy nên có sự lặp lại. Lại vì đại chúng vân tập có kẻ trước người sau cho nên có kệ [lặp lại].
KINH VĂNNgài Văn-thù-sư-lợi! Vì sao đấng Đạo sư,Từ giữa hai chân mày, Phóng hào quang soi chiếu.Mưa hoa mạn-đà-la, Với hoa mạn-thù-sa,Gió thơm hương chiên-đàn, Đại chúng đều hoan hỷ?Lại do nhân duyên này, Mặt đất đều nghiêm tịnh,Và khắp thế giới này, Chấn động theo sáu cách.Bấy giờ cả bốn chúng, Đều vui mừng hoan hỷ,Thân ý đều sảng khoái, Được việc chưa từng có.Phần kệ này có 62 khổ kệ, [mỗi khổ kệ có 4 câu]. Cấu trúc chia làm hai phần, 54 khổ kệ đầu tiên nêu nghi vấn, 8 khổ kệ sau thỉnh cầu giải đáp. Trong phần [54 khổ kệ] thưa hỏi lại chia thành hai, 4 khổ kệ trước hỏi về cõi này, 50 khổ kệ sau hỏi về các cõi khác.
1. Nêu nghi vấnTổng phần văn trường hàng thưa hỏi chung về 6 điềm lành ở quốc độ này. Trong phần [thứ nhất của tổng phần thứ hai này], kệ tụng có nói thêm về gió thơm [chiên đàn] và cõi đất trang nghiêm thanh tịnh, nhưng không nói hai việc thuyết pháp và nhập định. Đọc theo lời văn thì cho rằng có thừa có thiếu, nhưng tìm hiểu ý nghĩa thì không phải vậy. Thuyết pháp là tánh trí tuệ, nhập định là tâm bản nhiên. Do nơi tâm bản nhiên và tánh trí tuệ này có thể tạo ra sự chấn động cõi đất và phóng chiếu hào quang. Chỉ cần nêu phần ngọn thì có thể rõ biết phần gốc, cho nên tuy thiếu mà không phải thiếu. Những người khác
[19] không thấy được ý nghĩa này, cho rằng ngài Di-lặc không hỏi về hai việc [thuyết pháp và nhập định], nhân đó nói là hai việc này không phải điềm lành. Nay xin hỏi ngược lại, nếu ngài Di-lặc không hỏi [những ý đó] thì tại sao ngài Văn-thù lại giải đáp? Lại nêu câu hỏi, [nếu ngài Di-lặc có hỏi] thì xin chỉ ra hỏi ở chỗ nào? Nay xin chỉ phần thưa hỏi chung trong văn trường hàng chính là có bao gồm những ý đó.
Nếu lại muốn chỉ riêng nơi nào có những ý thưa hỏi này thì xin chỉ ra hai chữ “đạo sư” chính là bao gồm những ý đó. Có thuyết pháp và nhập định mới có khả năng dẫn dắt dạy dỗ người khác. Cho nên tôn xưng bậc đạo sư là đã có ý hỏi về việc thuyết pháp và nhập định. Do vậy nói rằng kinh văn không hề thiếu sót.
Những người khác lại cho rằng gió thơm là do thổi qua rừng trầm, cùng với cõi đất trang nghiêm thanh tịnh là hai việc thêm vào thừa ra.
Nay nói rõ là không thừa. Gió vốn không mùi, nay có hương thơm là điều đặc biệt kỳ diệu, cho nên là điềm lành. Như hoa trời cực kỳ vi diệu, lẽ nào lại có màu sắc mà chẳng có hương thơm? Điều này biểu trưng cho việc từ nhân xoay vần đến quả, như có hoa trời thì có gió thơm. Hoa rơi trên đất, đất liền trở thành trang nghiêm thanh tịnh, cũng như nhân [trang nghiêm thanh tịnh] hướng đến thành quả thì quả ấy cũng phải trang nghiêm thanh tịnh. Kinh Kim Quang Minh nói rằng: “Các công đức hội tập trang nghiêm thân Phật.” Cho nên lấy hai việc [thuyết pháp, nhập định] hiện thành bốn loại hoa trời. Đó là nói nghĩa “tuy thừa mà không phải thừa”.
KINH VĂNHào quang từ giữa mày, Soi chiếu thấu phương đông,Khắp mười tám ngàn cõi, Đều sáng đẹp sắc vàng,Từ địa ngục A-tỳ, Lên đến trời Hữu đỉnh.Các thế giới trong đó, Đủ sáu đường chúng sinh,Sống, chết, đi về đâu, Hay nghiệp duyên lành dữ,Chịu quả báo tốt xấu, Từ đây đều thấy rõ.Từ câu “Hào quang từ giữa mày” trở về sau có 50 khổ kệ là hỏi về sáu điềm lành ở các cõi khác. Các nhà cựu giải nói rằng trong phần kệ tụng không thấy hỏi về ba thừa, bốn chúng, không hỏi về [việc nhập] Niết-bàn của Phật.
Nay trong giáo pháp này [đức Phật] dạy phá bỏ ba thừa [để tiến đến một Phật thừa], có lý nào lại hỏi về ba thừa? [Trong kinh này Phật sắp] thuyết giảng về thọ lượng [của Như Lai], lẽ nào lại hỏi về sự diệt độ? Về mặt ý nghĩa như vậy không thích hợp nên không nêu ra hỏi. Ôi, [nói như vậy] thật là không hiểu rõ ý kinh mà chỉ gượng ép nói theo ý mình.
Nay sẽ nói rõ trong phần thứ hai của tổng phần kệ tụng này có nêu hỏi đầy đủ về 6 điềm lành nơi các cõi khác. Cấu trúc phần này chia làm 6 tổng đoạn.
Tổng đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ hỏi về [những hiện tượng] trong sáu đường chúng sinh. Tổng đoạn thứ hai gồm 4 khổ kệ hỏi về việc nhìn thấy chư Phật các cõi khác thuyết pháp. Tổng đoạn thứ ba gồm 3 khổ kệ nêu hỏi về [việc chư Phật thuyết pháp] cho bốn chúng ở các cõi khác. [Tổng đoạn thứ tư] kế tiếp gồm 1 khổ rưỡi là kết lại nội dung phần trước và mở ra nội dung phần sau. Tổng đoạn thứ năm gồm 31 khổ rưỡi hỏi về sự tu hành của các vị Bồ Tát ở những cõi khác. Tổng đoạn thứ sáu gồm 7 khổ kệ hỏi về việc cúng dường xá-lợi, tức là hỏi về việc nhập Niết-bàn của Phật.
[Tổng đoạn thứ nhất] trước hết là 3 khổ kệ [như vừa dẫn trên], hỏi về [các hiện tượng của chúng sanh] trong 6 đường. Xét ý nghĩa phần kệ tụng này thì biết rằng kinh văn phần trên nói hào quang “soi chiếu thấu phương đông” tức là ý nói chiếu khắp các cõi nước kia. Bài tụng này là tụng lại [ý nghĩa] thưa hỏi tổng quát ở trên. Chúng sinh trong 6 đường là chủ thể tái sinh, sinh tử là nơi [những chúng sinh ấy] tái sinh về, các nghiệp duyên lành dữ là nhân của sự tái sinh, [những chúng sinh ấy thọ thân] tốt hay xấu là quả tái sinh.
KINH VĂNLại thấy các đức Phật, Bậc Sư tử Thánh chủ,Diễn thuyết nhiều kinh điển, Đều vi diệu bậc nhất.Âm thanh thật thanh tịnh,Tiếng nói nghe dịu dàng,Dạy bảo hàng Bồ Tát, Vô số muôn ngàn người,Tiếng cõi trời sâu mầu, Ai ai cũng thích nghe.Mỗi vị nơi cõi mình, Đều giảng thuyết chánh pháp,Cùng đủ mọi nhân duyên.Và vô số thí dụ,Làm sáng tỏ Phật pháp, Để khai ngộ chúng sinh.Tổng đoạn thứ hai, từ câu “Lại thấy các đức Phật” trở đi gồm 4 khổ kệ, hỏi về việc nhìn thấy các cõi Phật, thấy chư Phật thuyết pháp. Đây là nói rộng về tướng thuyết pháp, thuyết pháp đốn giáo phù hợp với cho những bậc căn tánh lớn. “Bậc sư tử Thánh chúa” là giống như ở cõi này hiện hình tượng đức Phật Lô-giá-na [thuyết kinh Hoa nghiêm].
“Diễn thuyết nhiều kinh điển, đều vi diệu bậc nhất” là như ở cõi này trước tiên diễn thuyết kinh Hoa nghiêm để dạy hàng Bồ Tát, giống như [mặt trời vừa mọc] trước hết soi chiếu trên núi cao, như ở cõi này giảng kinh Hoa nghiêm chín hội ở 7 nơi đều không có hàng Thanh văn, [chỉ toàn là Bồ Tát].
“Làm sáng tỏ Phật pháp, để khai ngộ chúng sanh”, là như ở cõi này thoạt tiên được thấy thân Phật, thể nhập vào trí tuệ của Như Lai.
KINH VĂNVới những người gặp khổ,Chán bỏ già, bệnh, chết,Vì họ thuyết Niết-bàn, Dứt hết mọi cảnh khổ.Với những người có phước,Đã từng cúng dường Phật,Quyết cầu pháp vượt trội,Liền dạy pháp Duyên giác,Riêng với hàng con Phật, Tu đủ mọi công hạnh,Cầu trí tuệ Vô thượng,Liền thuyết đạo thanh tịnh.Tổng đoạn thứ ba từ câu “Với những người gặp khổ” trở đi gồm 3 khổ kệ, hỏi về bốn chúng ở các cõi khác, tức là sau khi thuyết đốn giáo rồi thì giảng rõ về Tam tạng giáo. “Với những người gặp khổ” là khai mở Thanh văn thừa. Bài tụng này giảng rõ đầy đủ về Tứ đế, trong kinh văn nói rất rõ ràng. Đại lược là như thế.
Nếu người gặp khổ mà tạo nghiệp ác thì không thể dứt khổ. Đó là những chúng sinh ở các cõi dưới.
Nếu người gặp khổ mà tạo nghiệp lành, cũng vẫn không dứt khổ, vì chán ghét [khổ nơi] cõi dưới mà bám chấp [vui thú] ở cõi trên, như ngài Nan-đà [ban đầu] vì muốn thỏa mãn dục vọng mà phát tâm trì giới.
Nếu người gặp khổ mà đi theo ngoại đạo để cầu pháp giải thoát, càng tăng thêm sự thấy biết, kiến giải sai lầm, cũng không dứt khổ.
Nếu người gặp khổ mà chán ghét xa lìa nguyên nhân của khổ, lại cũng chán ghét xa lìa không nương vào quả, cảm nhận được [ý nghĩa] Phật thuyết dạy về Niết-bàn thì có thể dứt trừ hết mọi phạm vi của khổ. Ở các cõi khác cũng khai mở [Thanh văn] thừa như vậy.
Từ câu “Với những người có phước” trở đi gồm 1 khổ kệ là khai mở Trung thừa.
[20] Nếu người ít cúng dường Phật, gặp khổ lại thêm buồn bực, phiền não. Nếu cúng dường Phật nhiều, tuy gặp khổ vẫn có phước. Cho nên nói Thanh văn ba đời gieo trồng phước báo, Phật Bích-chi trăm kiếp cũng gieo trồng phước. Ở đây so sánh với Thanh văn nên nói là có phước.
“Quyết cầu pháp vượt trội” là nói hàng Thanh văn vì sợ khổ mà tu hành, còn Phật Bích-chi vì cầu đạo mà tu hành, hết lòng tầm cầu lý duyên khởi thù thắng vi diệu, đó là nói việc nơi các cõi kia khai mở Trung thừa.
Từ câu “Riêng với hàng con Phật” trở đi là khai mở sáu ba-la-mật của Đại thừa. Từ bi chân chánh, có thể nối dòng giống Phật nên gọi là “con Phật”. Tu tập sáu ba-la-mật nên nói là “đủ mọi công hạnh”. Chí cầu [pháp thù thắng] nên nói là “trí tuệ Vô thượng”. Trong sáu ba-la-mật không có sáu tâm che chướng,
[21] cũng như trong thuốc trị bệnh vốn không có bệnh, cho nên nói là “đạo thanh tịnh”, không phải là chỗ cứu cánh rốt ráo thanh tịnh. Lại nữa, hàng Thanh văn lấy khổ đế làm pháp môn quán chiếu, bậc Duyên giác lấy tập đế làm pháp môn tu, còn Bồ Tát tu sáu ba-la-mật là lấy đạo đế làm pháp môn nên nói là “đạo thanh tịnh”.
KINH VĂNThưa Văn-thù-sư-lợi! Tôi ở tại nơi đây,Thấy nghe những việc ấy,Cùng muôn ngàn việc khác,Hội chúng đủ hạng người,Nay chỉ xin lược nói.Tổng đoạn thứ tư từ câu “Thưa Văn-thù-sư-lợi, tôi ở tại nơi đây” trở đi, gồm một khổ rưỡi, tóm kết nội dung phần trước và mở ra nội dung phần sau. Nói “thấy nghe những việc ấy” tức là kết lại phần trước, nói “hội chúng đủ hạng người” tức là mở ra nội dung phần sau.
KINH VĂNTôi thấy những cõi kia, Có vô số Bồ Tát,Dùng đủ mọi nhân duyên,Để cầu thành Phật đạo.Tổng đoạn thứ năm từ câu “Tôi thấy những cõi kia” trở đi gồm 31 khổ rưỡi, hỏi về các pháp tu hành của những Bồ Tát ở các cõi kia, cấu trúc phân ra 3 đoạn. Đoạn thứ nhất, 1 khổ kệ nêu hỏi chung. Đoạn thứ hai, 15 khổ kệ là nêu hỏi lần lượt [từng đối tượng]. Đoạn thứ ba gồm15 khổ rưỡi nêu hỏi lẫn lộn nhiều nội dung.
Đoạn thứ nhất nêu câu hỏi chung rất rõ ràng, có thể hiểu được.
KINH VĂNCó người thường bố thí, Vàng bạc với san hô,Hạt châu quý ma-ni, Xa cừ cùng mã não,Kim cương, các trân bảo, Nô tỳ và xe cộ,Trang trí bằng châu báu, Đều hoan hỉ bố thí.Hồi hướng cầu Phật đạo, Nguyện đạt được Phật thừa,Bậc nhất trong ba cõi, Chư Phật đều khen ngợi.Hoặc có những Bồ Tát,Bố thí cả xe quý,Có bốn ngựa, lọng che,Cùng trang sức xinh đẹp.Lại thấy các Bồ Tát,Bố thí cả xương thịt,Chân tay cùng vợ con,Vì cầu đạo Vô thượng.Lại thấy các Bồ Tát,Ưa thích, vui mừng thí,Đầu, mắt cùng thân thể,Vì cầu trí tuệ Phật.Đoạn thứ hai từ câu “Có người thường bố thí” trở đi gồm 15 khổ kệ nêu hỏi lần lượt, trong đó lại chia thành 6 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất gồm 6 khổ kệ như trên, nêu hỏi về Bố thí ba-la-mật. Tiểu đoạn thứ hai gồm 2 khổ kệ nêu hỏi về Trì giới ba-la-mật. Tiểu đoạn thứ ba gồm 1 khổ kệ, nêu hỏi về Nhẫn nhục ba-la-mật. Tiểu đoạn thứ tư gồm 1 khổ kệ nêu hỏi về Tinh tấn ba-la-mật. Tiểu đoạn thứ năm gồm 2 khổ kệ, nêu hỏi về Thiền định ba-la-mật. Tiểu đoạn thứ sáu gồm 3 khổ kệ nêu hỏi về Trí tuệ ba-la-mật.
Trong tiểu đoạn thứ nhất hỏi về Bố thí ba-la-mật lại có 3 phân đoạn. § Phân đoạn thứ nhất gồm 4 khổ kệ đầu tiên nêu hỏi việc xả bỏ tài vật. § Phân đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ nêu hỏi về việc xả bỏ thân thể. § Phân đoạn thứ ba gồm 1 khổ kệ nêu hỏi về việc xả bỏ mạng sống.
Hết thảy những trân bảo quý báu, kẻ ăn người ở, đều có thể buông xả bố thí. Xe quý bốn ngựa cũng rộng lòng bố thí. Vợ con là ngoài thân, xương thịt là trong thân. Thí xả cả đầu, mắt, tức là xả bỏ mạng sống, nhưng không nói pháp thí, là để lại phần sau khi nói về Bát-nhã ba-la-mật. Lại [cũng có thể] do lược nói xả bỏ thân mạng và tài sản thì sinh tử trong tương lai sẽ được bất hoại, thường trụ, cũng tức là pháp thí, cho nên không cần nói riêng ý này.
KINH VĂNThưa Văn-thù-sư-lợi!Tôi thấy các vị vua,Đến viếng thăm chỗ Phật,Thưa hỏi đạo Vô thượng,Rồi bỏ cõi dục lạc,Cung điện nhiều mỹ nữ,Cạo sạch cả râu tóc,Mặc pháp phục xuất gia.Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Thưa Văn-thù-sư-lợi, tôi thấy các vị vua” trở đi gồm 2 khổ kệ nêu hỏi về Trì giới ba-la-mật. Đây là lược nói về các vị tỳ-kheo để luận việc giữ giới. Người tại gia bố thí dễ, trì giới khó. Người xuất gia bố thí khó, trì giới dễ. Cho nên lược nêu các vị tỳ-kheo để làm rõ việc trì giới. Trong phần này có dẫn kinh Ngũ vương.1 Đại lược là như vậy.
KINH VĂNHoặc thấy các Bồ Tát,Mà hiện làm tỳ-kheo,Sống cô độc nhàn tĩnh,Ưa thích tụng kinh điển.Tiểu đoạn thứ ba, từ câu “Hoặc thấy các Bồ Tát” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nêu hỏi về Nhẫn nhục ba-la-mật. Nhẫn nhục được nói ở đây có 3 loại. Sống nơi rừng vắng khe sâu, đối với người xấu, thú dữ đều nhẫn chịu không khởi tâm sân hận, đó gọi là sinh nhẫn. Sống biết tiết độ chế ngự, giữ được chí nguyện, gọi là khổ hạnh nhẫn. Vì cầu Phật đạo, tức là nhẫn theo ý nghĩa cao nhất. Như vậy, xuất gia làm vị tỳ-kheo tức là khổ hạnh nhẫn, sống cô độc nơi vắng vẻ tức là sinh nhẫn, vui thích tụng đọc kinh điển tức là nhẫn theo ý nghĩa cao nhất.
KINH VĂNLại thấy các Bồ Tát,Sức dũng mãnh tinh tấn,Vào tận trong núi sâu,Nỗ lực tư duy đạo.Tiểu đoạn thứ tư, từ câu “Lại thấy các Bồ Tát, sức dũng mãnh tinh tấn” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nêu hỏi về Tinh tấn ba-la-mật. Thường nơi núi sâu rất đáng sợ hãi, chẳng phải chỗ ở của những người lười nhác yếu đuối. Chỉ có những người dũng mãnh tinh tấn mới có thể ở yên nơi đó, xem như quanh mình không có gì, chỉ nỗ lực tư duy tu tập thật tướng, không lúc nào dừng nghỉ, tinh tấn cầu Phật đạo.
KINH VĂNLại thấy bậc ly dục,Thường sống nơi nhàn tịnh,Tu sâu pháp thiền định,Đạt được năm thần thông.Lại thấy các Bồ Tát,Trong thiền định chắp tay,Dùng muôn ngàn lời kệ,Ngợi khen các đức Phật.Tiểu đoạn thứ năm, từ “Lại thấy bậc ly dục” trở đi, gồm 2 khổ kệ, nêu hỏi về Thiền định ba-la-mật. Khổ kệ trước nêu hỏi về sự tu tập căn bản thiền định. Khổ kệ sau nêu hỏi về sự tu tập thiền xuất thế vượt trội nhất. Dù tu tập theo đường lối nào cũng đều phải có căn bản thiền. Về bậc ly dục, dứt lìa tham dục thì được ngũ thông, chính là định của Thông giáo. Lại nữa, dứt lìa tham dục là căn bản. Buông xả, tu quán bất tịnh... cũng đều là để dứt lìa tham dục. Biệt giáo cũng lìa bỏ những ham muốn của hàng Nhị thừa. Trung đạo lại lìa bỏ cả những ham muốn thuận theo đạo pháp. Đại lược là như vậy.
Nói về tu sâu thiền định thì khởi phát bậc định sơ thiền chưa gọi là sâu. Phải tương tục trải qua 9 bậc định
[22] mới là sâu. Lại nữa, lần lượt buông bỏ cả 9 bậc định, 8 thắng xứ,
[23] 10 nhất thiết nhập...1 mới gọi là sâu. Thiền định này chuyển biến tự tại, có thể phát khởi thần thông. Phàm phu chỉ có 5 thần thông, Hàng Nhị thừa đầy đủ 6 thần thông, Bồ Tát Biệt giáo kém Phật, không có Lậu tận thông nên cũng chỉ gọi là 5 thần thông. Bồ Tát Viên giáo thì từ ban sơ cho đến về sau đều đầy đủ 6 thần thông.
Khổ kệ thứ hai có câu “Trong thiền định chắp tay, dùng muôn ngàn lời kệ” là nói rõ về thiền xuất thế vượt trội nhất. Đó là thiền của Biệt giáo và Viên giáo. [Người tu tập thiền này] tâm dù an tĩnh hay phân tán cũng đều không trở ngại lẫn nhau, không rời khỏi diệt tận định mà hiện đủ các oai nghi, như cây đàn của thần âm nhạc a-tu-la không gẩy mà vẫn phát ra âm vận. Không duyên theo, không khởi niệm, nhưng có chiêu cảm lập tức biểu hiện ra, cho nên có thể trụ yên trong thiền định mà xưng tán Phật.
KINH VĂNLại thấy các Bồ TátTrí sâu chí nguyện vững,Thường thưa hỏi chư Phật,Nghe giảng liền thọ trì.Lại thấy hàng con Phật,Đã trọn đủ định, tuệ,Dùng vô số thí dụ,Vì đại chúng giảng pháp.Vui thích thuyết chánh pháp,Giáo hóa các Bồ Tát,Phá trừ hết quân ma,Đánh vang rền trống Pháp.Tiểu đoạn thứ sáu từ câu “Lại thấy các Bồ Tát, trí sâu chí nguyện vững” trở đi, có 3 khổ kệ, nêu hỏi về Bát-nhã ba-la-mật, chia làm 2 phân đoạn. § Phân đoạn thứ nhất có 1 khổ kệ, nói về công hạnh tự mình tu tập hành trì. Trí sâu là nói trí tuệ soi xét đến tận cùng cội nguồn lẽ thật. Chí nguyện vững, bền chắc là nói thệ nguyện rộng lớn, dài lâu. Đây chính là nói về hai loại trang nghiêm [của Bồ Tát], có thể thưa hỏi, có thể thọ trì.
§ Phân đoạn thứ hai từ câu “Lại thấy hàng con Phật, đã trọn đủ định tuệ” trở đi, gồm 2 khổ kệ nói về giáo hóa chúng sinh. Người tu hành ban sơ thì tuệ nhiều [hơn định], lên đến cõi Vô sắc thì định nhiều [hơn tuệ], đạt cảnh giới Tứ thiền thì định tuệ cân bằng.
Lại nữa, tu tâm [Bát] bội xả
[24] thì tuệ nhiều [hơn định], vượt qua 9 bậc định thì định nhiều [hơn tuệ], đạt cảnh giới Thập nhất thiết thì định tuệ cân bằng.
Lại nữa, hàng Nhị thừa định nhiều [hơn tuệ], hàng Bồ Tát tuệ nhiều hơn định, chư Phật thì định tuệ cân bằng. Lại nữa, tu tập quán không thì định nhiều [hơn tuệ], tu tập quán giả thì tuệ nhiều [hơn định], tu quán Trung đạo thì định tuệ cân bằng.
[Lời kệ nói] “dùng vô số thí dụ” tức là dùng đủ mọi phương tiện, dẫn ra vô số các loại thí dụ trong kinh điển giáo pháp để hiển bày rõ ràng ý nghĩa chân thật cao tột nhất.
[Lời kệ nói] “phá trừ hết quân ma” là tu tập quán không phá bốn loại ma, quán giả thì lần lượt phá 8 loại ma, quán Trung đạo của Viên giáo phá trừ hết 8 loại ma, 10 loại ma cho đến hết thảy các loại ma.
[Lời kệ nói] “đánh vang rền trống Pháp” là nói [Bồ Tát] Sơ phát tâm trụ
[25] liền đó thành Đẳng Chánh Giác, làm Phật ở trăm thế giới Phật, quay chuyển bánh xe thanh tịnh, đánh vang rền trống Pháp.
KINH VĂNLại thấy các Bồ Tát,Trụ yên trong tịch lặng,Trời, rồng đều cung kính,Nhưng không lấy làm vui.Lại thấy các Bồ Tát,Từ rừng sâu phóng quang,Chúng sinh khổ địa ngục,Khiến được vào đạo Phật.Đoạn thứ ba, từ câu “Lại thấy các Bồ Tát, trụ yên trong tĩnh lặng” trở đi, gồm 15 khổ rưỡi, nêu hỏi không theo thứ tự, chỉ tùy theo chỗ thấy mà hỏi.
●
Hỏi: Nơi sáu ba-la-mật đã tự bao gồm muôn công hạnh, cần chi phải nêu hỏi quá phiền toái phức tạp như vậy?
●
Đáp: Phần trên nêu hỏi lần lượt theo thứ tự, là theo một đường tiến dần, [phần dưới] nêu hỏi không theo thứ tự là theo một đường không xác định. Đã nói là đủ mọi hình tướng, sao [nêu hỏi] chỉ có hai đường mà đã cho là phiền toái?
Như vậy [nêu hỏi] theo thứ tự và [nêu hỏi] không theo thứ tự là hai lần [hỏi về] sáu ba-la-mật. Xét như ở các cõi kia [nhìn thấy Phật] khai thuyết Tam tạng giáo điển rồi sau mới nói kinh Phương đẳng trong 12 bộ kinh để biện giải về tướng mạo của sáu ba-la-mật, cũng đầy đủ như ở cõi này này không khác.
Nhìn chung trong phần nêu hỏi không theo thứ tự thì cấu trúc chia ra 7 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất, gồm 2 khổ kệ [như trên] nêu hỏi về thiền [ba-la-mật], chia ra 2 phân đoạn.
§ Phân đoạn thứ nhất có 1 khổ kệ hỏi về nhập thiền và xả thiền, tức là nói việc tự mình tu tập hành trì.
§ Phân đoạn thứ hai từ câu “Lại thấy các Bồ Tát, từ rừng sâu phóng quang” trở đi, nêu hỏi việc việc nhập thiền bi mẫn, ban sơ giáo hóa chúng sinh. Bồ Tát nhập định phóng hào quang có đủ mọi sự lợi ích, đều có nói đầy đủ trong kinh Hoa nghiêm, kinh Tư ích... Đại lược là như vậy.
KINH VĂNLại thấy hàng con Phật,Tỉnh thức không ngủ nghỉ,Trong rừng sâu kinh hành,Chuyên cần cầu đạo Phật.Lại thấy người giữ giới,Oai nghi không khuyết tổn,Trong sáng như châu ngọc,Để cầu thành Phật đạo.Tiểu đoạn thứ hai, từ câu “Lại thấy hàng con Phật, tỉnh thức không ngủ nghỉ” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nêu hỏi về tinh tấn [ba-la-mật], tức là các pháp môn Bát-chu, niệm Phật...
Tiểu đoạn thứ ba, từ câu “Lại thấy người giữ giới, oai nghi không khuyết tổn” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nêu hỏi về giới [ba-la-mật]. “Oai nghi không khuyết tổn” tức là giới đầu tiên hoàn hảo không khuyết phạm, “trong sáng như châu ngọc” tức là giới thứ 10 rốt ráo [cũng thanh tịnh]. Các giới ở khoảng giữa do đó có thể hiểu được [là thảy đều thanh tịnh]. Nói đủ về 10 giới thì như xem trong [Pháp hoa] huyền nghĩa.
KINH VĂNLại thấy hàng con Phật,An trụ sức nhẫn nhục,Dù những kẻ kiêu mạn,Mắng chửi và đánh đập,Cũng đều nhẫn nhịn được,Để cầu thành Phật đạo.Tiểu đoạn thứ tư, từ câu “Lại thấy hàng con Phật, an trụ sức nhẫn nhục” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu hỏi về nhẫn nhục [ba-la-mật], tức là hai loại sinh nhẫn và pháp nhẫn.
KINH VĂNLại thấy hàng Bồ Tát,Lìa xa chuyện cợt đùa,Không gần kẻ ngu si,Thân cận bậc trí tuệ,Chuyên tâm trừ loạn tưởng,Giữa núi rừng nhiếp tâm,Trong suốt muôn ngàn năm,Để cầu thành Phật đạo.Tiểu đoạn thứ năm, từ câu “Lại thấy hàng Bồ Tát, lìa xa chuyện cợt đùa” trở đi, gồm 2 khổ kệ, lại hỏi về thiền [ba-la-mật]. “Lìa xa chuyện cợt đùa” chính là dứt trừ sự che chướng của trạo hối; “không gần kẻ ngu si” tức là dứt trừ sự che chướng của sân hận; “thân cận bậc trí tuệ” tức là dứt trừ sự che chướng của nghi hoặc.
“Chuyên tâm trừ loạn tưởng” tức là dứt trừ sự che chướng của tham dục; “giữa núi rừng nhiếp tâm” tức là dứt trừ sự che chướng của mê ngủ.
KINH VĂNHoặc thấy hàng Bồ Tát,Dùng thức ăn ngon quý,Cùng trăm loại thuốc thang,Cúng dường Phật và Tăng.Dùng y phục thượng hạng,Giá muôn ngàn lượng vàng,Hoặc quý báu vô giá,Cúng dường Phật và Tăng.Dùng trăm ngàn muôn loại,Nhà quý gỗ chiên-đàn,Với tòa ngồi tốt đẹp,Cúng dường Phật và Tăng.Dâng vườn rừng yên tĩnh,Có hoa trái sum suê,Suối chảy, hồ trong mát,Cúng dường Phật và Tăng.Cúng dường những thứ ấy,Đều tốt đẹp nhiệm mầu,Tâm hoan hỉ không chán,Vì cầu đạo Vô thượng.Tiểu đoạn thứ sáu, từ câu “Hoặc thấy hàng Bồ Tát, dùng thức ăn ngon quý” trở đi, gồm 5 khổ kệ, nêu hỏi về bố thí [ba-la-mật], chia làm hai phân đoạn.
§ Phân đoạn thứ nhất gồm 4 khổ kệ nói rõ việc cúng dường [Tam bảo] bốn thứ thiết yếu. § Phân đoạn thứ hai từ câu “cúng dường những thứ ấy” trở đi, gồm 1 khổ kệ, tóm kết lại ý nghĩa cúng dường cầu thành tựu.
KINH VĂNHoặc có hàng Bồ Tát,Thuyết giảng pháp tịch diệt,Dùng mọi cách chỉ bày,Cho vô số chúng sinh.Hoặc thấy hàng Bồ Tát,Quán chiếu các tánh pháp,Vốn thật không hai tướng,Thảy đều như hư không.Lại thấy hàng con Phật,Tâm không chút dính mắc,Dùng trí tuệ nhiệm mầu,Để cầu đạo Vô thượng.Tiểu đoạn thứ bảy, từ câu “Hoặc hữu Bồ Tát, thuyết tịch diệt pháp” trở đi, có 3 khổ kệ, nêu hỏi về Bát-nhã [ba-la-mật]. § Khổ kệ đầu là pháp Bát-nhã chẳng thể thuyết mà nêu ra thuyết. § Khổ kệ thứ hai là pháp Bát-nhã chẳng thể quán mà nêu ra quán. § Khổ kệ thứ ba là dứt trừ mọi sự ngôn ngữ nói năng, diệt sạch tâm ý tìm cầu, tức là thuyết chỗ không thể thuyết, quán chỗ không thể quán để luận về Bát-nhã.
Hoặc có thể nói 3 lần nêu hỏi về Bát-nhã là như trên đã thấy [chư Phật] ở các cõi kia thuyết giảng sáu ba-la-mật trong các kinh Phương đẳng.
Hoặc cũng có thể so sánh khác đi như ở các cõi kia [chư Phật] sau khi thuyết kinh Phương đẳng mới giảng giáo pháp Đại phẩm nói nhiều về Bát-nhã với tịch diệt chẳng phải hai, thanh tịnh không bám chấp, cõi này và các cõi kia đều như nhau.
Hoặc có thể nói pháp tịch diệt là nằm trong ý kinh Phương đẳng, quán các pháp tánh đều như hư không là ý Bát-nhã, chính là quán xét qua tất cả các pháp thấy tướng pháp đều không phân biệt. Ý nghĩa này quả thật tương hợp với Đại phẩm [Bát-nhã]. Nếu nói rằng thấy [chư Phật] thuyết giảng Pháp hoa ở cõi kia thì chính là tương đồng với câu “dùng trí tuệ nhiệm mầu, để cầu đạo Vô thượng” trong phần kệ tụng này. Chỉ thấy người tu trí tuệ vi diệu nhưng chẳng thấy được pháp tòa nơi thuyết trí tuệ vi diệu Pháp hoa. Nếu thấy được pháp tòa [thuyết giảng kinh] thì biết rằng cõi này cũng như cõi kia, đâu có gì phải khởi lòng nghi. Do chỉ thấy người [tu] mà chẳng thấy được pháp tòa giảng [pháp tu], cho nên đại chúng mới sinh lòng nghi. Hoặc cũng có thể [biết rằng] ba phen [nêu hỏi về] Bát-nhã [nơi cõi kia] cùng với Bát-nhã ở cõi này tương đồng, nhưng chưa biết tiếp theo [đức Phật] sẽ thuyết giảng gì cho nên khởi lòng nghi. Cả hai ý khởi nghi này đều là do sự vận dụng của con người mà thôi.
[Bảy đoạn này], phần văn trường hàng ở trên lược gọn nên chỉ nêu 6 ý, kệ tụng giảng rộng ra thì đủ nghĩa như trên. Đại lược là như vậy.
KINH VĂNThưa Văn-thù-sư-lợi!Lại có hàng Bồ Tát,Sau khi Phật diệt độ,Liền cúng dường xá-lợi.Lại thấy hàng con Phật,Xây dựng các tháp miếu,Nhiều như cát sông Hằng,Làm trang nghiêm cõi nước.© Tổng đoạn thứ sáu, từ câu “Thưa Văn-thù-sư-lợi, lại có hàng Bồ Tát” trở đi, gồm 7 khổ kệ, nói rõ việc sau khi Phật diệt độ rồi thu lấy xá-lợi dựng tháp thờ.
Ngay trong kệ tụng này, phần trên đã nói ở các cõi kia chư Phật xuất thế trong đời có 5 sự uế trược, từ một pháp vô tướng mà khai mở giáo pháp đốn, tiệm, cho nên có phân chia 2 pháp, 3 đường, đủ các công hạnh, tướng mạo chẳng giống nhau, như trên đã thấy rõ. Nay lại thấy chư Phật ở các cõi kia vào Niết-bàn, Phật tử luyến tiếc mến mộ đức độ nên dựng tháp thờ. Đó là biểu hiện từ vô lượng cuối cùng quy về một, từ một phát xuất thành vô lượng.
Hình tướng trước đó đã biểu thị vô lượng quy về một, chính là việc [chư Phật] nhập Niết-bàn, sao còn sợ [điều này] làm chướng ngại [ý nghĩa] thọ lượng [của Như Lai]. Xây tháp thờ [xá-lợi Phật] chẳng phải Phật sự sao? Thật đau xót thay! Đau xót thay!
Cấu trúc phần này chia làm 6 đoạn.
Đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, nêu tổng quát việc xây dựng tháp thờ [cúng dường xá-lợi] sau khi Phật nhập diệt.
Đoạn thứ hai tiếp theo, từ câu “lại thấy hàng con Phật, xây dựng nhiều tháp miếu” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nêu rõ số tháp [thờ xá-lợi Phật].
KINH VĂNTháp báu đẹp tuyệt vời,Cao năm ngàn do-tuần,Ngang, rộng giống như nhau,Đều hai ngàn do-tuần.Mỗi một ngôi tháp miếu,Đều có ngàn cờ phướn,Cùng màn ngọc phủ che,Với chuông nhỏ hòa ngân.Có chư thiên, long, thần,Người và loài phi nhân,Dùng hương, hoa, âm nhạc,Thường dâng lên cúng dường.Thưa Văn-thù-sư-lợi!Hết thảy hàng Phật tử,Vì cúng dường xá-lợi,Nên trang nghiêm tháp miếu,Khắp cõi nước tự nhiên,Thành tươi đẹp tuyệt vời,Như cây chúa cõi trời,Đang mùa hoa nở rộ.Đoạn thứ ba, từ câu “tháp báu đẹp tuyệt vời” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nêu rõ độ lớn rộng của các tháp [thờ xá-lợi Phật].
Đoạn thứ tư, từ câu “mỗi một ngôi tháp miếu” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nêu rõ hình tướng của tháp [thờ xá-lợi Phật].
Đoạn thứ năm, từ câu “có chư thiên, long thần” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nêu rõ việc cúng dường tháp [thờ xá-lợi Phật].
Đoạn thứ sáu, từ câu “Thưa Văn-thù-sư-lợi” trở đi, gồm 2 khổ kệ, nêu tổng kết phần này.
Chữ tháp, hay tháp-bà (stūpa), Hán dịch là phương phần (方墳), nghĩa là phần mộ, cũng có nghĩa như mộ đắp cao. Sách Đại quán đảnh dịch là trũng (塚), nghĩa là mộ đắp lên cao.
Xây lên lầu đài cũng giống như miếu mạo điện thờ ở cõi này. Đài cao thềm rộng, đón sương chọc mây, thường biểu trưng cho sự thanh tịnh để tâm nương về hướng lên cõi thánh.
Thiên thụ vương (天樹王) là cây chúa ở cõi trời, tức là cây ba-lợi-chất-đa (pārijāta) [trên cung trời Đao-lợi].
[Xây bảo tháp] cúng dường xá-lợi Phật là chính, nhưng bên cạnh đó cũng là trang nghiêm các cõi Phật. Đại lược là như vậy.
II. Thỉnh đápKINH VĂNMột lần Phật phóng quang,Tôi cùng cả hội chúng,Đều thấy cõi nước này,Đủ mọi vẻ tươi đẹp.Thần lực của chư Phật,Trí tuệ thật ít có,Phóng hào quang thanh tịnh,Chiếu vô số cõi nước.Chúng tôi đều được thấy,Việc xưa nay chưa có.Nguyện Phật tử Văn-thù!Vì đại chúng giải nghi.Tổng phần nội dung thỉnh đáp là từ câu “một lần Phật phóng quang” trở đi, gồm 8 khổ kệ, chia làm hai phần.
Phần thứ nhất gồm 3 khổ kệ, nêu nghi vấn và thỉnh cầu. Phần thứ hai gồm 5 khổ kệ, nêu những sự khó hiểu.
Phần thứ nhất gồm 3 khổ kệ, chia làm 3 tổng đoạn:
Tổng đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, nêu những việc nhìn thấy ở cõi này. [Phật phóng quang từ] bạch hào [giữa hai chân mày] là việc chính, cho nên nêu ra trước nhất. Lại cũng nêu các việc khác, cho nên nói là đủ mọi việc.
Tổng đoạn thứ hai từ câu “thần lực của chư Phật” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nêu những việc nhìn thấy ở các cõi khác. Chư Phật là căn bản [nên nêu ra] tức là bao quát cả 5 thừa [Bồ Tát, Duyên giác, Thanh văn, trời, người].
Tổng đoạn thứ ba từ câu “chúng tôi đều được thấy” trở đi, 1 khổ kệ, thỉnh cầu lời giải đáp.
KINH VĂNBốn chúng đều ngưỡng vọng,Mong đợi ngài và tôi,Nói rõ Phật vì sao,Phóng tỏa hào quang này.Xin kịp thời giải đáp,Dứt nghi để được vui.Lại vì lợi ích gì,Phật hiện phóng hào quang?Phật ngồi nơi đạo trường,Đã chứng đắc diệu pháp,Nay sẽ thuyết pháp ấy,Hay vì ai thụ ký?Nên hiện các cõi Phật,Với châu báu nghiêm tịnh,Lại thấy các cõi Phật,Chẳng phải duyên nhỏ nhặt.Ngài Văn-thù nên biết,Bốn chúng, hàng trời, rồng...Đều mong ngóng chờ xem,Ngài nói ra những gì?Phần thứ hai nêu việc gặng hỏi lại, [gồm 5 khổ kệ], lại chia làm 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất gồm 4 khổ kệ, chính thức nêu những ý gặng hỏi lại. Tổng đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ là câu kết lại và thỉnh cầu.
[Tổng đoạn thứ nhất,] nói “gặng hỏi lại” là vì trong lòng ngài Văn-thù vẫn còn hoang mang chưa hiểu rõ, không thể kịp thời giải đáp ngay. [Sự gặng hỏi lại] này có 3 ý. Thứ nhất là điềm lành kỳ đặc ít có, chẳng thể xem thường mà hấp tấp đưa ra lời phán đoán. Thứ hai là đại chúng hiện tiền trí tuệ như biển lớn, phải tỏ sự khiêm nhường, tôn trọng bậc cao minh. Thứ ba là có ý chần chờ trước [khi giải đáp] để khiến cho đại chúng sinh tâm khát ngưỡng. Do [những ý nghĩa đó] nên lấy cớ [gặng hỏi lại] để chần chừ không giải đáp ngay.
Ngài Di-lặc giải thích rõ những chỗ gặng hỏi lại này lại cũng có ba ý. Thứ nhất là điềm lành lớn lao thì lòng nghi [của đại chúng] cũng lớn lao, nếu không giải thích rõ ràng thì [đại chúng] ôm lòng ưu tư lo nghĩ, chướng ngại cho việc [nghe] thuyết giảng chánh kinh. Thứ hai là đại chúng [trí tuệ] như biển lớn, tuy đông người nhưng cơ duyên giải thích việc này chỉ ở nơi ngài Văn-thù-sư-lợi. Thứ ba là toàn thể đại chúng đều chiêm ngưỡng ngài Văn-thù-sư-lợi nên biết rằng có sự chuyên chú chân thành, ân cần tôn trọng. Do vậy mà đáp lại những chỗ [ngài Văn-thù-sư-lợi] gặng hỏi để thỉnh cầu ngài kịp thời giải đáp.
Lần gặng hỏi thứ nhất là nhân nơi lời thỉnh cầu chính [của ngài Di-lặc] mà có. Lời thỉnh cầu trước đó rằng: “Nguyện Phật tử Văn-thù, vì đại chúng giải nghi.” Ngài Văn-thù dựa theo lời thưa thỉnh này mà gặng hỏi lần thứ nhất, [hàm ý rằng]: “Ngài nói là đại chúng khởi nghi nhưng tôi e rằng đại chúng chưa từng khởi nghi, vì nếu có nghi thì lẽ ra đã hỏi. Đại chúng đã không nghi thì tôi biết giải đáp điều gì?”
Ngài Di-lặc liền dùng kệ đáp lại lần thứ nhất: “Bốn chúng cùng ngưỡng vọng, mong đợi ngài và tôi.” [Lời giải thích này có hàm ý:] “Đại chúng nhìn tôi là muốn tôi thưa hỏi, nhìn ngài tức là muốn được nghe ngài giải đáp.”
Ngài Văn-thù nhân câu trả lời đó liền nêu trở ngại lần thứ hai, [hàm ý rằng:] “Nếu đại chúng đều nghi thì không thể dễ dàng giải đáp, vậy xin chờ Phật xuất định, sẽ thưa hỏi dứt nghi.” Ngài Di-lặc liền dùng kệ để đáp lại lần thứ hai, [hàm ý rằng]: “Nếu để nghi ngờ thì [đại chúng] trong lòng không yên, vì thế nên kịp thời giải đáp. Hơn nữa chưa biết lúc nào đức Như Lai mới xuất định.” Cho nên [lời kệ] nói rằng “Xin kịp thời giải đáp, dứt nghi để được vui.”
Ngài Văn-thù-sư-lợi nhân câu trả lời đó lại nêu ra điều trở ngại thứ ba, [hàm ý rằng:] “Tôi với ngài cùng một địa vị tu học như nhau, nếu muốn suy lường ý Phật thì nên kín đáo cùng nhau bàn bạc, chỉ để riêng tôi đưa ra lời giải đáp thì không hợp lý.” Ngài Di-lặc liền dùng kệ đáp lại lần thứ ba, [hàm ý rằng]: “Tôi cũng đã lưu tâm suy nghĩ rất kỹ, nhưng còn phân vân giữa đôi đường, không biết đây là [điềm lành Phật sắp] thuyết giảng diệu pháp hay là sắp thụ ký [cho ai].” Cho nên [lời kệ] nói rằng: “Phật ngồi nơi đạo trường, đã chứng đắc diệu pháp, nay sẽ thuyết pháp ấy, hay vì ai thụ ký?”
Ngài Văn-thù-sư-lợi nhân câu trả lời đó lại nêu ra điều trở ngại thứ tư, [hàm ý rằng]: “Như ngài vừa nói đó tức là đã giải thích chỗ nghi [của đại chúng] rồi, đâu cần đến tôi giải đáp?” Ngài Di-lặc liền dùng kệ đáp lại lần thứ tư, [hàm ý rằng]: “Sao có thể dùng tâm ý phân vân do dự của tôi để phán xét việc lớn lao này?” Cho nên [lời kệ nói] rằng: “Lại thấy các cõi Phật, chẳng phải duyên nhỏ nhặt.”
[Tổng đoạn thứ hai, đến đây] ngài Văn-thù không còn gì để gặng hỏi, thái độ khiêm cung cũng đã vừa đủ. Sau đó là 1 khổ kệ để tổng kết lại và thỉnh cầu giải đáp.
[Ý nghĩa] bốn lần gặng hỏi này, ngài Quang Trạch thọ nhận từ Thứ sư, Thứ sư thọ nhận từ Chiêu sư ở Giang Bắc, vốn là những ý nghĩa nằm ngoài văn kinh, được các bậc tiên hiền khéo suy xét hiểu được nên nay vận dụng lại.
KINH VĂNLúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Đại Bồ Tát Di-lặc, các vị đại sĩ và thiện nam tử: “Theo như tôi suy xét thì nay đức Phật Thế Tôn muốn thuyết pháp lớn lao, mưa xuống cơn mưa pháp lớn, thổi tù và pháp lớn, đánh tiếng trống pháp lớn, diễn giảng nghĩa pháp lớn.Từ câu “Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Đại Bồ Tát Di-lặc...” cho hết bài phần kệ gọi là Tự của phần giải đáp lời thưa hỏi, gồm cả văn trường hàng và kệ tụng.
Giải thích văn trường hàngCấu trúc văn trường hàng chia làm bốn phần. Thứ nhất là từ “nói với Bồ Tát Di-lặc...” trở đi, gọi là giải đáp dựa theo sự suy xét. Thứ hai là từ “Các vị thiện nam tử, tôi ở quá khứ...” trở đi, gọi là giải đáp dựa theo sơ lược những sự việc từng thấy [trong quá khứ]. Thứ ba là từ “Các vị thiện nam tử, như quá khứ...” trở đi, gọi là giải đáp dựa theo mở rộng những điều từng thấy [trong quá khứ]. Thứ tư là từ “Nay thấy điềm lành này so với thuở xưa không khác...” trở đi, gọi là giải đáp theo sự phán xét phân biệt rõ ràng.
1. Giải đáp theo suy xétPhàm [lấy sự hiểu biết của] kẻ dưới mà suy lường bậc trên thì chỉ có thể thấy biết mường tượng mơ hồ rồi suy đoán, như chỉ có thể nói rằng việc ngày xưa cũng giống như bây giờ, nhưng không thể quyết đoán tức thì là việc gì. Vì thế, ban đầu chỉ [mô tả] mường tượng sự việc. Tiếp theo mới dẫn sơ lược những điều đã thấy [trong quá khứ]. Dẫn sơ lược như vậy vẫn chưa đủ khắp, nên tiếp tục dẫn rộng hơn những điều từng thấy. [Từ đó] dùng nhiều [sự việc trong quá khứ] để chứng minh cho một [việc trong hiện tại] rồi mới có thể phân biệt phán xét quyết đoán.
Giải đáp dựa theo suy xét là đáp lại câu hỏi về [điềm lành] ở cõi này. Giải đáp dựa theo sơ lược những điều từng thấy trong quá khứ là đáp lại câu hỏi về cõi kia. Giải đáp dựa theo mở rộng những điều từng thấy trong quá khứ tức là đáp lại câu hỏi về cả cõi này và các cõi kia. Giải đáp dựa theo sự phân biệt phán xét là cùng lúc phán xét về cả cõi này và các cõi kia.
Phần giải đáp dựa theo suy xét lại chia làm hai phần. Phần trước nêu lên ý chính, phần sau nói ra sự suy xét. Suy là suy nghĩ, xét là xét lường. Suy việc ngày nay giống như ngày xưa, xét việc ngày xưa giống như ngày nay. Nhưng ngài Văn-thù vốn là Cổ Phật, lẽ nào lại không biết? [Cho nên] việc suy xét ấy chỉ là hình tích biểu hiện.
Theo ngài Quang Trạch thì câu đầu [“muốn thuyết pháp lớn lao”] và câu cuối [“diễn giảng nghĩa pháp lớn lao”] của đoạn này là nêu pháp để nói, biểu trưng cho nhân quả nói rộng và nói lược, ba câu ở giữa là nêu thí dụ để nói.
“Muốn thuyết pháp lớn lao” là lược nói việc trừ bỏ ba [thừa] để hiển bày một thừa duy nhất, lược nói mở ra sự kiện gần đây để hiển bày sự kiện xa xưa.
“Diễn giảng nghĩa pháp lớn” lại là rộng nói việc trừ bỏ ba [thừa] để hiển bày một thừa duy nhất, rộng nói mở ra sự kiện gần đây để hiển bày sự kiện xa xưa.
[Ba câu ở giữa là nêu thí dụ.] “Mưa xuống cơn mưa pháp lớn” thí dụ cho việc được thụ ký làm Phật, vì từ xưa bám chấp lẽ nhân quả cứng nhắc cố định, [cho rằng] không thể thành Phật, là ý nghĩa khô kiệt héo hắt, nay [hiểu ra rằng tất cả chúng sanh] đều có thể thành Phật, là ý nghĩa [giáo pháp] được mưa xuống tươi nhuận.
“Thổi tù và pháp lớn” là thí dụ việc thay đổi ba thừa [thành Nhất thừa]. “Đánh tiếng trống pháp lớn”, [ý nghĩa là] nghiêm chỉnh quân binh, thí dụ cho việc phá trừ vô minh.
Nay làm rõ [cách giải thích] “nêu pháp để nói” như trên không thể dùng được. Vì sao vậy? Bởi vì duyên khởi theo Tích môn và Bản môn vốn khác biệt nhau. Theo Tích môn thì duyên khởi là ngài Di-lặc sinh lòng nghi, ngài Văn-thù nhân đó mà giải thích. Theo bản môn thì lúc duyên chưa khởi, ngài Di-lặc nghi ở chỗ nào, ngài Văn-thù giải đáp chỗ nào? Nếu trong việc này lại cho là [ngài Văn-thù] giải thích cho mối nghi mở ra sự kiện gần đây để hiển bày sự kiện xa xưa, thì ở chương sau khi mặt đất tách đôi, chúng Bồ Tát từ dưới vọt lên, vì sao ngài Di-lặc vẫn còn sinh nghi?
[26] Nếu vẫn còn nghi thì lòng nghi đó chẳng ích gì, mà sự giải thích cũng chẳng ích gì. Phần giải thích ở sau đã không đúng nên sự giải thích ở phần trước cũng sai. Điều này gây chướng ngại rất lớn [cho việc hiểu nghĩa kinh], nên không thể dùng được.
Nay làm rõ ý nghĩa trong nghi vấn của ngài Di-lặc chỉ là hỏi về sự hiển thị điềm lành ở cõi này và các cõi kia. Ngài Văn-thù dựa theo sự suy xét mà đáp, sự giải đáp này là về hình tích hiển thị, chẳng liên quan đến thọ lượng [của Như Lai] vốn thuộc về Bản môn. “Muốn thuyết pháp lớn lao” là giải đáp điềm lành thuyết pháp; “mưa xuống cơn mưa pháp lớn” là giải đáp điềm lành trời mưa hoa xuống; “thổi tù và pháp lớn” là giải đáp điềm lành tâm đại chúng hoan hỷ; “đánh tiếng trống pháp lớn” là giải đáp điềm lành cõi đất chấn động, “diễn giảng nghĩa pháp lớn” là giải đáp điềm lành [Phật] phóng chiếu hào quang.
Câu “muốn thuyết pháp lớn lao” là [ngài Văn-thù-sư-lợi] suy nghĩ nhớ về xưa kia chư Phật thuyết kinh Vô lượng nghĩa rồi sau đó ắt sẽ trừ bỏ pháp quyền biến, hiển bày pháp chân thật, thu vô lượng nghĩa về một [nghĩa]. Xét rằng nay đức Phật đã thuyết kinh [Vô lượng nghĩa] rồi, ắt là cũng sẽ trừ bỏ pháp quyền biến, hiển bày pháp chân thật, thu vô lượng nghĩa về một [nghĩa]. Một nghĩa đó chính là “pháp lớn lao”.
Câu “mưa xuống cơn mưa pháp lớn” là [ngài Văn-thù-sư-lợi] suy nghĩ nhớ về thời chư Phật xưa kia sau khi trời mưa hoa xuống thì đều [khiến cho đại chúng] được thể nhập nhân lành viên mãn, tiến lên các giai vị [Thập] trụ, [Thập] hạnh, [Thập] hồi hướng, [Thập] địa. Xét rằng nay ở chỗ Phật này, sau khi trời mưa hoa, ắt là [đại chúng cũng] đều sẽ được thể nhập nhân lành thành Phật, tiến lên các giai vị [Thập] trụ, [Thập] hạnh, [Thập] hồi hướng, [Thập] địa. Cho nên nói là “mưa xuống cơn mưa pháp lớn”.
Câu “thổi tù và pháp lớn” là [ngài Văn-thù-sư-lợi] suy nghĩ nhớ về thuở xưa khi bốn chúng được thấy điềm lành đều sinh lòng hoan hỷ, được điều chưa từng có, dứt trừ che chướng, căn cơ rúng động, liền thay đổi [nhận thức về] giáo pháp tu học, công hạnh tu tập và chân lý rốt ráo. Xét rằng ngày nay bốn chúng nơi đây cũng sinh tâm hoan hỷ, chắc rằng cũng sẽ dứt trừ che chướng, căn cơ rúng động, thay đổi [nhận thức về] giáo pháp tu học, công hạnh tu tập và chân lý rốt ráo. Sự thay đổi ấy rất sâu xa, cho nên nói là “thổi tù và pháp lớn”.
Câu “đánh tiếng trống pháp lớn” là [ngài Văn-thù-sư-lợi] suy nghĩ nhớ về thuở xưa sau khi cõi đất chấn động thì diễn ra sáu lượt phá trừ giặc vô minh. Xét rằng ngày nay ở chỗ Phật đã có sự chấn động cõi đất thì ắt rằng sau đó cũng sẽ diễn ra 6 lượt phá mê hoặc vô minh. Âm thanh thuyết giáo cực kỳ mầu nhiệm cho nên nói là “đánh tiếng trống pháp lớn”.
Câu “diễn giảng nghĩa pháp lớn” là [ngài Văn-thù-sư-lợi] suy nghĩ nhớ về thuở xưa chư Phật phóng hào quang từ nơi cụm lông giữa hai chân mày (bạch hào) thì sau đó thuyết giảng kinh Pháp hoa, ở cõi này và các cõi kia đều cùng một đạo như nhau. Từ đó lượng xét rằng, nay sau khi Đức Phật phóng hào quang như vậy rồi, ắt sẽ làm sáng tỏ việc 5 đức Phật đều dạy đạo giống nhau, đều là đạo của Phật, cho nên nói là “diễn giảng nghĩa pháp lớn”.
Cả 5 câu trên đều là suy nghĩ nhớ về việc xưa để phán đoán việc hiện nay, xét lường việc hiện nay để so sánh phân loại theo việc thuở xưa. Tìm hiểu văn kinh và ý nghĩa thì chỉ thiếu duy nhất một điềm lành nhập định. Nhưng [tất cả các điềm lành như] trời mưa hoa, cõi đất chấn động, và [đức Phật] phóng hào quang v.v. đều là do sự nhập định mà có, nên ý đã bao gồm đầy đủ, chẳng có gì phải nghi ngờ. Chính vì [trong lời giải đáp] thiếu một điềm lành như vậy cho nên gọi là lược đáp.
Nay lại giải thích khác đi, câu đầu tiên là nêu tổng quát và 4 câu sau là nêu riêng từng chi tiết. Nêu tổng quát là nói về “pháp lớn lao”. Nêu riêng từng chi tiết là nói những việc mưa hoa, thổi tù và pháp, đánh trống pháp, diễn giảng nghĩa pháp, là [biểu trưng cho] khai, thị, ngộ, nhập [tri kiến Phật].
Cũng giống như bầu trời không có lớn hay nhỏ, không có đỏ hay trắng, nhưng lại mưa xuống hoa trời có đỏ có trắng, chân lý đệ nhất nghĩa vốn không có khai, thị, ngộ, nhập, nhưng thấy được chân lý này liền chứng đắc khai, thị, ngộ, nhập.
Lại ví như những hạt mầm khi gặp mưa xuống liền tự nảy nở, nay [chúng sanh] nghe được giáo pháp quan trọng như cơn mưa lớn, thấm nhuần hạt giống tánh pháp, liền phá trừ được vỏ bọc vô minh, được khai mở đối với tri kiến Phật ở giai vị Thập trụ.
Cũng như việc thổi tù và pháp thì biết dấu hiệu có sự thay đổi [nội dung thuyết giảng], đối với những người trước đã chứng đắc Thập trụ, nay từ Thập trụ được nghe giáo pháp mới liền thể nhập Thập hạnh, đó là chỉ bày tri kiến Phật.
Cũng như việc đánh trống pháp thì biết là phải răn dạy quân binh nghiêm chỉnh, đối với những người trước ở nơi đã thể nhập Thập hạnh, nay từ Thập hạnh này nghe giáo pháp răn dạy liền thể nhập Thập hồi hướng, đó là chứng ngộ được tri kiến Phật.
Thuyết giảng diễn rộng sâu xa bao quát mới gọi là diễn nghĩa. Đối với những người đã ở giai vị Thập hồi hướng, nay từ Thập hồi hướng thể nhập Thập địa là vào tri kiến Phật, thấu suốt nguồn cội, tận cùng bờ mé sâu rộng đầy đủ. [Ngài Văn-thù-sư-lợi] suy nghĩ nhớ về 6 điềm lành thuở xưa, sau đó [đức Phật liền thuyết pháp] khai, thị, ngộ, nhập. Từ đó lượng xét rằng với các điềm lành ngày nay ắt sau đó cũng là như thế.
Phần giải thích ý nghĩa giải đáp dựa theo suy xét của ngài Văn-thù-sư-lợi qua thời gian và sự kiện đến đây là hết.
2. Lược đáp theo những điều từng thấyKINH VĂN“Các vị thiện nam tử! Tôi ở nơi chư Phật trong quá khứ từng thấy điềm lành này, phóng hào quang này rồi ắt thuyết pháp lớn lao. Cho nên biết được rằng, nay Phật hiện hào quang cũng giống như vậy, muốn cho chúng sinh thảy đều nghe biết pháp khó tin nhận với tất cả thế gian, cho nên hiện điềm lành này.Phần thứ hai là giải đáp dựa theo sơ lược những sự việc từng thấy [trong quá khứ], bắt đầu từ câu “Các vị thiện nam tử! Tôi ở nơi chư Phật trong quá khứ...” trở đi. Trước tiên [ngài Văn-thù-sư-lợi] đã dùng trí tuệ của chính mình để suy nghĩ lượng xét, nay sau khi kể ra sơ lược những việc từng thấy [trong quá khứ] liền nêu nội dung này để giải đáp câu hỏi về [điềm lành ở] các cõi kia.
Có năm điềm lành ở cõi này không tương thông với các cõi kia, chỉ riêng điềm lành [Phật] phóng hào quang là soi chiếu khắp về phương đông. Trong phần giải đáp dựa theo sơ lược những điều từng thấy chỉ giải đáp riêng về điềm lành phóng quang, cho nên biết phần này giải đáp nghi vấn về các cõi kia. Nay nhìn thấy [điềm lành] giống như thuở xưa, [điềm lành] thuở xưa cũng giống như ngày nay, đều là muốn khiến cho hết thảy chúng sinh đều được nghe biết, tức là đủ cả văn tuệ và tư tuệ,
[27] cũng như có đủ hai công hạnh đức tin và hành trì. [Những pháp được nghe biết đó là] thu vô lượng pháp về một pháp, chuyển đổi giáo lý Tam thừa [thành Nhất thừa], sáu phen phá trừ vô minh v.v. Như vậy, giáo pháp của chư Phật đều như nhau, đều là “khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến”, cho nên [Kinh văn] nói là “pháp khó tin nhận với tất cả thế gian”.
3. Giải đáp rộng theo những điều từng thấyKINH VĂN“Các thiện nam tử! Như trong quá khứ cách đây vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kì số kiếp.Phần thứ ba là giải đáp dựa theo mở rộng những điều từng thấy [trong quá khứ], từ câu “Chư thiện nam tử, như quá khứ vô lượng...” trở đi, nói rõ ràng hơn so với phần lược đáp. Phần này mở rộng giải đáp nghi vấn về [điềm lành] ở cõi này và các cõi kia. Ngài Di-lặc nhân thấy hào quang vượt qua không gian soi thấu khắp phương đông nên nêu ra nghi vấn. Ngài Văn-thù dẫn việc từng thấy từ thuở xưa vượt qua thời gian đến tận ngày nay để giải đáp. Nêu việc bao quát cả không gian và thời gian là để hiển bày rõ ràng đạo của chư Phật [từ xưa đến nay cũng như ở khắp mọi nơi] đều giống nhau.
Cấu trúc phần này có ba tổng đoạn. Trước hết dẫn việc của một vị Phật cũng đồng [như việc ngày nay]. Tiếp theo dẫn việc của 20.000 vị Phật cũng đồng [như việc ngày nay]. Sau hết dẫn việc một vị Phật cuối cùng cũng đồng [như việc ngày nay].
Tổng đoạn dẫn việc một vị Phật lại cũng chia làm ba đoạn. Thứ nhất nêu rõ thời gian nhân duyên, thứ hai nêu danh hiệu Phật và thứ ba là nêu việc [Phật] thuyết pháp.
Đoạn thứ nhất nêu thời gian nhân duyên thì rõ ràng như kinh văn.
KINH VĂN“Lúc bấy giờ có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.Đoạn thứ hai, “có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt [Đăng Minh Như Lai]” là nêu danh hiệu giống nhau. [Nhưng] tên hiệu chung có thể giống, tên hiệu riêng làm sao có thể giống nhau? Chỗ này phải dùng ý “tên khác biệt, nghĩa tương đồng” để giải thích. Như vậy nghĩa là thế nào? Vì nghĩa “nhật” (mặt trời) là tuệ, “nguyệt” (mặt trăng) là định, định tuệ là đức tự hành trì, “đăng minh” (đèn sáng) là đức giáo hóa chúng sinh. [Đức Phật ngày nay hiệu Thích-ca Mâu-ni, dịch là] “năng nhân”, là nghĩa thường có định tuệ, cũng thường tự hành, cũng thường giáo hóa chúng sinh. Lại nữa, “Nhật Nguyệt Đăng” nghĩa là ba trí, đức Phật [Thích-ca] ngày nay cũng có đủ ba trí. Chư Phật tùy duyên mà xưng danh hiệu khác nhau nhưng ý nghĩa không khác, cho nên nói là danh hiệu [xưa và nay đều] giống nhau.
KINH VĂN“[Đức Phật ấy] diễn thuyết chánh pháp lúc ban sơ tốt đẹp, khoảng giữa tốt đẹp, sau cùng cũng tốt đẹp, ý nghĩa sâu xa, ngôn ngữ khéo léo mầu nhiệm, thuần khiết không xen tạp, đầy đủ tướng trạng của hạnh thanh tịnh trong sáng.Đoạn thứ ba, nêu nghĩa thuyết pháp giống nhau, từ câu “[Đức Phật ấy] diễn thuyết chánh pháp” trở đi. Đức Phật thuở xưa trước thuyết đốn giáo, sau thuyết tiệm giáo, so với đức Phật ngày nay cũng trước đốn sau tiệm, nên nói là giống nhau. [Kinh văn nói] “diễn thuyết chánh pháp lúc ban sơ tốt đẹp, khoảng giữa tốt đẹp, phần sau cũng tốt đẹp”, tức là Đốn giáo. Nói đến 7 điều thiện là tương thông trong cả Đại thừa và Tiểu thừa, nhưng xem trong kinh này thì đó là bảy điều thiện của Đại thừa.
[28] Nói “lúc đầu, khoảng giữa và sau cùng” đều tốt đẹp chính là nói các phần Tự, Chánh văn và Lưu thông [của kinh này], tức là “thời tiết thiện” (thời điểm, nhân duyên đều tốt đẹp) của Đốn giáo. “Ý nghĩa sâu xa” là nói cái nghĩa lý rốt ráo trọn vẹn, vì hàng Nhị thừa không thể đo lường được mức độ rộng sâu, cho nên nói là sâu xa. Đây gọi là “nghĩa thiện” (nghĩa tốt đẹp) của Đốn giáo. “Ngôn ngữ khéo léo mầu nhiệm” tức là những gì được nói ra bằng tám loại âm thanh [của Phật] theo Đốn giáo.
[29] Nêu thẳng vấn đề, phù hợp với chân lý, khiến các Bồ Tát đều hoan hỷ trong lòng, đó là nói kinh văn, gọi là “ngữ thiện” (ngôn ngữ tốt đẹp) của Đốn giáo. “Thuần khiết không xen tạp”, không chung cùng
[30] với hàng Nhị thừa, nghĩa là chỉ riêng [hàng Bồ Tát] mới đầy đủ những điều tốt đẹp này, tức là “độc nhất thiện” của Đốn giáo. Nêu rõ các phạm vi trong ngoài của pháp rốt ráo, là sự tốt đẹp đầy đủ, tức là “viên mãn thiện” của Đốn giáo. Thanh tịnh trong sáng không có tỳ vết uế nhiễm của sự phân biệt bám chấp, tức là “điều nhu thiện” của Đốn giáo. Ngài Nam Nhạc nói, làm việc lành là tướng trạng của hạnh thanh tịnh. Nói “hạnh thanh tịnh” tức là “vô duyên từ thiện” của Đốn giáo.
[31]Lại nữa, [đối với nghĩa] “ban đầu, khoảng giữa và sau cùng đều tốt đẹp”, có những cách giảng giải khác nhau, nay tạm giải theo một cách. Tiểu thừa cho rằng giới, định, tuệ là ba điều tốt đẹp, Đại thừa thì lấy tâm ban đầu, tâm khoảng giữa và tâm sau cùng [của chư Phật] là ba điều tốt đẹp. Kinh Kim Quang Minh nói: “Tâm ban đầu của Như Lai không thể nghĩ bàn, tâm khoảng giữa của Như Lai đủ mọi sự trang nghiêm, tâm sau cùng của Như Lai [kiên cố] không thể phá hoại.” Đó cũng là ý nghĩa của ba điều tốt đẹp.
Ngài Văn-thù dẫn 7 điều thiện theo Đốn giáo của chư Phật thuở xưa, so với bảy điều thiện đốn thuyết của đức Phật ngày nay đều giống nhau, lại so với 7 điều thiện đốn thuyết ở các cõi nước kia cũng đều giống nhau, cho nên mới vận dụng để giải đáp. Đây là đáp lại ngài Di-lặc ở trên vì thấy hào quang trải rộng khắp không gian nên nêu nghi vấn về việc chư Phật ở các cõi khác diễn thuyết kinh điển giáo pháp vi diệu tột cùng. Ngài Văn-thù dẫn việc thuở xưa xuyên suốt thời gian để nêu ra giải đáp, tức là chư Phật ban sơ nói pháp đốn giáo cũng giống [như đức Phật ngày nay].
KINH VĂN“Vì người cầu quả Thanh văn mà thuyết pháp tứ đế thích hợp, vượt thoát sinh già bệnh chết, rốt ráo đạt Niết-bàn; vì người cầu quả Duyên giác mà thuyết pháp mười hai nhân duyên thích hợp; vì các Bồ Tát mà thuyết sáu ba-la-mật thích hợp, khiến cho đạt được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thành tựu Nhất thiết chủng trí.“Vì người cầu quả Thanh văn mà thuyết pháp tứ đế thích hợp”, tức là chư Phật thuở xưa sau khi thuyết đốn giáo liền khai trừ tiệm giáo, cũng giống [như đức Phật ngày nay].
Như phần trên [trong bài kệ nêu nghi vấn của ngài Di-lặc] có nói: “Với những người gặp khổ, chán bỏ già, bệnh, chết, vì họ thuyết Niết-bàn.” Nay [ngài Văn-thù-sư-lợi] dẫn việc chư Phật xưa cũng khai trừ tiệm giáo như vậy để giải đáp nghi vấn đó.
“Vì người cầu quả Phật Bích-chi mà thuyết pháp mười hai nhân duyên thích hợp.” Đây là để giải đáp nghi vấn ở trên nêu ra việc “với những người có phước, [đã từng cúng dường Phật,] quyết cầu pháp vượt trội”.
“Vì các Bồ Tát mà thuyết sáu ba-la-mật thích hợp.” Đây là giải đáp nghi vấn như trên nêu ra “riêng với hàng con Phật, tu đủ mọi công hạnh, [cầu trí tuệ Vô thượng]”.
Những giải đáp trên đều là dẫn việc chư Phật thuở xưa cũng trừ bỏ tiệm giáo giống như [đức Phật ngày nay].
[Ngài Văn-thù-sư-lợi] rộng dẫn việc đã từng gặp chư Phật để giải đáp nghi vấn về các cõi kia. [Kinh văn nói] “khiến cho đạt được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thành tựu Nhất thiết chủng trí”, đó là làm rõ việc chư Phật thuở xưa sau khi trừ bỏ đốn giáo, tiệm giáo rồi thì cũng hiển bày lẽ thật, thuyết pháp trước sau rốt ráo [giống như đức Phật ngày nay]. Đây là giải đáp nghi vấn của ngài Di-lặc về việc nhìn thấy chư Phật ở các cõi kia nhập Niết-bàn, sau khi nhập Niết-bàn lại có việc xây dựng tháp thờ xá-lợi.
Như vậy từ chỗ dẫn việc chư Phật xưa thuyết pháp cho đến đoạn nói về sáu ba-la-mật là nêu rõ đức Phật ngày nay so với chư Phật thuở xưa vốn đã không khác. Từ câu “khiến cho đạt được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề” trở đi là nêu rõ đức Phật ngày nay so với chư Phật thuở xưa rồi cũng sẽ không khác nhau. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN“Tiếp đến có Phật cũng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, rồi tiếp nữa lại có Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, như vậy đến 20.000 vị Phật đều cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, lại cũng đồng một dòng họ là Phả-la-đọa. Ngài Di-lặc nên biết, từ vị Phật ban đầu đến vị Phật cuối cùng đều cùng một danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, đều có đầy đủ mười đức hiệu, và những điều thuyết pháp từ ban sơ, khoảng giữa cho đến cuối cùng đều tốt đẹp.Tổng đoạn thứ hai tiếp theo nêu dẫn 20.000 vị Phật mà danh hiệu và sự thuyết pháp đều giống nhau. Trước tiên nêu dẫn một vị Phật và nói đầy đủ việc thuyết pháp đốn giáo, tiệm giáo đều giống [với đức Phật hiện nay]. Ở giữa nêu ra 20.000 vị Phật và chỉ nói việc thuyết pháp đốn giáo giống [với đức Phật hiện nay]. Đã nói rằng “ban đầu, khoảng giữa cho đến sau cùng đều tốt đẹp”, cho nên sau đó nêu dẫn một vị Phật, nhưng chỉ nói việc khai trừ tiệm giáo giống [với đức Phật ngày nay]. Sở dĩ như vậy là vì những điều nêu ra đều có sự hỗ tương cho nhau, chỉ riêng phần nêu trước đã có thể hiểu rõ được rồi, nhưng không dẫn 20.000 vị Phật ra trước là vì danh hiệu, sự thuyết pháp [của chư Phật] đều giống nhau, chỉ căn cứ vào ý nghĩa mà nêu cho thuận tiện thôi.
Về dòng họ Phả-la-đọa, Hán dịch là “tiệp tật” (nhanh nhẹn), cũng dịch là lợi căn (căn tánh lanh lợi), lại cũng dịch là “mãn ngữ” (lời nói trọn vẹn).
KINH VĂN“Vị Phật sau cùng, lúc chưa xuất gia có tám người con. Người thứ nhất tên là Hữu Ý, thứ hai là Thiện Ý, thứ ba là Vô Lượng Ý, thứ tư là Bảo Ý, thứ năm là Tăng Ý, thứ sáu là Trừ Nghi Ý, thứ bảy là Hưởng Ý, thứ tám là Pháp Ý. Tám vị vương tử này đều có oai đức tự tại, mỗi vị đều cai trị bốn thiên hạ. Các vị vương tử nghe tin phụ vương xuất gia, đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, liền xả bỏ vương vị theo cha xuất gia, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều là những vị pháp sư, ở nơi muôn ngàn đức Phật trồng các cội lành.Tổng đoạn thứ ba từ câu “vị Phật sau cùng” trở đi nêu dẫn một vị Phật cũng giống [như đức Phật ngày nay]. Tổng đoạn này chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất nêu rõ sự việc từng thấy trước đây so với bây giờ vốn đã giống nhau. Đoạn thứ hai nêu rõ sự việc từng thấy trước đây so với bây giờ đang diễn ra giống nhau. Đoạn thứ ba nêu rõ sự việc từng thấy trước đây so với bây giờ rồi sẽ giống nhau.
Chữ “tằng” (曾) là nói sự việc đã từng trải qua, chữ “dĩ” (已) là nói sự việc đã lui vào quá khứ. “Tằng” với “dĩ” đều là nói việc đã từng xảy ra trong quá khứ, nhưng nay lấy việc đã xảy ra lâu xa thì dùng chữ “tằng”, việc đã qua gần đây hơn thì dùng chữ “dĩ”. Lại đối với sáu điềm lành [hiện tại] đều gọi là “kim” (今), là nói “hiện nay”, còn việc đợi sau khi Phật xuất định thì gọi là “đương” (當), là nói “rồi sẽ”.
Đoạn thứ nhất, từ câu “vị Phật sau cùng, lúc chưa xuất gia có tám người con” là nói việc xảy ra lâu xa trong quá khứ với việc vừa xảy ra gần đây đều giống nhau. Đức Phật xưa có 8 người con, đức Phật ngày nay có 1 người con, tuy số con khác nhau nhưng đều ra đời ở cõi [phàm thánh] đồng cư. Vì trong cõi nước có kiến hoặc, tư hoặc nên đều thị hiện có con. Việc có con là giống nhau. Một con hay tám con là tùy theo duyên khác biệt mà có sự biểu hiện. Sinh một con là biểu hiện tổng quát một đạo thanh tịnh. Sinh 8 con là biểu hiện 8 chánh đạo. Số lượng khác nhau nhưng ý nghĩa biểu hiện giống nhau. Nay chỉ lấy riêng ý nghĩa “có con” là giống nhau.
Lại nữa, thuở xưa con Phật xuất gia phát tâm Đại thừa, ngày nay con Phật lại trụ ở quả vị Tiểu thừa,
[32] việc này làm sao nói là giống nhau? Vì đức Phật thuở xưa hóa đạo đã xong nên hiển lộ bản sự rõ ràng, cho nên nói việc phát tâm Đại thừa; còn đức Phật ngày nay [lúc thuyết kinh này] vẫn còn chưa phát lộ hình tích, cho nên chỉ nói quả vị A-la-hán. Đến phần kinh văn về sau phát lộ bản môn, tức là Bồ Tát, ý nghĩa tất nhiên là giống nhau.
KINH VĂN“Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Thuyết kinh xong liền ở giữa đại chúng ngồi kết già nhập tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm chẳng động. Khi ấy, trời mưa xuống hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, hoa rải lên thân Phật và đại chúng. Khắp cõi Phật, mặt đất chấn động theo sáu cách. Khi ấy trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và loài phi nhân, cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương... Đại chúng như vậy được việc chưa từng có, đều hoan hỉ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật. Khi ấy, đức Như Lai phóng hào quang từ nơi tướng bạch hào giữa hai chân mày, soi chiếu về phương đông đến 18.000 cõi Phật, không nơi nào không soi thấu, cũng giống như ngày nay đã thấy hiển bày các cõi Phật. Ngài Di-lặc nên biết, khi ấy trong chúng hội có hai triệu Bồ Tát ưa muốn nghe pháp. Các vị Bồ Tát này thấy hào quang soi chiếu khắp các cõi Phật, được điều chưa từng có, đều muốn rõ biết nhân duyên của hào quang này.Đoạn thứ hai từ câu “Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thuyết kinh Đại thừa...” trở đi, nêu rõ việc từng xảy ra thuở xưa với việc ngày nay giống nhau. Từ nơi cõi nước của đức Phật thuở xưa hiện 6 điềm lành, tất nhiên là giống với [6 điềm lành của đức Phật] ngày nay, cũng tuần tự xảy ra như trong kinh văn. Lại nói vào thuở đức Phật xưa, 6 điềm lành xảy ra ở các cõi khác nói chung cũng giống như ngày nay đang thấy, như vậy thì biết là 6 điềm lành ở cõi khác vào thuở đức Phật xưa cũng giống như ngày nay. Chuyện [thuyết pháp] thuở xưa nêu rõ Biệt tự, có hai phần “hiện tướng” và “hoài nghi” đều giống [như ngày nay], nhưng không có 3 phần “tập chúng” (họp chúng), “phát vấn” (nêu hỏi) và “đáp vấn” (giải đáp). [Tuy nhiên,] dựa theo ý nghĩa mà suy ra ắt có đủ. Vì đã nói việc thuyết pháp thì biết rằng phải có họp chúng, đã có hoài nghi tất nhiên phải có nêu hỏi, và có hỏi tất nhiên phải có giải đáp. Cho nên chỉ nêu 2 phần giống nhau, tất nhiên bao gồm cả 3 phần còn lại cũng giống nhau như vậy.
Lại nữa, nếu thuật lại lời đáp thuở xưa thì chẳng cần phải đợi ngài Văn-thù phí lời [giải đáp]. Đã không thuật lời giải đáp nên cũng chẳng nhắc phần nêu hỏi, ý nghĩa này có thể hiểu được.
KINH VĂNBấy giờ có vị Bồ Tát tên là Diệu Quang, có 800 người đệ tử.Đoạn thứ ba từ câu “Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Diệu Quang” trở đi, nêu rõ những việc từng thấy thuở xưa so với việc sắp xảy ra ngày nay sẽ giống nhau.
Trong đoạn này lại có 6 tiểu đoạn [nói việc giống nhau]. Thứ nhất từ câu “bấy giờ có vị Bồ Tát” là nói việc nhân nơi người [mà thuyết pháp] giống nhau. Thứ hai từ câu “Bấy giờ
đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra khỏi tam-muội” trở đi là nêu việc thuyết pháp có danh xưng giống nhau. Thứ ba từ câu “60 tiểu kiếp” trở đi là nêu việc thời gian nhân duyên giống nhau. Thứ tư từ câu “thuyết kinh này rồi, liền tuyên bố với chúng hội gồm các vị phạm chí, ma, sa-môn..” trở đi là nêu việc [Phật] báo trước sự nhập diệt cũng giống nhau. Thứ năm từ câu “Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Đức Tạng” trở đi là nêu sự thụ ký giống nhau. Thứ sáu từ câu “đến giữa đêm liền” trở đi là nêu rõ sau khi Phật nhập diệt sự lưu thông kinh này giống nhau.
Tiểu đoạn thứ nhất, vì sao nói nhân sinh khởi nơi con người [xưa nay] giống nhau? Đức Phật thuở xưa sau khi xuất định liền nhân nơi ngài Diệu Quang thuộc hàng Bồ Tát mà thuyết kinh. Đức Phật ngày nay sau khi xuất định lại nhân nơi ngài Xá-lợi-phất thuộc hàng Thanh văn mà thuyết kinh. Như vậy có chỗ nào giống nhau? Ngài Pháp Dao
[33] nói rằng, ở đây nói nhân sinh khởi tức là nhân ký thác, giao phó truyền thừa kinh điển Nhất thừa, không phải nói người đức Phật trực tiếp đối diện gọi bảo. Như đức Phật xưa trực tiếp gọi bảo, không nhất thiết phải là ngài Diệu Quang. Đức Phật ngày nay trực tiếp gọi bảo ngài Xá-lợi-phất, nhưng ngài Xá-lợi-phất chưa hẳn có khả năng tuyên thuyết lưu thông kinh này. Nhân duyên để ký thác tuyên thông vào thuở đức Phật xưa thì không ai bằng Bồ Tát Diệu Quang. [Đức Phật] ngày nay muốn ủy thác [lưu thông kinh này] thì không ai bằng ngài Văn-thù. Đức Phật ngày nay chẳng khen ngợi [ngài Văn-thù], đức Phật thuở xưa đâu cần phải khen ngợi [Bồ Tát Diệu Quang]. Ngài Văn-thù dẫn việc đức Phật thuở xưa khen ngợi ngài Diệu Quang chính là nêu rõ [đây là] nhân có thể ký thác.
Lại nữa, các nhà cựu giải cho rằng Bồ Tát Dược Vương là nhân [ký thác], cũng có thể được, chỉ có điều là dẫn việc xưa để chứng minh việc ngày nay thì có chút khác biệt. Hoặc nói rằng, do ngài Văn-thù giải thích sự nghi ngờ [cho đại chúng], nên khi [Phật] xuất định thuyết kinh này thì gọi bảo [ngài Văn-thù] không thích hợp. Nay nói rõ là không phải vậy. Chính trong kinh văn nói rằng nhân nơi ngài Diệu Quang mà chính thức thuyết kinh, do đó giải thích rằng ngài là nhân duyên ký thác lưu thông kinh này. Lại nêu Bồ Tát Dược Vương làm thí dụ, như vậy là trái với lời Phật mà nào có liên quan gì đến việc giải thích kinh.
[Nay giải thích rằng,] thuở xưa nhân nơi ngài Diệu Quang [mà thuyết kinh], ngày nay nhân nơi ngài Xá-lợi-phất, đó chính là chỗ “nhân khởi nơi người” giống nhau. Thuở xưa 8 người con của Phật thờ ngài Diệu Quang làm thầy, khi đức Như Lai xuất định liền trực tiếp gọi bảo ngài Diệu Quang, lại giao phó [việc thọ trì và lưu thông kinh này] cho ngài Diệu Quang. Ngày nay con Phật là ngài La-hầu-la cũng thờ ngài Xá-lợi-phất làm thầy, đức Phật xuất định cũng trực tiếp gọi bảo ngài Xá-lợi-phất, [giáo pháp] Tích môn rốt lại cũng giáo phó cho ngài Xá-lợi-phất. Lấy việc ngày nay đem so hết những điểm dị đồng với chuyện thuở xưa thì rốt cùng không có cách giải thích nào thích hợp hơn, sao lại bỏ Xá-lợi-phất ở gần mà nhận Dược Vương ở xa [làm chỗ “nhân khởi nơi người”]? Những người nghi ngờ lại cho rằng, ngài Diệu Quang là hàng Bồ Tát, ngài Xá-lợi-phất thuộc hàng Thanh văn thì làm sao giống nhau được? Đó là vì [đức Phật] thuở xưa [hóa độ] đã xong nên hiện rõ là Bồ Tát, còn [đức Phật] ngày nay [giáo pháp Đại thừa] chưa phát khởi nên gọi là Thanh văn. Nếu so đến lúc đã phát khởi hình tích thì ngài Xá-lợi-phất là Đại Bồ Tát, sao có thể nói là không giống nhau? Thuở xưa khi ngài Diệu Quang còn chưa hiển lộ hình tích chắc gì đã không là Thanh văn? Nhất là ngài Văn-thù khéo léo trong sự trình bày nên linh hoạt không nêu rõ tất cả.
KINH VĂNKhi ấy, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra khỏi tam-muội, nhân vì Bồ Tát Diệu Quang mà thuyết kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm, trong 60 tiểu kiếp không đứng dậy khỏi tòa ngồi. Chúng hội cũng ngồi yên một chỗ, trong 60 tiểu kiếp thân tâm không dao động, lắng nghe Phật thuyết kinh, đều cảm thấy chỉ như thời gian một bữa ăn. Lúc ấy trong chúng hội không một người nào thấy thân hoặc tâm sinh ra lười mỏi.Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Khi ấy, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra khỏi tam-muội” trở đi, nói việc [đức Phật xưa và Phật ngày nay] thuyết pháp danh xưng giống nhau, điều này thấy rõ [qua tên kinh] trong kinh văn. Phần trên nói rằng ngài Di-lặc nhìn thấy ở các cõi kia, ban đầu [Phật thuyết] đốn giáo, sau đó lại thấy [Phật thuyết] tiệm giáo. Sau tiệm giáo rồi lại thấy đủ mọi công hạnh [của hàng Bồ Tát]. Sau khi thấy các công hạnh rồi không thấy cảnh giới nào khác, chỉ tiếp đến thấy Phật nhập Niết-bàn.
Trong lời giải đáp của ngài Văn-thù kể lại rằng đã từng gặp Phật, trước tiên thuyết đốn giáo, sau là tiệm giáo rồi đến đủ mọi công hạnh, sau đó nữa là thuyết kinh Pháp hoa. Như vậy sau khi hiện sáu điềm lành ở cõi này và các cõi kia rồi thì sẽ thuyết kinh Pháp hoa. Sau khi thuyết kinh Pháp hoa rồi là nhập Niết-bàn. Đây rõ ràng là nêu ra để giải đáp nghi vấn [của ngài Di-lặc] về [những điều nhìn thấy] ở các cõi kia.
Tiểu đoạn thứ ba từ câu
“60 tiểu kiếp” trở đi, nói việc [đức Phật xưa và đức Phật ngày nay thuyết pháp] thời gian và nhân duyên giống nhau, như trong kinh văn phần sau nói 50 tiểu kiếp xem như nửa ngày,
[34] tức là [thời gian] cũng giống như nhau.
KINH VĂNĐức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh qua 60 tiểu kiếp thuyết kinh này rồi, liền tuyên bố với chúng hội gồm các vị phạm chí, ma, sa-môn, bà-la-môn, chư thiên, người, a-tu-la rằng: “Hôm nay vào lúc giữa đêm, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn Vô dư.”Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh qua 60 tiểu kiếp thuyết kinh này rồi” trở đi, nói việc [đức Phật thuở xưa và đức Phật ngày nay] báo trước sự nhập diệt đều giống nhau. [Đức Phật] thuở xưa sau khi thuyết kinh Pháp hoa rồi liền báo trước sự nhập diệt, cũng giống như các đức Phật Ca-diếp [trước đó] v.v. Đức Phật ngày nay trong phẩm Hiện bảo tháp [của kinh này] cũng nói rõ “còn chẳng bao lâu nữa Như Lai sẽ vào Niết-bàn”.
[35] Sau khi giáo hóa truyền đạo đã trọn vẹn liền xướng lên báo trước việc nhập diệt, sự việc này xưa và nay giống nhau.
KINH VĂNBấy giờ có vị Bồ Tát tên là Đức Tạng, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh liền thụ ký, nói với các vị tỳ-kheo: “Bồ Tát Đức Tạng này sẽ thành Phật tiếp theo, hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác...Tiểu đoạn thứ năm từ câu “Bấy giờ có vị Bồ Tát...” trở đi, nêu việc [đức Phật thuở xưa và đức Phật ngày nay] thụ ký giống nhau. Nhưng đức Phật thuở xưa thụ ký cho ngài Đức Tạng [thuộc hàng] Bồ Tát, còn kinh này ngày nay thụ ký cho hàng Thanh văn, sao có thể giống nhau? Đó là vì thuở xưa [việc giáo hóa] đã hoàn thành, cho nên chỉ nói thụ ký cho Bồ Tát, nhưng thật ra vì [giáo pháp kinh này dạy] ba thừa cùng quy về một Phật thừa, cho nên Thanh văn cũng được thụ ký. Nhưng nếu kể việc xưa có thụ ký cho hàng Thanh văn thì sau khi Phật xuất định có gì để phải luận bàn? Ngài Văn-thù khéo léo trong sự trình bày nên không nêu việc phát khởi tích môn. Nếu là thụ ký cho Bồ Tát thì hết thảy các kinh đều nói như thế, những kẻ bám chấp giáo pháp [Nhị thừa] sẽ chưa lấy làm kinh sợ. Đại lược là như vậy.
KINH VĂNĐức Phật thụ ký rồi, đến giữa đêm liền nhập Niết-bàn Vô dư. Sau khi Phật diệt độ, Bồ Tát Diệu Quang thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trọn 80 tiểu kiếp vì người khác giảng thuyết. Tám người con của đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều thờ ngài Diệu Quang làm thầy, được ngài dạy dỗ, khiến cho được tâm kiên cố đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh Giác. Các vương tử này, sau khi cúng dường vô số trăm ngàn muôn ức vị Phật rồi thảy đều thành Phật. Vị thành Phật sau cùng hiệu là Nhiên Đăng. Trong số 800 đệ tử, có một người tên là Cầu Danh, tham chấp lợi dưỡng, tuy cũng tụng đọc kinh điển nhưng không thông hiểu, phần nhiều đều quên mất, cho nên có hiệu là Cầu Danh. Người này vì cũng từng gieo trồng nhiều căn lành nên được gặp vô số trăm ngàn muôn ức đức Phật, đều cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán. Ngài Di-lặc nên biết, Bồ Tát Diệu Quang thuở ấy nào phải ai khác, chính là tôi đây. Còn Bồ Tát Cầu Danh chính là ngài đó.Tiểu đoạn thứ sáu từ câu “Đức Phật thụ ký rồi, đến giữa đêm liền nhập Niết-bàn...” trở đi, nêu việc lưu thông kinh này [thuở xưa với ngày nay đều] giống nhau. Tiểu đoạn này lại có 5 phân đoạn. Thứ nhất là nêu thời gian nhân duyên, tức là sau khi Phật nhập diệt. Thứ hai là nêu ra người thọ trì lưu thông kinh, tức là Bồ Tát Diệu Quang. Thứ ba là nêu thời gian lâu mau, tức là nói 80 tiểu kiếp. Thứ tư là nêu chúng được giáo hóa, tức là 8 người con và 800 [đệ tử của ngài Diệu Quang]. Thứ năm là kết lại gặp [người] xưa nay, tức là các vị Cầu Danh, [nay là Di-lặc, Diệu Quang nay là Văn-thù, tức là] Diệu Đức v.v.
[Trong phân đoạn thứ tư] nêu việc chúng được giáo hóa lại chia thành hai ý. w Ý thứ nhất nói 8 người con [Phật] tu hành thành tựu, đều đã thành Phật từ lâu. w Ý thứ hai nói trong 800 vị đệ tử có một vị vừa sắp thành Phật, nay đang trụ ở địa vị [nhất sinh] bổ xứ. Sở dĩ dẫn ra 8 người con Phật và 800 đệ tử là vì cần thiết để giải thích điều nghi và ngấm ngầm khai mở thọ lượng [Như Lai].
Về việc giải thích điều nghi, vì có người nói ngài Di-lặc ở địa vị bổ xứ là lớn, ngài Văn-thù không phải địa vị bổ xứ nên là nhỏ. Địa vị nhỏ lẽ ra không nên đáp, địa vị lớn lẽ ra không nên hỏi. Do vậy nên nêu ra việc 800 đệ tử, đối với người nghi ngờ như trên nên hỏi lại. Bồ Tát Diệu Quang [tức ngài Văn-thù] thuở xưa tự thân trực tiếp gặp Phật, lại là thầy [của 8 người con Phật], nên có thể giải thích điều nghi không sai lầm.
Về việc ngấm ngầm khai mở thọ lượng [Như Lai], trong 8 người con [của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh] thì vị thành Phật sau cùng
[36] hiệu là Nhiên Đăng. Phật Nhiên Đăng cũng tức là Phật Định Quang, [trước đây thụ ký cho Phật Thích-ca], cho nên ngài Diệu Quang là tổ sư 9 đời của Phật Thích-ca. Đệ tôn bây giờ thành Phật, tổ sư lại làm đệ tử, nên biết quan hệ thầy trò không có sự xác định, làm như vậy để ngầm hiển bày ý nghĩa “sinh mà chẳng sinh, diệt mà chẳng diệt”.
●
Hỏi: Bồ Tát Di-lặc thuở xưa đã gặp chư Phật, từng nghe kinh Pháp hoa, sao bây giờ lại có chỗ nghi?
●
Đáp: Vì cơ duyên chúng hội hiện thời có nghi nên nêu ra để hỏi.
4. Giải đáp phân biệt sáng tỏ
KINH VĂNNay tôi thấy điềm lành này so với thuở xưa không khác, nên suy xét rằng: “Hôm nay đức Như Lai sẽ thuyết giảng kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.”Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi ở giữa đại chúng muốn trùng tuyên ý nghĩa trên nên đọc kệ rằng:
Phần thứ tư từ “Nay thấy điềm lành này so với thuở xưa không khác” trở đi gọi là giải đáp theo sự phán xét phân biệt rõ ràng. So sánh ngày nay và thuở xưa đã thấy 6 điềm lành giống nhau. Từ sự suy nghĩ lượng xét đã quyết định không sai, lại dựa theo sơ lược cho đến mở rộng những điều từng thấy trong quá khứ cũng đều quyết định chắc chắn như vậy. Vì [Phật] quyết định sẽ thuyết kinh Đại thừa nên có điềm lành thuyết pháp trước. Vì kinh này quyết định sẽ có tên gọi là Diệu Pháp Liên Hoa nên có điềm lành trời mưa hoa trước. Vì kinh này quyết định sẽ là giáo pháp dạy cho hàng Bồ Tát nên có điềm lành đại chúng trong lòng hoan hỷ trước. Vì kinh này quyết định sẽ được chư Phật hộ niệm nên có điềm lành cõi đất chấn động trước. Riêng điềm lành [Phật] nhập định thì đã bao hàm trong tất cả những điều trên.
Có người nói [so việc thuở xưa với ngày nay thì] đúng là giống nhau ở việc vừa xảy ra và việc sắp sẽ ra, nhưng việc đang diễn ra thì không giống. Xét trong kinh văn thấy [ngài Văn-thù-sư-lợi] nói rằng: “Nay thấy những điềm lành này so với thuở xưa không khác.” Câu này chính là nói việc hiện nay đang diễn ra, vì sao đổi lại nói rằng 6 điềm lành là đã qua? Căn cứ theo câu kinh văn này nói việc hiện nay, nên đưa ra sự giải thích về cả 3 điều giống nhau là [đã giống, đang giống và sẽ giống].
Giải thích phần kệ tụngKINH VĂNTôi nhớ đời quá khứ,Vô lượng vô số kiếp,Có Phật, đấng cao quý,Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh.Thế Tôn thuyết giảng pháp,Độ vô lượng chúng sinh,Vô số ức Bồ Tát,Khiến vào trí tuệ Phật.Phần kệ tụng [trùng tuyên của ngài Văn-thù-sư-lợi] có 45 khổ kệ, trong đó không tụng lại nội dung giải đáp theo suy nghĩ lượng xét và sơ lược những điều từng thấy. Trong nội dung mở rộng những điều từng thấy thì chỉ tụng lại phần trước và phần sau, không tụng lại phần ở giữa.
Phần thứ nhất, 2 khổ kệ đầu tiên nói rộng những việc từng thấy trong quá khứ, nêu ra các ý thời gian nhân duyên, tên kinh và việc thuyết pháp đều giống với việc ngày nay.
KINH VĂNKhi Phật chưa xuất gia,Sinh ra tám vương tử,Thấy Đại thánh xuất gia,Cũng theo tu thanh tịnh.Khi Phật thuyết Đại thừa,Kinh tên Vô Lượng Nghĩa,Liền ở giữa đại chúng,Vì người rộng phân biệt.Phật thuyết kinh ấy rồi,Liền ngồi trên pháp tòa,Kết già nhập tam-muội,Tên Vô Lượng Nghĩa Xứ.Trời mưa hoa mạn-đà,Trống trời tự nhiên vang,Chư thiên, rồng, quỷ thần,Cúng dường Bậc Tôn quý.Hết thảy bao cõi Phật,Đều tức thời chấn động,Phật phóng quang giữa mày,Hiện những việc ít có.Phần thứ hai, từ câu “Khi Phật chưa xuất gia” trở đi gồm 39 khổ kệ, nêu việc vị Phật sau cùng có đủ 3 điều giống với ngày nay. Phần thứ ba gồm 4 khổ kệ cuối cùng, nêu lời giải đáp khẳng định chắc chắn.
Phần thứ hai nêu ba điều giống với ngày nay lại chia làm 3 tổng đoạn. © Tổng đoạn đầu tiên có 1 khổ kệ, nêu việc từng thấy so với việc vừa xảy ra hiện nay giống nhau. Tổng đoạn thứ hai có 15 khổ rưỡi kệ (62 câu), nêu việc từng thấy so với việc đang xảy ra hiện nay giống nhau. Tổng đoạn thứ ba có 22 khổ rưỡi kệ (90 câu), nêu việc từng thấy so với việc sắp xảy ra hiện nay giống nhau.
Tổng đoạn thứ hai, từ câu “khi Phật thuyết Đại thừa” trở đi nêu việc đang xảy ra giống với thuở xưa lại chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất gồm 14 khổ kệ, nêu 6 điềm lành ở cõi này và cõi kia. Đoạn thứ hai từ câu “bấy giờ cả bốn chúng” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu sự hoài nghi của bốn chúng. Đoạn thứ nhất lại chia làm 2 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất gồm 4 khổ kệ, nêu 6 điềm lành ở cõi này xưa nay giống nhau. Phần này có thêm ý “trống trời tự nhiên vang” là biểu ý “vô vấn tự thuyết”, không thưa hỏi mà [Phật] tự nói ra. Kệ nói “hiện những việc ít có” tức là nói chung về các điềm lành.
KINH VĂNHào quang chiếu phương đông,Mười tám ngàn cõi Phật,Chúng sinh đều được thấy,Chỗ nghiệp báo sinh tử.Cũng thấy các cõi Phật,Dùng châu báu trang nghiêm,Màu lưu ly, pha lê,Đều do hào quang Phật.Lại thấy chúng trời người,Rồng, thần và dạ-xoa,Càn-thát, khẩn na la,Đều cúng dường Phật ấy.Lại thấy các vị Phật,Tự nhiên thành Phật đạo,Thân sáng như núi vàng,Đoan nghiêm rất vi diệu.Trong sạch như lưu ly,Hiện thành tượng vàng ròng,Thế Tôn giữa đại chúng,Rộng thuyết pháp sâu mầu.Nơi mỗi một cõi Phật,Có vô số Thanh văn,Nương hào quang Phật chiếu,Thấy rõ các chúng ấy.Hoặc có những tỳ-kheo,Thường sống giữa núi rừng,Tinh tấn giữ giới hạnh,Như giữ hạt minh châu.Lại nhờ hào quang Phật,Thấy được các Bồ Tát,Hành bố thí, nhẫn nhục...Nhiều như cát sông Hằng.Lại thấy các Bồ Tát,Vào sâu các thiền định,Thân tâm lặng chẳng động,Để cầu đạo Vô thượng.Lại thấy các Bồ Tát,Biết tướng pháp tịch diệt,Ở nơi cõi nước mình,Thuyết pháp cầu đạo Phật.Tiểu đoạn thứ hai từ câu “hào quang chiếu phương đông ” trở đi gồm 10 khổ kệ, nêu việc sáu điềm lành ở các cõi kia xưa nay giống nhau. Phần văn trường hàng chỉ nói “như các cõi Phật ngày nay nhìn thấy”, đó là lược nói. Phần kệ tụng này nói mở rộng hơn. Tiểu đoạn này chia làm 5 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, nêu việc thấy chúng sinh trong sáu đường cũng giống như xưa. Phân đoạn thứ hai từ câu “lại thấy các vị Phật” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu việc thấy Phật cũng giống như xưa. Phân đoạn thứ ba từ câu “Thế tôn giữa đại chúng” trở đi gồm 2 câu (nửa khổ kệ), nêu việc Phật thuyết đốn giáo, 7 điều thiện [của Đại thừa] cũng giống như xưa. Phân đoạn thứ tư từ câu “nơi mỗi một cõi Phật” trở đi gồm 3 khổ kệ, nêu việc nhìn thấy chúng Thanh văn, Duyên giác... đủ ba thừa, tức là thuở xưa chư Phật khai trừ giáo pháp tiệm giáo cũng giống như ngày nay. Phân đoạn thứ năm từ “lại thấy các Bồ Tát” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu việc nhìn thấy đủ mọi nhân duyên của hàng Bồ Tát, tức là nói việc khai mở các giáo pháp Phương đẳng, Bát-nhã cũng giống như ngày nay.
§ Phân đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ có thể hiểu rõ ràng đúng theo kinh văn.
§ Phân đoạn thứ hai gồm một khổ rưỡi kệ, nay giải thích câu “tự nhiên thành Phật đạo”. Nếu tu phương tiện đạo thì phải gia tâm nỗ lực trong việc tu tập, nhưng theo phát chân đạo thì tự nhiên tùy thuận mà hợp nhau với lẽ thật. Lược theo giáo pháp Tứ giáo
[37] thì có thể biết. Đại lược là như vậy.
●
Hỏi: Nếu nói tu tập phát chân đạo chỉ cần thuận tự nhiên, vậy cần gì đến chư Phật thuyết pháp?
●
Đáp: Như thuyền trôi xuôi theo dòng chảy, nếu gặp gió thuận chiều, lại thêm có người ra sức chèo, ắt sẽ đến nơi nhanh hơn. Gió thuận chiều là ví dụ như việc gặp Phật, nghe pháp. Thêm sức người chèo là ví dụ như sự nỗ lực tu hành. Lấy ví dụ như từ sơ quả, thuận theo tự nhiên phải qua 7 lần tái sinh, nếu được gặp Phật và nỗ lực tu hành thì chỉ cần một hoặc hai lần tái sinh đã có thể đạt đến quả vị vô học. Đại lược là như vậy. “Tự nhiên thành Phật đạo” là nói báo thân, “lưu ly” là pháp thân vốn thanh tịnh, “tượng vàng” là ứng theo vật mà hiện hành hình.
§ Phân đoạn thứ ba gồm hai câu “Thế Tôn giữa đại chúng, rộng thuyết pháp sâu mầu”. Ở đây có thể dựa vào giáo pháp mà ước định về người [nghe pháp]. Pháp đã sâu xa huyền diệu, tất nhiên biết được [đức Phật] chuyển vận căn cơ lớn, khai mở đốn giáo. Hai câu kệ tụng này là ý nghĩa phần văn trường hàng ở trên đã nói “thuần nhất vô tạp”, nằm trong phần nói về 7 điều thiện [của Đại thừa].
§ Phân đoạn thứ tư từ “nơi mỗi một cõi Phật, có vô số Thanh văn” trở đi, gồm 3 khổ kệ. Ở đây có thể dựa vào người [nghe pháp] mà ước định về giáo pháp. Người [nghe pháp] đã là [hàng Thanh văn] thuộc Nhị thừa, tất nhiên biết được [đức Phật] mở ra thuyết giáo pháp Tạng giáo.
Phần kệ tụng này là ý nghĩa [phần văn trường hàng] ở trên đã nói như là “vì người cầu quả Thanh văn, thuyết pháp Tứ đế thích hợp” v.v. Tuy trong kệ không nêu ra hàng Duyên giác nhưng ý nghĩa tự bao hàm trong đó. Kệ tụng nói “hành bố thí, nhẫn nhục...” hàm ý bao gồm cả bốn pháp ba-la-mật [còn lại]. Cho nên phần này
[38] là nói về 6 pháp ba-la-mật của Đại thừa.
§ Phân đoạn thứ năm từ câu “Lại thấy các Bồ Tát, vào sâu các thiền định” trở đi, gồm 2 khổ kệ, nêu lại ý nghĩa trong đoạn kinh văn ở trên đã nói “lại thấy các vị Bồ Tát Ma-ha-tát với đủ mọi nhân duyên, đủ mọi tín giải, đủ mọi tướng mạo”.
Ở đây lược bớt không nêu ý giải đáp về việc xây dựng bảo tháp [thờ xá-lợi Phật trong đoạn kinh văn tiếp theo]. Vì trong kinh văn phần trên không nói việc thấy Phật thuyết kinh Pháp hoa ở các cõi khác mà tiếp theo nói việc xây dựng tháp [thờ xá-lợi Phật].
Nay trong phần giải đáp có nêu việc Phật thuyết kinh Pháp hoa [ở các cõi khác] cho nên đưa việc nhập diệt và xây dựng tháp thờ xá-lợi Phật về sau.
KINH VĂNBấy giờ cả bốn chúng,Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng,Hiện sức thần thông lớn,Trong tâm đều hoan hỉ,Các vị cùng hỏi nhau,Đây là nhân duyên gì?Đoạn thứ hai từ câu “Bấy giờ cả bốn chúng” trở đi, gồm một khổ rưỡi kệ, nêu lại lòng nghi của bốn chúng vào thuở đức Phật xưa, ý nghĩa có thể hiểu rõ ràng theo như kinh văn.
KINH VĂNĐấng trời người tôn kính,Vừa ra khỏi tam-muội,Khen Bồ Tát Diệu Quang,Ông là tai mắt đời,Người người đều tin theo.Có thể giữ kho pháp,Những gì ta thuyết giảng,Chỉ riêng ông rõ biết.Thế Tôn ngợi khen rồi,Khiến Diệu Quang hoan hỷ,Liền thuyết kinh Pháp hoa,Trọn sáu mươi tiểu kiếp,Không rời khỏi chỗ ngồi.Pháp nhiệm mầu Phật thuyết,Ngài Pháp sư Diệu Quang,Đều có thể thọ trì.Tổng đoạn thứ ba từ câu “Đấng trời người tôn kính” trở đi, gồm có 22 khổ rưỡi kệ, nêu việc thuở xưa với những việc ngày nay sắp xảy ra giống nhau. Cấu trúc đoạn này chia làm 6 đoạn.
Đoạn thứ nhất gồm 2 khổ rưỡi kệ, nêu việc nhân nơi người [mà thuyết pháp] giống nhau.
Đoạn thứ hai là câu “Liền thuyết kinh Pháp hoa”, nêu lại việc thuyết pháp [xưa và nay] giống nhau.
Đoạn thứ ba từ câu “trọn sáu mươi tiểu kiếp” trở đi, gồm 5 câu kệ, nêu lại việc thời gian nhân duyên [xưa và nay] giống nhau. Đây là lược nói về trí diên xúc kiếp
[39] không thể nghĩ bàn [của chư Phật]. Ngài Diệu Quang thọ trì hết thảy pháp Phật thuyết thuở xưa, cũng giống như ngài Xá-lợi-phất nhận sự phó chúc của đức Phật [ngày nay].
KINH VĂNPhật thuyết kinh Pháp hoa,Khiến đại chúng hoan hỷ,Rồi ngay trong ngày ấy,Bảo khắp chúng trời, người:“Nghĩa thật tướng các pháp,Đã vì chúng giảng thuyết,Nay vào giữa đêm này,Ta sẽ nhập Niết-bàn.Hãy chuyên tâm tinh tấn,Lìa xa thói phóng túng,Cơ hội gặp Phật khó,Trăm ngàn kiếp mới có.”Hàng đệ tử Thế Tôn,Nghe Phật nhập Niết-bàn,Ai ai cũng bi thương,Sao Phật chóng nhập diệt?Bậc Thánh chủ Pháp vương,An ủi vô số chúng:“Như Ta diệt độ rồi,Các người chớ lo sợ.Đoạn thứ tư từ câu “Phật thuyết kinh Pháp hoa” trở đi gồm 5 khổ kệ nêu lại việc [đức Phật] báo trước sự nhập diệt [xưa nay] giống nhau, tức là giải đáp ý nghi vấn về việc nhập diệt [của chư Phật] ở các cõi kia.
Nói chung phần này có đủ hai ý báo trước sự nhập diệt và chúc lụy. Về chúc lụy cũng giống như trong kinh Di giáo. Có nội dung bi thương buồn bã [khi Phật nhập diệt] như trong kinh Niết-bàn, cũng có sự an ủi dặn dò giống như trong kinh Di giáo.
[Vào lúc chư Phật nhập Niết-bàn], những người có thể hóa độ đều đã được hóa độ, những người chưa được hóa độ đều đã tạo được nhân duyên [trong tương lai] sẽ được hóa độ, cũng giống như đức Phật hiện nay sẽ phó chúc cho ngài Di-lặc. Đại lược là như vậy.
KINH VĂNBồ Tát Đức Tạng đây,Tâm đã rõ thông được,Tướng thật pháp vô lậu,Kế tiếp sẽ thành Phật,Hiệu Tịnh Thân Như Lai,Cũng độ vô số chúng.”Đêm ấy Phật diệt độ,Như củi hết lửa tắt.Phân chia Xá-lợi Phật,Rồi dựng vô số tháp.Tỳ-kheo, tỳ-kheo ni,Nhiều như cát sông Hằng,Lại càng thêm tinh tấn,Để cầu đạo Vô thượng.Ngài Pháp sư Diệu Quang,Vâng giữ Pháp tạng Phật,Trong tám mươi tiểu kiếp,Rộng thuyết kinh Pháp hoa.Đoạn thứ năm từ câu “Bồ Tát Đức Tạng này” trở đi gồm một khổ rưỡi kệ, nêu lại việc Phật thụ ký.
Đoạn thứ sáu từ câu “đêm ấy Phật diệt độ” trở đi gồm 12 khổ kệ, nêu lại việc lưu thông kinh này như đã nói trên. Nội dung lưu thông này lại có 5 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn đầu tiên có 2 khổ kệ, nêu lại thời gian nhân duyên lúc Phật nhập diệt thì bốn chúng đều được lợi ích. [Lời kệ nói] “như củi hết lửa tắt”, đối với chư Phật Tiểu thừa
[40] thì báo thân là củi, trí tuệ là lửa. Trí tuệ ấy nương vào báo thân nên khi thân diệt thì trí mất. Đối với chư Phật Đại thừa thì cơ duyên [hóa độ chúng sanh] là củi, sự ứng hợp là lửa. Khi cơ duyên giáo hóa chúng sinh dứt hết thì hình hài ứng hiện cũng diệt. [Lại nói] “lại càng thêm tinh tấn”, nên [chư Phật] dùng sự diệt độ để hóa độ, [khiến cho chúng sinh tăng thêm sự tinh tấn].
Tiểu đoạn thứ hai gồm câu “ngài Pháp sư Diệu Quang” và câu tiếp theo, nêu lại về người có năng lực hoằng truyền kinh này.
Tiểu đoạn thứ ba gồm câu “trong tám mươi tiểu kiếp” trở đi và câu tiếp theo, nêu lại về thời gian nhân duyên hành trì kinh này.
KINH VĂNTám vương tử con Phật,Được Diệu Quang chỉ bày,Vững vàng trong đạo Phật,Rồi gặp vô số Phật,Đều cung kính cúng dường,Vâng theo tu hành đạo,Tiếp nối đều thành Phật,Lần lượt được thụ ký,Cho đến Phật sau cùng,Hiệu là Phật Nhiên Đăng,Là thầy các tiên nhân,Độ thoát vô số chúng.Ngài Pháp sư Diệu Quang,Lại có một đệ tử,Thường ôm lòng biếng nhác,Mê đắm đường danh lợi,Tham cầu không biết chán,Giao du các nhà giàu,Tụng kinh rồi vất bỏ,Quên mất không rõ nghĩa.Vì nhân duyên như thế,Nên tên là Cầu Danh.Nhưng tạo các nghiệp lành,Được gặp vô số Phật,Cúng dường chư Phật rồi,Vâng theo, tu hành đạo,Đủ sáu ba-la-mật,Nay gặp đức Thích-ca.Sau này sẽ thành Phật,Hiệu là Phật Di-lặc,Rộng độ khắp chúng sinh,Số nhiều đến vô lượng.Tiểu đoạn thứ tư từ câu “tám vương tử con Phật” trở đi gồm 8 khổ kệ, nêu lại chỗ lợi ích cho đệ tử. Tiểu đoạn này lại có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ đầu, nêu việc chúng đệ tử sau đó đều thành Phật. Phân đoạn thứ hai từ câu “Ngài Pháp sư Diệu Quang lại có một đệ tử” trở đi gồm 5 khổ kệ, nêu việc người đệ tử này cũng sẽ thành Phật.
KINH VĂNPhật xưa diệt độ rồi,Cầu Danh chính là ông.Còn Pháp sư Diệu Quang,Nay chính là tôi đây.Tôi thấy Phật Đăng Minh,Xưa phóng quang như thế,Nên biết Phật ngày nay,Sắp thuyết kinh Pháp hoa.Tướng nay, điềm lành xưa,Là phương tiện chư Phật.Nay Phật phóng hào quang,Giúp hiện nghĩa tướng thật.Chư vị nay nên biết,Chắp tay một lòng chờ,Phật sẽ ban mưa pháp,Sung túc người cầu đạo,Người cầu quả Tam thừa,Nếu như còn nghi vấn,Phật sẽ giúp đoạn trừ,Dứt sạch không còn nghi.Tiểu đoạn thứ năm từ câu “Phật xưa diệt độ rồi” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu lại sự tương hợp giữa người thuở xưa và người hiện nay.
[Phần thứ ba] gồm 4 khổ kệ cuối cùng, các nhà cựu giải cho đây là đoạn kết lại để khiến cho muôn loài đều kính ngưỡng mến mộ. Nay sẽ giải thích rõ là không phải vậy.
Phần văn trường hàng ở trên có nội dung giải đáp theo sự phán xét phân biệt rõ ràng, chính là [được trùng tuyên] trong phần kệ tụng này. Phần này lại chia làm 3 tổng đoạn.
Tổng đoạn đầu tiên từ câu “tôi thấy Phật Đăng Minh” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu lại việc [đức Phật] sẽ nói kinh Đại thừa [Diệu Pháp Liên Hoa].
Tổng đoạn thứ hai từ câu “tướng nay [giống như] điềm lành xưa” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu lại việc thuyết giảng giáo pháp cho hàng Bồ Tát.
Tổng đoạn thứ ba từ câu “người cầu quả Tam thừa” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu lại việc chư Phật hộ niệm [người tu tập], y theo kinh văn có thể hiểu rõ được.
Lại nữa, phần trước ngài Di-lặc đã giải thích rõ bốn lần gặng hỏi, khiến cho ngài Văn-thù nhất định phải đưa ra lời giải đáp. Trong phần này, ngài Văn-thù lại làm rõ để đoạn trừ 4 điều nghi vấn tiềm tàng, khiến ngài Di-lặc không cần phải nêu ra để hỏi.
Điều nghi thứ nhất là khi ngài Văn-thù rộng dẫn việc chư Phật trước đây thuyết kinh Pháp hoa, ngài Di-lặc nhân đó liền có lòng nghi tiềm tàng muốn hỏi: “Chư Phật thuyết pháp tùy theo nhân duyên, người nghe pháp mỗi thời kỳ đều khác nhau. Như vậy, chư Phật thuở xưa thuyết kinh gọi là Pháp hoa nhưng đức Phật ngày nay đâu nhất thiết sẽ như vậy?”
Ngài Văn-thù liền nói đoạn kệ thứ nhất để dứt mối nghi [cho ngài Di-lặc].
Tôi thấy Phật Đăng Minh,
Xưa phóng quang như thế,
Nên biết Phật ngày nay,
Sắp thuyết kinh Pháp hoa.
Đây là dứt mối nghi về tên gọi của kinh này.
Ngài Di-lặc nhân câu trả lời này lại khởi điều nghi [thứ hai]. “Tên kinh và nghĩa kinh có thể giống nhau, nhưng tên kinh và nghĩa kinh cũng có thể khác nhau, vậy làm sao biết tên kinh [Pháp hoa] này hiển lộ điềm báo thuộc loại nào?”
Ngài Văn-thù liền nói đoạn kệ thứ hai để dứt trừ mối nghi này:
Tướng nay, điềm lành xưa,
Là phương tiện chư Phật.
Nay Phật phóng hào quang,
Giúp hiện nghĩa tướng thật.
Đây là dứt mối nghi về tánh thể của kinh này.
Ngài Di-lặc nhân câu trả lời này lại khởi lòng nghi: “Thật tướng vốn không có tướng, ai là người nhận hiểu được?” Ngài Văn-thù liền nói đoạn kệ thứ ba để dứt mối nghi này.
Chư vị nay nên biết,
Chắp tay một lòng chờ,
Phật sẽ ban mưa pháp,
Sung túc người cầu đạo,
Đây là đoạn trừ mối nghi về tông chỉ của kinh này.
Ngài Di-lặc nhân câu trả lời này lại khởi lòng nghi: “Phật ban mưa pháp thích hợp với hàng Bồ Tát, lẽ nào cũng tốt cho hàng Nhị thừa?” Ngài Văn-thù liền nói đoạn kệ thứ tư để dứt trừ mối nghi này.
Người cầu quả Tam thừa,
Nếu như còn nghi vấn,
Phật sẽ giúp đoạn trừ,
Dứt sạch không còn nghi.
Đây là đoạn trừ mối nghi về hoạt dụng của kinh này.
Ngài Di-lặc lắm phen khởi nghi, ngài Văn-thù lại nhiều lần dứt trừ, cho đến khi việc đã cùng, lý đã tận liền có chỗ đạt được trong lòng. Đây có thể nói là khéo hỏi khéo đáp, đầy đủ hai sự trang nghiêm.
Ngài Quang Trạch chỉ thuật lại theo ý Chiêu sư trước đây, giải thích [việc ngài Di-lặc đáp lại] bốn lần gặng hỏi khiến ngài Văn-thù phải đưa ra lời giải đáp. Nêu rõ được điểm tốt đẹp của ngài Di-lặc mà không thấy việc ngài Văn-thù giải thích bốn mối nghi tiềm tàng khiến cho ngài Di-lặc không cần phải hỏi, như vậy là làm ẩn khuất tài năng của ngài Văn-thù (Diệu Đức). Ý nghĩa này phát xuất từ tông Thiên Thai, không phải được truyền lại từ các bản sớ giải khác. Đây cũng là nhắn gửi người đời sau chớ để khuất lấp đi chỗ tốt đẹp của người trước.
Kể từ Chiêu sư về sau, trong suốt mấy trăm năm, người giảng giải kinh Pháp hoa rất nhiều, liệu có ai thấy được ý nghĩa này chăng? [Hiểu được như trên] chẳng phải tốt đẹp thì là gì?
_________________________________________________
CHÚ THÍCH[1] Nguyên tác dùng “大經 - Đại kinh”, thường mang nghĩa là kinh quan trọng nhất. Ý nghĩa quan trọng nhất này được hiểu khác nhau ở mỗi tông phái. Vì sách này biên soạn chủ yếu theo giáo lý tông Thiên Thai nên Đại kinh ở đây chỉ kinh Đại Bát Niết-bàn, được xem là quan trọng nhất. Câu trích dẫn này nằm trong kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 2, phẩm Ai thán thứ 3: “動時能令眾生心動 - Động thời năng linh chúng sinh tâm động.” (ĐCT, 12, 375, tr.615a, d.24)
[2] Nguyên tác dùng Quán Phật Hải Tam-muội kinh (觀佛海三昧經), nhưng đoạn trích dẫn này thật ra được trích lại từ Pháp hoa nghĩa sớ (法華義疏) (ĐCT, T34, 1721). Tuy nhiên, Pháp hoa nghĩa sớ ghi tên kinh này là Quán Phật Tam-muội kinh (觀佛三昧經), trong khi tên chính thức hiện còn trong Đại Chánh tạng là Phật thuyết Quán Phật Tam-muội hải kinh (佛說觀佛三昧海經) (ĐCT, T15, 643).
[3] Ở đây là thước cổ, bằng khoảng 33 cm.
[4] Nguyên tác là “一丈四尺 - nhất trượng tứ xích”, mỗi trượng là 10 thước.
[5] Nguyên tác dùng Nhị đế, thông thường là chỉ Chân đế và Tục đế, nhưng trong ngữ cảnh trình bày giáo lý tông Thiên Thai nên đây là Không đế và Giả đế, hợp với Trung đạo thành Tam đế của tông Thiên Thai.
[6] Nguyên tác dùng diện môn (面門) được dịch từ Phạn ngữ mukha, có ba nghĩa khác nhau, chỉ miệng, hoặc cả khuôn mặt, hoặc khoảng ngay dưới mũi và trên miệng. Trong trường hợp kinh Đại Bát Niết-bàn có thể hiểu là cả khuôn mặt. Tuy nhiên, Văn Cú Ký giải thích là từ nơi miệng.
[7] Nguyên tác nói “育王經 - Dục vương kinh”, tức là A-dục vương kinh (阿育王經), do ngài Tăng-già-ba-la Hán dịch. (ĐCT, T50, 2043)
[8] Văn Cú dùng “膩吒天 - Nị-trá thiên”, Văn Cú Ký thay bằng “尼吒 - Ni-trá thiên”. Đây đều là nói giản lược để chỉ A-ca-ni-trá thiên (阿迦尼吒天), phiên âm từ Phạn ngữ Akaniṣṭha-deva, là một trong 18 tầng trời của Sắc giới (色界十八天) và là cõi trời cao nhất, một trong Ngũ Tịnh cư thiên (五淨居天), cũng được gọi là cõi trời Hữu đỉnh (有頂天), Nhất cứu cánh thiên (一 究竟天) hay Nhất thiện thiên (一善天).
[9] Nguyên tác dùng “生身 - sinh thân”, tức là thân do cha mẹ sinh ra, cũng gọi là thân thế gian hay nhục thân, tức là thân xác thịt. Thân này phân biệt với pháp thân không hình tướng, không giới hạn.
[10] Nguyên tác dùng “增道損生 - tăng đạo tổn sinh”, chỉ việc Bồ Tát tu tập đúng hướng nên trí tuệ về Trung đạo ngày càng tăng trưởng và biến dịch sinh tử ngày càng suy giảm. Đây là giáo lý đặc thù của tông Thiên Thai.
[11] Nguyên tác dùng “四位 - tứ vị”, ở đây chỉ Noãn vị, Đỉnh vị, Nhẫn vị và Thế đệ nhất pháp vị.
[12] 18 giới hay thập bát giới là chỉ 18 phạm vi do sáu căn tiếp xúc với sáu trần có sáu thức sinh ra ở khoảng giữa. Sáu căn thuộc về thân thể nên gọi là sáu nội giới, sáu trần thuộc về ngoại cảnh nên gọi là sáu ngoại giới, sáu thức khởi sinh ở giữa do sự tiếp xúc giữa căn với trần nên gọi là sáu trung giới.
[13] Tức là các thế giới về phương đông được hào quang Phật soi chiếu.
[14] Kinh văn trong Đại Chánh tạng (Tập 9, 262, trang 2b), từ d.19 đến d.23.
[15] Tức kinh văn đã dẫn trên, d.23 - 24.
[16] Cộng và bất cộng, có nghĩa là chung cùng hoặc không chung cùng, chỉ các pháp có thể thích hợp, cộng thông với các pháp khác hoặc chỉ có thể hiện hành riêng biệt không chung cùng. Chẳng hạn như những công đức mà chỉ có chư Phật mới có được thì gọi là bất cộng, vì không chung cùng với hàng Bồ Tát hay Nhị thừa.
[17] Đây là trích từ kinh văn: “四眾欣仰瞻仁及我 - Tứ chúng hân ngưỡng chiêm nhân cập ngã.” (ĐCT, T9, 262, trang 3c, d.4.)
[18] Trong nguyên tác đến đây hết quyển 2, bắt đầu quyển 3.
[19] Ở đây không nói trực diện nhưng là nêu ra để gián tiếp bác bỏ cách giải thích của một số nhà cựu giải kinh Pháp hoa.
[20] Trung thừa: tức Duyên giác thừa, cũng gọi là Bích-chi Phật thừa.
[21] Sáu tâm che chướng, tức lục tế, chỉ các tâm xấu ác làm quấy nhiễu, che chướng tâm thanh tịnh, bao gồm các tâm tham lam, phá giới, sân hận, giải đãi, tán loạn và ngu si. Sáu ba-la-mật chính là đối nghịch với sáu tâm này, bao gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
[22]Tức là 8 bậc định thông thường từ Sơ thiền thiên lên đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên. Tám bậc định này ngoại đạo cũng có thể đạt được, không đưa đến giải thoát rốt ráo. Do vậy thiền định của Phật giáo siêu việt tám bậc định này để đạt đến xuất thế gian định, Diệt tận định. Ở đây kể cả bậc định này nên có 9 bậc.
[23] Nguyên tác dùng “八勝 - bát thắng” tức Bát thắng xứ (八勝處), là tám trạng thái nhận biết thù thắng đạt được nhờ tu tập thiền quán, bao gồm: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc thiểu thắng xứ. 2. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại đa sắc thắng xứ. 3. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc thiểu thắng xứ. 4. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc đa thắng xứ. 5. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc thanh thắng xứ. 6. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc hoàng thắng xứ. 7. Nội vô sắc tưởng ngoại quán sắc xích thắng xứ. 8. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc bạch thắng xứ.
[24]Bát bội xả (八背捨), tám sự buông xả, cũng gọi là Bát giải thoát (八解脫), bao gồm 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát; 2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát; 3. Tịnh thân tác chứng cụ túc tác giải thoát; 4. Không vô biên xứ giải thoát; 5. Thức vô biên xứ giải thoát; 6. Vô sở hữu xứ giải thoát; 7. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát; 8. Diệt tận định giải thoát.
[25] Sơ phát tâm trụ (初發心住), giai vị đầu tiên trong Thập trụ (十住).
[26] Lập luận ở đây là, hiện tượng “tùng địa dũng xuất” của chư Bồ Tát cũng được giải thích tương tự như các điềm lành trong phẩm Tựa này. Nếu ngài Văn-thù đã có thể vì ngài Di-lặc và đại chúng giải nghi ở đây, vậy tại sao đến phẩm “tùng địa dũng xuất” ngài Di-lặc vẫn còn khởi sinh lòng nghi tương tự?
[27]Văn tuệ là trí tuệ có được nhờ nghe hiểu, tư tuệ là trí tuệ có được nhờ tư duy chiêm nghiệm. Đây là hai trong số ba tuệ: văn, tư và tu. Tiến trình đầy đủ bao gồm nghe hiểu (văn), suy nghiệm (tư) và thực hành tu tập (tu).
[28]Văn Cú giảng giải bảy điều thiện của kinh Pháp hoa là: 1. Thời tiết thiện: Kinh Pháp hoa có đủ ba phần Tựa, Chính tông và Lưu thông, tức là sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đều là thời gian lợi ích cho đương cơ. 2. Nghĩa thiện: Giáo pháp được nói trong kinh Pháp hoa là lý đốn giáo liễu nghĩa rất sâu xa, hàng Thanh văn, Duyên giác không thể lường được. 3. Ngữ thiện: Ngôn ngữ dùng để diễn nói kinh Pháp hoa là Phạm âm vi diệu từ kim khẩu của Như lai, hiển bày giáo lý Nhất thừa viên đốn, người nghe đều vui mừng. 4. Độc nhất thiện: Giáo pháp được nói trong kinh Pháp hoa là giáo viên đốn Nhất thừa, chỉ nói riêng cho hàng Bồ tát. 5. Viên mãn thiện: Giáo pháp trong kinh Pháp hoa có đầy đủ lý thế gian và xuất thế gian. 6. Điều nhu thiện: Giáo pháp trong kinh Pháp hoa là giáo lý trung đạo, điều hòa nhu thuận, không thiên lệch về hai bên. 7. Vô duyên từ thiện: Giáo pháp trong kinh Pháp hoa đầy đủ phạm hạnh, tâm không vướng bận chúng sinh mà tất cả chúng sinh đều tự nhiên được lợi ích.
[29] Tức Bát âm của chư Phật, bao gồm: 1. Cực hảo âm (極好音), 2. Nhu nhuyến âm (柔軟音), 3. Hòa thích âm (和適音), 4. Tôn tuệ âm (尊慧音), 5. Bất nữ âm (不女音), 6. Bất ngộ âm (不誤音), 7. Thâm viễn âm (深遠音) và 8. Bất kiệt âm (不竭音). Đây là những phẩm đức chỉ âm thanh của chư Phật phát ra mới có được, không có ở hàng Bồ Tát hay các bậc thánh Nhị thừa.
[30] Không chung cùng (bất cộng) ở đây hàm nghĩa là những phẩm tính không có ở hàng Nhị thừa.
[31] Văn Cú nói “師云 - sư vân”. Trong một phần sau, Văn Cú Ký có giải thích, “sư” là chỉ đến ngài Nam Nhạc Tuệ Tư (南嶽慧思), tức là thầy của Đại sư Trí Khải.
[32] Ở đây chỉ việc ngài La-hầu-la tu tập trong hàng chúng Thanh văn, chứng quả vị Thanh văn, không phải Bồ Tát.
[33] Nguyên tác gọi là “瑤師 - Dao Sư”, tức ngài Thích Pháp Dao (釋法瑤), hay Đàm Dao (曇瑤), tăng sĩ vào đời Tống, ở chùa Tiểu Sơn (小山寺) quận Ngô Hưng.
[34] Đây là nói phần kinh văn trong quyển 3 của kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nội dung là: “五十小劫佛神力故令諸大眾謂如半日 - ngũ thập tiểu kiếp, Phật thần lực cố, linh chư đại chúng vị như bán nhật.” (Xem trong ĐCT, T9, 262, trang 40a, d.20-21.)
[35] Phẩm Hiện bảo tháp: “如來不久當入涅槃 - Như Lai bất cửu đương nhập Niết-bàn”. (ĐCT, T9, 262, trang 33c, d.14.)
[36]Văn Cú nói là “最小 - tối tiểu” (nhỏ nhất) nhưng trong Kinh văn nói là “最後成佛 - tối hậu thành Phật” (thành Phật sau hết, cuối cùng).
[37]Tứ giáo, tức phân theo giáo lý tông Thiên Thai, bao gồm Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo.
[38] Chỗ này Văn Cú nói là “此一 行 “ (một khổ kệ này), nhưng xét theo văn nghĩa thì không phải một khổ kệ, vì phần nói về 6 ba-la-mật bắt đầu từ câu “Hoặc có những tỳ-kheo...” và có thể là kéo dài đến “Nhiều như cát sông Hằng”, nghĩa là đến 2 khổ kệ.
[39] Trí diên xúc kiếp (延促劫智): năng lực trí tuệ nhiệm mầu của chư Phật có thể kéo dài (diên) thời gian từ ngắn thành rất dài hoặc rút ngắn (xúc) thời gian từ rất dài thành rất ngắn. Chẳng hạn như từ một sát-na có thể khiến cho kéo dài như vô số kiếp hoặc từ vô số kiếp có thể làm cho ngắn lại chỉ như một sát-na. Năng lực này cũng được đề cập trong kinh Duy-ma-cật sở thuyết, phẩm Bất tư nghị.
[40] Ở đây chỉ các vị Phật Bích-chi, Duyên giác.