Ngày xưa, xưa lắm rồi, vào thời vua Hùng thứ 6 của nước ta, giặc Ân từ
phương Bắc kéo sang xâm chiếm. Nhà vua lấy làm lo lắng, liền sai sứ đi
truyền rao trong khắp chốn dân gian để tìm người hiền tài đứng ra dẹp
giặc.
Bấy giờ, tại làng Phù Đổng thuộc huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, đạo Kinh
Bắc, có vợ chồng ông Hàn Cẩn là người giàu có. Bà vợ là người họ Phạm,
tuy đã lớn tuổi mà chưa từng sinh nở, nên hai vợ chồng vẫn phải sống
trong cảnh cô độc không con cái. Họ thường hết sức làm việc thiện, cứu
giúp những người nghèo khổ, lòng chỉ cầu mong sao có được một mụn con
nối dõi.
Rồi tấm lòng thành của ông bà cũng cảm động đến tận trời xanh. Bà có
thai và đến ngày mồng 8 tháng 4 năm Nhâm Dần thì hạ sinh một bé trai
kháu khỉnh. Sau đó một năm thì ông Hàn Cẩn qua đời.
[1]
Cậu bé lớn dần lên, dung mạo khôi ngô tuấn tú, nhưng được ba tuổi rồi mà
vẫn chưa từng mở miệng nói ra tiếng nào. Mọi người đều lo lắng, nghĩ
rằng cậu hẳn phải chịu câm đến suốt đời.
Ngờ đâu, ngày kia khi sứ giả vua Hùng đi ngang làng Phù Đổng truyền rao
hịch cầu hiền thì cậu bỗng nhoẻn miệng cười và gọi mẹ, xin ra mời sứ giả
vào. Bà mẹ nửa mừng nửa sợ, trong lòng kinh ngạc khôn xiết nhưng cũng
nghe lời cậu đi ra mời sứ giả. Bấy giờ, cậu bé liền bảo sứ giả về tâu
lên vua hãy đúc ngay một con ngựa sắt thật lớn, một cây roi sắt và một
bộ giáp sắt. Khi nào mang đủ tất cả đến làng thì cậu sẽ tình nguyện lên
đường dẹp giặc.
Sứ giả về tâu lại, vua Hùng mừng rỡ truyền y theo lời, không bao lâu
mang đủ ngựa sắt, roi sắt và giáp sắt đến làng Phù Đổng.
Khi ấy, cậu bé liền xin mẹ nấu cho mình ba nong cơm lớn. Bà mẹ bấy giờ
gia cảnh đã sa sút, liền đi nói với người làng. Dân làng vui vẻ cùng
nhau mang gạo và thức ăn đến góp. Cơm nước đã dọn ra, cậu ngồi vào ăn
một hơi hết sạch cả 3 nong cơm lớn. Xong, cậu đến bên con ngựa sắt, vươn
vai một cái bỗng trở nên cao lớn lạ thường, rồi mặc giáp sắt, cầm roi
sắt nhảy ngay lên lưng ngựa. Ngựa sắt bỗng hí vang rồi tung vó phóng đi,
miệng phun ra những đám lửa cuồn cuộn sáng rực.
Cậu trai Phù Đổng kéo quân đến đâu giặc tan đến đó. Trong lúc hăng say
đánh giặc, roi sắt bỗng bị gãy, cậu liền thuận tay nhổ cả bụi tre bên
đường mà quất vào quân giặc. Quân ta dũng mãnh, chẳng mấy chốc đã đuổi
sạch kẻ thù xâm lược ra khỏi bờ cõi.
Giặc tan, cậu phi ngựa thẳng lên ngọn núi Ninh Sóc, rồi từ đó bay thẳng
lên trời, chẳng ai còn thấy nữa.
Nhân dân nhớ ơn dẹp giặc nên lập đền thờ phụng, hằng năm lễ cúng. Vua
ban sắc phong là Phù Đổng Thiên Vương.
Làng Phù Đổng vốn có tên Nôm là làng Gióng, nên nhân dân cũng thường gọi
là ông Gióng hay Thánh Gióng.
Câu chuyện hào hùng về Thánh Gióng được lưu truyền mãi mãi trong lòng
người dân Việt, cho dù đã phải trải qua không ít những thời kỳ cơ cực
dưới ách ngoại xâm, và dân ta khi ấy chẳng mấy ai biết đọc biết viết.
Nhưng chỉ cần ở đâu còn có người Việt là ở đó câu chuyện Thánh Gióng vẫn
còn được kể. Và điều thú vị ở đây là người kể cũng như người nghe đều
cảm thấy hứng khởi và tự hào với tất cả những tình tiết oai hùng, kì vĩ
trong câu chuyện, bởi ai cũng cảm nhận được sợi dây vô hình liên kết
giữa nhân vật trong chuyện với chính bản thân mình và với cả dân tộc
Việt, cho dù là đã trải qua bao nhiêu năm tháng.
Niềm tự hào chính đáng ấy đã gieo cấy và làm nảy nở trong lòng dân Việt
một giấc mơ vượt qua mọi thời đại. Từ thuở rồng vàng bay lên trên đất
Thăng Long, cho đến lúc vua Lê trả gươm thần trên mặt hồ Gươm Hà Nội...
Từ thuở những con sóng Bạch Đằng giận dữ nhấn chìm bao thuyền giặc ngoại
xâm, cho đến chiến thắng Đống Đa hào khí ngất trời làm cho gần ba mươi
vạn quân Thanh kinh hồn bạt vía... Qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, mỗi
người dân Việt đều ôm ấp trong lòng một giấc mơ chung nảy sinh từ hình
ảnh người anh hùng làng Gióng năm xưa...
Này người bạn trẻ, vì thế tôi có thể đoan chắc với bạn một điều là, cho
dù bạn có nhận biết hay không, trong lòng bạn vẫn không thể thiếu vắng
giấc mơ chung ấy. Và bạn ơi, tôi rất thích gọi tên giấc mơ ấy là giấc mơ
Phù Đổng.
Giấc mơ Phù Đổng là niềm tự hào dân tộc, nó làm cho ta có cảm giác hài
lòng và thấy mình thật may mắn được sinh ra làm người dân Việt. Và niềm
tự hào ấy luôn thôi thúc ta vươn cao, vươn xa hơn nữa, để “sánh vai cùng
các cường quốc năm châu”. Nhưng không chỉ có thế, ngay trong cuộc sống
hằng ngày nó cũng không bao giờ cho phép chúng ta chấp nhận những điều
kiện yếu kém hiện tại, mà phải luôn có một sức phấn đấu học hỏi ngày
càng vươn lên.
Vì thế, giấc mơ Phù Đổng cũng là khát vọng vươn lên ngang tầm thế kỷ,
học hỏi và bắt kịp mọi tri thức thời đại để đưa dân tộc tiến lên ngang
hàng với bạn bè khắp nơi trên thế giới.
Nhưng giấc mơ Phù Đổng không hướng ta đến sự lớn mạnh để rồi lấn áp hay
khống chế những ai còn yếu kém. Những trang sử bi thương của dân tộc
trong thời kỳ sống dưới ách ngoại xâm đã cho ta sự đồng cảm sâu sắc với
những thiệt thòi của các quốc gia “nhược tiểu”. Vì thế, chúng ta luôn
mong muốn được sống trong một thế giới hòa bình và tôn trọng lẫn nhau,
ngay cả những cường quốc hùng mạnh nhất cũng biết tôn trọng những quốc
gia yếu kém hoặc nhỏ bé nhất.
Trong giấc mơ của chúng ta, một Việt Nam ngày mai dù có hùng mạnh nhất
nhì trên thế giới cũng vẫn luôn duy trì tình thân hữu với những bạn bè
tự thuở hàn vi, cũng vẫn luôn mong muốn được đưa tay ra nâng đỡ và dìu
dắt tất cả những ai còn yếu kém, vấp ngã...
Và trong giấc mơ của chúng ta, tất cả các nước trên thế giới sẽ cùng nắm
tay nhau quây quần thân ái, san sẻ cho nhau những giá trị tinh thần cũng
như vật chất, học hỏi lẫn nhau những giá trị tích cực trong các nền văn
hóa khác nhau...
Đến đây, cũng có thể bạn sẽ muốn ngắt lời tôi để đặt ra câu hỏi: “Vâng,
những điều anh vừa nói quả là thú vị lắm, nhưng nào tôi có thấy cái giấc
mơ Phù Đổng nào đó trong lòng tôi đâu?”
Vâng, như tôi đã nói, cái giấc mơ Phù Đổng ấy cũng có đôi khi chúng ta
không tự mình nhận biết, nhưng điều đó không có nghĩa là nó không hiện
hữu. Sở dĩ tôi tin chắc rằng tôi và bạn đều có chung một giấc mơ như thế
là bởi vì chúng ta đều là dân Việt, đều có chung những khoái cảm ngọt
ngào khi nghe kể câu chuyện Phù Đổng Thiên Vương, và cũng đều có lần
muốn vươn vai đứng dậy như người anh hùng làng Gióng năm xưa... Cái tiềm
thức dân tộc sâu xa ấy, bạn ơi, nó ăn sâu vào tận trong tâm khảm chúng
ta, được truyền lại từ những thế hệ cha ông xa mù xa tắp mà quả thật
ngày nay có nhiều bạn trẻ không mấy khi có thời gian để ngồi nhớ đến.
Nhưng cho dù vậy, tất cả cũng không phải chỉ là những điều mơ hồ khó nắm
bắt. Và tôi cũng đã tìm được một bằng chứng rất cụ thể để chỉ ra sự biểu
lộ của giấc mơ Phù Đổng trong lòng bạn. Này nhé, mới hôm trước đây thôi,
tôi đã nhìn thấy bạn trên khán đài của vận động trường, tay cầm lá cờ tổ
quốc và hò reo cổ vũ một cách cuồng nhiệt cùng với hàng trăm, hàng ngàn
bạn trẻ khác, khi đội Việt Nam đang thi đấu dưới sân... Bạn sẽ không nói
với tôi đó chỉ là tinh thần thể thao đấy chứ?
Nhưng thôi, chúng ta không cần phải mất thêm thời gian để bàn cãi về
chuyện ấy. Nếu như bạn vẫn cứ khăng khăng cho rằng không hề thấy có bóng
dáng của giấc mơ Phù Đổng trong lòng bạn, thì có lẽ cũng đã đến lúc bạn
cần phải nuôi dưỡng một giấc mơ như thế.
Này người bạn trẻ, bây giờ hãy để tôi kể cho bạn nghe đôi điều về giấc
mơ Phù Đổng của chính tôi, hay nói đúng hơn là của chúng tôi, những
người đã sinh ra trước bạn hai, ba mươi năm hoặc có thể là nhiều hơn
nữa...
Chúng ta thường tự hào về một đất nước với truyền thống hơn bốn ngàn năm
văn hiến. Điều đó không chỉ dựa vào những truyền tích được kể cho nhau
nghe về con Hồng cháu Lạc, về mẹ Âu Cơ với một bọc trăm trứng... mà đã
có những chứng tích cụ thể như trống đồng Đông Sơn với độ tuổi tương
ứng, cho thấy trình độ văn hóa và tổ chức xã hội của dân tộc ta từ thuở
các vua Hùng dựng nước đã đạt được những thành tựu nhất định. Nhiều nhà
nghiên cứu lạc quan còn đưa ra giả thuyết về một loại chữ viết của dân
tộc Việt có thể đã hình thành từ thuở ấy nhưng về sau không còn giữ
được...
Trên chặng đường dằng dặc bốn ngàn năm ấy, chúng ta đã trải qua không ít
những thăng trầm, vinh nhục, những khổ đau tăm tối và những huy hoàng
rực rỡ... Từ trong khổ đau tận cùng của những ngày nô lệ đã nảy sinh
biết bao anh hùng hào kiệt, viết nên biết bao trang sử hào hùng cho dân
tộc, từ Hai Bà Trưng cho đến Bà Triệu, từ Lý Nam Đế cho đến Vạn Thắng
Vương, từ Lê Đại Hành cho đến Lê Lợi... và còn biết bao anh hùng vì nước
quên thân mà ngày nay chúng ta không thể nào biết hết được tên tuổi. Tất
cả những anh hùng dân tộc ấy, trong suốt tuổi thơ của mình đều đã trải
qua những cơ cực lầm than của người dân mất nước, đều ôm ấp một giấc mơ
Phù Đổng và đồng cảm sâu sắc với nổi khổ đau của toàn dân tộc, nên một
khi đã vươn vai đứng dậy như Thánh Gióng năm xưa thì không một sức mạnh
nào có thể ngăn cản nổi!
Rồi đất nước cũng có những lúc trời quang mây tạnh, lịch sử dân tộc ta
cũng có không ít những trang huy hoàng rực rỡ, những giai đoạn hình
thành và bồi đắp một nền văn hóa Đại Việt với những bản sắc không sao
nhầm lẫn được... Nền văn hóa ấy, như đã nói, được bắt nguồn từ thuở xa
xưa cho đến những ngày thái bình thịnh trị trong thời dựng nước của 18
vua Hùng, từ thuở quân dân Đại Việt ném vũ khí để cùng nhau xây dựng
kinh đô Thăng Long vào những ngày đầu thiên niên kỷ trước cho đến ngày
Quang Trung Nguyễn Huệ áo bào chưa phai mùi thuốc súng đã hô hào khuyến
khích việc sử dụng chữ Nôm...
Nền văn hóa ấy không chỉ là những giá trị phi vật thể vẫn luôn tiềm ẩn
trong tinh thần dân tộc, nó còn được biểu hiện qua nếp sinh hoạt văn hóa
của dân ta ngày một đổi khác nâng cao, với những tuồng tích ngộ nghĩnh
và thú vị trong múa rối nước mà không thể tìm đâu ra trên khắp thế giới
này, với những nội dung đầy lôi cuốn và cảm động trong tuồng chèo, hát
nói, cho đến đậm đà, sâu sắc trong những áng thơ văn đến nay còn truyền
lại... Nền văn hóa ấy cũng để lại chùa Một Cột (Hà Nội) với chuông Quy
Điền nặng khoảng 7,2 tấn (tiếc rằng nay đã mất), chùa Phổ Minh (Nam
Định) với đỉnh đồng nặng trên 7 tấn, tháp Báo Thiên cao đến 70m, chùa
Quỳnh Lâm (Quảng Ninh) với tượng Phật Di Lặc đúc bằng đồng cao trên 20m,
cùng hàng trăm, hàng ngàn chùa, tháp, đền, miếu... rải rác khắp nơi. Và
bao trùm lên tất cả, gần gũi hơn tất cả là kho tàng ca dao, tục ngữ, dân
ca và truyện cổ được gìn giữ, lưu truyền khắp mọi miền đất nước...
Này người bạn trẻ, mỗi một giá trị văn hóa được hình thành qua từng thời
đại ấy đều nảy sinh từ khát vọng vươn lên của từng người dân Việt. Và đó
không phải gì khác hơn là giấc mơ chung mà tôi đã nói cùng với bạn.
Và điều tất nhiên là mỗi chúng ta cũng có những giấc mơ của riêng mình
để ôm ấp, theo đuổi... Nhưng cho dù là riêng hay chung, mỗi một giấc mơ
đẹp bao giờ cũng hàm chứa trong nó hai khía cạnh: hướng vào tự thân và
hướng về ngoại cảnh.
Khi bạn ôm ấp giấc mơ trở thành một bác sĩ giỏi, bạn cũng sẽ đồng thời
mơ ước có một bệnh viện lớn với tất cả những trang thiết bị hiện đại
nhất thế giới ngay trên đất nước này để bạn có thể làm việc hết mình
trong đó. Khi giấc mơ của bạn là trở thành một phi hành gia lỗi lạc, bạn
cũng sẽ đồng thời mơ ước Việt Nam có một trung tâm không gian ngang tầm
thế giới để bạn có thể từ đó xuất phát những chuyến bay vào không gian,
thám hiểm vũ trụ...
Nếu không có những mơ ước hướng về điều kiện ngoại cảnh kèm theo như
thế, thì bạn ơi, giấc mơ của bạn sẽ chỉ là một giấc mơ nghèo nàn, đơn
điệu! Bạn làm sao có thể vui được nếu như tự thân mình trở thành một bác
sĩ rất giỏi nhưng phải làm việc trong những bệnh viện chật hẹp và thiếu
thốn trang thiết bị, hay phải “lưu vong” nơi đất khách quê người để có
điều kiện phát triển tài năng? Bạn làm sao có thể vui được nếu như tự
thân mình trở thành một phi hành gia lỗi lạc nhưng điểm xuất phát đi vào
vũ trụ lại là một đất nước xa lắc xa lơ, và những người đến tiễn chân
bạn đều là xa lạ, trong khi những người thân thiết nhất chỉ có thể nhìn
thấy bạn qua màn ảnh nhỏ, thậm chí không thể có được một buổi tiệc tiễn
đưa trước giờ phút quan trọng mà bạn sắp ghi tên mình vào lịch sử?
Giấc mơ Phù Đổng của chúng ta là một giấc mơ đẹp, vì thế nó cũng hàm
chứa trong đó ước mơ hướng về tự thân và ước mơ hướng về ngoại cảnh. Về
mặt tự thân, mỗi chúng ta đều mơ ước có được một lần vươn vai đứng dậy
trở thành người khổng lồ vạm vỡ như cậu bé làng Gióng năm xưa, nhưng kèm
theo đó, về mặt ngoại cảnh chúng ta cũng mơ ước có được ngựa sắt dũng
mãnh và có thể phá tan được giặc Ân xâm lược, để rồi cưỡi ngựa sắt bay
vút lên trên bầu trời xanh thanh bình của đất nước.
Giấc mơ Phù Đổng là một giấc mơ đã được “thánh hóa”, vì thế nó bao hàm
tất cả mọi giấc mơ riêng tư của mỗi chúng ta. Nếu bạn mơ ước trở thành
một bác sĩ giỏi nhất thế giới, thì đó phải là giây phút vươn vai đứng
dậy hóa thành khổng lồ của bạn, vì bạn biết rõ là có đến hàng triệu
người trên thế giới này cũng ước mơ như thế nhưng không phải ai cũng có
thể làm được. Nếu bạn mơ ước trở thành một phi hành gia lỗi lạc, thì đó
cũng chính là sự vươn vai đứng dậy hóa thành khổng lồ của bạn, bởi vì
không như thế thì bạn không thể vượt lên trên hàng triệu người khác cũng
ước mơ như bạn...
Giấc mơ Phù Đổng là một giấc mơ làm nên kỳ tích. Hoàn cảnh lịch sử đã
bắt buộc dân tộc ta muốn sống còn và bảo vệ được chủ quyền thì chỉ có
một con đường duy nhất là làm nên kỳ tích. Giấc mơ Phù Đổng thể hiện rõ
đặc điểm lịch sử ấy, nên hình tượng Thánh Gióng chỉ có thể ngay tức thời
vươn vai đứng dậy hóa thành khổng lồ, chứ không thể lớn dần lên theo năm
tháng như những người anh hùng bình thường khác. Và sức mạnh của Thánh
Gióng chỉ có thể là sức mạnh của một thiên vương oai hùng, với ngựa sắt
dũng mãnh phun lửa cuồn cuộn, chứ không thể mô tả theo những giới hạn
trong phạm vi sức mạnh của con người... Bởi vì, nếu không như thế thì
không thể phá tan được “giặc Ân” vốn bao giờ cũng đông đảo và mạnh bạo
hơn quân ta rất nhiều lần...
Khi hai võ sĩ có sức lực và tài nghệ ngang nhau, họ có thể so kè nhau
từng thế võ để phân thắng bại. Nhưng khi sự chênh lệch giữa đôi bên là
quá lớn, thì đấu thủ nhỏ bé, yếu kém hơn nhiều chỉ có thể giành được
chiến thắng bằng một “tuyệt chiêu xuất thần”, bằng một sự “vươn vai đứng
dậy” mà đối phương không sao ngờ được...
Hai Bà Trưng đã một lần vươn vai đứng dậy như thế, quét sạch quân thù ra
khỏi 60 thành trì của đất nước chỉ trong một mùa xuân năm 40, đuổi Tô
Định chạy thoát thân về nước.
Ngô Quyền cũng đã một lần vươn vai đứng dậy như thế, phá tan quân Nam
Hán trên sông Bạch Đằng vào năm 938, làm cho tướng giặc là Hoằng Tháo
phải chết đuối, đuổi tàn quân của giặc chạy thoát thân về nước.
Hưng Đạo Vương cũng đã một lần vươn vai đứng dậy vào cuối mùa xuân năm
1288, phá tan đại quân Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng lịch sử, chỉ
trong một trận thu lấy hơn 400 chiến thuyền của giặc, bắt sống tướng
giặc là Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ...
Những đạo quân xâm lược đã từng kéo đến nước ta đều là những “ông khổng
lồ hung hãn” mà một dân tộc nhỏ bé, yêu chuộng hòa bình như chúng ta,
như cậu bé làng Gióng hiền lành, không phải là đối thủ cân xứng. Và vì
thế, chúng ta không còn cách nào khác hơn là phải vươn vai đứng dậy hóa
thành khổng lồ, như cậu bé làng Gióng đã vươn vai đứng dậy hóa thành
khổng lồ, để làm nên kỳ tích là đánh đuổi quân giặc hung bạo ra khỏi
biên thùy đất nước...
Lịch sử bảo vệ đất nước của dân tộc ta là một sự tiếp nối và lặp lại
những lần vươn vai đứng dậy làm nên kỳ tích như thế. Đạo quân xâm lược
Mông Cổ đã từng chinh phục khắp nơi chưa từng biết mùi thất bại, chúng
đi đến đâu thì dù một ngọn cỏ cũng không còn mọc thẳng. Diệt được nhà
Tống rồi cai trị đất nước Trung Hoa rộng lớn trong vòng 88 năm, đủ thấy
sức mạnh quân sự của chúng là như thế nào!
Nhưng quân dân nhà Trần đã ba lần liên tiếp vươn vai đứng dậy để đánh
thắng một đội quân hùng mạnh như thế. Kỳ tích ấy quả thật đã vượt ra
khỏi sức tưởng tượng của quân giặc khi xâm chiếm đất nước nhỏ bé này.
Nghĩa quân Lam Sơn khởi binh nơi một vùng rừng núi hoang vu, từ lương
thực đến quân cụ đều thiếu thốn, vậy mà mười năm sau đã đánh cho quân
Minh tan tác, buộc chúng phải chịu nghị hòa để có thể yên thân về nước.
Kỳ tích ấy cũng không phải là chuyện mà vua tôi nhà Minh có thể nghĩ
đến.
Cho đến người anh hùng áo vải Tây Sơn, chỉ một lần vươn vai đứng dậy
thành Hoàng đế Quang Trung đã đập tan gần ba mươi vạn quân Thanh. Kỳ
tích ấy vẫn còn làm cho tất cả chúng ta tự hào khi nhắc đến. Và còn biết
bao kỳ tích khác mà có lẽ chúng ta sẽ không sao kể hết...
Nhưng tất cả những điều ấy không chỉ mang lại cho chúng ta một sự tự hào
về quá khứ. Trong thực tế, đó là sự đào luyện con người Việt luôn khát
khao lập nên kỳ tích, mà theo cách nói thông thường hơn là những con
người nuôi hoài bão lớn. Sự thật là ngày nay chúng ta cũng có không ít
người lập nên kỳ tích, và tôi muốn tạm nhường lời ở đây để mỗi bạn trẻ
chúng ta có thể tự tìm thấy những kỳ tích ấy trong cuộc sống quanh
mình...
Này người bạn trẻ, tôi muốn nói với bạn rằng điều may mắn lớn nhất của
mỗi chúng ta là được sinh ra vào một thời đại mà đất nước đã sạch bóng
quân xâm lược. Bởi vì, mặc dù dân tộc ta luôn yêu chuộng hòa bình, nhưng
thật trớ trêu là lịch sử đất nước lại đầy rẫy những cuộc chiến tranh
tiếp nối nhau!
Vì thế, giấc mơ của chúng ta ngày nay không còn nung nấu bởi những ngày
cơ cực của người dân mất nước, mà đã mang màu sắc mới của một cuộc sống
văn minh và thịnh vượng.
Chúng ta không cần phải ước mơ “phá tan giặc Ân” như cậu bé làng Gióng
năm xưa, mà đang ước mơ có thể làm thật nhiều điều để dựng xây đất nước
giàu mạnh, văn minh và hiện đại.
Chúng ta không cần phải ước mơ vươn vai đứng dậy hóa thành khổng lồ để
phá tan quân giặc, mà đang ước mơ trở thành những nhân tài, những học
giả, những kỹ sư, những nhà giáo... có thể đóng góp thật nhiều cho đất
nước thân yêu.
Giấc mơ của chúng ta hướng về tự thân để thôi thúc ta luôn học hỏi, phấn
đấu, nỗ lực vươn lên hoàn thiện bản thân mình. Và hình ảnh Thánh Gióng
năm xưa giúp ta có thể trở nên mạnh mẽ, tự tin và táo bạo hơn với những
ước mơ của mình, ngay trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Một trong
những học trò của tôi trước đây đã không dám nghĩ đến việc học hết phổ
thông vì gia đình em quá nghèo và đông anh em. Tôi đã khuyên em nuôi
dưỡng một giấc mơ Phù Đổng, và đồng thời cũng tiếp sức cho em trong
những điều kiện có thể được... Trong lần về thăm tôi hồi đầu năm, em đã
cho tôi biết là sắp tốt nghiệp đại học trong năm này. Tôi hết sức vui
mừng trước sự vươn vai đứng dậy của em, và hy vọng là nhờ đó mà những
đứa em còn lại trong gia đình nghèo ấy sẽ có thể tiếp tục nuôi dưỡng một
giấc mơ Phù Đổng trong điều kiện dễ dàng hơn...
Giấc mơ của chúng ta cũng hướng về ngoại cảnh để ước mơ một tương lai
đất nước huy hoàng rực rỡ, với những bước tiến nhảy vọt trong các lãnh
vực khoa học kỹ thuật cũng như kinh tế và văn hóa, để đưa đất nước ta
lên ngang tầm với những cường quốc hiện nay...