Những ai đã từng làm cha mẹ đều có thể dễ dàng nhớ lại cảm giác lạ lùng
khi đứa con cất tiếng khóc chào đời. Thật kỳ diệu biết bao! Cái sinh vật
bé tí ấy, với đầy đủ tất cả những điều kiện để lớn lên thành một con
người, có thể nào lại do chính ta tạo thành? Không một ông cha, bà mẹ
nào tin vào điều đó. Vâng, quả đúng là đứa bé ấy do người mẹ sinh ra, là
kết quả của sự gắn bó thương yêu giữa cha và mẹ, nhưng điều đó lại hoàn
toàn không có nghĩa là chúng ta có khả năng “tạo ra” nó. Sự hình thành
của “con người nhỏ bé” ấy phức tạp hơn nhiều, và bằng trực giác ta hiểu
được điều đó.
Mỗi chúng ta đều có cảm nhận về đứa con của mình khi ra đời như một món
quà tặng thiêng liêng, một báu vật vô giá mà ta hoàn toàn không thể hiểu
được do đâu mình lại may mắn có được. Ta trân trọng, yêu quý và bảo vệ,
nuôi nấng nó, cho dù ta có rất nhiều điều không hiểu được về sự ra đời
cũng như lớn lên của nó để hiện hữu thành một con người giữa cuộc đời
này.
Khi chúng ta xây dựng một ngôi nhà, hoặc đóng một cái bàn hay cái ghế,
những thứ ấy được hình thành và hiện hữu trước mắt ta với tất cả những
tính chất mà ta có thể hiểu và mô tả được. Nhưng sự ra đời của một đứa
bé lại hoàn toàn không giống như vậy. Bởi vì ngoài cái khối vật chất
hiện ra trước mắt ta với những thịt, xương, da, tế bào... mà khoa học có
thể phân tích và liệt kê được, còn có một phần vô hình mà chúng ta hoàn
toàn không thể nhận hiểu và mô tả, đã thực sự ra đời và song song tồn
tại với phần vật chất mà ta nhìn thấy. Nhưng chỉ cần nhìn vào đôi mắt bé
là ta có thể cảm nhận ngay được sự hiện hữu của phần tinh thần vô hình
kia, cho dù ta không thể lý giải được nó đã từ đâu đến và đến như thế
nào!
Cái phần tinh thần vô hình ấy, ta đã cảm nhận được rằng nó tồn tại dựa
vào thể xác bằng xương thịt này, nhưng nó lại không chịu sự quy định bởi
những tính chất của thể xác. Thể xác này có thể là cao lênh khênh hoặc
lùn tịt, có thể là gầy ốm hoặc béo phì, cũng có thể là da vàng hoặc da
trắng, da đen... nhưng tất cả những khác biệt ấy không có quan hệ nhất
định nào với phần tinh thần đi kèm theo nó. Bạn không thể dựa vào những
quan sát vẻ ngoài của ai đó để kết luận rằng đó là người có tinh thần
yếu đuối hay cứng rắn, đa cảm hay lạnh lùng, hiếu động hay trầm tĩnh...
Chính cái phần tinh thần vô hình này đã tạo cho ta cái cảm giác rằng
“con người nhỏ bé” kia không phải hoàn toàn do ta “tạo ra”. Người xưa đã
nói một cách nôm na để diễn đạt ý này là: “Sinh con há dễ sinh lòng.” Và
quả đúng như vậy. Chỉ cần so sánh hai người con sinh ra trong cùng một
gia đình, bạn sẽ dễ dàng thấy được là cha mẹ chúng thật ra đã không thể
“sinh lòng”, bởi vì tâm tính của cả hai thường chẳng bao giờ có thể
giống hệt nhau, chưa nói là trong rất nhiều trường hợp còn có thể hoàn
toàn trái ngược nhau.
Và bởi vì ta đã không “tạo ra” cái phần tinh thần vô hình ấy, nên thực
tế là ta không thể hiểu hết về nó. Từ thuở xa xưa, con người đã không
ngừng nỗ lực để khám phá, tìm hiểu về phần tinh thần của chính mình, và
đã có không ít những thành quả. Tuy nhiên, điều không may là chúng ta
không thể trực tiếp truyền dạy cho nhau những hiểu biết thuộc loại này,
bởi vì những hiểu biết ấy được mô tả như là nằm ngoài phạm vi diễn đạt
của ngôn ngữ. Có thể bạn cho rằng những cách nói này có phần nào đó mơ
hồ, khó hiểu, nhưng chúng ta sẽ có dịp trở lại bàn sâu hơn về vấn đề
này. Thực tế là, trong phạm vi có thể diễn đạt bằng ngôn ngữ thì những
kết quả tìm hiểu lại dường như không đủ để thỏa mãn những gì chúng ta
muốn biết.
Trong khi triết học và tôn giáo phương Đông chấp nhận những nhận biết về
thế giới nội tâm qua trực giác, thì phương Tây luôn đòi hỏi những sự
giải thích, mô tả cụ thể mà lý trí có thể tiếp nhận được. Vì thế, phải
cho đến khi ngành phân tâm học (psychoanalysis) được Sigmund Freud
(1856-1939) thành lập thì phương Đông và phương Tây mới bắt đầu có chiều
hướng nhích lại gần nhau với những đồng cảm trong việc tìm hiểu về thế
giới nội tâm.
Qua những khám phá của Freud, khái niệm vô thức (unconscious) được biết
đến và gợi ra những chiều sâu không thể nhận biết bằng lý trí trong nội
tâm con người, mở đường cho các nhà triết học phương Tây bắt đầu quay
sang tìm hiểu những gì mà triết học và tôn giáo phương Đông đã đề cập
đến từ thuở xa xưa.
Hơn một thế kỷ đã trôi qua, và đến nay thì những hiểu biết của phương
Đông đã được hầu hết người phương Tây chấp nhận và học hỏi. Phật giáo
phát triển mạnh ở phương Tây, và các trung tâm tu học, thực hành thiền
định đã thu hút số người tham gia vô cùng đông đảo.
Nhưng thật oái ăm thay, càng hiểu biết nhiều hơn về thế giới nội tâm của
con người, thì chúng ta lại càng thấy nó xa rời hơn với cái khởi nguyên
vật chất mà chúng ta nhìn thấy được. Bởi vì chúng ta càng biết chắc là
mình không hề và không có khả năng tạo ra cái phần tinh thần phức tạp,
đầy bí ẩn của một con người, cho dù cái thể xác bé nhỏ vừa mới ra đời
kia quả đúng là đã được hình thành từ một phần vật chất của chính ta.
Hơn thế nữa, cái phần tinh thần ấy đã hiện hữu nơi đây không do ta mời
gọi, và vì thế ta cũng không có khả năng kiểm soát hay hiểu được nhiều
về nó. Khi nó dần lớn lên, ta chỉ làm được mỗi một việc là ngày càng
nhận rõ hơn sự hiện hữu của nó trong cuộc đời này.
Trong cái thế giới nội tâm đầy bí ẩn của mỗi chúng ta, ta có thể tự cảm
nhận được nhiều yếu tố có cội nguồn từ đâu đó rất xa xôi. Dù ta không
thể biết được là từ lúc nào, nhưng có phần chắc chắn phải là từ trước
khi ta bắt đầu hiện hữu trong cuộc đời này, với phần thể xác này. Có thể
bạn cho rằng điều này hoàn toàn không thể chứng minh được. Nhưng hãy thử
quan sát những con ong đang làm việc để xây một tổ ong. Chúng biết làm
công việc phức tạp đó từ bao giờ? Bạn sẽ không nói rằng chúng đã được
những con ong lớn dạy cho đấy chứ? Nghiên cứu khoa học có thể xác định
là chúng “tự biết” làm điều đó mà không phải đã học được từ những con
ong lớn. Và nếu bạn tự quan sát chính mình, bạn sẽ thấy là bản thân mình
cũng có những điều “biết làm” mà trước đây chưa từng nhìn thấy hay học
hỏi từ người khác.
Sigmund Freud đã nêu ra những thôi thúc bẩm sinh về tính dục (innate
sexual drive) như một trong những điều có cội nguồn xa xôi không giải
thích được. Nhưng không chỉ có tính dục, hầu hết các yếu tố nội tâm của
chúng ta đều có những cội nguồn xa xôi tương tự. Mặc dù Freud cũng như
nhiều người phương Tây khác không nghĩ như vậy. Ông đã cố gắng đưa ra
những giải thích về một cội nguồn gần gũi hơn, chẳng hạn như vô thức
(unconscious) mà ông cho là có cội nguồn từ thời thơ ấu. Nhưng cách giải
thích này chạm phải nhiều giới hạn cũng như không hoàn toàn thỏa đáng
với mọi trường hợp.
Một trong những học trò của Sigmund Freud là Carl Gustav Jung (1875 –
1961) đã đi xa hơn thầy khi đưa ra khái niệm về những hình ảnh đặc trưng
có sẵn trong tâm lý tập thể của cả loài người (ông gọi là archetype) mà
ông cho là đã xuất phát từ những thời đại xa xưa và thỉnh thoảng hiện về
trong giấc mơ của chúng ta, hoặc được tìm thấy trong các huyền thoại cổ
đại. Tuy nhiên, có lẽ bạn cũng thấy rằng những giải thích này chỉ là một
trong những cố gắng để giải thích “những điều không thể giải thích” mà
bản thân ông ta có lẽ cũng đã cảm nhận được. Bởi vì cách giải thích này
không thỏa đáng với tất cả những bản năng sẵn có của mỗi chúng ta khi
sinh ra.
Ngoài bản năng tính dục, chúng ta còn có nhiều bản năng khác nữa trong
nội tâm. Điều chắc chắn chúng ta có thể làm được là nhận biết chúng chứ
không phải là giải thích cội nguồn của chúng. Trong rất nhiều trường
hợp, một người có bản chất trầm lặng hay hiếu động, đa cảm hay lạnh
lùng... không phải bao giờ cũng có thể giải thích được bằng những nguyên
nhân như môi trường giáo dục, gia đình hay kinh nghiệm bản thân. Tất cả
những điều ấy chỉ đúng một phần nào và trong một giới hạn nào đó thôi,
bởi vì còn có không ít những trường hợp hoàn toàn không liên quan gì đến
những lời giải thích như thế.
Khi trên đường phố xảy ra một đám đánh nhau, hầu hết những người nhìn
thấy đều muốn chạy đến xem. Trong số đó, không mấy người nghĩ đến những
việc tốt đẹp phải làm như ngăn cản đôi bên hoặc bảo vệ kẻ yếu... Những
người đến xem thường chỉ có một động cơ chung mà đa số vẫn gọi là sự
hiếu kỳ, nhưng thực ra điều đó lại còn xuất phát từ một bản năng khác mà
hầu hết chúng ta đều có.
Những trò chơi như đá dế, đá gà, chọi trâu... sở dĩ lôi cuốn rất nhiều
người là bởi vì ai cũng muốn được nhìn xem những cảnh đấu đá, tranh chấp
nhau. Điều đó kích thích trong mỗi chúng ta một niềm hứng khởi, một sự
thích thú mà đôi khi chính ta cũng không rõ biết.
Hầu hết những bộ phim ăn khách ngày nay đều không thể thiếu những pha
đấm đá, bắn giết hoặc chí ít cũng là tranh chấp thật gay cấn. Đôi khi
các nhà làm phim lạm dụng quá nhiều “vị thuốc kích thích” này và điều đó
vượt quá những giới hạn mà đạo đức truyền thống cho phép. Thế là sẽ có
những người lên án, gọi đó là “phim bạo hành, kích thích bạo lực...” Tuy
nhiên, phê phán thì cứ phê phán, mà số người xem phim lại vẫn cứ rất
đông hơn so với những phim tài liệu khoa học hay tình cảm xã hội mà
người ta cho là “tẻ nhạt”...
Phần lớn chúng ta đều tự nhận là yêu thích cuộc sống yên bình, thanh
thản, nhưng đa số lại thích xem những cảnh đấm đá, bắn giết, xung đột,
mâu thuẫn... mà ít thấy hứng thú với những cảnh phẳng lặng, thanh bình.
Điều đó nói lên những gì? Phải chăng nếu không có những rào cản được
dựng lên bởi luân lý, đạo đức, giáo dục, tín ngưỡng... thì đa số chúng
ta luôn có khuynh hướng chạy theo sự sôi động, bạo hành, sát phạt? Câu
trả lời có lẽ nên dành lại cho mỗi người tự đưa ra. Tuy nhiên, bản thân
tôi cho rằng nếu như thừa nhận điều này cũng không có gì là lạ. Khi đã
cảm nhận được một nguồn gốc rất xa xôi của những yếu tố trong nội tâm
chúng ta, thì với thành tích giết hại loài vật trong hàng nghìn năm qua
của nhân loại, nếu chúng ta không có một khuynh hướng hiếu sát, điều đó
mới là rất lạ!
Đạo Phật gọi thế giới mà chúng ta đang sống là cõi Dục giới, và cho
rằng tất cả chúng sinh trong cõi này đều có cùng một điểm chung là nhiều
tham dục. Về điểm này, có lẽ hầu hết chúng ta đều dễ dàng chấp nhận, vì
quả thật không khó nhận ra. Không có dục tính, có lẽ chỉ có thể là những
người mắc bệnh. Người bình thường không ai không có dục tính. Bạn có thể
nghĩ đến các vị tu sĩ? Nhưng không đúng, vì thực ra các vị vẫn là những
người có dục tính như chúng ta, chỉ có điều khác biệt là các vị nhận ra
điều đó và chọn cho mình một hướng đi thăng hoa, không chấp nhận để cho
dục tính lôi cuốn hay điều khiển cuộc sống của họ.
Nhưng đạo Phật còn đi xa hơn nữa khi chỉ ra rằng trong mỗi con người đều
tồn tại những nghiệp báo mà chúng ta đã tạo ra trong quá khứ – một quá
khứ không chỉ giới hạn ở thời điểm chúng ta sinh ra với thân xác này, mà
là xa xôi hơn nữa. Những nghiệp báo ấy bao gồm thiện nghiệp và ác
nghiệp, nói nôm na là kết quả của những việc tốt và việc xấu mà ta đã
làm.
Theo luật nhân quả do đức Phật thuyết dạy, tất cả mọi hành động của
chúng ta đều tạo ra những kết quả nhất định. Việc tốt lành sẽ tạo ra
thiện nghiệp, còn việc xấu ác sẽ tạo ra ác nghiệp. Trong kinh Hoa
Nghiêm, Phật dạy rằng: “Nếu như ác nghiệp ấy mà có hình thể, thì khắp
cõi hư không cũng chẳng thể dung chứa hết.” (Nhược thử ác nghiệp hữu thể
tướng giả, tận hư không giới bất năng dung thọ.)
Nhưng chúng ta cũng có thể tự mình hình dung được những ác nghiệp mà con
người đã tạo ra là nhiều đến mức nào. Chỉ riêng những gì mà mỗi chúng ta
đã làm từ lúc sinh ra đến nay, nếu xét theo các điều ác mà đạo Phật chỉ
ra như giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, thì có thể cũng
đã quá nhiều đến mức không sao tính đếm được. Có người nói rằng, dạ dày
của chúng ta là một cái nghĩa trang rất lớn, vì nó đã “an táng” không
biết bao nhiêu con vật trong đó. Quả thật, nếu bạn không phải là một
người ăn chay từ nhỏ, liệu bạn có nhớ nổi là mình đã từng giết hại –
trực tiếp hoặc gián tiếp – bao nhiêu con vật rồi chăng?