Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)

Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Điều khác biệt giữa sự ngu ngốc và thiên tài là: thiên tài vẫn luôn có giới hạn còn sự ngu ngốc thì không. (The difference between stupidity and genius is that genius has its limits.)Albert Einstein
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng. (Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Pháp Hoa Văn Cú »» Giải thích Phẩm Phương tiện (tiếp theo) »»

Pháp Hoa Văn Cú
»» Giải thích Phẩm Phương tiện (tiếp theo)

(Lượt xem: 16)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Giải thích Phẩm Phương tiện (tiếp theo)

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

1. Giải thích theo 10 pháp giới

Đây là nói 6 cõi phàm, 4 cõi thánh, cộng thành 10 pháp giới.[1] Tuy có vô số các pháp nhưng vẫn không vượt ngoài số 10. Trong mỗi cảnh giới tuy lại có nhiều phân nhánh nhưng vẫn không ra ngoài 10 pháp “như vậy”. Ví dụ như trong cảnh giới địa ngục, ngay đó đã có đủ tướng, tánh, gốc, ngọn [của địa ngục], lại cũng có đủ tướng, tánh, gốc, ngọn của cảnh giới súc sinh, cho đến có đủ tánh, tướng, gốc, ngọn của Phật pháp giới, không hề thiếu bớt. Cho nên, trong luận A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa,[2] quyển 7 nói rằng: “Trong cõi địa ngục thành tựu pháp cõi trời Tha hóa Tự tại.” Chỉ nêu một việc để làm thí dụ, chín pháp giới khác cũng đều như vậy. Nên biết rằng trong mỗi một pháp giới đều có đủ chín pháp giới [khác] với mười như thị. Nếu nhìn từ địa vị của chín pháp giới thì mười như thị đều gọi là quyền. Nếu nhìn từ địa vị của Phật pháp giới thì mười như thị đều là thật. Trong một pháp có đủ vô lượng pháp, trong vô lượng pháp đều có đủ một pháp, cho nên gọi là không thể nghĩ bàn.

Nếu nhìn từ [chín cõi] sáu phàm ba thánh[3] thì năm pháp như [trong câu kinh này][4] là quyền. Nếu nhìn từ pháp giới Phật thì bốn pháp như [trong câu kinh này][5] đều là thật. Nếu phân tích tầng tầng lớp lớp như vậy thì ý nghĩa này có thể thuyết giảng, có thể chỉ bày, đâu phải đợi [đức Như Lai bảo] “thôi thôi không nên nói” để xưng tán.

Đó là vì tuy trong một pháp có vô lượng pháp, nhưng phàm phu dù dứt hết lý mà còn mê nơi tình, hàng Nhị thừa tuy đã xả ly mà còn mong cầu giải thoát, hàng Bồ Tát tuy sáng suốt soi chiếu mà chưa cùng khắp nên gọi là chưa sáng tỏ rốt ráo. Đức Như Lai thấu triệt cùng khắp, đầy đủ rộng lớn xuyên suốt, chỉ riêng tự mình sáng tỏ rõ biết hết thảy những điều người khác không thể nhìn thấy, không thể thuyết giảng, không thể chỉ bày. Cho nên Phật dạy “thôi thôi không nên nói” là do nghĩa này. Trong Pháp hoa huyền nghĩa đã có nói, ở đây [chỉ lược một phần] không ghi chép lại tất cả.

2. Giải thích theo Phật pháp giới

Cảnh giới Phật chẳng phải tướng cũng chẳng phải không tướng, nên gọi là “tướng như vậy”. Đây là chỉ nhân [thành tựu] muôn duyên lành, nên kinh văn phần sau nói [“Xe ấy cao rộng,] trang hoàng bằng các vật báu”,[6] chính là nói nghĩa này.

Cảnh giới Phật chẳng phải tánh cũng chẳng phải không phải tánh, nên gọi là “tánh như vậy”. Đây là chỉ nhân [thành tựu] trí tuệ rốt ráo, nên kinh văn phần sau nói “[Xe được kéo bằng] trâu trắng lớn”.[7]

Cảnh giới Phật chẳng phải có thể cũng chẳng phải không thể, nên gọi là “thể như vậy”. Đây là chỉ chánh nhân của thật tướng, nên kinh văn phần sau nói “xe ấy cao rộng”.[8]

Cảnh giới Phật chẳng phải có sức lực cũng chẳng phải không sức lực, nên gọi là “lực như vậy”.[9] Đây là chỉ từ lực, thiện lực, căn lực v.v. của tâm Bồ-đề, nên kinh văn phần sau nói “bên trên lại có lọng che”.[10]

Cảnh giới Phật chẳng phải tạo tác cũng chẳng phải không tạo tác, nên gọi là “chỗ làm như vậy”. Đây là chỉ cho đạo không dụng công, tùy thời vận hành, nên kinh văn phần sau nói “lướt nhanh như gió”.[11]

Cảnh giới Phật chẳng phải do nhân cũng chẳng phải không do nhân, nên gọi là “nhân như vậy”. Đây là chỉ 41 giai vị [của hàng Bồ Tát],[12] nên kinh văn phần sau nói “ngồi trên cỗ xe quý, dạo chơi khắp bốn phương”.[13]

Cảnh giới Phật chẳng phải do duyên cũng chẳng phải không do duyên, nên gọi là “duyên như vậy”. Đây là chỉ hết thảy các pháp trợ đạo Bồ-đề,[14] nên kinh văn phần sau nói “lại có nhiều người hầu đi theo bảo vệ”.[15]

Cảnh giới Phật chẳng phải có quả cũng chẳng phải không có quả, nên gọi là “quả như vậy”. Đây là chỉ tánh giác nhiệm mầu sáng tỏ rõ ràng đạt được do nhân viên mãn, nên kinh văn phần sau nói “liền thẳng đến đạo trường”.[16]

Cảnh giới Phật chẳng phải có báo cũng chẳng phải không có báo, nên gọi là “báo như vậy”. Đây là chỉ sự rốt ráo thể nhập Niết-bàn, nên kinh văn phần sau nói “nay được quả vô lậu, tối thượng, không gì hơn.”[17]

Quả vị Phật không phải bản (gốc) không phải mạt (ngọn) mà nói là bản mạt. Bản là tướng của Phật, mạt là báo của Phật, tức là pháp quyền tự hành.

Cảnh giới Phật chẳng phải bình đẳng cũng chẳng phải không bình đẳng mà nói là “rốt ráo bình đẳng”. Đây là chỉ thật tướng, nên [kinh văn] nêu rõ “thật tướng”, tức là pháp thật tự hành.

Ngay nơi thật là quyền nên nói là “bản mạt”, ngay nơi quyền là thật nên nói là “đẳng”. Đây là pháp tự hành quyền thật của Như Lai, là pháp cao trổi nhất không gì hơn được, tướng không gì hơn cho đến quả báo không gì hơn, rộng khắp xuyên suốt không gì hơn được. Cho nên [kinh văn] nêu rõ là “thật tướng của các pháp”. Theo lệ thường thì lẽ ra phải nói cả “chư pháp thật tánh, chư pháp thật thể, chư pháp thật lực”, cho đến phải nói cả “chư pháp thật cứu cánh đẳng”, nhưng nay chỉ lược nêu một việc để bao quát hết thảy.

Đức Như Lai soi chiếu rộng khắp xuyên suốt thấu đáo như nhìn quả [am-ma-lặc] trong lòng bàn tay. Nhưng chỉ vì [đối với sự thấy biết của Như Lai thì] những kẻ phàm phu như mù hai mắt, hàng Nhị thừa như chột một mắt, hàng Bồ Tát như người đi đêm chỉ thấy được lờ mờ không rõ, nên không thể nói ra được. Ý nghĩa Phật dạy “thôi thôi không nên nói” là ở chỗ này.

3. Giải thích theo ý nghĩa khai hợp

Nếu quán chiếu từ nơi tâm Phật thì 10 pháp giới, 10 như thị đều là tướng vô thượng, không gì hơn được, cho đến quả báo cũng không gì hơn, chỉ là một pháp giới Phật như biển lớn gồm thâu hết thảy muôn dòng nước, như ngàn cỗ xe [đi qua trên đường để lại] cùng một dấu vết. Đây là pháp tự hành quyền thật.

Nếu thuận theo tâm ý chúng sinh thì có đủ tánh, tướng v.v. của 10 như thị trong 9 pháp giới. Đây là pháp hóa tha quyền thật.

Pháp hóa tha tuy cũng có thật nhưng đều được xem là quyền, pháp tự hành tuy cũng có quyền nhưng đều được xem là thật. Đây là pháp tự hành hóa tha quyền thật.

[Pháp] thuận theo tâm ý chúng sinh thì mở ra, pháp tự [vận hành] thì hợp lại, rộng khắp xuyên suốt, thấu đáo cùng cực, khai hợp tùy ý tự tại. Mở ra vô lượng [pháp], tuy vô lượng [pháp] nhưng là một; hợp lại [thành] một [pháp], tuy một [pháp nhưng] là vô lượng [pháp]. Tuy là vô lượng, là một nhưng không phải vô lượng, không phải một. Tuy không phải một, không phải vô lượng nhưng là một, là vô lượng. Chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến cùng tận rốt ráo. Những kẻ phàm phu ắt là không tin, sinh lòng chê bai phỉ báng; hàng Nhị thừa ắt mê muội không tin nhận; hàng Bồ Tát thì bụi trần che lấp chưa sáng tỏ. Do nghĩa này nên [Phật dạy] “thôi thôi không nên nói”. Đại lược là như thế.

4. Giải thích theo giai vị

“Tướng như vậy”, tức là hết thảy chúng sinh đều có tướng thật, vốn xưa nay tự có, đó chính là tướng mạo của tạng Như Lai.

“Tánh như vậy”, tức là tánh đức trí tuệ, là nghĩa không đệ nhất.

“Thể như vậy”, tức là lý pháp tánh trung đạo, là tam đức[18] mà trong khắp mười pháp giới, hết thảy mọi giai vị đều có đủ.

Nếu phân tích kỹ về tam đức thể nhập vào các giai vị Thập tín thì gọi là “lực như vậy, chỗ làm như vậy”. Nếu thể nhập 41 giai vị thì gọi là “nhân như vậy, duyên như vậy”. Nếu thành tựu quả Phật thì gọi là “quả như vậy, báo như vậy”. Ba tên trước gọi là “gốc”, ba tên sau gọi là “ngọn”. Gốc an đầu hay ngọn sau cùng cũng đều là tam đức, cho nên nói “rốt ráo bình đẳng”. Ở giai vị đầu, tam đức này thiện ác đều có, hiền thánh giống nhau, lớn nhỏ không khác, từ khởi thủy đến tận cùng không thay đổi. Tam đức này ở trong cảnh giới ác không chìm xuống, ở trong cảnh giới thiện cũng không tăng lên; ở nơi bậc hiền không thấp, ở nơi bậc thánh không cao; tuy ở nơi nhỏ hẹp cũng không chật chội, ở nơi to lớn cũng không rộng rãi; dù ở chỗ khởi đầu cũng không phải mới, dù ở nơi tận cùng cũng chẳng phải cũ. Vì thế không thể nghĩ bàn, không thể giảng nói, cho nên [Phật dạy] “thôi thôi không nên nói”.

Lại nữa, tam đức rốt ráo đều như nhau [có nghĩa là], trong 10 pháp giới, hết thảy tướng tánh, quyền thật, khai hợp... dù sai biệt đến đâu, khi dùng trí tuệ lớn lao bình đẳng mà quán chiếu thì rốt ráo cũng đều bình đẳng như nhau.

Nếu mê nơi cảnh giới này thì có tướng tánh trong sáu cõi, gọi là thế tục đế.

Nếu hiểu rõ cảnh giới này thì có tướng tánh Nhị thừa, gọi là chân đế.

Đối với chỗ này không mê cũng không rõ, liền có tánh tướng trong cảnh giới Bồ Tát và Phật, gọi là trung đạo đệ nhất nghĩa đế.

Nếu dùng trí tuệ này, đồng như tục đế, thì tục đế chẳng phải mê, đồng như chân đế, thì chân đế không phải rõ biết; không phải rõ biết cũng không phải mê, cả mê muội hay rõ biết đều không, chỉ gọi là bình đẳng. Nếu cùng lúc soi chiếu cả hai thì quyền tức là thật, thật tức là quyền, tuy hai mà chẳng phải hai, cũng gọi là “rốt ráo bình đẳng”.

Lại nữa, quyền thật không phải hai cảnh giới. [Hành giả ở] bảy giai vị phương tiện không có khả năng dùng trí bất nhị [để quán sát] cảnh bình đẳng bất nhị, chỉ riêng chư Phật mới có thể dùng trí bất nhị [quán sát] cảnh bình đẳng cảnh, cho nên nói là “rốt ráo bình đẳng”.

Lại nữa, nay cơ duyên Đại thừa đã đến, nên không giảng về tánh tướng của chín pháp giới mà nói thẳng rằng hết thảy tánh tướng đều thể nhập vào tánh tướng của pháp giới Phật. Các giáo pháp trước đây không thuyết dạy [như vậy], nghĩa là nói giáo pháp trước đây không đồng với giáo pháp bây giờ. Nay thuyết dạy [giáo pháp này rồi] thì biết xưa với nay cũng đồng như nhau. Do vậy nói là “rốt ráo bình đẳng”.

[Như vậy, trên đây luận nghĩa “rốt ráo bình đẳng” theo ba phương diện.] Trước tiên dựa vào chỗ mê muội hay rõ biết, tiếp theo dựa vào [năng lực nhận thức mê ngộ của] người, và cuối cùng dựa vào giáo pháp [thuyết dạy trước sau]. Điều này nói ra rất rộng, người ghi chép không có khả năng bao quát hết.

Nếu lấy sự dứt tuyệt ngôn ngữ, vắng bặt tư duy để làm rõ nghĩa không thể nghĩ bàn, thì như trong sách [Pháp hoa] luận thích, quyển 79 có nói: “Không thể nghĩ bàn, đó là [nói pháp] không có tính nhất định, vượt ngoài hết thảy các pháp tâm, tâm sở, vượt ngoài hết thảy ngôn ngữ, không thể thi hành, không thể đạt đến, cho nên gọi là không thể nghĩ bàn.”

Nếu dùng thí dụ để làm rõ nghĩa không thể nghĩ bàn thì như trong sách Pháp hoa luận thích, quyển 14 có nói: “Chẳng phải dùng hình sắc hư hoại mà có thể hướng đến đạo bình đẳng. Quán chiếu hình sắc không khác biệt mới có thể bình đẳng nơi Đại thừa. Như sáng với tối hòa hợp cùng nhau, do người không thấy được [lẽ đó mà] cho rằng sáng với tối khác nhau. Nếu muốn rõ biết nghĩa này, [hãy quan sát] như ánh sáng của mặt trăng, lại như khi mặt trời mọc thì bóng tối cũng chẳng phải chạy mất về mười phương, mà bóng tối vẫn thường ở đó, chẳng đi đâu cả. Ánh sáng cũng giống như vậy, [vẫn thường ở đó], cùng với bóng tối hòa hợp [hiện hữu]. [Cũng vậy], sinh tử với Đạo cùng hòa hợp, Đạo cũng chính là sinh tử. Những gì mà đức Phật [cần] dứt trừ đã dứt trừ, [cần] vượt qua đã vượt qua, hết thảy đều không thể nghĩ bàn.” Thí dụ này được dùng rất nhiều trong các kinh luận.

Nếu dùng sự việc [để nêu nghĩa] không thể nghĩ bàn thì như trong kinh A-hàm nói rõ có bốn việc không thể nghĩ bàn. Đó là chúng sinh, thế giới, loài rồng và Phật.

Chúng sinh từ đâu đến và sẽ đi về đâu? Vì đâu mà có sinh, vì đâu mà có chết?

Thế giới là hữu biên hay vô biên? Là có thể đoạn trừ hay không thể đoạn trừ? Là do trời, rồng, người, quỷ hay ai đã tạo ra?

Kinh A-hàm nói rằng, có một người[19] ở thành Vương Xá, ngồi bên bờ hồ Câu-hy-la suy nghĩ về việc thế gian có cùng tận hay không cùng tận, bỗng thấy bốn đạo quân binh kéo nhau chui vào một lỗ trống nhỏ trong ngó sen, liền hết sức kinh sợ, tự nghĩ mình phát điên rồi chăng, vì thế gian không thể có [chuyện quái lạ này, chắc mình đã bị] điên cuồng [nên mới nhìn thấy như vậy]. [Ông liền tìm đến] thưa hỏi Phật. Phật dạy, không phải ông điên cuồng, [đó là chuyện thật], là quân binh A-tu-la [đánh nhau với] chư thiên thua chạy nên lui về trốn vào trong lỗ ngó sen ấy.

[Những suy nghĩ như trên], đức Phật dạy rằng, đó chỉ là cách nghĩ của thế gian, chẳng phải đạo Niết-bàn, chẳng có ý nghĩa lợi lạc, chẳng có pháp lợi lạc, chẳng có hạnh thanh tịnh lợi lạc. Đại lược là như vậy.

Về loài rồng, khi làm mưa là từ nơi miệng rồng, hay từ nơi tai, mắt, mũi, lưỡi? Thật ra đều không phải từ tất cả những chỗ ấy, chỉ là từ ý nghĩ [của rồng] mà có mưa, dù suy nghĩ việc thiện hay suy nghĩ việc ác cũng đều có thể hóa ra mưa. [Điều này là] do những việc [rồng] đã làm trong đời trước mà nay có năng lực như vậy. Trong lòng núi Tu-di có vị trời tên là Đại Lực, cũng có khả năng làm mưa.

Lại nữa, trong 5 cảnh giới, mỗi một cảnh giới đều có một điều không thể nghĩ bàn. [Như cảnh giới] địa ngục có [sự sống] dứt rồi lại nối.[20] Súc sinh có loài biết bay. Loài quỷ cũng có thể biến hóa vật ít thành nhiều. Loài người có thể nhen lửa đốt củi. Chư thiên có thể tự nhiên được hưởng phước báo. Hết thảy đều là những quả báo [vận hành của] pháp không thể nghĩ bàn. Đại lược là như vậy.

Như trên là dựa vào những sự việc nhân duyên [thường tình] để giải thích ý nghĩa không thể nghĩ bàn, huống chi là những cảnh giới sâu xa, lẽ nào lại không phải là không thể nghĩ bàn?

Giải thích phần kệ tụng

Tổng phần kệ tụng này có 21 khổ kệ, chia làm hai phần. Phần đầu gồm 17 bảy khổ rưỡi là tụng lại [ý nghĩa của] phần văn trường hàng. Phần sau gồm 3 khổ rưỡi [là ý nghĩa] lược nói về trừ bỏ ba thừa, hiển lộ nhất thừa và nói việc tâm bám chấp khởi lên sinh ra nghi ngờ.

Phần thứ nhất [trùng tuyên ý nghĩa văn trường hàng] lại cũng chia làm hai tổng đoạn. Trước tiên là 4 khổ, tụng lại về ý nghĩa dùng ngôn từ xưng tán [hai trí quyền thật]. Sau đó là 13 khổ rưỡi, tụng lại về ý nghĩa dứt tuyệt ngôn ngữ để xưng tán.

Nhìn chung hai phần kệ tụng và văn trường hàng có đủ nội dung nói rộng và nói lược, hỗ tương cho nhau, làm cho ý nghĩa dễ hiển bày. Văn trường hàng nêu lên xưng tán hai trí quyền thật của cả chư Phật và Phật Thích-ca,[21] biểu hiện cho nhân duyên giáo hóa khác nhau. Trong phần kệ tụng thì hợp chung lại xưng tán, để chỉ ra rằng hai trí [quyền thật] cũng đồng một lý như nhau.

KINH VĂN

Bấy giờ đức Thế Tôn muốn nhắc lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Bậc Thế Hùng khôn lường,
Chư thiên và nhân loại,
Cùng các loài chúng sinh,
Đều không thể hiểu Phật.

Phật lực, vô sở úy,
Giải thoát, các tam-muội,
Các pháp khác của Phật,
Đều không thể suy lường.

Từng theo vô số Phật,
Tu hành đủ các pháp,
Rất sâu xa nhiệm mầu ,
Khó thấy, khó rõ biết.

Trong vô số ức kiếp,
Tu các phẩm đạo rồi,
Chứng quả nơi Đạo trường,
Ta đều rõ biết hết.

Tổng đoạn thứ nhất gồm [4 khổ kệ] dùng ngôn từ xưng tán lại được chia làm 2 đoạn. [Đoạn thứ nhất gồm] 2 khổ kệ đầu hợp tụng nhị trí của chư Phật nói chung. [Đoạn thứ hai gồm] 2 khổ kệ sau hợp tụng chư Phật, xưng tán, giải thích và tóm kết ý nghĩa xưng tán.

Đoạn thứ nhất lại chia thành 2 tiểu đoạn.

[Tiểu đoạn thứ nhất, nay xét] phần đầu một câu “Bậc Thế hùng khôn lường” là tụng lại ý nghĩa “trí tuệ của chư Phật” trong văn trường hàng ở trên. “Khôn lường” hay không thể suy lường là tụng lại nghĩa “rất sâu xa không thể suy lường” [trong văn trường hàng] ở trên. Nguyên câu này là xưng tụng thật trí của chư Phật.

Ba câu kế tiếp [của đoạn đầu] là tụng lại ý nghĩa xưng tụng quyền trí của chư Phật [trong văn trường hàng].

Trong đoạn đầu, xét có ba điểm khác biệt.

Thứ nhất là trong văn trường hàng ở trên có nói về người lại nêu cả pháp, cho nên nói là “trí tuệ của chư Phật”. Nay trong phần kệ tụng này chỉ nói về người, dùng người để ca ngợi pháp, cho nên nói là “bậc Thế hùng”.

Thứ hai là trong văn trường hàng nói mở ra để xưng tán, nay trong kệ tụng này thì hợp lại để xưng tán. Vì trên có nêu riêng pháp nên cần mở ra; vì kệ tụng nêu người để nói chung nên cần hợp lại.

Thứ ba là trong văn trường hàng nói tất cả Nhị thừa đều không thể biết, nay trong kệ tụng này nói hết thảy các loài chúng sinh đều không thể biết.

[Tiểu đoạn thứ hai] từ chữ “Phật lực” trở đi sau đó 1 khổ kệ là xưng tán hai trí quyền thật của đức Phật Thích-ca. Chữ “Phật” là tụng lại ý nghĩa “Ta từ khi thành Phật đến nay” trong văn trường hàng. Đây chính là xưng tụng thật trí. [Tiếp theo nói] “lực, vô sở úy...” là xưng tụng những công đức [của Phật]. Đây là xưng tụng quyền trí. [Lại nói] “các pháp khác” tức là chỉ các pháp quyền hóa tha, là những pháp khác để giúp vào thật trí. Đây chính là tụng lại ý nghĩa “đủ mọi nhân duyên” trong phần văn trường hàng. Đại lược là như thế.

[Đoạn thứ hai] từ câu “Từng theo...” trở đi sau đó 2 khổ kệ là hợp tụng chư Phật, gồm đủ các ý giải thích, xưng tán và tóm kết ý xưng tán. Hai câu “Từng theo vô số Phật, tu hành đủ các pháp” là tụng lại ý nghĩa giải thích xưng tán chư Phật trong phần văn trường hàng, tức là câu văn: “Phật từng thân cận trăm ngàn muôn ức vô số chư Phật, tu hành hết thảy vô số đạo pháp của chư Phật.”

Câu kệ “Rất sâu xa nhiệm mầu” là tụng lại câu kinh văn tóm kết phần xưng tán thật trí: “Thành tựu pháp rất sâu xa, chưa từng có.”

Câu kệ “khó thấy, khó rõ biết” là tụng lại phần tóm kết ý nghĩa xưng tán quyền trí trong văn trường hàng nói “ý nghĩa khó hiểu được”.

Hai câu “Trong vô số ức kiếp, đã tu các phẩm đạo” là tụng lại ý nghĩa trong văn trường hàng giải thích về đức Phật Thích-ca “các tri kiến, pháp ba-la-mật đều đã đầy đủ”. Hai câu kệ trên nói về nhân đầy đủ, một câu kệ dưới “Chứng quả nơi Đạo trường” là nói quả thành tựu đầy đủ. Câu kệ [cuối cùng của đoạn này] “Ta đều rõ biết hết” là tụng lại ý nghĩa phần tóm kết về hai trí quyền thật của đức Phật Thích-ca, tức là câu kinh văn: “Tri kiến của đức Như Lai rộng lớn sâu xa...”

Cũng có khi 4 khổ kệ [vừa giải thích trên] được cho là hợp tụng về nghĩa quyền thật của chư Phật trong văn trường hàng. [Theo cách giải thích đó thì] phần này được chia làm 6 ý.

Thứ nhất là câu “Bậc Thế hùng khôn lường” xưng tán chung hai trí quyền thật của chư Phật.

Thứ hai, 3 câu tiếp theo từ chữ “chư thiên” trở đi là nói nghĩa chọn lọc [loại ra những chúng sinh không rõ biết]...

Thứ ba, 1 khổ kệ bắt đầu từ “Phật lực...” trở đi, tụng lại ý nghĩa giải thích quyền thật của đức Phật Thích-ca.

Thứ tư, một khổ kệ bắt đầu từ “Từng theo...” trở đi, tụng lại ý nghĩa giải thích quyền thật của chư Phật.

Thứ năm, hai câu bắt đầu từ “Trong vô số ức kiếp...” trở đi, tụng lại ý nghĩa các nhân tu hành [của Phật].

Thứ sáu, hai câu bắt đầu từ “Chứng quả nơi Đạo trường...” trở đi, tụng lại ý nghĩa thành tựu quả Phật [trong văn trường hàng].

KINH VĂN

Quả báo lớn lao ấy,
Đủ mọi nghĩa tánh tướng,
Ta với mười phương Phật,
Mới có thể rõ biết.
Pháp không thể chỉ bày,
Tướng ngôn ngữ dứt bặt.

Từ câu “Quả báo lớn lao ấy” trở đi là tổng đoạn thứ hai gồm 13 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa dứt tuyệt ngôn ngữ trong văn trường hàng. Phần này chia làm 5 đoạn.

Đoạn thứ nhất gồm hai câu, bắt đầu từ “Quả báo lớn lao ấy...” trở đi là tụng ý nghĩa cảnh giới không thể nghĩ bàn. Chỉ nêu [ý nghĩa] đầu và cuối, khoảng giữa [người nghe] có thể tự rõ biết. Chữ “nghĩa” là kiêm tụng ý nghĩa “cứu cánh bình đẳng”. Các chữ “lớn lao” và “đủ mọi” thì như trong Pháp hoa huyền nghĩa đã giảng giải.

Đoạn thứ hai gồm 2 câu, bắt đầu từ “Ta với mười phương Phật” là tụng lại ý nghĩa của đoạn văn trường hàng “Nói theo chỗ cốt yếu... ...Phật đều thành tựu hết”.

Đoạn thứ ba gồm hai câu, bắt đầu từ “Pháp không thể chỉ bày” trở đi là tụng lại ý nghĩa “thôi thôi không nên nói” trong văn trường hàng. Thật tướng không có phương hướng, nơi chốn, cho nên “không thể chỉ bày”; không còn ngôn ngữ nên nói “tướng ngôn ngữ dứt bặt”.

KINH VĂN

Các loài chúng sinh khác,
Không thể nào hiểu được,
Trừ các vị Bồ Tát,
Với đức tin kiên cố.

Chúng đệ tử của Phật,
Từng cúng dường chư Phật,
Đã dứt sạch lậu hoặc,
Trụ nơi thân cuối cùng,

Dù những bậc như vậy,
Vẫn không sức thọ nhận.
Nếu người khắp thế gian,
Đều như Xá-lợi-phất,

Dùng hết sức suy lường,
Cũng không rõ trí Phật.
Ví như khắp mười phương,
Đều như Xá-lợi-phất,

Cùng các đệ tử khác,
Tràn ngập khắp mười phương,
Cùng hết sức suy lường,
Cũng không thể rõ biết.

Đoạn thứ tư, từ câu “Các loài chúng sinh khác” trở đi, nêu ra những người không có khả năng rõ biết, [đồng với] trong văn trường hàng nói không có người rõ biết nên dừng lại không nói. Đoạn này có 10 khổ rưỡi kệ, [gồm 42 câu], nêu ra những người không [có khả năng] rõ biết [pháp này], lại chia làm 8 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất, gồm 2 câu, nói tổng quát loại ra những hạng người không có khả năng vào được pháp này,[22] tức là [các hành giả] ở 7 giai vị phương tiện.[23]

Tiểu đoạn thứ hai, gồm 2 câu, từ chữ “trừ các vị Bồ Tát...” trở đi, chọn nêu ra những người có khả năng vào được pháp này, tức là các giai vị Thập tín của Viên giáo, cho nên nói “đức tin kiên cố”. Trong văn trường hàng nói Phật rõ biết rốt ráo, trong kệ tụng này nói giai vị Sơ tín[24] rõ biết, đó là hỗ tương cho nhau [để nêu đầy đủ].

Tiểu đoạn thứ ba, gồm 6 câu, từ “chúng đệ tử của Phật...” trở đi,[25] tuyển chọn loại ra hàng Nhị thừa không có khả năng rõ biết.

Tiểu đoạn thứ tư, gồm 4 câu, từ “nếu người khắp thế gian...” trở đi, nêu ra ngài Xá-lợi-phật [làm ví dụ để nói chung những người] không có khả năng rõ biết [pháp này].

Tiểu đoạn thứ năm, gồm 6 câu, từ “ví như khắp mười phương...” trở đi, [tiếp tục] nêu các vị đại đệ tử [Thanh văn cũng đều không có khả năng rõ biết pháp này].

KINH VĂN

Hàng Duyên giác trí sáng,
Bậc Vô lậu thân cuối,
Cũng đầy khắp mười phương,
Số nhiều như tre rừng,

Như vậy cùng chuyên tâm,
Trong vô số ức kiếp,
Muốn suy biết trí Phật,
Cũng không biết được gì.

Bồ Tát mới phát tâm,
Cúng dường vô số Phật,
Rõ biết các ý nghĩa,
Lại khéo thuyết giảng pháp.

Nhiều như lúa, mè, tre...
Đầy khắp cõi mười phương,
Chuyên tâm dùng trí mầu,
Trong Hằng sa số kiếp,
Cùng chung sức suy lường,
Không thể rõ trí Phật.

Tiểu đoạn thứ sáu, gồm 8 câu, từ “Hàng Duyên giác...” trở đi, nêu ý các vị Duyên giác [cũng không có khả năng rõ biết pháp này].

Tiểu đoạn thứ bảy, gồm 10 câu, từ “mới phát tâm” trở đi, nêu ra các vị Bồ Tát [ở giai vị] phát tâm không có khả năng vào được [pháp này]. “Phát tâm” là từ ngữ thông dụng, hoặc có thể chỉ hàng Bồ Tát tu tập sáu ba-la-mật trong thời gian ba a-tăng-kỳ [kiếp] còn chưa đoạn trừ được mê hoặc, gọi là phát tâm, hoặc cũng có thể chỉ hàng trời, người nhờ tự nhiếp phục [mà tu tập] được sáu ba-la-mật. Cho nên riêng danh xưng phát tâm này có thể dùng cho cả Thông giáo, Biệt giáo, đều gọi là phát tâm.

KINH VĂN

Các Bồ Tát bất thối,
Nhiều như cát sông Hằng,
Một lòng cùng suy cầu,
Cũng không thể rõ biết.

Phật bảo Xá-lợi-phất:
Pháp sâu xa vi diệu,
Vô lậu, không nghĩ bàn,
Ta nay đã trọn thành,

Tướng ấy riêng ta biết,
Cũng như mười phương Phật.

Tiểu đoạn thứ tám, gồm 4 câu, từ “Các Bồ Tát bất thối” trở đi, nêu việc loại cả hàng Bồ Tát bất thối cũng không có khả năng rõ biết [trí tuệ Phật. Đây là nói hàng Bồ Tát] bất thối của Thông giáo, đoạn trừ cảnh giới nội hoặc, không rõ biết lý của Biệt giáo. Hàng Bồ Tát của Biệt giáo chưa lên đến Thập địa[26] tuy cũng chứng được Vị bất thối, Hạnh bất thối v.v. nhưng cũng không có khả năng rõ biết.

Đoạn thứ năm gồm 1 khổ rưỡi kệ, từ câu “Phật bảo Xá-lợi-phất” trở đi, tụng lại ý nghĩa trong văn trường hàng nói rằng pháp này khó hiểu, chỉ Phật mới rõ biết được cảnh giới thật tướng.

Câu “vô lậu, không nghĩ bàn” là tụng lại phần tóm kết ý chính nêu ra cảnh giới quyền thật trong văn trường hàng.

Câu “pháp sâu xa vi diệu” là tụng lại ý nghĩa “thành tựu pháp cao tột khó hiểu ít có nhất” trong văn trường hàng.

Từ câu “Ta nay đã trọn thành” trở đi là 3 câu tụng lại ý nghĩa “chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến cùng tận” trong văn trường hàng. Đây là nêu rõ đạo của chư Phật đồng như nhau, đều là rốt ráo. Cho nên kệ nói rằng: “Tướng ấy riêng ta biết, cũng như mười phương Phật.”

Giải thích về nghĩa “không nghĩ bàn” thì giống như hạt châu như ý, tự nó không sở hữu gì nhưng lại có thể làm mưa xuống các loại trân bảo quý giá. [Cũng vậy,] thật tướng vốn không sinh nhưng lại có thể sinh ra Bát-nhã.

Một khổ rưỡi kệ với câu “vô lậu, không nghĩ bàn” này là căn bản, từ đây phát xuất 4 cách giải thích như phần trên đã nói.[27]

Từ một nửa câu kệ “vô lậu” (không lậu hoặc, không rỉ chảy, không thiếu sót) này là căn bản giải thích 10 pháp giới. Mười như thị của 10 pháp giới bao gồm hết thảy phàm thánh, lý tánh không gì thiếu sót. Bao gồm tam đế[28] cũng không thiếu sót, bao gồm quyền trí, thật trí cũng không thiếu sót.

Nếu dựa vào câu “không nghĩ bàn”, dùng cách giải thích theo khai hợp làm căn bản thì ngay nơi quyền tức là thật, ngay nơi thật tức là quyền, cho nên nói đủ là “không thể nghĩ bàn”.

Nếu dựa vào câu “pháp thâm sâu vi diệu”, dùng cách giải thích theo Phật pháp giới làm căn bản thì ý nghĩa có thể tự hiểu được.

Nếu dựa vào câu “tướng ấy riêng ta biết”, dùng cách giải thích theo giai vị làm căn bản thì ý nghĩa cũng có thể tự hiểu được. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Xá-lợi-phất nên biết,
Lời chư Phật không khác,
Đối với pháp Phật thuyết,
Phải tin sâu, tin chắc.

Pháp Phật lâu về sau,
Phải thuyết dạy chân thật.
Phật bảo chúng Thanh văn,
Cùng chúng cầu Duyên giác:

“Ta dạy cho thoát khổ,
Nhưng chưa được Niết-bàn.”
Phật dùng sức phương tiện,
Tạm bày ra ba thừa,
Chúng sinh nhiều bám chấp,
Dẫn dắt cho giải thoát.

Phần thứ hai từ câu “Xá-lợi-phất nên biết” trở đi, [gồm 3 khổ rưỡi kệ], lược nói việc trừ bỏ ba thừa [trước đây], hiển bày Nhất thừa và nói việc tâm bám chấp khởi lên sinh ra nghi ngờ.

Phần này nói nghĩa trừ bỏ và hiển bày được chia làm hai phần. Phần đầu nêu việc chư Phật hiển thật, phần sau nói việc đức Phật Thích-ca khai thị trừ bỏ ba thừa, hỗ tương nhau cùng làm rõ một ý.

Tổng đoạn thứ nhất từ câu “Lời chư Phật không khác” là luận về sự giáo hóa của chư Phật, tất cả đều giống nhau.

Hai câu tiếp theo khuyến khích khởi lòng tin sâu [đối với pháp Phật]. Hai câu sau nữa chính là hiển lộ pháp chân thật. [Kệ nói:] “Pháp Phật lâu về sau, phải thuyết dạy chân thật”, tức là ý nghĩa hiển bày chân thật. Do tâm bám chấp từ xưa khởi lên, ngày nay mới sinh nghi ngờ. [Nên kinh văn phần sau nói] “lẽ nào chẳng phải ma đang giả Phật”.[29] Chính là nói do nghe lời [chân thật] này. Phật đã dùng lời chân thật khuyến khích khởi lòng tin, việc gì phải trái lời Phật mà khởi tâm nghi ngờ? Vì ngăn ngừa việc [người nghe] do nghi ngờ mà hủy báng cho nên Phật mới khuyến khích khởi lòng tin.

Tổng đoạn thứ hai từ câu “Phật bảo chúng Thanh văn” trở đi là nêu rõ việc đức Thích-ca khai thị [trừ bỏ] ba thừa. Phần này lại chia làm 3 đoạn.

Đoạn thứ nhất, 1 khổ kệ, chính là nêu việc trừ bỏ ba thừa, sắp chỉ ra chỗ chưa đúng của Nhị thừa, cho nên nói là “nhưng chưa được Niết-bàn”.

Lại giải thích rằng “Ta dạy cho thoát khổ, nhưng chưa được Niết-bàn”, là nói phỏng theo sáu ba-la-mật của Bồ Tát thừa. Do đâu biết như vậy? Vì [Phật dạy] tu tập công hạnh sáu ba-la-mật thoát được trói buộc trong bốn cảnh giới,[30] nhưng chưa thể đạt đến diệt độ [Niết-bàn], còn phải qua ba a-tăng-kỳ kiếp và 100 [đại] kiếp nữa mới được Niết-bàn. Cho nên [Hán văn] dùng chữ “đãi” (逮) là nói còn rất lâu xa mới đạt đến.

Lại nữa, người tu công hạnh sáu ba-la-mật thì trước là cứu độ chúng sinh, cho nên nói “ta giúp cho thoát khổ”. Vì lâu sau mới đạt quả vô lậu, cho nên nói “nhưng chưa được Niết-bàn”. Do nghĩa này suy ra nên biết là nói đến sáu ba-la-mật của Bồ Tát thừa.[31] Lại dựa theo số lượng mà suy ra thì câu sau nói “đó là Phật phương tiện, tạm bày ra ba thừa.” Nếu không chỉ đến Bồ Tát thừa thì lấy gì mà nói là ba thừa? Không thể lấy số Nhị thừa [ở trước] mà gọi là ba.

Đoạn thứ hai, nửa khổ kệ, “đó là Phật phương tiện, tạm bày ra Ba thừa”, chính là bác bỏ ba thừa, chỉ rõ đó đều là hư ngụy không thật.

Đoạn thứ ba, 2 câu kệ [cuối], nêu ra ý nghĩa [mục đích giả] lập ba thừa. Ý nghĩa này là quyền biến, để dẫn dắt [chúng sinh nhiều bám chấp] xa lìa các nỗi khổ, chưa phải là chân thật. Đây chỉ là pháp môn phương tiện mà thôi.

Khởi nghi thưa hỏi

KINH VĂN

Bấy giờ trong đại chúng có các vị Thanh văn đã chứng A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, giống như ngài A-nhã Kiều-trần-như... cả thảy 1.200 vị, cùng những vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di phát tâm cầu quả Thanh văn, quả Phật Bích-chi, hết thảy đều nghĩ rằng: “Hôm nay đức Thế Tôn vì sao lại ân cần ngợi khen xưng tán pháp phương tiện mà nói: ‘Pháp Phật đã chứng đắc rất sâu xa khó hiểu, có nói ra điều gì thì ý nghĩa đều khó rõ biết, hết thảy hàng Thanh văn, Duyên giác đều không thể hiểu được?’”

Từ câu “Bấy giờ trong đại chúng” trở đi là nói việc vì khởi tâm nghi mà thưa thỉnh. Do nghe [Phật dạy] ba thừa là hư ngụy, chỉ có Nhất thừa là chân thật, nên tình chấp khởi động sinh tâm nghi hoặc. Phần kinh văn này chia làm 2 phần, thứ nhất là trình bày chỗ nghi, thứ hai là thưa thỉnh [cầu Phật] giải quyết chỗ nghi.

Phần thứ nhất trình bày chỗ nghi lại chia làm 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất là trình bày của người chép kinh, tổng đoạn thứ hai là chính thức nêu việc khởi sinh lòng nghi.

Tổng đoạn thứ nhất,] trước tiên trình bày chỗ nghi của 1.200 vị [tỳ-kheo],[32] sau trình bày chung chỗ nghi của cả bốn chúng [phát tâm cầu quả vị Nhị thừa].

Phần trên [đức Phật đã] bác bỏ, [nói rằng] cả ba thừa đều là phương tiện, phần trình bày chỗ nghi lại chỉ nói đến Nhị thừa. Đó là vì [hàng Nhị thừa] bám chấp sâu nặng, lòng nghi quá sâu cho nên mới nêu riêng, nhưng đọc tiếp đến phần nêu chi tiết bên dưới thấy nói rõ rằng: “Các vị Bồ Tát cầu quả Phật, số nhiều đến tám muôn”[33] cũng đều có lòng nghi, cho nên biết rằng [thính chúng trong cả] ba thừa đều có lòng nghi, nhưng ở đây chỉ nêu riêng hàng Nhị thừa.

Tổng đoạn thứ hai từ câu “hết thảy đều nghĩ rằng” trở đi, chính thức nêu việc khởi sinh lòng nghi. Tổng đoạn này lại chia thành 2 đoạn. Đoạn thứ nhất là nghi hai trí [quyền thật] của Phật. Đoạn thứ hai là nghi chỗ chứng đắc của tự thân.

Từ câu “vì sao lại ân cần ngợi khen...” là nói sự hoài nghi chung đối với cả hai trí quyền thật.

Từ câu “...mà nói: ‘Pháp Phật đã chứng đắc rất sâu xa khó hiểu...” là nói nghi thật trí. Từ câu “có nói ra điều gì thì ý nghĩa đều khó rõ biết” là nói nghi quyền trí. [Vì các vị] từng nghe rằng lời của chư Phật đã nói ra không bao giờ khác biệt, chỉ nói những lời chân thật, cho nên từ đó mới sinh nghi. Vì sao trước đây Phật nói rằng ba thừa đều chứng đắc trí tuệ như nhau, chỉ khác biệt ở chỗ tập khí còn lại đã dứt hoặc chưa dứt hết. Ngày nay bỗng dưng [Phật] lại xưng tán hai trí [quyền thật] của Như Lai, nói rằng hàng Tam thừa không thể đạt đến. Do đó mà nghi ngờ hai trí [quyền thật] của Phật.

KINH VĂN

“Phật [từng] thuyết dạy một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng được pháp ấy, [tưởng rằng] đạt đến Niết-bàn, nhưng nay thì không biết nghĩa ấy hướng về đâu?”

Câu “Phật [từng] thuyết dạy một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng được pháp ấy” là tự nghi chỗ sở đắc của mình. [Vì trước đây Phật dạy rằng] thánh đạo Tam thừa là con đường chân chánh xuất ly [giải thoát], chỉ cần tu tập theo pháp ấy sẽ đạt đến Niết-bàn, mà nay bỗng dưng [Phật] lại nói rằng tất cả đều là phương tiện, chẳng biết điều gì mới là chân thật. Cho nên [kinh văn] nói “không biết nghĩa ấy hướng về đâu”. Đây là do phần trên [Phật] bác bỏ, nói rõ ba thừa đều là hư ngụy, nên mới sinh ra sự nghi ngờ này.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất biết lòng nghi của bốn chúng và chính mình cũng chưa hiểu nên bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà nay Phật ân cần ngợi khen xưng tán phương tiện bậc nhất cùng pháp thâm sâu vi diệu khó hiểu của chư Phật? Con từ xưa nay theo Phật chưa từng được nghe những lời như vậy. Nay bốn chúng đều ôm lòng nghi, nguyện Thế Tôn giảng rõ việc này: Thế Tôn vì sao lại ân cần ngợi khen xưng tán pháp thâm sâu vi diệu khó hiểu?”

Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên đọc kệ rằng:

Từ câu “Lúc bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất...” trở đi là phần thứ hai, chính thức thưa thỉnh [cầu Phật giải nghi]. Trong phần này có 3 lần thưa thỉnh và 2 lần [Phật] bảo thôi.

Theo như [sự giảng giải] trước đây thì có 3 lần bảo thôi. Các ngài Pháp Dao và Long sư đều nói rằng: “Lần bảo thôi thứ nhất là vì lý sâu xa [Phật e rằng đại chúng] khó hiểu được. Lần thưa thỉnh đầu tiên là vì chính mình và người khác mà thỉnh cầu quyết nghi. Lần bảo thôi thứ hai là vì [đức Phật e rằng đại chúng] kinh sợ nghi ngờ chẳng tin. Lần thỉnh cầu thứ hai là vì [tin rằng] những người đã từ lâu trồng sâu căn lành ắt có thể hiểu được. Lần bảo thôi thứ ba là vì [đức Phật e rằng những kẻ không tin] ắt sẽ hủy báng rồi đọa vào đường ác. Lần thưa thỉnh thứ ba là vì những người căn cơ nhanh nhạy ắt sẽ được lợi ích.”

Các bậc thầy ngày nay đôi khi lại cho rằng: “Đức Phật đã biết trước ba lần được lợi ích [của thính chúng] trước sau không giống nhau, cho nên ngăn lại ba lần để chờ đủ ba lần thưa thỉnh, [lợi lạc cho khắp thính chúng].”

[Phần nói về] lần thưa thỉnh đầu tiên được chia làm hai phần, gồm phần văn trường hàng và phần kệ tụng. Văn trường hàng lại cũng chia làm hai phần. Phần thứ nhất trình bày sự hoài nghi, phần thứ hai trình bày thưa thỉnh. Trình bày nghi là nói việc nghi về hai trí. Trình bày thưa thỉnh thì đã thỉnh rồi lại vì đại chúng thỉnh nữa.

KINH VĂN

Đấng Đại Thánh trí tuệ,
Lâu mới thuyết pháp này.
Tự nói đã chứng đắc,
Lực, vô úy, tam-muội,

Cùng thiền định giải thoát,
Pháp không thể nghĩ bàn.
Nơi đạo trường chứng đắc,
Không ai đủ sức hỏi,

Ý Phật khó suy lường,
Cũng không thể thưa hỏi,
Nên Phật tự nói ra,
Ngợi khen đạo chư Phật,
Trí tuệ cực vi diệu,
Chư Phật đã đạt được.

A-la-hán vô lậu,
Cùng người cầu Niết-bàn,
Nay chìm trong lưới nghi,
Vì sao Phật nói vậy?

Những người cầu Duyên giác,
Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Chư thiên, rồng, quỷ thần,
Với loài càn-thát-bà...

Nhìn nhau lòng phân vân,
Cùng chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Việc này là thế nào?
Nguyện được Phật giảng giải.

Trong hàng chúng Thanh văn,
Phật khen con bậc nhất,
Nay con dùng trí mình,
Không thể hiểu, nghi hoặc.

Đây là pháp rốt ráo?
Hay là đạo tu hành?
Chúng từ miệng Phật sinh,
Đều chắp tay mong đợi,

Nguyện Phật ban tiếng mầu,
Nói ra pháp như thật.
Chư thiên, rồng, quỷ thần...
Số nhiều như cát sông,

Bồ Tát cầu quả Phật,
Số đến tám mươi ngàn,
Lại từ muôn ức nước,
Vua Chuyển luân đến đây,
Cùng chắp tay cung kính,
Muốn nghe đạo trọn đủ.

Phần kệ tụng có 11 khổ kệ, chia thành 6 phần.

Phần thứ nhất là 2 câu đầu tiên, tụng về [ý nghĩa] hoài nghi thật trí.

Phần thứ hai từ câu “Tự nói đã chứng đắc...” trở đi, gồm 3 khổ kệ, tụng về [ý nghĩa] hoài nghi quyền trí.

Phần thứ ba từ câu “A-la-hán vô lậu...” trở đi, gồm 3 khổ kệ, nêu việc tứ chúng trong ba thừa đều có sự hoài nghi. Câu đầu [khổ thứ nhất] nói các vị A-la-hán [hoài nghi]. Hai câu đầu [khổ thứ hai] nói các vị Duyên giác [cũng hoài nghi]. Trong khoảng giữa có câu “cùng người cầu Niết-bàn” là nói về hàng Bồ Tát tu sáu ba-la-mật.

Làm sao biết được [câu này là nói về hàng Bồ Tát]? Như phần trên có nói “chưa được Niết-bàn”, ở đây lại dùng chữ “cùng”. “Cùng” là nói cùng với các vị Bồ Tát, bởi vì [chính các vị Bồ Tát là người] “cầu Niết-bàn”. Hơn nữa, “cùng” nghĩa là với đối tượng khác nữa, tức là khác với hàng Nhị thừa [đã nói], cho nên biết đây chính là nói đến các vị Bồ Tát.

Phần thứ tư từ câu “Trong hàng chúng Thanh văn...” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ (6 câu), nêu việc ngài Xá-lợi-phất hoài nghi.

Phần thứ năm từ câu “chúng từ miệng Phật sinh...” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nêu việc hàng Phật tử [trong pháp hội] hoài nghi.

Phần thứ sáu từ câu “chư thiên, rồng, quỷ thần...” trở đi, gồm 2 khổ kệ, nói tổng quát [các thành phần trong thính chúng] đều có lòng nghi và đồng thỉnh [Phật giải nghi].

Nói chung, với kệ tụng và văn trường hàng, có thể dùng ý nghĩa suy tìm [để hiểu], nếu như không có trong kệ tụng, tức là được nói trong văn trường hàng. Đối với những ý nghĩa không cần yếu cấp thiết thì không cần phân tích chia chẻ làm rườm rà câu văn, cho nên thường lược bớt.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Thôi, thôi, không nên nói nữa! Nếu ta nói ra việc này thì hết thảy chư thiên và loài người ở thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ.”

Ngài Xá-lợi-phất lại bạch Phật: “Thế Tôn! Kính nguyện Phật nói ra, kính nguyện Phật nói ra. Vì sao vậy? Trong chúng hội này có vô số trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ chúng sinh đã từng được gặp chư Phật, căn tánh lanh lợi dũng mãnh, trí tuệ sáng suốt rõ biết, nếu được nghe Phật thuyết dạy ắt có thể cung kính tin nhận.”

Lúc ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Đấng Pháp vương Vô thượng,
Xin thuyết dạy, đừng lo,
Vì vô số chúng hội,
Phải có người kính tin.

Đức Phật lại ngăn lời ngài Xá-lợi-phất: “Nếu ta nói ra việc này, hết thảy hàng trời, người, a-tu-la... trong khắp thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ, các tỳ-kheo tăng thượng mạn sẽ phải sa vào hố sâu tội lỗi vì phỉ báng.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn nhắc lại nghĩa trên bằng kệ rằng:

Thôi thôi không nên nói,
Pháp Phật khó nghĩ bàn.
Những kẻ tăng thượng mạn,
Ắt không thể kính tin.

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất một lần nữa bạch Phật: “Thế Tôn! Kính nguyện Phật nói ra, kính nguyện Phật nói ra. Nay trong hội này, những người như con, số nhiều đến trăm ngàn muôn ức, trải qua nhiều đời đã từng được Phật giáo hóa. Những người này ắt sẽ có thể kính tin, trong đêm dài sinh tử họ sẽ an ổn, được nhiều lợi ích.” Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Đấng Thế Tôn Vô thượng,
Nguyện thuyết pháp bậc nhất.
Con là con trưởng Phật,
Xin thương mà giảng thuyết,

Trong hội vô số chúng,
Có thể kính tin lời.
Phật đã qua bao đời,
Giáo hóa những người này,

Nay một lòng chắp tay,
Muốn nghe lời Phật dạy.
Chúng con một ngàn hai,
Cùng người cầu quả Phật,

Nguyện vì hội chúng này,
Thương xót phân biệt nói.
Đại chúng nghe pháp này,
Ắt sinh lòng hoan hỷ.

Từ câu “Bấy giờ đức Phật bảo...” trở đi là hai lần [Phật] bảo thôi, rồi [ngài Xá-lợi-phất] lại [tiếp tục] trình chỗ nghi để thưa thỉnh, hết thảy đều y theo [ý nghĩa trong] kinh văn có thể hiểu được]. Đại lược là như thế.[34]

Ba lần thuyết pháp

Từ câu “Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất: Ông đã ân cần thưa thỉnh ba lần, sao có thể không nói ra...” trở đi là nói rộng ý nghĩa khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa.

Nhìn chung phần này gồm 7 phẩm rưỡi, toàn văn chia làm ba [lần thuyết pháp].

Lần thứ nhất là vì hàng thượng căn thuyết giảng chánh pháp. Lần thứ hai là vì hạng trung căn thuyết giảng các thí dụ. Lần thứ ba là vì hạng hạ căn thuyết giảng các nhân duyên đời trước.

[Ba lần thuyết pháp này] cũng được gọi tên là lý, sự và hành. Theo như kinh Đại phẩm [Bát-nhã] cũng chia 3 hạng căn cơ. Đại lược là như thế.

Nay sử dụng 10 ý nghĩa để phân chia chọn lọc [giảng giải ý nghĩa trong ba phần thuyết pháp như nói trên].

Thứ nhất là luận việc thuyết pháp có chung, có riêng. Thứ hai là luận việc có Thanh văn hay không. Thứ ba là luận về nghi hoặc có sâu cạn. Thứ tư là luận việc có chuyển đổi căn cơ hay không. Thứ năm là luận về các căn cơ khác nhau có ngộ hay không ngộ. Thứ sáu là luận việc có nói ra chỗ nhận hiểu hay không. Thứ bảy là luận về việc được thụ ký hay không. Thứ tám là luận về sự ngộ đạo sâu cạn. Thứ chín là luận về lợi ích của quyền và thật. Thứ mười là luận về việc có đợi thời hay không.

1. Luận về chung và riêng

Lần thuyết giảng đầu tiên là riêng [cho hàng lợi căn], gọi là thuyết chánh pháp. Thuyết giảng chung [trong lần này] thì gồm đủ cả ba [căn cơ thượng, trung, hạ]. [Như kinh văn nói:] “...như hoa ưu-đàm-bát đúng thời chỉ nở một lần...”, đó là thuyết giảng thí dụ [cho hàng trung căn]. [Lại như trong phần kệ tụng nói:] “Nếu ta gặp chúng sinh, đều dạy bằng Phật đạo”, tức là thuyết giảng về nhân duyên [cho hàng hạ căn].

Lần thuyết giảng thứ hai thì riêng [cho hàng trung căn], là thuyết giảng thí dụ. Thuyết giảng chung [trong lần này] cũng hướng đến cả ba căn cơ. [Như kinh văn nói:] “Chẳng phải trước đây ta đã nói... ...đó đều là vì giáo hóa hàng Bồ Tát”,[35] tức là nói thí dụ thích hợp [cho hàng trung căn]. Lại nói: “[Phật dùng sức phương tiện,] đối với một Phật thừa mà phân biệt thuyết dạy thành ba thừa”, tức là thuyết chánh pháp [cho hàng thượng căn].

Kinh văn nói “...ở nơi hai vạn ức vị Phật, ...thường giáo hóa ông”,[36] đó tức là thuyết về nhân duyên. Nếu cho rằng câu kinh văn này thuộc về thuyết pháp [cho hàng thượng căn], thì có thể xem các câu kệ “Ông trưởng giả nghe rồi, hốt hoảng vào nhà cháy, tìm cách cứu các con” là thuyết về nhân duyên [cho hàng hạ căn].

Lần thuyết giảng thứ ba nói riêng [là cho hạng hạ căn], thuyết giảng các nhân duyên đời trước. Thuyết giảng chung [trong lần này] lại cũng hướng về cả [ba hạng căn cơ]. [Kinh văn nói] “...đến lúc nhập Niết-bàn, đại chúng lại thanh tịnh...”[37] [Phật liền nói pháp] khiến cho thể nhập vào trí tuệ Phật. Đây là thuyết pháp [cho hàng thượng căn]. Kinh văn nói: “Có một vị thầy dẫn đường...” tức là thuyết thí dụ [cho hàng trung căn].

Phân chia ba lần thuyết giảng như vậy là dựa theo [đủ các nghĩa] như “đa” (số đông), “chánh” (chân chánh), “lược” (tóm gọn), “bàng” (có liên quan). Vì muốn cho không lạm dụng quá nhiều danh xưng nên mỗi nơi đều chỉ nêu căn cứ một ý mà thôi.

Hỏi: Ba lần thuyết giảng là vì ba hạng căn cơ, nhưng mỗi một lần [tính cả thuyết riêng và thuyết chung] thì cũng đủ cho ba căn cơ, vậy lẽ ra chỉ một lần thuyết cũng đã là đủ [nghĩa cho] cả ba hạng căn cơ?

Đáp: Thuyết chánh pháp không phải chỉ phù hợp với hàng thượng căn và hàng thượng của trung căn, mà còn cho cả hàng trung căn, hạ căn. Vì theo các nghĩa “chân chánh”, “tóm lược” và “có liên quan” cho nên chỉ nói là phù hợp với bậc thượng căn. Hai lần thuyết giảng thí dụ và nhân duyên cũng đều như vậy.

2. Luận về Thanh văn

Ngài Quang Trạch cho rằng nhất định thật có việc tu hành [pháp] Thanh văn. Nếu nói rằng không thật có Thanh văn thì pháp quyền [của Phật] tương ứng với gì?

Ngài Khai Thiện thì giảng giải rằng không thật có việc tu hành [pháp] Thanh văn. Ngài dẫn kinh Thắng Man [nói rằng] hàng Tam thừa vừa tu tập lúc ban sơ đã [có người] chẳng ngu muội đối với pháp,[38] kẻ phàm phu đứng ngoài đã biết được Nhất thừa, thì làm sao có việc hàng Nhị thừa còn bám chấp các quả vị thấp.[39] Trong kinh nói rằng có [pháp Thanh văn] thì đó chỉ là quyền biến mà thôi.

Cả hai thuyết trên đều là bám chấp thiên lệch, trái ngược với kinh, làm mất đi ý nghĩa.

Nếu nói nhất định có [pháp Thanh văn], thì chẳng phải trong kinh [này] đã nói là không có đệ tử Thanh văn, chỉ giáo hóa các vị Bồ Tát?[40] Còn nếu nói nhất định không có [pháp Thanh văn] thì ai là người vào hóa thành? Lại cũng không có ba [thừa] để nhận hiểu thì pháp quyền biến để dẫn dắt ai?

Lại nếu nói rằng thật có [pháp Thanh văn], là đối tượng dẫn dắt của pháp quyền biến, thì lẽ ra cũng phải thật có [quả vị] Phật của Tạng giáo, và [Thanh văn] là chỗ dẫn dắt của đức Phật quyền biến thuộc Tạng giáo. Còn nếu nói thật không có [quả vị] Phật như thế, chỉ là Phật quyền biến, thì tại sao lại không chấp nhận là chỉ có Thanh văn quyền biến, không thật có [pháp] Thanh văn? [Lập luận theo] nghĩa này không hợp lý. [Lại nếu vì Thanh văn] thật có đoạn giới nội hoặc[41] mà cho đây là thật rồi có [Thanh văn] tương ứng quyền hiện, vậy thì làm gì có Phật đoạn giới nội hoặc để có Phật quyền biến tương ứng với Phật ấy?

Nay giải thích rõ rằng cả hai quan điểm có và không [như trên] đều không thể lệch lạc bám chấp theo.

[Xét trong kinh Pháp hoa này,] nếu nhìn từ trí tuệ chân thật của ông trưởng giả thì không hề có khách xa đến làm thuê. Còn nếu dựa theo căn tánh của đứa con lưu lạc cùng khổ thì tất nhiên tự cho mình là người đến làm thuê.[42]

Theo Pháp hoa huyền luận[43] thì có 4 loại Thanh văn. Một là Thanh văn quyết định,[44] hai là Thanh văn tăng thượng mạn,[45] ba là Thanh văn thối tâm Đại thừa[46] và bốn là Thanh văn ứng hóa. Hai loại đầu [căn cơ] chưa thuần thục, không được thụ ký, hai loại sau đều được thụ ký [sẽ thành Phật].

Nếu theo kinh [Pháp hoa] này thì có 5 loại Thanh văn. Loại thứ nhất là đã nhiều đời tu tập Tiểu thừa, đến đời này tâm đạo thuần thục, được nghe giáo pháp Tiểu thừa liền chứng quả. Theo như trong luận nói thì đây là hạng Thanh văn quyết định.

Loại thứ hai vốn là hàng Bồ Tát đã tu tập trải qua nhiều đời, nhưng giữa chừng mỏi mệt chán ghét sinh tử nên từ bỏ Đại thừa, tu theo Tiểu thừa.[47] Trong Đại phẩm [Bát-nhã] gọi đây là hạng có căn lành khác biệt. Đức Phật vì tạm thành tựu cho người [căn cơ] thấp nên nói giáo pháp bậc thấp, cũng đều dạy dứt trừ phiền não trói buộc, chứng đạt quả vị. Hạng người này thối tâm chưa lâu, chỉ mới tu tập theo Tiểu thừa gần đây, nên theo lẽ thì rất dễ giác ngộ. Nói theo như luận nói thì đây là hạng Thanh văn thối tâm Bồ-đề.

Hạng thứ ba là do có hai hạng Thanh văn nói trên nên chư Phật, Bồ Tát [thị hiện] ẩn giấu [thật tướng] bên trong, bên ngoài hiện [tướng Thanh văn] để thành tựu, dẫn dắt [hai hạng Thanh văn trên] đi vào Đại thừa. Theo như luận nói thì đây là hạng Thanh văn ứng hóa.

Hạng thứ tư là [sai lầm] cho rằng cả hai pháp quyền thật đều có thể giúp ra khỏi sinh tử, vì ưa thích Niết-bàn nên tu tập giới, định, tuệ, có được đôi chút trí tuệ quán chiếu nhưng chưa vào được Tương tợ vị, chỉ vừa có chút sở đắc mỏng manh mà cho rằng đã chứng quả. Đây gọi là chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà nói đã chứng. Theo như luận nói thì đây là hạng Thanh văn tăng thượng mạn.

Hạng thứ năm là Thanh văn Đại thừa, dùng âm thanh của Phật đạo để khiến cho tất cả [chúng sanh] đều được nghe.

[Như vậy,] nếu xét theo hai loại Thanh văn quyết định và Thanh văn thối tâm Bồ-đề thì là thật có [pháp] Thanh văn.

Nếu xét theo lý Đại thừa thì không thể dứt trừ tất cả[48] để vĩnh viễn ở nơi “hóa thành” mà rốt cùng đều phải về “bảo sở” (nơi có nhiều châu báu). Lẽ thật đã như vậy tức là không có pháp quyền, cho nên thật không có Thanh văn.

Nếu [xét theo] hạng tăng thượng mạn thì chưa chứng nhập giai vị tức là chẳng phải thật, lại không phải ứng hóa cho nên chẳng phải quyền. Nếu hiểu được ý này thì dù có hay không cũng mặc nhiên không lưu tâm đến, đâu cần phải khổ nhọc tranh luận [cùng nhau].

Lại nữa, nếu chỉ căn cứ vào hạng Đại thừa Thanh văn mà luận có hoặc không, thì nếu do quyền biến ứng hóa tạo ra, bên ngoài thị hiện hình tích Tiểu thừa mà bên trong ẩn chứa tánh đức Đại thừa, như vậy ắt phải nói là không có Đại thừa Thanh văn.

Nếu xét theo nghĩa tự thực hành, hình tích phát lộ là hiển bày bản thể, như vậy ắt phải nói là thật có Thanh văn Đại thừa. Nay theo ý chính [của kinh văn] là khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa, thì nhất định sẽ làm cho hàng Thanh văn thối tâm Bồ-đề trở thành Thanh văn Đại thừa. Ý nghĩa tự thực hành đã lập rồi liền có thể ứng hóa thành Thanh văn. Nếu hiểu được ý này tức là đã đạt được [nghĩa] có hay không có [Thanh văn].

3. Luận về nghi hoặc có sâu, có cạn

Ngài Pháp Dao nói, những người thuộc thượng căn, trung căn hay hạ căn, sau khi chứng quả rồi vui thích với pháp quán vô sinh, [thấy rằng] lý của vô sinh là duy nhất. Đến khi ra khỏi giai đoạn quán chiếu, tùy giáo pháp tu tập[49] mà duyên theo, liền thấy khác biệt. Lại theo chỗ khác biệt tất nhiên ấy mà nghi hoặc lý vô sinh duy nhất, cho rằng giáo pháp đã là ba thì lý làm sao có thể là một? [Hoặc ngược lại] theo lý [vô sanh] duy nhất mà nghi hoặc ba giáo pháp, cho rằng lý đã là một thì giáo pháp làm sao có thể là ba? Phân vân do dự giữa lý và giáo, hoang mang nghi hoặc chuyện được và mất. Dùng lý mà nghi hoặc giáo thì có nghĩa được, dùng giáo mà nghi hoặc lý thì có nghĩa mất. Bậc thượng căn dùng lý nghi hoặc giáo, tình nhiều [hơn tưởng], vừa được nghe thuyết giảng chánh pháp thuận theo tình liền được giác ngộ. Kẻ hạ căn dùng giáo nghi hoặc lý, tình nhiều [hơn tưởng], khi nghe thuyết chánh pháp rằng không có ba thừa, trái ngược với suy tính hiện có, cho nên phải được nghe đến ba lần mới nhận hiểu. Hàng trung căn ở giữa hai phạm vi ấy, khi nghe thuyết chánh pháp chẳng ngộ, đến khi được nghe thuyết thí dụ liền hiểu rõ.

Nay cho rằng giải thích về ba căn cơ chưa hẳn đã là như vậy. Ba hạng căn cơ này do dự những lý nào, giáo nào? Nếu còn hoang mang nơi lý và giáo của Tiểu thừa thì tức là nghi hoặc chưa dứt, hẳn còn chưa phải là người chứng sơ quả đoạn trừ phiền não trói buộc. Nếu là hoang mang với lý và giáo của Đại thừa thì Đại thừa hiển nhiên là luôn luôn khác biệt, chưa từng lẫn lộn với Tiểu thừa, sao có thể nói là do dự [giữa hai bên]? Nếu là theo Tiểu thừa mà nghi hoặc Đại thừa hay theo Đại thừa mà nghi hoặc Tiểu thừa thì người này trước đó còn chưa bỏ được [pháp] phương tiện, sao có thể vui thích quán [vô sinh mà nói] xuất với nhập? Đó là sẵn có tâm do dự, vì đã do dự nên do nghi hoặc mà tâm bám chấp khởi động, chẳng phải ngày nay mới phát sinh. Còn nếu do tâm bám chấp khởi động mới sinh nghi hoặc, thì khi nghe thuyết giảng khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa lẽ ra phải nhận hiểu, làm gì lại có chuyện kinh sợ nghi hoặc. [Xét nghĩa] tới lui đều không có căn cứ, cho nên không dùng đến cách giải thích này.

Nay giải thích rằng, nói về căn cơ thì có lợi (nhanh nhạy) hay độn (chậm lụt), đều là luận theo căn tánh Đại thừa. Nói về nghi hoặc thì có sâu (nặng) hay cạn (nhẹ), đó là dựa theo sự nghi hoặc riêng mà nói. [Kết hợp cả hai thì] có 4 trường hợp. Một là nghi hoặc nhẹ, căn cơ lợi. Hai là nghi hoặc nặng, căn cơ lợi. Ba là nghi hoặc nhẹ, căn cơ độn. Bốn là nghi hoặc nặng, căn cơ độn.

Nếu nghi hoặc riêng là nhẹ và căn cơ lớn, rất nhanh nhạy thì vừa nghe [pháp lần đầu] liền ngộ. Nếu nghi hoặc nặng nhưng căn cơ nhanh nhạy thì sau khi nghe lại lần sau mới hiểu.

Nếu nghi hoặc nhẹ, căn cơ chậm lụt thì sau 3 lần nghe mới quyết định [tin hiểu].

Trường hợp thứ tư, [nghi hoặc nặng, căn cơ chậm lụt] thì dù đã được nghe [thuyết pháp] 3 lần vẫn không thể giác ngộ, chỉ là chúng kết duyên [trong pháp hội] mà thôi.

[Theo như trên] có thể xếp 2 trường hợp đầu với căn cơ nhanh nhạy cùng vào hàng thượng căn. Hoặc cũng có thể xếp 2 trường hợp giữa là trung căn và hạ căn. Đại lược là như vậy.

Lại nữa, sơ phẩm vô minh có 3 lớp, che lấp hàng sơ trụ trung đạo. Trong lần đầu thuyết chánh pháp, bậc thượng căn [nghe rồi] liền tức thời trừ sạch hết 3 lớp vô minh, khai mở tri kiến Phật, thể nhập địa vị Bồ Tát, được thụ ký quả vị Bồ-đề. Hạng trung căn thì trừ được 2 lớp vô minh, còn kẻ hạ căn chỉ trừ được 1 lớp.

Lần thứ hai [Phật] thuyết giảng thí dụ, hàng trung căn [tiếp tục] trừ sạch 2 lớp vô minh [còn lại], khai mở tri kiến Phật, thể nhập địa vị Bồ Tát, được thụ ký riêng. Kẻ hạ căn thì tiến bộ, trừ thêm được 1 lớp vô minh nữa.

Tiếp đến khi nghe [Phật] thuyết giảng nhân duyên, hàng hạ căn cũng trừ sạch được 3 lớp vô minh, khai mở tri kiến Phật, thể nhập địa vị Bồ Tát.

Cũng giống như [theo giáo pháp] Tiểu thừa, [người tu tập] chưa đầy đủ 16 tâm thì chưa được gọi là Sơ quả. Đầy đủ 16 tâm mới gọi là chứng quả Tu-đà-hoàn.[50]

4. Luận về căn cơ có chuyển đổi hay không

Các nhà cựu giải nói rằng, lần đầu Phật thuyết chánh pháp, hàng thượng căn nghe qua liền đạt ngộ, hàng trung căn nghe rồi chuyển đổi thành thượng căn, kẻ hạ căn thì chuyển lên trung căn. Lần thứ hai [Phật] thuyết giảng thí dụ thì hàng trung căn trước đây đã chuyển thành thượng căn nên nghe rồi liền có thể đạt ngộ, còn hàng hạ căn [trước đã chuyển thành trung căn, lần này] chuyển lên thành thượng căn. Tiếp theo Phật thuyết giảng nhân duyên thì hàng hạ căn lúc đó đã thành thượng căn, liền được đạt ngộ.

Nếu là chuyển hạ căn [dần lên] thành thượng căn như vậy, thì khi Phật thuyết giảng nhân duyên, tất cả đều đã là thượng căn thì cũng nhanh nhạy như nhau, sao có thể xem là căn tánh trì độn mà phải thuyết giảng nhân duyên [mới ngộ]? Nếu đã chuyển thành thượng căn, tức là đạt ngộ cũng giống như thượng căn, còn nếu chưa đạt ngộ [giống nhau] thì vẫn phải gọi là độn căn, tức là lập luận chuyển căn [lên như vậy] không hợp nghĩa.[51]

Cũng giống như ngài Xá-lợi-phất một lần nghe [pháp], ngài Mục-kiền-liên nghe lại [lần thứ hai], cả hai đều chứng đắc sơ quả. Nếu cả hai đều là lợi căn thì không có chỗ hơn kém nhau. Còn nếu gọi là lợi độn [khác nhau] thì ý nghĩa chuyển căn không hợp lý.

Nói chung hết thảy chúng sinh, tâm ý [căn cơ] không cố định, gặp duyên xấu thì chuyển lợi thành độn, gặp duyên tốt thì chuyển độn thành lợi. Như đời trước [có những người] được gặp Phật, nghe pháp thì có thể tự chuyển đổi từ hạ căn, trung căn lên bậc thượng căn, [ngày nay] thảy đều nghe pháp được giác ngộ. [Lại đối với những người đã] tự mình chuyển đổi từ hạ căn lên trung căn thì khi nghe [Phật] thuyết giảng thí dụ liền hiểu rõ. Những người hạ căn mà không chuyển đổi [lên] thì sau khi nghe [Phật thuyết giảng] đủ 3 lần mới hiểu. Việc chuyển căn như vậy không giống như cách giải thích của các vị cựu giải. Cũng giống như dùng 3 con dao để đốn cây, một là dao sắc bén, ví như hàng lợi căn, hai là dao ít sắc bén hơn, ví như hàng trung căn, và ba là dao cùn, ví như hàng độn căn. Tuy tên gọi có lợi độn [khác nhau], nhưng [kết quả] đốn cây vẫn như nhau không khác.[52]

Hỏi: [Người thuộc] ba căn cơ [khác nhau] khi đã vào địa vị Sơ trụ có còn phân biệt lợi độn hay không?

Đáp: Tu tập chân chánh thì tánh thể hiển bày, tất nhiên không còn khác biệt cao thấp.

Hỏi: Nếu đã như vậy thì những người từ hàng Sơ trụ trở lên nếu khởi duyên tu, có hơn kém nhau chăng?

Đáp: Những người này đồng một giai vị thì không còn có chỗ hơn kém nhau. Tu tập chân chánh, tánh thể dung hòa, làm sao lại khác biệt nhau được.

5. Luận về ngộ và không ngộ

Trong kinh điển đa phần [được người đọc giải thích][53] rằng Bồ Tát là hàng thượng căn, Duyên giác là trung căn, Thanh văn là hạ căn.

Nếu nói Bồ Tát là thượng căn thì lẽ ra khi Phật thuyết chánh pháp [lần đầu] tất cả [Bồ Tát] đều được giác ngộ. [Tương tự,] hàng Duyên giác [là trung căn] thì lẽ ra nghe thuyết giảng thí dụ tất cả [Duyên giác] cũng đều giác ngộ, hàng Thanh văn [là hạ căn] thì khi nghe thuyết giảng nhân duyên tất cả [Thanh văn] cũng đều giác ngộ.

Thế nhưng xem qua trong kinh văn có nêu ba hạng căn cơ cho đến sự giác ngộ [của mỗi hạng căn cơ] thì ý nghĩa chưa hẳn là như vậy. Trong kinh [Pháp hoa] này, chỉ thấy hàng Thanh văn trình bày sự nhận hiểu, không thấy nói đến Phật Bích-chi. Phật Bích-chi là hàng trung căn, khi đã gặp Phật ra đời thì nhập chung hàng Thanh văn. [Thính chúng đều] tùy theo căn cơ mà được giác ngộ, cho nên không nêu riêng hàng Duyên giác. Trong kệ thưa thỉnh của ngài Xá-lợi-phất nói: “Những người cầu Duyên giác: tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni...” Dựa theo câu này thì biết là hàng Duyên giác được kể chung vào trong bốn chúng.

Lại nữa, trong phẩm Pháp Sư nói: “Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di [có những] người cầu [quả vị] Thanh văn, cầu [quả vị] Phật Bích-chi.” Vậy lẽ nào lại không có hàng Duyên giác được nhận hiểu [trong pháp hội]?

Các nhà cựu giải nói rằng Bồ Tát là hàng thượng căn, nhưng không nhất thiết đều do lợi căn nên gọi là thượng, mà là do tâm bám chấp dễ chuyển đổi. [Những vị này] vốn luôn ôm lòng mong cầu quả Phật, chỉ là do bám chấp quá lâu hơn 300 [kiếp] nên [thối tâm] cầu quả vị thấp,[54] lòng nghi như vậy dễ ngộ. [Cho nên] hàng Bồ Tát [có đủ] ba căn cơ, khi nghe Phật thuyết chánh pháp đều được giác ngộ. Hàng Bồ Tát thượng căn [ngộ đạo khi nghe Phật] thuyết giảng sơ lược. Hàng Bồ Tát trung căn [ngộ đạo khi nghe Phật] bắt đầu thuyết rộng. Hàng Bồ Tát hạ căn thì ngang bằng với ngài Xá-lợi-phất.

Nay giảng rõ về danh xưng Bồ Tát là nói chung, chỉ cần phát tâm Đại thừa[55] thì đều gọi là Bồ Tát, không nhất thiết phải toàn là những bậc lợi căn. [Như vậy thì] những vị ngang bằng như ngài Xá-lợi-phất mà còn chẳng có nhiều, làm sao có chuyện từ lần thuyết chánh pháp trở về trước mà tất cả đều được ngộ? Bởi vì nếu đã như vậy thì trong phần Lưu thông, phẩm Thọ Lượng vì sao lại nói các vị Bồ Tát liên tục chứng ngộ pháp nhẫn vô sinh và phát tâm Bồ-đề?

Các nhà cựu giải nói rằng, những vị chứng ngộ nói trong phẩm Thọ Lượng đều là pháp thân Bồ Tát đã đạt được trí tuệ tăng trưởng, dứt trừ dần biến dịch sinh tử.[56] Nay cho rằng không phải như thế. [Kinh văn trong phẩm này nói] người chứng được pháp nhẫn vô sinh nhiều bằng số cát của 680 vạn ức na-do-tha con sông Hằng. Những người ấy lần đầu tiên chứng được pháp nhẫn này, do vậy biết rằng trước [khi nghe pháp như trong phẩm] Thọ Lượng [nói] thì họ chưa phải hàng [Bồ Tát] pháp thân. Cho nên biết rằng, Bồ Tát được chứng ngộ không phải chỉ hạn cuộc ở lúc ban đầu của lần thuyết giảng chánh pháp đầu tiên.

Hỏi: Bồ Tát được chứng ngộ từ đầu cho đến cuối [pháp hội đều có], vậy lẽ ra hàng Nhị Thừa được chứng ngộ cũng có ở cuối [pháp hội]?

Đáp: Sau ba lần [thuyết giảng thì] đã định rõ quan hệ cha con,[57] nên tất cả [người chứng ngộ] đều gọi là Bồ Tát. Cho nên dù về sau mới được chứng ngộ thì cũng gọi là Bồ Tát chứng ngộ.

6. Luận về việc trình bày chỗ nhận hiểu

Nếu [người trong] ba thừa đều có chứng ngộ, vì sao chỉ thấy [trong kinh nói việc] Thanh văn trình bày chỗ nhận hiểu, còn hai thừa khác không thấy nói? Nay giảng rõ rằng, nếu không có Phật ra đời [mà được giác ngộ] thì gọi là Độc giác. Nếu nhờ nghe Phật thuyết pháp 12 nhân duyên [mà chứng ngộ] thì gọi là Duyên giác, đã tính chung vào trong số Thanh văn được nhận hiểu, cho nên không tách ra mà nói riêng, đại ý việc này có thể thấy được.

Các ngài Xá-lợi-phất, Ca-diếp... đều là căn tánh Trung thừa, cho nên nói Thanh văn trình chỗ nhận hiểu tức là bao gồm cả Duyên giác, chẳng cần phải nhọc sức tách ra nói riêng. Lại nữa, trong bốn chúng có những người phát tâm Duyên giác, những người này được giác ngộ tức không đồng nhất với Thanh văn. Trong phẩm Tin hiểu nói “bí mật sai khiến hai người...” đến cùng làm việc,[58] chính là nói ý nghĩa này.

Lại không nói việc Bồ Tát trình chỗ nhận hiểu, vì giáo pháp Thanh văn [trước đây] không nói việc [họ] có thể thành Phật. Nay kinh Pháp hoa này khai mở con đường quay lại Đại thừa, các vị [Thanh văn] tự nghĩ sợ rằng sự nhận hiểu của mình sai lầm, cho nên đối trước Phật mà nói ra [để được xác nhận]. Bồ Tát thì chẳng phải vậy, cho nên không có việc trình chỗ nhận hiểu.

Lại nữa, việc này có ba ý nghĩa. Thứ nhất là ý nguyện của Bồ Tát vốn cầu thành Phật, ví như có những sự bám chấp khác cũng không sâu nặng, nên cuối cùng cũng sẽ đạt được quả vị Phật, chẳng có mối lo không được thành Phật. Nay được nghe ba lần thuyết giảng [của Phật], cũng chính là phù hợp với pháp quán tuệ của mình, cho nên chẳng cần phải trình chỗ nhận hiểu.

Thứ hai, việc Bồ Tát chứng ngộ Đại thừa trong các kinh điển khắp nơi đều có nói, nhưng hàng Nhị thừa có thể thành Phật thì mới lần đầu tiên được nói ra trong kinh [Pháp hoa] này. [Có thể do] lấy ý chính mà lưu truyền nên lược bớt việc Bồ Tát trình bày chỗ nhận hiểu. [Cũng có thể] trong kinh văn Phạn ngữ thì có nhưng kinh văn Hán ngữ đã lược bớt không chép lại.

Thứ ba là giai vị Bồ Tát công hạnh cực kỳ sâu xa, các vị Bồ Tát nhỏ mới phát tâm không dám trình bày chỗ nhận hiểu. Nhưng sau khi Phật thuyết xong phẩm Thọ Lượng[59] thì Bồ Tát Di-lặc thay mặt cho tất cả Bồ Tát để trình bày chỗ nhận hiểu. Ban đầu là nói từ các vị [chứng] pháp nhẫn Vô sinh, đến cuối cùng là một vị Nhất sinh bổ xứ,[60] như vậy là đã đầy đủ việc trình bày chỗ nhận hiểu, đâu cần phải thắc mắc gì thêm. Đại lược là như vậy.

7. Luận về việc được thụ ký hay không

Nếu [như trên nói] tất cả [ba thừa] đều có trình bày chỗ nhận hiểu thì vì sao Thanh văn được thụ ký mà không thấy nói việc Duyên giác, Bồ Tát được thụ ký?

Việc này cũng có ba ý. Thứ nhất là trước đây [Phật dạy] hàng Nhị thừa nhập chánh vị[61] không thể phát tâm [Bồ-đề], nên không do đâu mà được thụ ký. Nay đã giác ngộ theo Đại thừa, vui mừng với quyết tâm khác nên [Phật] vì các vị mà thụ ký [cho biết tên] cõi Phật và kiếp sẽ thành Phật sau này. Hàng Bồ Tát phát tâm cầu thành Phật, tu hành thành tựu tự thấy là đủ, chẳng vui với sự mau chóng thành Phật, cũng chẳng gấp rút cầu thụ ký. Lại nữa, trong các giáo pháp [Phật thuyết giảng] trước đây, rất nhiều nơi nói việc Bồ Tát được thụ ký nên đó là chuyện thường, lại theo ý chính mà lưu truyền như đã giải thích ở trước. Đại lược là như thế.

Thứ hai, Bồ Tát cũng có vị được thụ ký riêng. [Như trường hợp của] Điều-đạt,[62] Long nữ, chẳng phải là được thụ ký đó sao? Lại nữa, Phẩm Pháp Sư nói rằng: “Những người cầu Thanh văn, người cầu Phật Bích-chi, người cầu Phật đạo, những người như vậy đều đến trước Phật nghe kinh Pháp hoa, ta đều thụ ký cho họ sẽ chứng đắc quả Phật.” Như vậy chẳng phải là tất cả [ba thừa] đều được thụ ký đó sao?

Thứ ba, hàng Nhị thừa từ xưa đến nay chưa từng được thụ ký với 8 tướng trạng,[63] cho nên [bây giờ] thụ ký [cho các vị về tên gọi] cõi Phật và thời đại sẽ thành Phật sau này, còn Bồ Tát vì trước đây đã từng được thụ ký rồi nên không nói lại. Việc thụ ký gần, như bậc Sơ trụ thì đã chứng đắc, nên chẳng phải chỗ mừng vui của hàng Bồ Tát. Chỗ mừng vui của Bồ Tát là được thụ ký xa, đến viên mãn cùng cực quả vị Diệu Giác, [tức là quả Phật]. Cho nên trong phẩm Thọ Lượng, khởi đầu là hạng mới phát tâm, cuối cùng là địa vị Nhất sinh [bổ xứ], do nhân vi diệu mà được quả trọn vẹn cùng cực tức thời viên mãn. Đó mới là riêng được thụ ký pháp thân, sao có thể nói là không được thụ ký?

Hỏi: Nếu hàng Tiểu thừa đã ngộ được [pháp] Đại thừa thì lẽ ra cũng được thụ ký pháp thân như nhau, vì sao lại thụ ký có 8 tướng trạng cụ thể?

Đáp: Nêu ra 8 tướng trạng [cụ thể] là ứng hợp thụ ký. Đã được ứng hợp thụ ký thì biết là đã có cội gốc, đó là muốn cho hết thảy chúng sinh được biết, được nghe cùng kết [pháp] duyên trong tương lai, cho nên ứng hợp mà thụ ký. Hơn nữa, hàng Nhị thừa [được ứng ký] này nếu được nghe phẩm Thọ Lượng liền giảm trừ biến dịch sinh tử,[64] được thụ ký pháp thân.

8. Luận về việc ngộ đạo sâu cạn

[Nói chung, thính chúng] đều cùng phá trừ vô minh, chứng nhập giai vị Sơ trụ, quán xét chi ly ắt càng soi rõ chỗ tối tăm. Lần đầu nghe [Phật thuyết giảng] chánh pháp mà [đã có người] thể nhập trí tuệ Phật, lần tiếp theo nghe [Phật thuyết giảng] thí dụ lẽ nào không sáng tỏ thêm. Lại được nghe [Phật thuyết giảng] nhân duyên thì càng tự tăng tiến. Tiếp đến nghe [Phật thuyết giảng] về thọ lượng [của Như Lai] thì [chỗ nhận hiểu] càng thêm sâu xa. Như người nghe pháp thì nghe lại lần sau phải [nhận hiểu] rõ ràng hơn lần trước. [Xét như vậy thì chỗ ngộ đạo] đơn giản hay phức tạp, sâu dày hay mỏng manh đều có thể rõ biết.

9. Luận về lợi ích của quyền thật

Có người nói tu hành pháp thật được lợi ích, pháp quyền chỉ [là phương tiện] có ý nghĩa dẫn dắt, không bàn đến lợi ích. Nay giảng rõ không phải như vậy. Nếu xét đến phẩm Thọ Lượng thì cả quyền và thật thảy đều được lợi ích, trí tuệ trung đạo tăng trưởng càng thêm cao vời, biến dịch sinh tử giảm trừ cho đến dứt sạch, tiến gần đến chỗ viên mãn, đạt đến bờ mé cùng cực [của đạo], chỉ còn duy nhất một lần tái sinh [là thành tựu quả Phật], lẽ nào không phải tu hành pháp quyền được lợi ích đó sao? Cho nên ban đầu [dùng pháp quyền] tạo ảnh hưởng cùng với tu hành thuần thục pháp thật, sau đó nói quả tột cùng thì đạo tự sáng tỏ. Kinh văn nói: “Việc làm ăn xuất nhập thu lợi tức ở khắp các nước.” Lợi ích ở khắp các nước chính là lợi ích của mình, tu hành pháp thật được lợi ích là nhờ có pháp quyền dẫn dắt. Công hạnh giáo hóa [người khác, lợi ích] lại về với chính mình, nên pháp quyền cũng được lợi ích. Cho nên [kinh Duy-ma-cật nói: “Phật dùng một âm thanh thuyết giảng giáo pháp, chúng sinh tùy loại đều hiểu rõ.”[65] Đâu cần phải chờ [đến khi được nghe phẩm] Thọ Lượng. Đại lược là như vậy. [Kinh văn] lại nói: “Chúng con cũng muốn tự mình đạt được chánh pháp lớn lao chân thật thanh tịnh này.”[66] Đó tức là tự làm lợi ích.

10. Luận việc có đợi thời hay không

Nếu như từ trước không ngộ đạo, phải chờ đến lúc thuyết giảng Pháp hoa mới ngộ, đó gọi là đợi thời điểm thích hợp. Với các giáo pháp được thuyết giảng trước Pháp hoa mà đã nhận hiểu được rồi thì gọi là không đợi thời.

Vì sao vậy? Phật thuyết pháp có hai loại là hiển và mật. Nếu theo hiển giáo mà luận thì trước khi thuyết Pháp hoa, Nhị thừa chưa ngộ đạo Đại thừa, phải đợi khi năm vị[67] điều hòa thuần thục mới nhận hiểu được nơi hội Pháp hoa. Cho nên [kinh văn] nói rằng: “[Sở dĩ chưa từng nói,] vì thời chưa thích hợp. Nay chính lúc hợp thời, quyết định thuyết Đại thừa.” Đó là nói việc đợi thời.

Nếu theo mật giáo mà luận thì không nhất thiết phải chờ đủ 5 vị tại hội Pháp hoa mới nhận hiểu được. Từ trước đã có người ngấm ngầm thể nhập được, cho nên nói là không đợi thời.

Đó là nói chung khái quát về việc đợi thời hay không đợi thời. Nếu [nói chi tiết] thì chia ra 3 lần thuyết giảng [chánh pháp, thí dụ, nhân duyên] cũng là đợi thời và không đợi thời. Hoặc chia ra tích môn và bản môn lại cũng là đợi thời và không đợi thời, dẫn đến việc ngộ nhập trước sau cũng tức là ý nghĩa này.

Hỏi: Có một loại căn tánh chẳng phải mật, chẳng phải hiển, hai thời [thuyết pháp] ấy đều không thâu nhiếp được, có phải là đã để mất thời, vĩnh viễn không được giác ngộ chăng?

Đáp: Theo những kinh khác thì có thể nói như vậy là để mất thời, nhưng theo kinh [Pháp hoa] này thì chẳng phải vậy. Người ấy tuy qua hai thời hiển, mật đều không được ngộ, có thể khởi sinh ý tưởng [rằng Phật đã] diệt độ mất rồi, nhưng rồi sinh ở cõi khác [ngoài ba cõi] lại được nghe kinh này, cho nên chẳng phải mất thời hẳn. Đó chỉ là đợi thời ở cõi khác mà thôi.

Hỏi: Năm ngàn người đứng lên rời khởi pháp hội hẳn là đã để mất thời?

Đáp: Những người ấy hẳn rồi cũng sẽ được lợi ích từ người hoằng truyền kinh này sau khi đức Như Lai diệt độ.

Hỏi: Ngài Xá-lợi-phất trong lần [thuyết chánh pháp] đầu tiên là vì cả ba căn cơ trong bốn chúng mà thưa thỉnh. Đến lần thuyết giảng thí dụ là vì hàng trung căn, hạ căn mà thưa thỉnh. Vậy sao lại nói rằng ba lần thuyết giảng của Phật đều là vì cả ba căn cơ?

Đáp: Nói như vậy không ổn. Thưa thỉnh là vì cả ba căn cơ mà thưa thỉnh, nên thuyết giảng cũng là vì cả ba căn cơ mà thuyết chung. Chỉ có điều là hàng thượng căn trí tuệ nhanh nhạy, vừa nghe chánh pháp liền được giác ngộ. Hàng trung căn ở hạng trung bình, đến khi nghe thuyết giảng thí dụ liền được giác ngộ. Kẻ hạ căn ở bậc thấp, khi nghe thuyết giảng đến lần thứ ba liền được giác ngộ. Ông nên dựa theo ý nghĩa, sao lại chấp theo câu chữ? Đại lược là như vậy.

Hỏi: Chuyện đời trước là những việc trong quá khứ, còn [thuyết giảng] thí dụ là việc hiện nay phải không?

Đáp: Kinh văn không có nói, nhưng suy theo ý nghĩa thì như vậy. Dẫn dắt ba thừa về Nhất thừa, ba thừa cùng hướng đến một thừa, một thừa đó tức là đương thời. Nêu sự việc để nói thí dụ, thí dụ ấy chính là hiện tại. Suy trước tính sau thì đúng như lời ông hỏi.

Hỏi: Các vị cựu giải nói rằng năm trược che chướng Đại thừa, đưa ra bốn trường hợp giải thích như trước đã nói.[68] Lại có người nói đoạn kiến với vô minh hợp chung thành chướng. Luận Pháp hoa nói: “Người không phiền não nhưng do tư hoặc[69] nên không biết có pháp thân thường trụ của Nhất thừa”, chính là nghĩa đó. Nếu kẻ phàm phu[70] chẳng chấp vào Niết-bàn nhưng chẳng được nghe pháp thì chỉ duy nhất có vô minh là chướng [đạo]. Nếu như vậy thì sau khi nghe ba lần thuyết giảng [chánh pháp, thí dụ, nhân duyên] mới phá được vô minh, hay là khi chưa nghe pháp đã phá được vô minh? Nếu nghe pháp rồi mới phá được vô minh, thì vô minh ấy [không ngăn trở gì sự nghe pháp nên] chẳng phải chướng. Còn nếu chưa nghe pháp mà có thể phá được vô minh thì chỉ là lo lắng thôi chứ thật không có chướng.[71] Ý nghĩa này phải hiểu thế nào?

Đáp: Đó là ý nghĩa người khác bày ra,[72] nay sẽ giúp họ khai thông. Ví như khi thắp đèn sáng lên thì bóng tối mất đi, không thể xác định cái gì trước, cái gì sau. Tuy không có trước sau, nhưng vẫn chắc chắn bóng tối là chướng ngại. Đại lược là như vậy.

Hỏi: Kinh Thắng Man nói: “Hàng Tam thừa tu tập lúc ban sơ nếu không ngu muội nơi pháp thì tự biết mình sẽ được giác ngộ.” Kinh Ưu-bà-tắc giới, phẩm 14 nói rằng: “Hàng Nhị thừa tự biết mình sẽ thành tựu quả Bồ-đề, chỉ tạm nhận quả vị Tiểu thừa.” Phẩm 13 lại nói: “Người biết thì dễ, người thực hành thì khó. Tuy rõ biết Nhất thừa mà chấp nhận quả A-la-hán.” Cả hai kinh trên đều nói [hàng Nhị thừa] có biết [việc chứng quả Bồ-đề],[73] nay kinh [Pháp hoa] này vì sao nói ba hạng căn cơ về sau vẫn không tự biết [mình có khả năng chứng quả Bồ-đề]. Ban sơ nghi hoặc, sau đó được ngộ, ý nghĩa này phải hiểu như thế nào?

● Đáp: Kinh này cũng vẫn nói [là hàng Nhị thừa] có biết đó thôi. Kinh văn nói: “Nếu có tỳ-kheo nào thật sự chứng quả A-la-hán mà không tin nhận pháp Nhất thừa thì thật vô lý, chỉ trừ phi sau Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật. Vì sao vậy? Sau khi Phật diệt độ thì người có thể thọ trì, tụng đọc, giảng giải những kinh như thế này rất khó gặp được. Nhưng nếu gặp Phật ở cõi khác thì ở trong giáo pháp này liền được thấu triệt rõ ràng.” Nói chung, [câu kinh] này có ba ý. Trước tiên nói rõ là [hàng Nhị thừa] có biết [về việc thành tựu quả Phật]. Tiếp đến làm rõ chỗ không biết, cuối cùng quy kết về nghĩa có biết, chẳng phải là vĩnh viễn không biết. Lại nữa, ngài Xá-lợi-phất nói “... không biết nghĩa ấy hướng về đâu”, lại nói “nay bốn chúng đều sinh lòng nghi...”[74]

Lại nữa, vào thời đức Phật Đại Thông Trí Thắng, đa phần các vị Thanh văn đều sinh nghi hoặc. Các vị ấy được gặp Phật nghe pháp mà còn nghi ngờ không biết, huống chi [những vị không được gặp Phật nghe pháp thì làm sao biết được? Nếu bám chấp vào hai đoạn kinh văn trên thì sẽ thấy mâu thuẫn nhau, chỉ làm tăng thêm sự tranh luận, đối với việc tu đạo nào có ích gì? Người biện luận chỉ có khả năng luận bàn những việc khác, còn việc Thanh văn thành thánh có thể biết hay không biết, chỉ cảnh giới Phật mới rõ, không phải chỗ chúng ta có thể nhận hiểu.

Bây giờ hãy thử phân tích trong kinh nói “hàng Tam thừa tu tập lúc ban sơ”. Tu tập ban sơ có 2 trường hợp. Nếu là hạng “tu tập ban sơ” từ rất lâu xa [trong quá khứ], từng được nghe pháp Đại thừa, tất nhiên không ngu muội nơi pháp. Nếu là hạng “tu tập ban sơ” mà giữa chừng quên mất nên ngày nay học theo Tiểu thừa, chỉ mới bắt đầu tu tập [các pháp] niệm xứ thì tất nhiên không thể hiểu rõ ý nghĩa này. Nếu nhận hiểu được ý này thì [biết rằng] hạng quyền biến thị hiện “tu tập ban sơ” tức có khả năng rõ biết, còn hạng thực sự là tu tập ban sơ thì không có khả năng rõ biết.

Có người nói rằng: “Kẻ căn cơ nhanh nhạy thì có thể rõ biết, người căn cơ trì độn thì không thể rõ biết.” [Nói về căn cơ lợi độn như vậy] nên chia làm 4 trường hợp. Thứ nhất là quyền hiện lợi căn, độn căn, thị hiện cả hai đều không có khả năng biết. Thứ hai là quyền hiện lợi căn, độn căn, thị hiện cả hai đều không thể rõ biết. Thứ ba là quyền hiện lợi căn, độn căn, khi được nghe [pháp] liền có thể rõ biết, không được nghe thì không biết. Thứ tư là quyền hiện lợi căn, độn căn, cả hai đều không phải biết cũng chẳng phải không biết.

Nay không phán xét theo những lập luận như trên, chỉ nhận rằng những bậc quyền hiện thì nội tâm rõ biết từ lâu, còn hàng [Nhị thừa] thực sự thì do chưa thể nhập Đại thừa cho nên không rõ biết. Như vậy thì ý nghĩa tự hiển lộ.

Hỏi: Hàng Duyên giác sinh thời không có Phật, vì sao trong 3 lần thuyết giảng [của Phật] lại có hàng Duyên giác?

Đáp: Sách [Pháp hoa] luận thích nói về Duyên giác và Độc giác như sau: “Độc giác sinh vào thời không có Phật, Duyên giác phát nguyện sinh vào thời có Phật.” Kinh Hoa nghiêm nói: “Khi Bồ Tát giáng hạ từ cõi trời Đâu-suất, phóng hào quang chiếu khắp, [những người tu tập] đã giác ngộ liền xả thân [để tái sinh gặp Phật], [những người] chưa giác ngộ liền dời đi [cõi khác].” Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “[Bích-chi Phật xuất hiện ở thời không có Phật, như] sao chổi [hiện lúc không có mặt trời].”[75] Trung luận nói: “Phật Bích-chi ra đời, pháp Phật đã diệt mất, nên chính là người một mình tự giác ngộ.” Người phát nguyện sinh ra trong thời có Phật thì trước đã chứng được sơ quả, chưa hết 14 lần tái sinh, nếu được gặp Phật thì thành A-la-hán, nếu không được gặp Phật thì thành Độc giác. [Các vị trong pháp hội này] đã được gặp Phật, không xả bỏ thọ mạng, cũng không dời đi [nơi khác], vì đã phát nguyện được gặp Phật nên [ở trong hàng] Nhị quả, Tam quả cũng là lẽ thường.

Lại nữa, còn có các vị Bộ hành Duyên giác,[76] vào thời không có Phật thì thầy trò dạy dỗ cho nhau. Ở đây [cần phân biệt] có 2 hạng. Sau khi Phật nhập diệt rồi, đời sau đó không có chữ viết, chúng sinh căn cơ trì độn. Phật Bích-chi [ra đời] không thuyết pháp thì không phải hạng Bộ hành. Hạng Bộ hành có khả năng thuyết pháp. Lại cũng có hàng Duyên giác biến hóa, vì để thích hợp [với những chúng sanh] muốn thấy mà hiện thân Duyên giác. [Cho nên] ngày nay trong thính chúng của 3 lần Phật thuyết giảng có các vị Duyên giác thì ý nghĩa này có thể hiểu được.

Lần thứ nhất thuyết giảng chánh pháp

Lần đầu tiên Phật thuyết giảng chánh pháp, kinh văn chia ra 5 phần.

Phần thứ nhất, từ câu “Ông đã hết lòng thưa thỉnh ba lần, lẽ nào ta lại không nói” đến hết quyển [1].[77] Đây là phần thuyết giảng chánh pháp. Phần thứ hai là từ đầu quyển 2[78] cho đến hết phần kệ tụng.[79] Phần này là ngài Xá-lợi-phất trình bày trước Phật sự nhận hiểu của mình.

Phần thứ ba là từ câu “Hôm nay ta sẽ nói rõ giữa đại chúng này, có chư thiên, loài người người...” trở đi, cho đến hết câu “kinh Đại thừa này, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.” Đây là phần đức Phật thuyết về sự thành tựu [giáo hóa của ngài].

Phần thứ tư là từ câu “Xá-lợi-phất! Trong tương lai...” cho đến hết câu “Chính ông thành Phật ấy, nên hãy tự mừng vui.” Phần này là [Phật] thụ ký [cho ngài Xá-lợi-phất].

Phần thứ năm là từ câu “Khi ấy, bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni...” cho đến hết câu “Cùng công đức gặp Phật, đều hồi hướng Phật đạo.” Phần này là nói việc bốn chúng đều hoan hỷ.

I. Thuyết giảng chánh pháp

A. Văn trường hàng

Phần thứ nhất gồm có văn trường hàng và kệ tụng.

Phần văn trường hàng lại chia làm ba. Một là Phật hứa khả [sẽ thuyết giảng], hai là [đại chúng] thọ nhận chỉ ý [của Phật], ba là nội dung thuyết giảng chính.

Phần hứa khả lại cũng chia làm ba. Một là hứa chấp thuận [việc thuyết giảng], hai là răn dạy [việc nghe pháp] và ba là chọn lọc [thính chúng].

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất: “Ông đã hết lòng thưa thỉnh ba lần, lẽ nào ta lại không nói. Nay ông hãy chú ý lắng nghe, khéo suy xét kỹ và ghi nhớ, ta sẽ vì các ông mà phân biệt giảng nói.”

Khi đức Phật vừa nói ra lời này, trong chúng hội liền có 5.000 tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng đứng dậy khỏi tòa ngồi, lễ Phật rồi lui ra. Vì sao vậy? Những người ấy gốc tội sâu nặng, lại là hàng tăng thượng mạn, chưa chứng nói là chứng, chưa đắc nói là đắc, có những lỗi lầm như vậy nên không ở lại. Đức Thế Tôn lặng thinh không ngăn cản.

Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trong hội chúng này nay không còn cành lá, chỉ thuần hạt chắc. Này Xá-lợi-phất, những kẻ tăng thượng mạn ấy lui ra cũng tốt. Nay ông hãy khéo lắng nghe, ta sẽ vì các ông thuyết giảng.”

Ngài Xá-lợi-phất thưa: “Xin vâng, Thế Tôn! Chúng con nguyện vui thích muốn nghe.”

[Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất] “Ông đã hết lòng thưa thỉnh ba lần”, tức là thuận hứa [việc thuyết pháp]. Lại nói, “Nay ông hãy chú ý lắng nghe, khéo suy xét kỹ và ghi nhớ”, tức là răn dạy [việc nghe pháp]. Lắng nghe là văn tuệ, khéo suy xét kỹ là tư tuệ và ghi nhớ là tu tuệ.

Kinh Đại Bát Niết-bàn [quyển 23] nói rõ có 4 pháp lành vì là nhân để đạt được Đại Niết-bàn. Pháp thứ nhất là [gần gũi] bậc thiện tri thức, tức là đức Như Lai. Ba pháp còn lại có thể hiểu được.[80]

Từ câu “Khi đức Phật vừa nói ra lời này” là chọn lọc thính chúng. [Do có] 5.000 người [không thích hợp] trong pháp hội cho nên đức Như Lai 3 lần ngăn việc thưa thỉnh, cho đến lúc này mới hứa khả [việc thuyết giảng]. Do oai thần [của Phật] khiến [những người này phải] lui ra, cho nên gọi là chọn lọc thính chúng.

[Những người này chất chứa] nhiều 5 thứ uế trược che chướng là “tội nặng”, bám chấp Tiểu thừa, khuất lấp Đại thừa là “gốc sâu”, cho nên kinh văn nói là “gốc tội sâu nặng”. Lại “chưa chứng nói là chứng, chưa đắc nói là đắc” nên gọi là “tăng thượng mạn”, đó là chưa chứng đắc ba quả [Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm], chưa chứng bậc Vô học [A-la-hán]. Vì có những lỗi lầm như vậy nên nói là rơi vào ba loại: chướng, chấp, mạn, [đức Phật để họ lui ra] mà không ngăn cản.

[Những người này] chỉ mới vừa nghe khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa, giảng giải còn sơ lược, ý nghĩa còn ẩn tàng nên chưa sinh tâm hủy báng. [Về sau] nói đủ nhân duyên [thí dụ] hạt châu [trong chéo áo thì việc] họ lui ra là hữu ích hơn, vì nếu nghe giảng rộng việc trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa, trái nghịch với thức tình [hiện tại ắt họ sẽ] khởi tâm hủy báng, nên nếu ở lại thì sẽ bị tổn hại. Do vậy mà [đức Phật] không ngăn cản [việc họ lui ra].

[Phật dạy rằng] “trong hội chúng này của ta nay không còn cành lá”. Cành lá tức là nhỏ yếu, không thể dùng làm vật dụng. Những người [lui ra đều là kẻ] bám chấp phương tiện của phương tiện, không phải khí dụng của Đại thừa. Đại Phẩm Bát-nhã nói: “Bám lấy cành lá mà bỏ gốc rễ, người như vậy là không khôn ngoan.” Chính là nói ý nghĩa này.

[Phật nói những người này] “lui ra cũng tốt”, vì họ bám lấy Tiểu thừa tự che chướng mình, lại còn làm ngăn trở ánh sáng Đại thừa đến với những người khác. Nay họ lui ra thì khỏi mắc tội hủy báng chánh pháp, lại không có lỗi chướng ngại người khác, cho nên nói là “cũng tốt”.

Phần trước vì hạng “cành lá” chưa lui ra nên đức Như Lai ba lần ngăn [việc thưa thỉnh. Nay trong chúng hội chỉ còn] “hạt chắc” mong mỏi được nghe, nên ngài Xá-lợi-phất lại thưa thỉnh lần thứ tư. Thầy trò xét kỹ căn cơ, chẳng phải chỉ là do đệ tử cố thỉnh.

● Hỏi: Đức Phật có tâm đại từ bi, sao chẳng dùng thần lực khiến cho [những người này] ở lại [trong chúng hội] mà không nghe biết, như [hàng Nhị thừa] câm điếc trong pháp hội Hoa nghiêm? Sao không dùng [phương tiện] “trống độc”[81] như [trường hợp hai vị tỳ-kheo] Hỷ Căn và Thắng Ý?[82]

● Đáp: Mỗi việc đều có nguyên do [khác nhau]. Pháp hội Hoa nghiêm cho đến gần cuối mới khai trừ pháp tiệm nhưng chưa phá chấp Tiểu thừa, cho nên [vẫn để cho] ngồi trong pháp hội mà [tạo sự] ngăn cách. Nay thì các pháp Phật thuyết sẽ lưu truyền dài lâu nên phải nói toàn lẽ chân thật. Chính vì [Phật] muốn diệt hóa [thành], phá am cỏ,[83] nên mới khiến cho [những người này lui ra] để chọn lọc. Nếu [biết rằng] dù ở hay đi thì [những người này] cũng đều hủy báng [chánh pháp], ắt sẽ gượng ép mà thuyết pháp như tỳ-kheo Hỷ Căn. Nhưng nay [Phật đã dạy rằng họ] lui ra là tốt, sao bỗng dưng muốn cho ở lại? [Những người này] ở lại ắt gây tổn hại, sao bỗng dưng muốn [Phật] đừng khiến họ lui ra? Tỳ-kheo Hỷ Căn do lòng từ nên gượng ép thuyết pháp [với Thắng Ý], Còn đức Như Lai do lòng bi mẫn nên khiến [những người này phải] lui ra.

Hỏi: Năm ngàn người này ở lại trong pháp hội chẳng được lợi ích, nhưng lui ra thì lại có ích lợi gì?

Đáp: Những người này không phải chúng đương cơ,[84] mà chỉ là trong số chúng kết duyên. Như trên đã nói, vào thời đức Phật Đại Thông Trí Thắng cũng có vô số chúng sinh khởi tâm nghi hoặc, [sau đó] đời đời vẫn cùng sinh ra với vị thầy của mình, đến nay đều đã được độ thoát. Những người [lui ra ngày nay] cũng vậy.

Vào lúc Phật thuyết kinh Đại Bát Niết-bàn có tới 15.000 ức người đối với kinh ấy không sinh lòng tin. Những người ấy trong tương lai lại cũng sẽ có lòng tin. Theo đó thì sự ích lợi đến cũng không lâu.

Trong kinh Kim Quang Minh nói thuở ấy trong cõi Diêm-phù-đề có hai hạng người, cũng theo ý của thí dụ này.

Câu “nay ông hãy chú ý lắng nghe, khéo suy xét kỹ và ghi nhớ”[85] là kết lại phần hứa khả.

Phần [đại chúng] thọ nhận chỉ ý [của Phật thì rõ ràng] như kinh văn [có thể hiểu được].

KINH VĂN

Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Pháp vi diệu này, chư Phật Như Lai đúng thời mới thuyết, như hoa ưu-đàm-bát đúng thời chỉ nở một lần. Này Xá-lợi-phất! Các ông nên tin lời Phật thuyết dạy, không hề hư dối. Xá-lợi-phất! Chư Phật tùy chỗ thích hợp mà thuyết pháp, ý nghĩa khó nhận hiểu.”

Từ câu “pháp vi diệu này” trở đi là nội dung chính của phần thuyết giảng rộng. Kinh văn chia làm hai phần.

Phần thứ nhất gồm bốn lượt nói về chư Phật,[86] tức là giảng rộng về quyền thật của chư Phật ở phần trước.

Phần thứ hai nói về Phật Thích-ca, tức là giảng rộng về quyền thật của Phật Thích-ca đã nói ở trước.

Phần trước kinh văn chỉ có ít câu, đó là sơ lược về văn; nói chung về chư Phật, đó là sơ lược về người; chỉ nói trừ ba thừa, hiển bày một thừa, đó là sơ lược về nghĩa. Trong phần này kinh văn nhiều đoạn nhiều câu, đó là mở rộng về văn; 5 lần nói về Phật,[87] đó là mở rộng về người; giảng giải thành 6 ý nghĩa, đó là giảng rộng về nghĩa.

Sáu ý nghĩa đó bao gồm: Thứ nhất, xưng tán chánh pháp [của Phật] là ít có. Thứ hai, [Phật] giảng thuyết không hư dối. Thứ ba, trừ bỏ pháp phương tiện. Thứ tư, chỉ bày pháp chân thật. Thứ năm, nêu 5 sự uế trược để giải thích về pháp quyền biến phương tiện. Thứ sáu, chọn trừ hư ngụy, nêu cao chân thật.

Xưng tán pháp thì làm sinh khởi sự tôn trọng. Giảng thuyết không hư dối thì ngăn chặn sự chê bai phỉ báng [của kẻ khác]. Khai mở phương tiện khiến [người nghe] không bám chấp Tiểu thừa. Chỉ bày lẽ chân thật khiến [người nghe] tỏ ngộ Đại thừa. Nêu 5 sự uế trược để chỉ rõ [nguyên do] buộc phải [phương tiện] bày ra ba thừa. Chọn lựa trừ bỏ hết thảy [các đối tượng] hư ngụy ắt còn lại chân thật.

Trong 5 phần [của lần thuyết giảng chánh pháp đầu tiên] này, mỗi phần đều có đủ 6 nghĩa [như trên] nhưng [lấy ý] trước sau bổ sung cho nhau nên không [cần] nêu ra đầy đủ. Đó là vì đức Như Lai khéo thuyết giảng, khiến cho [có những chỗ] lược bớt mà không thiếu sót, hoặc nói đến tột nghĩa nhưng câu văn vẫn không rườm rà. Lại nữa, 6 nghĩa này ở các phần trước và sau đều không có. Đại lược là như vậy.

PHẦN THỨ NHẤT

Phần thứ nhất có bốn lượt nói về chư Phật, chia làm hai ý. Trước tiên nói chung về chư Phật, sau đó [ba lượt] kể ra ba đời. Phần nói chung lẽ ra đủ 6 nghĩa, nay chỉ thấy có 4. Một là xưng tán chánh pháp, hai là [giảng thuyết] không hư dối, ba là trừ bỏ phương tiện, bốn là chỉ bày lẽ chân thật. Còn thiếu 2 nghĩa là chỉ về kinh văn phần sau.

Trong ý nghĩa xưng tán chánh pháp lại cùng lúc xưng tán cả pháp và thí dụ. Kinh văn nói “đúng thời mới thuyết”, là nói chư Phật đều xuất thế ở đời xấu ác có 5 sự uế trược, cho nên trước tiên đều phải tạm bày ra ba thừa, giống như đức Thế Tôn bây giờ. Sau hơn 40 năm mới bắt đầu hiển bày sự chân thật. Thời gian lâu xa hiếm có, cho nên nói là “đúng thời mới thuyết”. Thời gian rất lâu [Phật] không thuyết giảng [lẽ thật] là vì [biết rằng] người nghe chưa tin nhận nổi. Lúc chưa đúng thời, 5.000 người [trong hội] chưa lui ra. Nay lòng người đã có thể tin nhận, đã đúng thời [thuyết giảng], 5.000 người [không thích hợp] đã lui ra, nên [Phật] quyết định thuyết giảng pháp Đại thừa. Cho nên nói rằng “đúng thời mới thuyết”.

Hoa ưu-đàm (uḍumbara - 優曇), Hán dịch là hoa linh thụy (靈瑞), [nghĩa là loài hoa linh ứng báo điềm lành]. Loài hoa này 3.000 năm mới nở một lần, khi hoa nở thì nhất định có Kim luân Thánh vương[88] ra đời. [Nêu ví dụ hoa ưu-đàm là] biểu ý sau khi ba thừa đã được điều phục thuần thục mới thuyết giảng diệu pháp và thụ ký cho thành bậc Pháp Vương. Lại [có nghĩa là] sau khi đã vượt qua các vị của sữa đặc, sinh tô, thục tô rồi mới thuyết giảng vị đề-hồ[89]... [Lại nữa, tên linh thụy giải thích] theo quán tâm thì quán tâm tức trung [đạo], đó gọi là thy (điềm lành); pháp quán này thông suốt hết thảy các pháp, đạt đến thật tướng, đó gọi là linh (linh ứng). Đại lược là như vậy.

[Kinh văn nói] “các ông nên tin lời Phật” là khuyên thính chúng hãy tin tưởng vào pháp [Phật thuyết] không hề hư dối. Giáo lý này cực kỳ sâu xa, khác biệt với giáo lý [Phật dạy] trước đây; những lời này cực kỳ mầu nhiệm, khác với những lời [Phật nói] trước đây; pháp hành này cực kỳ rộng khắp, khác với pháp hành trước đây; người [trong pháp hội] này cực kỳ thù thắng, hơn hẳn người [nghe pháp] kém cỏi trước đây. Vì [Phật] quay lại chỉ ra 4 điều tạm bày trước đây[90] là thô sơ, kém cỏi, so với ngày nay tất cả đều là vi diệu, nhiệm mầu, sợ rằng chúng sinh khởi tâm hủy báng, nên mới khuyến khích [thính chúng] phải khởi lòng tin, tin vào người không hư dối [là đức Phật] sẽ thuyết giảng pháp không hư dối.

[Từ câu] “tùy chỗ thích hợp mà thuyết pháp”[91] trở đi là phần trừ bỏ phương tiện, chia ra ba ý là trừ bỏ, giải thích và kết luận. Trước tiên nêu rõ việc Phật tùy theo ba loại căn cơ mà [tạm] thuyết các phương tiện thích hợp, cho nên nói là “tùy chỗ thích hợp”, nhưng hàm ý của Phật ở nơi lẽ chân thật, chỉ là chúng sinh không thể hiểu ra, cho nên [kinh văn] nói “ý nghĩa khó nhận hiểu”.

KINH VĂN

“Vì sao vậy? Ta dùng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để giảng thuyết các pháp. Pháp ấy không thể suy lường phân biệt mà hiểu được, chỉ có chư Phật mới đủ khả năng thấu hiểu. Vì sao vậy? Chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.

[Từ câu] “Vì sao vậy?” là [bắt đầu nội dung] giải thích. Việc nêu lên pháp quyền biến của đức Phật hiện nay có thể giải thích cho phương tiện của hết thảy chư Phật. Vì trí tuệ khéo léo của chư Phật đồng như nhau, nên mượn [việc của đức Phật] ở đây mà giải thích về [chư Phật] ở những nơi khác.

[Kinh văn nói] “Ta dùng vô số phương tiện” để so sánh chư Phật tạm bày các pháp quyền biến cũng giống như vậy. Lại nói: “Pháp ấy không thể do suy lường phân biệt mà hiểu được.” Câu này có thể hiểu theo hai cách. Hoặc xem là kết lại phần trừ bỏ pháp quyền, hoặc xem là bắt đầu nội dung chính hiển bày lẽ thật.

Nếu nói kết lại phần trừ bỏ pháp quyền thì đó là ý Phật khó rõ biết, chỉ Phật với Phật mới có khả năng hiểu rõ. Người vâng thọ giáo pháp thấy có ba [thừa], chư Phật rõ biết là chỉ có một [Phật thừa] duy nhất mà thôi.

Nếu nói bắt đầu nội dung chính hiển bày lẽ thật, tức là câu này thuộc về đoạn văn sau. Đoạn văn này lại chia làm 5 ý. Thứ nhất là nêu pháp và người [thuyết pháp] thù thắng. Thứ hai là nêu ý xuất thế. Thứ ba là nêu lại [ý trước]. Thứ tư là phần giải thích chính. Thứ năm là phần kết lại, nêu pháp và người.

[Ý thứ nhất], nêu ra pháp vô phân biệt, chỉ có Phật mới rõ biết. Phật dùng trí vô phân biệt để hiểu rõ pháp vô phân biệt, đó chính là hiển bày pháp thật.

Từ câu “Vì sao vậy?” [lần thứ hai trong đoạn này] trở đi là ý thứ hai, nêu nghĩa xuất thế. Ở đây lại chia ra hai ý. Đầu tiên nêu tổng quát, tiếp theo phân tích từ ngữ.

Nêu tổng quát là nói hết thảy chư Phật đều giác ngộ tướng như thật, đều theo đạo chân thật này mà ứng hiện ra đời, chỉ để giúp cho chúng sinh đạt được thật tướng. Chỉ vì duy nhất một việc này mà [chư Phật] xuất hiện ở đời, không còn việc gì khác. Trừ ra thật tướng của các pháp, còn lại tất cả các pháp khác đều là việc của ma.

Phân tích từ ngữ là để giải thích, [như nói “một đại sự nhân duyên”].

Một là một thật tướng. Vì chẳng phải 5, chẳng phải 3, chẳng phải 7, chẳng phải 9, cho nên nói là một.

Đi là nói tánh của mt rộng lớn bao trùm, trùm khắp cả 5 [pháp], 3 [pháp], 7 [pháp], 9 [pháp], cho nên nói là lớn.

S là sự việc, là nói về oai nghi hình thức của chư Phật ra đời, cho nên gọi là sự.

Nhân duyên [là nguyên nhân và điều kiện], nghĩa là nói chúng sinh có căn cơ [riêng], do căn cơ ấy [thích hợp], chiêu cảm đến Phật nên gọi là nhân, Phật nương theo cơ [cảm] ấy mà ứng hiện [ra đời] nên gọi là duyên.

[“Một đại sự nhân duyên” này] là ý nguyện chính yếu [của chư Phật] khi xuất thế, nhưng nay có mở bày ba thừa chỉ là phương tiện giả lập để dẫn dắt mà thôi. Cũng như có người muốn nhận lấy thì trước tiên nên đưa cho họ, [sau đó mới có thể dẫn dắt]. Tuy [Phật] thuyết dạy đủ mọi đường hướng, nhưng kỳ thật chỉ là một [Phật] thừa, chính là ý nghĩa này.

KINH VĂN

“Xá-lợi-phất! Thế nào là chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời?

Từ câu “Xá-lợi-phất! Thế nào là...” trở đi là ý thứ ba, [nêu lại ý trước]. Vì [đức Phật] sắp nêu ra [giảng giải] phân biệt, nên nêu lại đề mục [đã nói] trước để bắt đầu sự giải thích. Lại nữa, đại sự [xuất thế] này là việc chư Phật xem trọng [nên nêu lại], như trong [Pháp hoa] luận thích nói rằng “Phụ vương muốn được nghe tên Thái tử nhiều lần, [nên người hầu cận] lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần [mà vua nghe] không chán”. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Chư Phật Thế Tôn vì muốn giúp chúng sinh khai mở tri kiến Phật để được thanh tịnh nên xuất hiện ở đời; muốn chỉ bày cho chúng sinh thấy được tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn khiến cho chúng sinh tỏ ngộ tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn giúp cho chúng sinh thể nhập đạo tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời.

Từ câu “chư Phật Thế Tôn” trở đi là ý thứ tư, vào phần giải thích chính. Trước tiên [ở đây] sẽ nêu ra giải thích của các bậc thầy khác.

Các nhà cựu giải nêu ra bốn điều nhất, đó là quả nhất (果一), nhân nhất (人一), giáo nhất (教一) và nhân nhất (因一).

Về quả nhất, hai câu đầu là dựa vào người nói (thuyết giảng),[92] hai câu sau là dựa vào người nghe (tiếp nhận).[93]

Về người thuyết giảng, một lần nói qua khai mở pháp tu nhân, thuyết giảng sơ lược về lý của quả, nên trước tiên khai mở tri kiến Phật. Rốt sau đạt quả là giảng rộng hiển bày lý của quả, chỉ bày tri kiến Phật.

Về người tiếp nhận, trước đã sơ lược khai mở pháp tu nhân, nên nhờ đó mới được nhận hiểu, [ngộ tri kiến Phật]. Sau đạt quả thì hiểu rộng vào sâu lý thú, [nhập tri kiến Phật].

Nay không vận dụng cách giải thích này. Vì sao? Kinh văn trong cả bốn câu đều nói [ý nghĩa] là “vì chúng sanh”,[94] tức ý chính là chúng sinh đương cơ được lợi ích, không liên quan đến người giáo hóa, nên phải hiểu [4 câu đều] là nói đối tượng giáo hóa được khai ngộ, sao lại phân chia ra hai câu [nói riêng về] người giáo hóa khai thị? Lại nữa, ngay nơi lúc thuyết pháp tu nhân, khai thị [trừ bỏ] ba thừa, hiển bày Nhất thừa, sao có thể tách ra 2 câu nói về việc đạt quả? Nhân duyên còn chưa hội đủ để thành quả, sao có thể nói trước? Nếu là như vậy thì lúc vừa khởi sinh 6 điềm lành, Phật còn chưa xuất định nên xem là thuyết sơ lược; lúc 5.000 người [không hợp căn cơ] chưa lui ra khỏi pháp hội nên xem là thuyết rộng. Nếu hai điều ấy đã không hợp lý thì sao có thể nói về việc đạt quả như trên? [Các Bồ Tát] phương dưới còn chưa xuất hiện,[95] phân thân [của Phật] còn chưa hội lại, sao có thể lấy hai câu nói về pháp tu nhân mà cho là đạt quả?

Kế tiếp [là cách giải thích của ngài] Quang Trạch, cho rằng câu đầu tiên hàm nghĩa “khai nhập, khai xuất”. [Khai nhập là nói] trước đây dùng phương tiện thuyết giảng ba thừa để [giúp chúng sanh] trừ 5 sự uế trược. [Khai xuất] là mở ra chỉ bày giáo pháp giác ngộ Đại thừa, [giúp chúng sanh] rõ biết đạo lý. Trước đây tuy [đức Phật] vì chúng sinh [tạm] khai mở thuyết giảng giáo lý này nhưng không nói rõ nguyên do, đến nay lại chỉ bày việc so sánh giáo lý này giúp sinh ra văn tuệ (trí tuệ từ nghe biết). Tuy nghe biết nhưng chưa ngộ hiểu được nguyên do, nên sau đó [Phật] lại phân biệt giảng rộng để khai mở tư tuệ (trí tuệ từ việc tư duy, suy xét). Sau khi đã đủ lòng tin, nhận hiểu được ý nghĩa, [Phật liền] làm cho phát tâm học tri kiến Phật, khiến đạt được tu tuệ (trí tuệ từ sự tu tập), thể nhập đạo lý, tri kiến Phật.

Nay cũng không vận dụng cách giải thích này. Thuyết này đã lập luận giống như trước đây, gọi đoạn này là “quả nhất”,[96] thì lẽ ra cả bốn câu [trong đoạn] nên được hiểu cùng theo nghĩa quả, vì sao lại dùng nghĩa tam tuệ[97] để giải thích kinh văn? Như vậy thì nhân với quả mâu thuẫn, trước với sau trái nghịch.

Lại nữa, tam tuệ có nhiều loại khác nhau. Kinh này chính thức phá bỏ Nhị thừa, chắc chắn không thể dùng loại tam tuệ của Tạng giáo. Phương tiện của Bồ Tát cũng đồng với Nhị thừa, thảy đều là ý nghĩa theo Thông giáo, cũng không thể dùng được. Còn nếu là Tam tuệ của Biệt giáo thì là pháp Bồ Tát, chẳng phải pháp Phật. Nếu cho là tam tuệ của Viên giáo thì tam tuệ Viên giáo là chưa khai mở tri kiến Phật, không giải thích rõ được nghĩa kinh. Nếu là tam tuệ của các tông phái khác thì lại càng xa rời ý nghĩa hơn nữa. [Lại nữa,] nếu cho là tam tuệ của Viên giáo thì ý nghĩa “quả nhất” không thành tựu. [Cho nên] tất cả [những nghĩa trên] đều không thể vận dụng. Đại lược là như vậy.

Tiếp theo, các luận sư phái Địa luận[98] nói rằng: “[Những người từng phát tâm Bồ-đề trước chư Phật nhiều như] số cát của 5 con sông Hằng [thì mới có thể] hiểu được 8 phần trong 16 phần ý nghĩa [của kinh điển Đại thừa],[99] tức là địa vị tam thập tâm [trước khi vào sơ địa][100] được xem là “khai mở [tri kiến Phật]”. Từ sơ địa đến lục địa, dứt hết kiến hoặc và tư hoặc, sự nhận hiểu chuyển thành sáng tỏ rõ ràng, đó là “chỉ bày [tri kiến Phật]”. Từ thất địa đến bát địa, [đối với] các pháp không và hữu đều quán chiếu không ngăn ngại, đó là “tỏ ngộ [tri kiến Phật]”. Đạt đến thập địa được xem là “thể nhập tri kiến Phật”. [Các vị này lại] dẫn kinh nói rằng thập địa gọi là nhãn kiến. [Lập luận này] nay cũng không dùng đến.

Vì sao vậy? Kinh [Pháp hoa] này giảng rõ việc khai mở chỗ thấy biết (tri kiến) của Phật. Phật dùng nhất thiết chủng trí để biết (tri), dùng Phật nhãn để thấy (kiến), [cho nên] khai mở được [Nhất thiết chủng] trí và [Phật] nhãn mới gọi là tri kiến Phật. Làm sao có thể lấy trường hợp [người từng phát tâm trước chư Phật nhiều như] số cát 5 con sông Hằng, chỉ hiểu được 8 phần [trong 16 phần ý nghĩa của kinh điển Đại thừa], hãy còn chưa vào được sơ địa mà gọi là khai mở [tri kiến Phật]? Như chỗ khai mở của lập luận này thì không phải là khai mở Phật nhãn; chỗ rõ biết [của lập luận] này cũng không phải chỗ rõ biết của Nhất thiết chủng trí. Vì không phù hợp với [ý nghĩa] kinh này nên không vận dụng. Đại lược là như vậy.

Có người giải thích rằng: Câu đầu tiên là nêu về lý, 3 câu sau là lược giải. [Lập luận này cho rằng] 8 nỗi khổ, 5 sự uế trược che chướng quả vị hiện tại nên gọi là “đóng”; nay giáo pháp [Pháp hoa] này dứt trừ 5 sự uế trược, làm hiển lộ tri kiến của quả Phật nên gọi là khai mở. Cấu uế dứt trừ, thật lý hiển bày nên gọi là thanh tịnh. Ba câu theo sau là nói văn, tư, tu [tam tuệ]. Sự phản biện đối với lập luận này cũng giống như với lập luận trước.

Có người nói rằng: Biệt giáo trong ba thừa là “khai mở [tri kiến Phật]”, Thông giáo trong ba thừa là “chỉ bày tri kiến Phật”. Nêu hạn chế [của Nhị thừa], xưng dương [hàng Bồ Tát][101] là “tỏ ngộ [tri kiến Phật]”. [Đến Phật thuyết] Pháp hoa là “thể nhập tri kiến Phật]”.

Lại có người giải thích rằng: Thông giáo trong ba thừa là “khai mở tri kiến Phật”, nêu hạn chế [của Nhị thừa], xưng dương [hàng Bồ Tát] là “chỉ bày tri kiến Phật”, [Phật thuyết kinh] Vô Lượng Nghĩa là “tỏ ngộ tri kiến Phật”, [thuyết kinh] Pháp hoa là “thể nhập tri kiến Phật”.

Hai cách giải thích trên cắt riêng ba câu hướng về các kinh khác, xén một câu đưa về Pháp hoa. Cắt xén, làm sai lệch [ý nghĩa kinh văn], gây tổn hại, lừa dối [người đời sau], lỗi này thật quá lớn.

Có người nói rằng: [Đạt được địa vị] tam thập tâm là “khai mở tri kiến Phật]”. Từ sơ địa đến lục địa là “chỉ bày tri kiến Phật”. Từ thất địa đến cửu địa là “tỏ ngộ tri kiến Phật”. Lên đến thập địa là “thể nhập tri kiến Phật”. Người này dựa theo Thông giáo nhưng lại gán ghép với Biệt giáo nên mới nói ra lời như vậy, chưa thấy được rằng sự kỳ đặc khác thường của Pháp hoa có lẽ nào còn đợi xưng tán sao?

Có người dẫn kinh Hoa nghiêm, kinh [Bồ Tát] Anh lạc, kinh Nhân vương, Nhiếp Đại thừa quyển 17, [Thập] Địa kinh luận quyển 5, nói rằng hết thảy phàm phu đều có đủ 52 giai vị, nên trước khi vào sơ địa [của Thập địa] có 40 tâm, sao không nêu ra? Người này dẫn sai kinh Hoa nghiêm, vì kinh Hoa nghiêm không giảng về Thập tín. Lại ví như các kinh đều nêu rõ trước khi lên đến Thập địa có đủ giai vị 40 tâm, thì cũng đều chẳng phải chỗ rốt ráo của đạo, vì sao lại dùng 40 tâm ấy để giải thích việc khai mở tri kiến Phật? [Cho nên] đều là những cách nói lan man không đúng.

Có người dẫn [Pháp hoa luận] thích nói rằng bốn trí[102] tổng, biệt đều cùng lúc đạt được. Không nên dùng lập luận này để giải thích [ý nghĩa] “khai, thị, ngộ, nhập”, vì khai, thị, ngộ, nhập dường như có sâu, cạn. Lại nữa, bốn trí ở địa vị cao, [còn ý nghĩa] khai và thị lại thông từ cạn đến sâu, không nên so sánh. [Lập luận của] người này chỉ thấy chỗ cùng lúc [đạt được] bốn trí của [Pháp hoa] luận thích mà không thấy chỗ cùng lúc của “khai, thị” [trong kinh Pháp hoa].

Có người giải thích rằng: Chẳng không chẳng có là “khai mở [tri kiến Phật]”, có thể không có thể có là “chỉ bày [tri kiến Phật]”; [thấy được] không và có chẳng phải hai, chẳng khác nhau là “tỏ ngộ [tri kiến Phật]”; rõ biết chỗ không và có chẳng phải khác mà khác là “thể nhập [tri kiến Phật]”. [Lập luận của] người này dựa theo Nhị đế[103] để giải thích, vốn còn chưa vượt ra khỏi hàng Nhị thừa, nói gì đến chuyện phù hợp ý nghĩa với kinh Pháp hoa.

Có người nói: Đạt được lý Tam đế[104] là “khai mở [tri kiến Phật]”; phân biệt sáng tỏ Tam đế là “chỉ bày [tri kiến Phật]”; không thấy Tam đế có đồng có khác, đó là “tỏ ngộ [tri kiến Phật]”; tùy thuận nhân duyên xuôi theo dòng [Thánh đạo], đó là “thể nhập [tri kiến Phật]”. [Lập luận của] người này dựa theo phần ngoại vi của Tam đế để hiểu nghĩa, vốn còn chưa vượt khỏi pháp của hàng Bồ Tát, nói gì đến pháp Phật.

Có người giải rằng: [Về ý nghĩa] tri kiến Phật thì tướng chung của Nhất thiết trí là “tri”, tướng riêng của Nhất thiết trí là “kiến”. Điều này cũng không đúng. [Pháp hoa] luận thích nêu rõ rằng Nhất thiết trí là trí của hàng Thanh văn, Đạo chủng trí là trí của hàng Bồ Tát, Nhất thiết chủng trí là trí của Phật. Cách lập luận này là chọn riêng Nhất thiết chủng trí, không phải ba trí cùng trong một tâm. Sao lại có thể đem chỗ hiểu biết của hàng Nhị thừa tách rời với chỗ thấy biết của Phật để giải thích về chỗ thấy biết rốt ráo viên mãn của Phật?

Lại có người giải thích: [Khởi sinh] tận trí,[105] hết thảy phiền não trở nên thanh tịnh gọi là “tri”; [chứng đắc] vô sinh trí,[106] hết thảy nhân quả khổ não trói buộc rốt cùng đều không còn sinh khởi gọi là “kiến”. [Lập luận của] người này lấy giáo nghĩa về danh hiệu Phật của Thông giáo để giải thích nghĩa rốt ráo của Phật, hết thảy đều không phù hợp.

Như trên, các vị thầy đều nhọc công vô ích trích dẫn đủ điều trong kinh văn, [nhưng] tất cả đều không thấy được ý nghĩa chính của kinh Pháp hoa.

Luận Pháp hoa [huyền nghĩa] giải thích [bốn câu kinh này] như sau:[107] Thứ nhất là nghĩa vô thượng, ngoài Nhất thiết chủng trí thì không còn chuyện gì khác nữa. Như kinh văn nói khai mở tri kiến Phật, vì muốn cho chúng sinh được thanh tịnh nên [chư Phật] xuất hiện ở đời. Thứ hai là tương đồng, [hết thảy] hàng Thanh văn với Phật Bích-chi, pháp thân, Phật tánh đều bình đẳng như nhau. Như kinh văn nói, muốn chỉ bày cho chúng sinh về tri kiến Phật nên [chư Phật] xuất hiện ở đời, bởi vì Pháp thân Phật tánh [của chúng sanh] rốt cùng [bình đẳng như nhau] không có khác biệt. Thứ ba là nghĩa không biết, là nói hàng Nhị thừa không biết được rằng cứu cánh duy nhất rốt ráo chỉ có một Phật thừa. Như kinh văn nói, vì muốn [cho chúng sanh] tỏ ngộ tri kiến Phật, nên [chư Phật] xuất hiện ở đời. Thứ tư là vì muốn cho [chúng sanh] chứng đắc địa vị bất thối chuyển nên [chư Phật] thị hiện, [chỉ bày cho chúng sanh] vô số trí nghiệp. Như kinh văn nói, muốn cho chúng sinh thể nhập được tri kiến Phật.

Luận này giải thích [bốn câu kinh văn] tuần tự. Trước tiên khai mở Phật tri kiến (khai) là vô thượng. Tiếp đến chỉ bày cho thấy (thị) ba thừa đều có pháp thân Phật tánh bình đẳng như nhau. [Chúng sanh] tuy đã biết rõ trí tuệ Phật là vô thượng, nhưng chỉ sợ rằng [trí tuệ ấy] riêng Phật mới có, cho nên phần tiếp theo nêu rõ cả ba thừa đều có. Tuy ba thừa đều sẵn có [trí tuệ Phật], nhưng hàng Nhị thừa không biết điều đó, nên [Phật phải] chỉ bày cho rõ biết, tỏ ngộ (ngộ). Tuy đã rõ biết [có trí tuệ Phật] rồi nhưng chưa đạt địa vị không thối chuyển. Cho nên [câu] thứ tư [là nghĩa] khiến cho đạt địa vị không thối chuyển (nhập).

Thứ hai nói về [ý nghĩa đối với] hàng Bồ Tát. [Nghĩa] khai mở [tri kiến Phật] (khai) cũng giống như trước đã nói. Nghĩa chỉ bày là nói các vị Bồ Tát còn có nghi ngờ, [Phật] chỉ bày (thị) cho rõ biết để theo đó như thật tu hành. Nghĩa nhận hiểu, tỏ ngộ (ngộ) là đối với người chưa phát tâm Bồ-đề liền khiến cho phát tâm. Nghĩa thể nhập (nhập) là đối với người đã phát tâm Bồ-đề rồi liền khiến cho thể nhập vào chánh pháp.

Thứ ba nói về [ý nghĩa đối với] phàm phu. [Nghĩa] khai mở [tri kiến Phật] (khai) cũng giống như trước đã nói. Nghĩa chỉ bày (thị) là chỉ bày cho biết [phàm phu cũng sẵn] có pháp thân Phật tánh. Nghĩa nhận hiểu, tỏ ngộ (ngộ) là khiến cho ngoại đạo và chúng sinh đều nhận hiểu, giác ngộ. Nghĩa thể nhập (nhập) là khiến cho thể nhập vào Đại Bồ-đề.

Các vị thầy ngày nay đưa ra 4 cách giải thích, cũng không trái ngược với luận. Luận giải thích từng câu một, nay thì mỗi câu đưa ra 4 cách giải thích. Luận nêu rõ việc chứng đạt địa vị không thối chuyển, nay giải thích theo 4 giai vị. Luận nêu rõ biết Như Lai có thể chứng thật nghĩa, nay giải thích thành 4 trí. Luận nêu nghĩa tương đồng [bình đẳng], nay giải thích theo quán tâm. Luận nêu việc không rõ biết chỗ rốt ráo, nay giải thích thành 4 môn. Đại lược là như vậy.

Nay giải thích vô lượng pháp, hiển thật đều là “nhất”. Như trong [Pháp hoa] huyền nghĩa nêu 10 điều kỳ diệu (thập diệu), chính là 10 mục nhất (thập nhất). Nên thuận theo các nhà cựu giải thì tạm xem là 4 loại nhất. Nếu là vô lượng nhất thì [bất kỳ] một sắc, một hương nào cũng đều là Trung đạo. Ý nghĩa này có thể rõ biết.

Nếu nêu 10 mục nhất (thập nhất) thì trong kinh văn đều có đủ, tuy chẳng theo thứ tự nhưng 10 nghĩa vẫn đủ không thiếu. [Kinh văn nói:] “Vì sao vậy? Ta dùng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để giảng thuyết các pháp.” Đây là câu kinh [nói việc tạm] bày ra quyền thừa phương tiện. Từ câu “pháp ấy không thể do suy lường phân biệt mà hiểu được” là hiển bày “lý nhất”. Câu “chỉ có chư Phật mới đủ khả năng thấu hiểu” là hiển bày “trí nhất”. Câu “chỉ vì duy nhất một đại sự” cần phân biệt kỹ, nói “một” đó là lý, “đại” tức là trí, “sự” tức là hành. Do nơi lý phát khởi được trí, do nơi trí dẫn dắt hành. Suy theo nghĩa này thì hiểu đây là hiển bày “hành nhất”. [Về nghĩa] tri kiến, trí tuệ hiểu rõ lý [là tri], mắt nhìn thấy rõ pháp thật [là kiến]. Rõ pháp thật vô vi tức không còn phân biệt, do vô vi mà có sự sai biệt. Dựa theo nghĩa tri kiến này mà luận giải về “khai, thị, ngộ, nhập”, dùng chỗ giản lược để suy rộng ra thì ắt có 40 giai vị. Đây là hiển bày “vị nhất”.

Lại [có thể] lấy phần kết bốn câu để nêu rõ nghĩa “nhất”. [Kinh nói] “một” tức là pháp thân, “đại” tức là Bát-nhã, “sự” tức là giải thoát. Tạng bí mật này tức là hiển bày “tam pháp nhất”. “Xuất hiện ở đời” là hiển bày “cảm ứng nhất”. “Chỉ giáo hóa toàn là Bồ Tát” là hiển bày “quyến thuộc nhất”. “Hết thảy việc làm” là hiển bày “thần thông nhất”. “Mục đích duy nhất là dùng tri kiến Phật để chỉ bày khai ngộ chúng sanh”, đó là hiển bày “lợi ích nhất”. “Chỉ dùng một Phật thừa vì chúng sinh thuyết pháp”, đây là hiển bày “thuyết pháp nhất”.[108]

[Như vậy,] kinh văn hoàn toàn phù hợp, tạo niềm tin cho ý nghĩa [Thập nhất] nói trên.[109] Nếu như giản lược thuận theo các nhà cựu giải thì nói 4 mục nhất (Tứ nhất). Tuy vẫn cùng số mục nhưng ý nghĩa [xưa và nay] khác nhau.

Các nhà cựu giải nói “quả nhất” (果一), ngày nay nói “lý nhất” (理一), là y theo nghĩa kinh và văn kinh. Y theo nghĩa kinh, vì nếu không có “lý nhất” thì mọi việc [nói ra] đều điên đảo, ắt là ma thuyết, chẳng phải kinh Phật, cho nên cần có “lý nhất”. Y theo văn kinh là trong kinh nói “tri kiến Phật”, nay hiểu là chỗ thấy, chỗ biết [của tự thân mỗi người]. Chỗ thấy ấy chính là lẽ chân thật, chỗ biết ấy là cảnh ngoài. Cảnh chân thật tức là lý thật tướng, cho nên gọi là “lý nhất”.

Các nhà cựu giải nói “nhân nhất” (因一), ngày nay nói “hành nhất” (行一). Chữ nhân (因) có những nghĩa khác nhau, còn dùng chữ “hành nhất” thì bao quát, thâu nhiếp [nghĩa] nhân quả, cho nên nói “hành nhất”.

Về “nhân nhất” (人一) và “giáo nhất” (教一) thì cựu giải với ngày nay đều hiểu và dùng chữ giống nhau.

Nay tạm theo chỗ nói giản lược, dùng “tứ nhất” [như trên] để giải thích kinh văn.

Trước hết giải thích về “lý nhất”, lại có bốn ý. Thứ nhất là giải thích theo “tứ vị”, thứ hai là theo “tứ trí”, thứ ba là theo “tứ môn” và thứ tư là theo “quán tâm”.

Giải thích theo tứ vị

Thứ nhất, giải thích theo “tứ vị”. Cảnh chân thật thì không thể thấy biết, phải dựa vào con mắt trí tuệ mới có thể thấy biết. Bốn loại mắt[110] với hai trí [quyền và thật] đều không thể thấy biết, chỉ có Phật nhãn với Nhất thiết chủng trí mới có thể thấy biết [chân thật]. Kinh văn nói: “Vì muốn giúp cho chúng sinh khai mở tri kiến Phật”, [đó là nói] không bàn đến quả Phật, [dù là chúng sinh vẫn có thể] tự thấy biết. Nếu nói nghiêng về quả Phật tức là bỏ mất chúng sinh, nếu chỉ nói về chúng sinh tức là không có tri kiến Phật, cho nên không thể bám chấp thiên lệch. Người tu hành thuộc Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo chỉ là chúng sinh, chưa có Phật nhãn, Phật trí, nên không thể thấy biết thật tướng. Bốn địa vị[111] thuộc Viên giáo cũng vẫn còn là chúng sinh. Lại nữa, được một phần Phật nhãn, Phật trí tức là thành nghĩa chúng sinh, mà nghĩa tri kiến cũng thành. Cho nên dựa theo bốn địa vị này để giải thích “lý nhất”.

Cũng như điềm lành trời mưa xuống bốn loại hoa, đó là biểu hiện muôn điều lành đều quy về [thành tựu] 4 địa vị (Tứ vị), nương vào hoa là 4 địa vị này để hướng đến quả là địa vị Phật. Cho nên dựa theo 4 địa vị để hiển bày làm rõ lý.

[Về nghĩa] “khai mở [tri kiến Phật]”, chính là nói hàng Thập trụ, ban sơ phá trừ vô minh, khai mở Như Lai tạng, thấy được lý thật tướng. Nhưng vì sao tánh đức của lý chân thật lại bị nhiễm trước bởi [kiến hoặc, tư hoặc của] Thông giáo và [vô minh hoặc] của Biệt giáo? Điều này khó có thể rõ biết. Hàng sơ tâm có thể thành tựu đầy đủ đức tin (viên tín), có thể thọ học đầy đủ (viên thọ), có thể điều phục trọn vẹn (viên phục), nhưng chưa thể đoạn trừ [mê hoặc nhiễm ô] thì không gọi là “khai mở [tri kiến Phật]”. Trong tâm [nỗ lực] tăng thêm quán hạnh, bên ngoài nhờ mưa pháp giúp sức thêm, phá trừ được những kiến hoặc, tư hoặc và vô minh hoặc ẩn tàng, hiển xuất tánh chân thật tu tập, tri kiến sáng rõ mở bày phát triển, như mặt trời mọc lên bóng tối tiêu trừ, mắt có thể nhìn rõ, cho nên gọi là “khai mở [tri kiến Phật]”.

Nương vào sự tu tập để phá trừ mê hoặc nên gọi là làm cho thanh tịnh. Kinh Nhân vương[112] nói rằng: “Nhập vào lý Bát-nhã gọi là trụ.” Trụ nơi Thập trụ là giai vị [biểu trưng bằng] hoa nhỏ màu trắng.[113]

[Về nghĩa] “chỉ bày [tri kiến Phật]”, chính là nói khi đã dứt trừ chướng hoặc, chân thể của tri kiến liền hiển lộ. Thể ấy gồm đủ muôn đức. Hết thảy tánh đức trong pháp giới đều hiển thị phân biệt sáng tỏ nên gọi là “chỉ bày”. Đây tức là Thập hạnh, là giai vị [biểu trưng bằng] hoa lớn màu trắng.[114]

[Về nghĩa] “tỏ ngộ [tri kiến Phật]”, chính là nói khi chướng hoặc dứt trừ, chân thể đã hiển lộ, muôn hạnh trong pháp giới đều sáng tỏ, sự lý dung thông, rốt ráo chỉ có một đường [thẳng lên quả Phật]. Các vị thầy dạy Nhiếp Đại thừa luận nói: “Trí tuệ đúng như lý, trí tuệ đúng như xứng lượng.” Nay [đạt đến chỗ] lý và lượng không còn phân biệt, cho nên gọi là tỏ ngộ. Đây tức là Thập hồi hướng, là giai vị [biểu trưng bằng] hoa nhỏ màu đỏ.[115]

[Về nghĩa] “thể nhập [tri kiến Phật]”, chính là nói khi sự và lý đã dung thông, được tự tại không ngăn ngại, tùy thuận nhân duyên, tự tại xuôi dòng [Thánh đạo], từ sơ phát tâm đến địa vị Diệu giác,[116] thể nhập vào biển Nhất thiết trí.[117] Như Nhiếp Đại thừa luận nói: “Đúng như lý, đúng như xứng lượng, thông đạt không ngăn ngại.”[118] Sự thấy biết đúng như lượng có thể duy trì muôn tánh đức, sự thấy biết đúng như lý có thể ngăn ngừa mê hoặc. Đây tức là Thập địa, là giai vị [biểu trưng bằng] hoa lớn màu đỏ.[119]

Tuy nhiên, với địa vị nhiệm mầu của đạo viên mãn thì trong một địa vị đã hàm chứa đầy đủ công đức của 41 địa vị. Chỉ riêng một pháp “khai” tức gồm đủ cả “thị, ngộ, nhập”, bình đẳng như nhau, rốt cùng chẳng phải [khởi lên từ một] tâm nào khác, chỉ thấy biết đúng như lẽ thật, không có tướng phân biệt cạn sâu, [chỉ vì] muốn hiển bày tri kiến đúng như xứng lượng mà [tạm] phân biệt thành bốn địa vị. [Thật ra thì lúc] phát tâm và [khi thành tựu] rốt ráo, [hai tâm ấy] không hề khác biệt. Nhưng trong hai tâm ấy thì tâm lúc mới phát tâm [được xem] là khó. Khi đã nói về việc khó dễ, tức là rõ biết có sơ tâm với tâm thành tựu rốt ráo, nên cần có sự chỉ bày nhắc nhở sâu cạn khác nhau, cũng giống như mặt trăng trước sau vẫn luôn tròn đầy nhưng vào ngày đầu tháng với giữa tháng có sự sai biệt. Chỗ thấy biết của 4 địa vị đều soi chiếu sáng tỏ thật tướng nhưng giảng thuyết về khai, nhập... nên thành khác biệt. Đại lược là như vậy.

Giải thích theo tứ trí

Thứ hai là [giải thích] dựa theo tứ trí. Nay [luận này] sẽ dùng tứ trí của Viên giáo để đối chiếu với tứ vị, không giống như cách giải thích của Thông giáo trong [giáo lý] Bát-nhã.

[Trí] thứ nhất là Đạo tuệ, thấy được thật tánh của đạo. Từ trong thật tánh ấy khai mở tri kiến Phật, [đây là nghĩa “khai mở tri kiến Phật”].

[Trí] thứ hai là Đạo chủng tuệ, rõ biết các tướng giải hoặc khác nhau của đạo trong 10 pháp giới. Mỗi [sự rõ biết] như vậy đều chỉ bày tri kiến Phật, [đây là nghĩa “chỉ bày tri kiến Phật”].

[Trí] thứ ba là Nhất thiết trí, rõ biết hết thảy các pháp đều cùng một tướng tịch diệt, tịch diệt tức là nhận hiểu tri kiến Phật, [đây là nghĩa “tỏ ngộ tri kiến Phật”].

[Trí] thứ tư là Nhất thiết chủng trí, rõ biết hết thảy các pháp đều cùng một tướng tịch diệt, cho đến đủ mọi tướng mạo của các hành đều nhận biết rõ, tức là thể nhập vào tri kiến Phật, [đây là nghĩa “thể nhập tri kiến Phật”].

Lại nữa, Đạo tuệ [rõ biết] đúng như lý nên gọi là “khai”, Đạo chủng tuệ đúng như xứng lượng nên gọi là “thị”, Nhất thiết trí thì lý và lượng không phân biệt thành hai nên gọi là “ngộ”, Nhất thiết chủng trí thì lý và lượng cùng soi chiếu nên gọi là “nhập”.

Đây là nói dựa theo lẽ thật vốn không có sâu cạn, do phân biệt thành sâu cạn.

Giải thích theo tứ môn

Thứ ba là [giải thích dựa theo] tứ môn[120] của Viên giáo. Nhìn chung có bốn trường hợp. Đối với cửa pháp không, một pháp không thì hết thảy các pháp đều không, tức là nghĩa khai mở tri kiến Phật. Đối với cửa pháp có, một pháp có thì hết thảy các pháp đều có, tức là nghĩa chỉ bày tri kiến Phật. Đối với cửa pháp cũng không cũng có thì hết thảy các pháp vừa là không vừa là có, tức là nghĩa tỏ ngộ tri kiến Phật. Đối với cửa pháp chẳng phải không chẳng phải có thì hết thảy các pháp đều chẳng phải không chẳng phải có, tức là nghĩa thể nhập tri kiến Phật. [Đối với] chủ thể [quán chiếu] thông suốt thành bốn, đối tượng [quán chiếu] tức chỉ là một. [Cho nên,] khai, thị, ngộ, nhập là cửa ngõ [quán chiếu] thông suốt; chỗ biết, chỗ thấy là lý của đối tượng [quán chiếu].

Giải thích theo quán tâm

Thứ tư là [giải thích] theo quán tâm. Quán nơi tâm tánh thì lý tam đế[121] không thể nghĩ bàn. Pháp quán này sáng suốt thanh tịnh nên gọi là “khai”. Tuy là không thể nghĩ bàn nhưng có thể phân biệt rõ không, giả và trung đế. Sáng tỏ rõ ràng không ngăn lấp nên gọi là “thị”. Các tâm không, giả và trung tuy 3 mà 1, tuy 1 mà 3, gọi là “ngộ”. Các tâm không, giả, trung chẳng phải không, giả, trung mà đồng soi chiếu không, giả, trung, gọi là “nhập”. Đây gọi là 3 pháp quán trong 1 tâm [đồng nhất] nhưng phân chia thành khai, thị, ngộ, nhập khác nhau.

Sở dĩ dùng 4 cách giải thích [như trên] là vì thấy được lý thật nhờ chứng địa vị, thiết lập địa vị nhờ phát khởi trí tuệ, phát khởi trí tuệ nhờ nơi pháp môn, thông suốt pháp môn nhờ nơi quán chiếu. [Cho nên,] có quán chiếu ắt pháp môn được thông suốt; pháp môn thông suốt nên trí tuệ thành tựu; trí tuệ thành tựu nên địa vị được thiết lập, địa vị thiết lập nên thấy được lý thật; thấy được lý thật nên gọi đó là “lý nhất”.

KINH VĂN

Xá-lợi-phất, đó là chư Phật chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.

Từ câu “Xá-lợi-phất, đó là chư Phật chỉ vì duy nhất một đại sự...” trở đi là kết lại ý nghĩa “lý nhất”. Trước đây [Phật] dùng phương tiện thuyết giáo, cũng luận ý nghĩa “khai, thị, ngộ, nhập” nhưng chẳng phải tri kiến Phật, cho nên gọi là quyền. Bây giờ [thuyết giảng Pháp hoa] nêu rõ tri kiến Phật nên là thật. Thật ấy tức là “lý nhất”.

KINH VĂN

Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, hết thảy việc làm thường chỉ vì một mục đích duy nhất là dùng tri kiến Phật để chỉ bày, khai ngộ chúng sinh. Xá-lợi-phất! Như Lai chỉ dùng một Phật thừa vì chúng sinh thuyết pháp, không có thừa nào khác như Nhị thừa, Tam thừa.

Từ câu “Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: Chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát...” chính là nêu nghĩa “nhân nhất” (人一). Nói chung, trước đây Phật dùng phương tiện nói là giáo hóa [người trong] Tam thừa, nhưng nói theo lẽ thật thì chỉ giáo hóa các Bồ Tát. Như đứa con lưu lạc cùng khốn tự cho mình là kẻ hèn hạ bên ngoài, nhưng dưới mắt nhìn của vị trưởng giả thì đó thật là con mình. Đây là nghĩa “nhân nhất”.

Từ câu “hết thảy mọi việc làm thường chỉ vì một mục đích duy nhất”, ngài Quang Trạch gọi là “giáo nhất”, nay nói là “hạnh nhất”. Hết thảy các hạnh của ba thừa nên gọi là “hết thảy”, lại vì trọn vẹn nên gọi là “hết thảy”, tức là [hết thảy chỉ vì] một mục đích. Hết thảy các hạnh ấy hướng về đâu? Duy chỉ hướng về tri kiến Phật, tức là ý nghĩa “hành nhất”. Cũng có thể xem đây là “giáo nhất”, nếu như lấy giáo làm nghĩa chính: Hết thảy việc làm [của Phật] đều vì sự giáo hóa. Như vậy nói là “giáo nhất” cũng phù hợp. Nhưng nếu lấy nghĩa người làm mà nói thì mỗi một việc làm đều là hành. Nay dùng theo nghĩa thích hợp này nên gọi là “hành nhất”.

Tuy nhiên, cả 4 câu đều có 2 nghĩa. Như về “lý nhất”, nếu theo chủ thể thấy biết thì nghĩa “vị nhất” là thích hợp, nhưng nếu theo đối tượng được thấy biết thì nghĩa “lý nhất” là thích hợp. Còn như về “nhân nhất”, nếu nói theo sự giáo hóa thì nghĩa “giáo nhất” là thích hợp, còn lấy ý Bồ Tát thì nghĩa “nhân nhất” là thích hợp. Lại nói về “giáo nhất”, nếu lấy theo ý dùng một Phật thừa vì chúng sinh thuyết pháp thì nghĩa “giáo nhất” là thích hợp, nhưng nếu theo ý thừa là vận hành thì nghĩa “hành nhất” là thích hợp. Ý nghĩa bốn câu đều tương thông, chỉ là chọn nghĩa phù hợp để giải thích mà thôi.

Từ câu “chỉ dùng một Phật thừa”, ngài Quang Trạch cho là “nhân nhất”, nay gọi là “giáo nhất”. Giáo pháp trọn vẹn thẳng tắt gọi là Phật thừa, cho nên trong phẩm Tựa nói “thuyết kinh Đại thừa” tức là ý nghĩa của giáo pháp. Từ Biệt giáo trở đi, tất cả [thuyết giáo] đều gọi là thuyết hữu dư, tức là chẳng phải nghĩa rốt ráo, chẳng phải Nhất thừa của Phật.

Ngài Quang Trạch giải thích: “[Kinh nói] không có Nhị [thừa] là nói Duyên giác, Thanh văn; không có Tam [thừa] là nói hàng Bồ Tát công hạnh thiên lệch.”

Lại có người nói: “Không có Bồ Tát, Duyên giác nghĩa là không có Nhị thừa, không có Thanh văn nghĩa là không có Tam thừa.” Nếu giải thích như vậy thì chỉ là không có các thừa của Tạng giáo, vẫn còn lại các thừa của Thông giáo, nào có liên quan gì đến một Phật thừa.

Có người nói: “Không có Duyên giác, nghĩa là không có Nhị thừa, không có Thanh văn nghĩa là không có Tam thừa, vẫn còn có Bồ Tát Đại thừa.” Nếu vậy thì chỉ là nói trong Tạng giáo không có hai thừa, không phải là không có Bồ Tát. Như vậy vẫn còn là hữu dư, nào có liên quan gì đến Phật thừa? [Hơn nữa] trong kinh luận đâu có chỗ nào nói Thanh văn là Tam thừa? Đã không có điều này thì những điều nói trên trước sau đều sai lệch.

Lại nếu theo cách giải thích rằng không có Nhị thừa là nói không có Duyên giác, không có Tam thừa là nói không có Bồ Tát, vậy thì Thanh văn là thứ nhất nên chẳng phải là không. Nếu như vậy thì hết sức điên đảo rối loạn.

Nay [cho rằng, kinh văn] nói “chỉ dùng một Phật thừa” là hoàn toàn nói về Phật pháp theo Viên giáo thừa, ngoài ra “không có thừa nào khác”, không có thuyết phương tiện hữu dư của Biệt giáo. Không có Nhị thừa là nói không có Nhị thừa được nói trong thời Bát-nhã. Không có Tam thừa là không có hàng Tam thừa đối với thời Phương đẳng mà nói. Cả Nhị thừa và Tam thừa ấy còn không có, huống chi là ba thừa trong Tạng giáo?

KINH VĂN

Xá-lợi-phất! Pháp của hết thảy chư Phật mười phương cũng đều như vậy. Xá-lợi-phất! Chư Phật trong quá khứ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sinh thuyết giảng các pháp; các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sinh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.

Từ câu “Xá-lợi-phất! Pháp của hết thảy chư Phật mười phương cũng đều như vậy” là phần tổng kết thứ năm. Phần này nói về chư Phật ba đời đều nêu rõ giáo nhất, hành nhất, sau đó lại tổng luận về nhân nhất, lý nhất. Nếu ngay nơi phần này tự nêu nghĩa “tứ nhất” thì cũng có thể được, nhưng không bằng phần tổng văn đã làm rõ.

Kinh Bồ Tát Anh Lạc, quyển 13,[122] nói đến 9 đời chư Phật. [Đó là chư Phật] quá khứ có ba đời, [cộng với] hiện tại và vị lai cũng [đều có ba đời] như vậy.

Ba đời chư Phật vị lai gồm có, [chư Phật] vị lai quá khứ, là các vị Cổ Phật [trong quá khứ] vì lòng từ bi nhập vào vị lai, hóa hiện đủ mọi hình thức để hóa độ chúng sinh; [chư Phật] vị lai hiện tại, là các vị hiện tại được thụ ký về sau [sẽ thành Phật]; [chư Phật] vị lai vị lai, là các vị lần lượt được đức Phật hiện tại thụ ký [sẽ thành Phật trong] đời vị lai.

[Ba đời chư Phật] quá khứ cũng dựa theo đây thì có thể biết được. Đại lược là như thế.

[Ba đời chư Phật hiện tại gồm có,] chư Phật hiện tại là chư Phật hiện đang giáo hóa; [chư Phật] hiện tại vị lai, là chư vị [nhất sanh] bổ xứ [sẽ thành Phật] tiếp theo; [chư Phật] hiện tại quá khứ, là chư vị Cổ Phật [trong quá khứ] thương xót [chúng sinh mà thị hiện] hình tích [trong hiện tại].

Từ câu “chư Phật trong quá khứ” trở đi, phần này nên hiểu đủ sáu nghĩa, [nhưng ở đây] chỉ nêu ra hai [nghĩa]. Thứ nhất là trừ bỏ phương tiện, thứ hai là hiển bày chân thật. Hai [câu] chỉ ý trên, hai câu chỉ ý dưới.

Câu “dùng vô lượng vô số phương tiện” là nêu ý tạm bày quyền thừa. Câu “các pháp ấy đều là một Phật thừa” là hiển bày chân thật. Cứ theo cách giải thích ở phần trên thì “một Phật thừa” tức là “giáo nhất”.

Câu “nghe pháp từ chư Phật” tuy chỉ nói việc nghe pháp nhưng hàm ý chúng sinh [là người nghe] nên có nghĩa “nhân nhất”.

Trong câu “rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí”, [xét về] đối tượng rõ biết của chủng trí ấy tức là “lý nhất”, về chủ thể rõ biết tức là “hành nhất”. Tuy không theo đúng thứ tự nhưng [trong phần này] có đủ “tứ nhất”.

KINH VĂN

“Này Xá-lợi-phất! Chư Phật trong tương lai ra đời, lại cũng sẽ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sinh thuyết giảng các pháp, các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sinh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.

“Xá-lợi-phất! Chư Phật Thế Tôn hiện tại trong vô lượng trăm ngàn muôn ức cõi Phật mang lại rất nhiều lợi ích an lạc cho chúng sinh, chư Phật ấy lại cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sinh thuyết giảng các pháp, các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sinh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.

“Xá-lợi-phất! [Tất cả] chư Phật ấy cũng chỉ giáo hóa Bồ Tát, muốn dùng tri kiến Phật để chỉ bày chúng sinh, muốn dùng tri kiến Phật để khai ngộ chúng sinh, muốn giúp cho chúng sinh thể nhập tri kiến Phật.”

Từ câu nói về “chư Phật trong tương lai” lại cũng có hai nghĩa, xét cả hai ý trên dưới thì cũng đầy đủ sáu nghĩa. Đại lược là như vậy.

Từ phần nói về chư Phật hiện tại, chính là nói chư Phật đang giáo hóa. Trước hết giảng ý nghĩa Phật ra đời. Như trong phần nói về chư Phật, [kinh văn nói] “chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời”, đó cũng là nói [chư Phật] chỉ vì làm lợi lạc an vui cho chúng sinh mà xuất hiện ra đời.

Tiếp theo là ý trừ bỏ pháp quyền thừa, tiếp sau nữa là hiển bày pháp chân thật, lại cũng đầy đủ nghĩa “tứ nhất”.[123]

_______________________________________________________

CHÚ THÍCH


[1] Nguyên tác nói “六道四聖 - lục đạo, tứ thánh”. Lục đạo chỉ sáu đường luân hồi của tất cả chúng sinh, tức là sáu cõi gồm địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la, trời, người. Tứ thánh là bốn cảnh giới của bậc thánh đã chứng quả, gồm Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát và Phật.

[2]A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa luận (阿毘曇毘婆沙論). (ĐCT, T28, 1546)

[3] Sáu cõi phàm như đã nói trên, ba cõi thánh tức là trừ ra cảnh giới Phật, chỉ tính Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát.

[4] Tức là nói các nghĩa “như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác”.

[5] Tức là nói các nghĩa “như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo”.

[6]Tức là đoạn kinh văn: “其車高廣, 眾寶莊校, 周匝欄楯, 四面懸鈴 - kì xa cao quảng, chúng bảo trang hiệu, chu táp lan thuẫn, tứ diện huyền linh.” - Trang 12c, d.18 - 19, kinh văn đã dẫn.

[7]Tức là đoạn kinh văn: “有大白牛, 肥壯多力, 形體姝好,, 以 駕寶車 - hữu đại bạch ngưu, phì tráng đa lực, hình thể xu hảo, dĩ giá bảo xa.” Trang 14c, d.14 - 15, kinh văn đã dẫn.

[8]Tức là đoạn kinh văn đã dẫn ở đoạn trên, d.18.

[9]Các đoạn văn này đều nhằm giải thích ý nghĩa “như thị”, nhưng không hiểu sao riêng đoạn này Văn Cú chép là “而名為力 - nhi danh vi lực”, thay vì phải là “而名如是力 - nhi danh như thị lực”. So sánh văn cảnh trước và sau, chúng tôi cho rằng Văn Cú đã chép nhầm riêng ở đoạn này nên phải điều chỉnh lại.

[10]Tức là đoạn kinh văn “又於其上張設幰蓋, 亦以 珍奇雜寶而嚴飾之 - hựu ư kỳ thượng trương thiết hiển cái, diệc dĩ trân kì tạp bảo nhi nghiêm sức chi.” - Trang 12c, d.19 - 20.

[11] Tức là câu kinh: “形體姝好, 有大筋力, 行步平正, 其疾如風 - hình thể xu hảo, hữu đại cân lực, hành bộ bình chính, kỳ tật như phong.” - Trang 12c, d.22 - 23.

[12] Chỉ 41 giai vị mà Bồ Tát tuần tự trải qua trên đường tu tập, gồm Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa và Đẳng giác. 41 giai vị này được trình bày trong kinh Hoa nghiêm.

[13] Kinh văn đoạn này là “乘是寶車, 遊於四方 - thừa thị bảo thừa du ư tứ phương”. (Trang 43a, d.27, kinh văn đã dẫn.) Văn Cú chép nhầm là “乘是寶乘 - thừa thị bảo thừa” tuy vẫn hiểu đúng nghĩa nhưng không chính xác như trong kinh văn. Chúng tôi đã điều chỉnh theo kinh văn.

[14] Tức là nói 37 phẩm trợ đạo hay Tam thập thất đạo phẩm (三十七道品 - Phạn ngữ: bodhi-pākṣika), cũng gọi là Tam thập thất Bồ-đề phần, bao gồm: tứ niệm xứ (四念處), tứ chính cần (四正勤), tứ thần túc (四神足), ngũ căn (五根), ngũ lực (五力), thất giác chi (七覺支) và bát thánh đạo (八聖道).

[15] Kinh văn: “又多僕從而侍衛之 - hựu đa bộc tùng nhi thị vệ chi”. - Trang 12c, d.23 - 24, kinh văn đã dẫn.

[16] Kinh văn: “乘此寶乘, 直至道場 - thừa thử bảo thừa trực chí đạo tràng”. - Trang 15a, d.13 - 14, kinh văn đã dẫn. Phần trên Văn Cú chép nhầm chữ “車 - xa” thành chữ “乘 - thừa” có thể là do nhầm với cách dùng trong câu này, thật ra ý nghĩa đều như nhau.

[17] Câu này Văn Cú trích dẫn là “得無量無漏清淨之果報 - đắc vô lượng vô lậu thanh tịnh chi quả báo”, nhưng không tìm thấy như vậy trong kinh văn, có lẽ là dẫn lại ý nghĩa từ đoạn kinh văn này: “始於今日, 得其果報,法王法中, 久修梵行,今得無漏,無上大果 - Thủy ư kim nhật, đắc kỳ quả báo, Pháp vương pháp trung, cửu tu phạm hạnh, kim đắc vô lậu, vô thượng đại quả.” - Trang 18c, d.18 - 19, kinh văn đã dẫn.

[18]Tam đức (三德) ở đây là nói pháp thân (法身), bát-nhã (般若) và giải thoát (解脫). Ba phẩm tính này sẵn có, hiện hữu ở mọi chúng sinh, bất kể thánh phàm, nhưng đôi khi để phân biệt rõ nên ở địa vị phàm phu được gọi là “三佛性 - tam Phật tánh”, và khi hoàn toàn giải thoát thì gọi là tam đức (三德).

[19] Nguyên tác dùng chữ sĩ phu (士夫), hiểu theo nghĩa thông thường trong Hán ngữ là người có học thức, kẻ sĩ... nhưng thật ra ở đây là được dùng để dịch chữ “puruṣa” trong Phạn ngữ, cũng được phiên âm là bố-lộ-sa (布路沙). Chữ puruṣa được từ điển Phạn-Hán định nghĩa là: 個體生命力的原理, 靈魂; 個人本體, 最高精神。 (Cá thể sinh mạng đích nguyên lý, linh hồn; cá nhân bản thể, tối cao tinh thần.) Do vậy, ở đây chỉ đơn giản giản là được dùng để chỉ một con người.

[20] Nguyên tác là “地獄有斷續 - địa ngục hữu đoạn tục”. Chúng sinh trong địa ngục do nghiệp lực nên khi chịu hình phạt có những lúc chết đi rồi phải sống lại để tiếp tục chịu hình phạt. Chết rồi sống lại là điều chỉ có ở địa ngục, nên gọi là không thể nghĩ bàn.

[21] Văn Cú dùng “二佛 - nhị Phật” nhưng theo văn cảnh thì thật ra không hề có hai vị Phật, mà như ý văn trước tức là chỉ chư Phật (nói chung) và đức Phật Thích-ca trong hiện tại.

[22] Tức là không thể rõ biết được trí tuệ Phật.

[23] Nguyên tác dùng “thất phương tiện”, có thể chỉ các giai vị: 1. Ngũ đình tâm vị; 2. Biệt tướng niệm trụ vị; 3. Tổng tướng niệm trụ vị; 4. Noãn pháp vị; 5. Đỉnh pháp vị; 6. Nhẫn pháp vị; 7. Thế đệ nhất pháp vị. Đây cũng được gọi là Thất phương tiện vị. Ngoài ra, theo ý nghĩa đặc thù của tông Thiên Thai còn có hai nghĩa. Thứ nhất là chỉ: 1. Nhân thừa, 2. Thiên thừa, 3. Thanh văn thừa, 4. Duyên giác thừa, 5. Bồ Tát Thừa của Tạng giáo, 6. Bồ Tát Thừa của Thông giáo và 7. Bồ Tát Thừa của Biệt giáo. Thứ hai là chỉ: 1. Thanh văn của Tạng giáo, 2. Duyên giác của Tạng giáo, 3. Thanh văn của Thông giáo, 4. Duyên giác của Thông giáo, 5. Bồ Tát của Thông giáo, 6. Bồ Tát của Biệt giáo, 7. Bồ Tát của Viên giáo. Tất cả những nghĩa này đều phù hợp ở đây, vì chỉ những hành giả còn ở giai đoạn được phương tiện dẫn dắt, chưa đủ căn cơ và trí tuệ để trực nhập Nhất thừa.

[24] Sơ tín là giai vị đầu tiên của Thập tín. Trước đã nói Thập tín có khả năng rõ biết, nghĩa là từ Sơ tín đã có thể rõ biết.

[25] Tức là trong kinh văn từ “諸佛弟子眾 - Chư Phật đệ tử chúng” đến “其力所不堪 - kỳ lực sở bất kham”. Trong Văn Cú nói “chư Phật tử”, thiếu chữ đệ so với kinh văn.

[26]Nguyên tác dùng “地前 - địa tiền” nghĩa là chưa đạt đến Thập địa, bao gồm các giai vị Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng.

[27] Xin xem lại bốn cách giải thích đã trình bày ở trước: giải thích dựa theo Thập pháp giới, giải thích dựa theo Phật Pháp giới, giải thích theo ý nghĩa khai hợp (hay ly hợp) và giải thích theo giai vị.

[28] Tam đế: chỉ không đế, giả đế và trung [đạo] đế, tức là ba sự thật cần quán chiếu.

[29]Kinh văn trong phẩm Thí dụ: “將非魔作佛 - tương phi ma tác Phật”.

[30]Tức là nói địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và a-tu-la. Nói “thoát được trói buộc” ở đây có nghĩa là không còn phải tái sinh vào bốn cõi này.

[31]Nguyên tác nói “六度乘 -lục độ thừa” chính là muốn chỉ đến Bồ Tát thừa.

[32] Phần đầu kinh nói “chúng đại tỳ-kheo 12.000 vị, ...đều là các bậc A-la-hán“, ở đây nói có 1.200 vị. So sánh kinh văn thì rõ ràng có sự nhầm lẫn, như chúng tôi đã lưu ý ở phần trước.

[33]Tức là câu kinh ở phần sau: “求佛諸菩薩, 大數有八萬 - Cầu Phật chư Bồ Tát, đại số hữu bát vạn.” - trang 6c, d.4.

[34] Phần này Văn Cú cho là có thể đọc hiểu trực tiếp từ kinh văn nên không cần giảng giải. Trong nguyên tác thì đến đây là hết quyển 3, bắt đầu quyển 4.

[35] Nguyên cả câu kinh văn được trích dẫn là: “我先不言:諸佛世尊以種種因緣、譬喻言辭方便說法,皆為阿耨多羅三藐三菩提耶?是諸所說,皆為化菩薩故 - Ngã tiên bất ngôn: ‘Chư Phật Thế Tôn dĩ chủng chủng nhân duyên, thí dụ ngôn từ phương tiện thuyết pháp, giai vi A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề da?’ Thị chư sở thuyết, giai vi hóa Bồ Tát cố.” (Chẳng phải trước đây ta đã từng nói rằng: “Các đức Phật Thế Tôn dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện để thuyết pháp, đều là vì dẫn dắt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” đó sao? Cho nên, hết thảy những điều thuyết dạy đó đều là vì giáo hóa hàng Bồ Tát.)

[36] Nguyên cả câu kinh được trích dẫn là: “我昔曾於二萬億佛所,為無上道故,常教化汝 - Ngã tích tằng ư nhị vạn ức Phật sở, vị Vô thượng đạo cố, thường giáo hóa nhữ.” (Trước đây ta từng ở nơi hai vạn ức vị Phật, vì thuyết dạy đạo Vô thượng nên thường giáo hóa ông)

[37] Nguyên cả câu kinh được trích dẫn là: “若如來自知涅槃時到眾又清淨, 信解堅固, 了達空法, 深入禪定, 便集諸菩薩及聲聞眾為說是經, 世間無有二乘而得滅度, 唯一佛乘得滅度耳。 - Nhược Như Lai tự tri Niết-bàn thời đáo, chúng hựu thanh tịnh, tín giải kiên cố, liễu đạt không pháp, thâm nhập thiền định, tiện tập chư Bồ Tát cập Thanh văn chúng vị thuyết thị kinh, thế gian vô hữu nhị thừa nhi đắc diệt độ, duy nhất Phật thừa đắc diệt độ nhĩ.” (Nếu đức Như Lai tự biết đã đến lúc nhập Niết-bàn, đại chúng lại thanh tịnh, có sự tin hiểu vững chắc, rõ biết thấu triệt pháp không, thể nhập sâu vào thiền định, ngài liền triệu tập các vị Bồ Tát và chúng Thanh văn để thuyết giảng kinh này, nói rõ trong thế gian không có 2 thừa được diệt độ, chỉ duy nhất 1 Phật thừa được diệt độ mà thôi.)

[38] Kinh Thắng Man, tên đầy đủ là Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh (勝鬘師子吼一乘大方便方廣經). Câu trích dẫn trong kinh Thắng Man là: “三乘初 業, 不愚於法, 於彼義當覺當得 - “Tam thừa sơ nghiệp, bất ngu ư pháp ư bỉ nghĩa đương giác đương đắc.” (Hàng Tam thừa tu tập lúc ban sơ nếu không ngu muội nơi pháp thì đối với ý nghĩa [rốt ráo] này ắt sẽ hiểu rõ, đạt được.) (ĐCT, T12, 353, tr.222a d.29 - tr.222b d.1)

[39] Nguyên tác dùng “小果 - tiểu quả”, chỉ các quả vị mà hàng Nhị thừa chứng đắc. Theo nghĩa đen thường dịch là “quả nhỏ”. Chúng tôi cho rằng trong sự so sánh các quả vị trên đường tu tập hướng đến giác ngộ thì đây là những quả vị còn thấp, ở bên dưới. Như vậy sẽ phù hợp hơn là cách so sánh lớn hay nhỏ. Trong Hán ngữ thì chữ “小 - tiểu” có thể được hiểu theo cả hai cách.

[40] Tức là dẫn ý câu kinh: “是諸所說,皆為化菩薩故 - Thị chư sở thuyết giai vi hóa Bồ Tát cố - Những điều đã thuyết giảng đều là vì giáo hóa các Bồ Tát.”

[41] Giới nội hoặc (界內惑) là thuật ngữ đặc biệt của tông Thiên Thai, dùng để chỉ kiến tư hoặc (見思惑), tức là kiến hoặc và tư hoặc.

[42] Câu giải thích này hàm ý rằng, nếu nhìn từ trí tuệ chân thật của Phật thì không thật có hàng Thanh văn, chỉ là quyền biến, nhưng dựa theo căn tánh của chính hàng Thanh văn thì tất nhiên họ luôn nghĩ mình là Thanh văn, nghĩa là thật có.

[43] Nguyên tác chỉ nói Pháp hoa luận (法華論), nhưng phần trích dẫn này đúng là được tìm thấy trong Pháp hoa huyền luận (法華玄論) (ĐCT, T34, 1720) Đoạn trích nằm ở trang 422a, d.14 - 15: “晚見論明四種聲聞。一 決定聲聞。二增上慢聲聞。三退菩提心聲聞。四應化聲聞 - Vãn kiến luận minh tứ chủng Thanh văn. Nhất quyết định Thanh văn, nhị tăng thượng mạn Thanh văn, tam thối bồ-đề tâm Thanh văn, tứ ứng hoá Thanh văn.”

[44] Quyết định Thanh văn: ý nói hạng Thanh văn quá bám chấp, tin chắc vào giáo pháp Thanh văn đang tu tập, khó có cơ hội chuyển sang Đại thừa.

[45] Tăng thượng mạn Thanh văn: hạng Thanh văn khởi tâm kiêu mạn, thật chưa chứng thánh quả mà nói rằng đã chứng.

[46] Nguyên tác Văn Cú chỉ nói “退大 - thối đại”, dựa theo nguyên tác luận văn nói là “退菩提心 - thối Bồ-đề tâm” nên biết rằng ở đây muốn nói thối tâm Đại thừa.

[47] Theo Đại thừa thì Bồ Tát phải tu tập qua vô số kiếp trong sinh tử nên các vị này sinh tâm mỏi mệt, lại chán ghét sinh tử nên chọn theo Tiểu thừa vì cho rằng như vậy có thể dứt được sinh tử sớm hơn.

[48] Nguyên tác dùng “灰斷 - hôi đoạn”, chỉ việc từ đốt thân thành tro (hôi) và dứt trừ hoàn toàn tâm thức (đoạn) để đi vào Niết-bàn tịch diệt vĩnh viễn. Đây chỉ là suy nghĩ sai lầm của hàng Tiểu thừa vì thật ra theo lý Đại thừa thì không thể làm được như vậy.

[49] Nguyên tác dùng tam giáo (三教), ở đây chỉ giáo pháp của Tiểu thừa (hay Thanh văn thừa), Trung thừa (hay Duyên giác thừa, Bích-chi Phật thừa) và Đại thừa (Bồ Tát thừa) tương ứng với ba căn cơ khác biệt vừa đề cập trên.

[50] Nguyên tác dùng “十六心 - thập lục tâm”, tức chỉ 16 tâm bao gồm: 1. Khổ pháp nhẫn, 2. Khổ pháp trí, 3. Khổ loại nhẫn, 4. Khổ loại trí, 5. Tập pháp nhẫn, 6. Tập pháp trí, 7. Tập loại nhẫn, 8. Tập loại trí, 9. Diệt pháp nhẫn, 10. Diệt pháp trí, 11. Diệt loại nhẫn, 12. Diệt loại trí, 13. Đạo pháp nhẫn, 14. Đạo pháp trí, 15. Đạo loại nhẫn, 16. Đạo loại trí. 15 tâm đầu thuộc về hướng Tu-đà-hoàn, nghĩa là còn chưa chứng quả, đến tâm thứ 16 mới thuộc về quả Tu-đà-hoàn. Do vậy nên kinh văn ở đây nói đầy đủ 16 tâm mới gọi là chứng quả Tu-đà-hoàn.

[51] Đoạn này chỉ rõ tính chất không hợp lý của các nhà cựu giải. Nếu cho rằng sau lần thuyết chánh pháp đầu tiên, hàng trung căn đã chuyển thành thượng căn, vậy lẽ ra lần thuyết pháp thứ hai cũng phải giống lần trước, vì vẫn là thuyết cho hàng thượng căn, vì sao Phật phải chuyển sang thuyết về thí dụ? Tương tự, lần thứ ba nói theo lập luận này thì cũng là thuyết cho hàng thượng căn (từ hạ căn chuyển lên sau hai lần thuyết pháp), vậy lẽ ra vẫn là giống như lần đầu, vì sao Phật phải chuyển sang thuyết về nhân duyên? Do Phật thay đổi nội dung thuyết pháp cho thích hợp, nên biết rằng người nghe pháp vẫn là các hạng căn cơ khác nhau, ý nghĩa chuyển căn như trên không hợp lý.

[52] Nguyên tác dùng “木斷之處 - mộc đoạn chi xứ” (chỗ cây bị đốn), ý nói kết quả của việc đốn cây. Ví dụ này so sánh sự giác ngộ nhanh chậm của ba căn cơ với việc đốn cây dùng dao sắc hay dao cùn, tuy có nhanh chậm khác nhau nhưng cuối cùng vẫn đốn ngã được cây, cũng như ba căn cơ cuối cùng đều giác ngộ.

[53] Nguyên tác chỉ nói “經中多明 - kinh trung đa minh” rất tối nghĩa, vì dễ hiểu nhầm là trong kinh nói, nhưng ý nghĩa ở đây không phải vậy, mà là muốn nói sự nhận hiểu, giải thích sai của người đọc kinh. Bởi kinh văn thật sự không có phân chia căn cơ như nói ở đây, chỉ do người đọc nhận hiểu sai.

[54] Nguyên tác dùng “近果 - cận quả” (quả vị gần), chỉ những quả vị thấp của Tiểu thừa vì gần gũi, dễ chứng đắc hơn quả Phật.

[55] Tức là phát tâm Bồ-đề.

[56] Nguyên tác dùng “增道損生 - tăng đạo tổn sinh”, tức là tăng trưởng trí tuệ quán chiếu trung đạo, dần dần dứt trừ biến dịch sinh tử.

[57] Đây là nói theo ví dụ ông trưởng giả và người cùng tử trong kinh Pháp hoa, nên “định rõ cha con” có nghĩa là người cùng tử đã biết được thân phận thật của mình. Đến đây tất cả người chứng ngộ đều biết và tin rằng mình có khả năng thành Phật, cho nên đều gọi là Bồ Tát.

[58] Văn Cú trích dẫn chỗ này là “密遣二人追捉將還 - mật khiển nhị nhân truy bức tương hoàn“ không đúng với kinh văn, vì bị nhầm lẫn giữa 2 phần kinh văn tương tự. Đoạn trước kinh văn nói “sai người đuổi theo bắt lại” là “即勅使者, 追捉將來 - tức sắc sứ giả truy tróc tương lai”, và đoạn bí mật sai 2 người đến làm việc cùng đứa con là “密遣二人,形色憔悴 - mật khiển nhị nhân hình sắc tiều tụy...” Xét theo văn cảnh thì có lẽ Văn Cú đang muốn sử dụng đoạn sau này.

[59] Tức là nói ở đầu phẩm Phân biệt Công đức.

[60] Nguyên tác nói “餘有一生在 - dư hữu nhất sinh tại” (còn lại một đời), tức là nói đến giai vị Nhất sinh bổ xứ của ngài Di-lặc, chỉ còn một đời nữa là thành Phật.

[61] Theo giáo pháp Tiểu thừa, nhập chánh vị tức là chứng đắc từ Sơ quả Tu-đà-hoàn.

[62] Tức Đề-bà-đạt-đa.

[63] Nguyên tác dùng “八相記 - bát tướng ký”, chỉ 8 tướng trạng được Phật nêu ra khi thụ ký. Trong Đại thừa trang nghiêm kinh luận nói có 6 tướng trạng là: 1. tên cõi nước; 2. tên thời đại (kiếp danh), 3. danh hiệu Phật; 4. thời gian sẽ thành Phật, 5. đại chúng, quyến thuộc; 6. thời gian Chánh pháp tồn tại. Khi nói 8 tướng trạng là mở rộng thêm về thời gian tồn tại của 2 thời kỳ Tượng pháp và Mạt pháp.

[64] Nguyên tác dùng “損生 - tổn sinh” là cách nói vắn tắt của “增道損生 - tăng đạo tổn sinh”, tức là tăng trưởng trí tuệ trung đạo, giảm trừ biến dịch sinh tử.

[65] Đây là trích dẫn từ kinh Duy-ma-cật: “佛以一音演說法,眾生各各隨所解 - Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sinh các các tùy sở giải.” (ĐCT, T14, 475, tr.538a, d.4.) Văn Cú trích dẫn câu này nhưng không nêu nguồn trích dẫn và có khác đi một chút: “一音演說法眾生隨類各得解 - nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sinh tùy loại các đắc giải.”

[66] Đây là câu kinh trích từ phẩm Như Lai Thần Lực (thứ 21) của kinh Pháp hoa. Nguyên văn là: “我等亦自欲得是真淨大法 - Ngã đẳng diệc tự dục đắc thị chân tịnh đại pháp” (ĐCT, T9, 262, tr.51c, d.12-13). Văn Cú trích lại có sai lệch vài chữ nhưng không khác nghĩa: “我自欲得此真淨大法 - Ngã tự dục đắc thử chân tịnh đại pháp.”

[67] Ngũ vị (五味), năm vị, là khái niệm so sánh được dùng để chỉ các giáo pháp khác nhau do Phật thuyết dạy, tương đương với năm thời thuyết giáo. Có một số quan điểm khác nhau, ở đây theo tông Thiên Thai thì năm vị là năm vị của sữa, gồm sữa tươi (nhũ), sữa đặc (lạc), váng sữa sống (sinh tô), váng sữa chín (thục tô) và đề hồ. Giáo pháp Hoa nghiêm được ví như vị sữa tươi, giáo pháp A-hàm ví như vị sữa đặc, giáo pháp Phương đẳng ví như vị sinh tô, giáo pháp Bát-nhã ví như vị thục tô và cuối cùng mới đến giáo pháp Niết-bàn, Pháp hoa được ví như vị đề hồ cao tột nhất.

[68] Văn Cú Ký giải thích rằng: “言如前者, 指上玄文 - Ngôn như tiền giả chỉ thượng huyền văn.” (Nói như trước [đã nói] tức là chỉ đoạn đã nói trước của Pháp hoa huyền luận.)

[69] Văn Cú nói là “有染慢 - hữu nhiễm mạn”. Văn Cú Ký giải thích là: “有染慢者有修惑也 - Hữu nhiễm mạn giả, hữu tu hoặc giả.” Tu hoặc (修惑) cũng chính là tư hoặc (思惑), chỉ những phiền não câu sinh của tất cả chúng sinh, vừa sinh ra đã sẵn có. Vì chỉ có thể dứt trừ bằng cách tu tập đạo pháp cho nên gọi là tu hoặc. Tư hoặc là cách dùng được nhiều người biết đến hơn.

[70] Văn Cú dùng “博地 - bác địa”, chỉ địa vị phàm phu, vì kẻ phàm phu chiếm số đông, có ở khắp nơi nên gọi là “博 - bác”. Thuật ngữ này thường được dùng nhiều hơn là “薄地 - bạc địa”, với nghĩa địa vị thấp kém, hạ liệt, vì không có tu tập chứng đắc.

[71] Văn Cú Ký giải thích chỗ này là: “聞法時無明已去, 復不名障 - văn pháp thời vô minh dĩ khứ, phục bất danh chướng.” (Vào lúc nghe thuyết pháp thì vô minh đã mất nên cũng không gọi là chướng.)

[72] Văn Cú Ký nói thuyết này là của các vị thầy thuộc Tam luận tông (三論宗). Đây là tông phái Phật giáo dựa trên 3 bộ luận chính là Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận và Bách Luận.

[73] Từ đoạn này trở đi, Văn Cú chỉ nói tri (biết, hoặc có khả năng biết) và bất tri (không biết, hoặc không có khả năng biết), nhưng phải ngầm hiểu là chỉ cho việc biết hay không biết tánh Phật, tức là tiềm năng thành Phật sẵn có trong mỗi chúng sinh.

[74] Đoạn này Nguyên tác Văn Cú chép: “今於佛前皆墮疑惑, 我今不知是義所趣。- Kim ư Phật tiền giai đọa nghi hoặc, ngã kim bất tri thị nghĩa sở thú.” Đây chỉ là dẫn theo ý kinh, vì không đúng nguyên văn. Đoạn kinh được dẫn lời ngài Xá-lợi-phất có thể là đoạn này: “我等... ...而今不知是義所趣... ...今者四眾咸皆有疑。“ - Ngã đẳng... ...nhi kim bất tri thị nghĩa sở thú... ...kim giả tứ chúng hàm giai hữu nghi.”

[75] Văn Cú chỉ nói “大經云彗星。- Đại kinh vân tuệ tinh.“ (Đại kinh nói: Sao chổi.) Để dịch câu này, chúng tôi đã dựa vào ý nghĩa trong kinh Đại Bát Niết-bàn.

[76] Bộ hành Duyên giác (部行緣覺), cũng gọi là Bộ hành Độc giác (部行 獨覺), chỉ những vị Phật Bích-chi tuy tự mình quán chiếu tu tập nhưng thường nhóm họp nhiều người để cùng tu, nên gọi là “bộ hành” (thực hành chung cả nhóm người), khác với vị Lân giác Duyên giác (麟角緣覺) chỉ sống đơn độc, ví như con lân chỉ có một sừng.

[77] Tức là đến hết câu kệ: “心生大歡喜,自知當作佛。 - Tâm sinh đại hoan hỷ, tự tri đương tác Phật.” (Tâm sinh niềm hoan hỷ lớn lao, tự biết mình rồi sẽ thành Phật.)

[78] Cũng tức là đầu phẩm Thí Dụ. “譬喻品第三 - Thí Dụ phẩm - đệ tam”.

[79] Tức là đến hết câu kệ: “轉無上法輪,教化諸菩薩。 Chuyển Vô thượng pháp luân, giáo hóa chư Bồ Tát.”

[80] Đây là trích dẫn từ kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 23, phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát, các bản sớ giải thường gọi tắt là Đức Vương Phẩm. Nguyên văn đoạn trích này là: “若離四法得涅槃者無有是處。何等為四。一者親近善友。二者專心聽法。三者繫念思惟。四者如法修行。 - Nhược ly tứ pháp đắc Niết-bàn giả vô hữu thị xứ. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả thân cận thiện hữu. Nhị giả chuyên tâm thính pháp. Tam giả hệ niệm tư duy. Tứ giả như pháp tu hành.” (Không thể nào có việc lìa khỏi bốn pháp này mà được Niết-bàn. Đó là bốn pháp nào? Thứ nhất là gần gũi bạn lành, thứ hai là chuyên tâm nghe pháp, thứ ba là chú tâm suy ngẫm, thứ tư là y theo pháp tu hành.) (ĐCT, T12, 375, tr.754b, d.16-18.) Đoạn này theo ý Văn Cú là ba pháp sau rất rõ ràng, người đọc có thể tự hiểu được.

[81] Độc cổ (毒鼓), trống có độc, dẫn từ ví dụ trong kinh điển. Có người dùng chất độc đặc biệt tẩm vào mặt trống, khi đánh lên thì khắp xa gần, ai nghe tiếng trống cũng đều bị chết. Kinh văn giải thích: “Trống là pháp thân bình đẳng, chất độc là vô duyên từ bi, người đánh trống là chúng phát khởi, người nghe tiếng trống là chúng đương cơ, nghe rồi chết là phá trừ hết vô minh.” Đây là ví dụ để nói lên công năng phá trừ vô minh của “tiếng trống” chánh pháp.

[82] Trường hợp của hai vị tỳ-kheo này, Pháp hoa luận thích nói như sau: “Tỳ-kheo Thắng Ý bám chấp Tiểu thừa, tỳ-kheo Hỷ Căn đã ngộ Đại thừa, liền vì tỳ-kheo Thắng Ý mà thuyết giảng. Thắng Ý nghe pháp Đại thừa liền phỉ báng, do vậy phải đọa vào địa ngục, nhưng nhờ được nghe pháp Đại thừa nên về sau khi hết thời gian chịu khổ trong địa ngục liền được giải thoát. Ở đây so sánh để thắc mắc vì sao đức Phật không đối với những hạng “cành lá” trong hội Pháp hoa cũng giống như tỳ kheo Thắng Ý, dù họ có bị đọa ngày nay nhưng về sau sẽ được giải thoát.

[83] Nguyên tác là “滅化破庵 - diệt hóa phá am“. “Diệt hóa” là diệt mất hóa thành, tức dứt bỏ phương tiện. “Phá am” cũng có nghĩa là dứt bỏ phương tiện, dựa theo ý nghĩa ví dụ người con trở về, cho đến khi được giao phó mọi việc nhà nhưng vẫn ra ngủ nghỉ nơi am cỏ. Khi phá am đưa con vào nhà tức là chính thức giao phó gia nghiệp, hiển bày pháp Nhất thừa.

[84] Xem lại phần phân biệt bốn chúng ở trước, bao gồm: chúng phát khởi, chúng đương cơ, chúng ảnh hưởng và chúng kết duyên.

[85] Văn Cú dẫn câu này là “汝今善聽 - nhữ kim thiện thính”, không đúng kinh văn.

[86] Nguyên tác Văn Cú dùng “四佛 - tứ Phật” nhưng xét theo nội dung có nghĩa là “bốn lượt nói về chư Phật”. Thứ nhất nêu về chư Phật nói chung, thứ hai nói về chư Phật quá khứ, thứ ba nói về chư Phật vị lai, thứ tư nói về chư Phật trong hiện tại.

[87] Nguyên tác dùng “五佛 - ngũ Phật” ý nghĩa như trên, chỉ bốn lần nói về chư Phật và lần thứ năm là nói cụ thể về Phật Thích-ca.

[88] Kim luân là một trong bốn vị Chuyển luân Thánh vương, tùy theo phước báo khác nhau mà phân ra thành Kim luân vương, Ngân luân vương, Đồng luân vương và Thiết luân vương. Kim luân vương là vị Chuyển luân Thánh vương có phước báo cao nhất, khi ra đời sẽ cai quản khắp bốn cõi thiên hạ.

[89] Đây là nói theo ví dụ về “ngũ vị” để so sánh với 5 thời thuyết giáo. Theo tông Thiên Thai thì vị sữa tươi (nhũ) là thời Hoa nghiêm, vị sữa đặc (lạc) là thời A-hàm, vị váng sữa sống (sinh tô) là thời Phương đẳng, vị váng sữa chín (thục tô) là thời Bát-nhã và vị đề-hồ tối thượng là thời Niết-bàn, Pháp hoa.

[90] Nguyên tác dùng “客作四種 - khách tác tứ chủng”. “Khách tác” là nói những việc làm tạm thời, vì phương tiện mà bày ra, không phải pháp lâu dài. “Tứ chủng” (bốn loại) là chỉ bốn nội dung vừa nói trên: lý (giáo lý), ngôn (lời nói), hành (pháp hành), nhân (người nghe pháp).

[91] Văn Cú trích câu này là “隨宜所說 - tùy nghi sở thuyết”, chúng tôi điều chỉnh lại cho đúng theo kinh văn để người đọc tiện theo dõi.

[92] Tức là nói nghĩa đức Phật vì chúng sinh khai Phật tri kiến (khai mở tri kiến Phật) và thị Phật tri kiến (chỉ bày tri kiến Phật).

[93] Tức là nói nghĩa đức Phật muốn làm cho chúng sinh ngộ Phật tri kiến (thấy hiểu nhận biết được tri kiến Phật) và nhập Phật tri kiến (thể nhập tri kiến Phật).

[94] Tức là 4 câu lần lượt nói vì giúp chúng sinh khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến.

[95] Tức là nói việc trong phẩm Tùng địa dũng xuất.

[96] Tức là ý nghĩa “bốn điều nhất” theo các nhà cựu giải như đã nói ở trước: quả nhất (果一), nhân nhất (人一), giáo nhất (教一) và nhân nhất (因一).

[97] Tức ba loại trí tuệ: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ như vừa vận dụng giải thích ở trên.

[98] Địa luận tông (地論宗) là tông phái lập thuyết dựa trên Thập địa kinh luận (十地經論), cũng thuộc Đại thừa.

[99] Lập luận này dựa theo kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 6, phẩm Như Lai tánh, phần ba. Tham khảo ý nghĩa chi tiết trong ĐCT, T12, 374, từ trang 398c, d.9 đến trang 399a, d.5. Nội dung ý kinh phần này đề cập đến 9 hạng người, từ hạng thứ nhất là những người từng phát tâm Bồ-đề trước chư Phật nhiều như số cát sông Hy-liên (熙連河), hạng thứ hai là những người từng phát tâm Bồ-đề trước chư Phật nhiều như số cát 1 con sông Hằng, cho đến hạng thứ chín là những người từng phát tâm Bồ-đề trước chư Phật nhiều như số cát 8 con sông Hằng. Hạng người thứ nhất nhờ công đức tu tập đó nên không phỉ báng kinh điển Đại thừa nhưng chưa thể khởi tâm tin nhận ưa thích; hạng người thứ hai có thể tin nhận ưa thích nhưng chưa thể thọ trì đọc tụng, hạng người thứ ba có thể thọ trì đọc tụng, giảng nói với người khác; hạng người thứ tư có thể giảng nói với người khác nhưng chưa hiểu nghĩa kinh, hạng người thứ năm có thể hiểu được 1 phần trong 6 phần ý nghĩa của kinh; hạng người thứ sáu có thể hiểu được 8 phần trong 16 phần ý nghĩa của kinh điển Đại thừa, chính là hạng người được đề cập ở đây. Cho đến hạng người thứ chín mới có thể hiểu rõ được hoàn toàn ý nghĩa kinh điển Đại thừa. Câu trích dẫn trên đề cập đến hạng người thứ sáu, từng phát tâm Bồ-đề trước chư Phật nhiều như số cát của 5 con sông Hằng.

[100] Tam thập tâm (三十心), chỉ 30 giai vị trước khi tiến lên thập địa (十地), bao gồm thập trụ (十住), thập hạnh (十行) và thập hồi hướng (十迴向). Pháp hoa nghĩa sớ giải thích rằng đây là địa vị đã đạt sáu căn thanh tịnh nhưng chưa vào sơ địa.

[101] Nguyên tác dùng “ức dương” (抑揚). Pháp hoa văn cú ký, quyển 4, giải thích rằng: 言抑揚者, 以淨名中抑挫聲聞褒揚菩薩 – Ngôn ức dương giả, dĩ Tịnh Danh trung ức tỏa Thanh văn bao dương Bồ Tát. (Nói ức dương, đó là chỉ việc trong kinh Tịnh Danh nói chỗ hạn chế của hàng Thanh văn mà ngợi khen xưng tán hàng Bồ Tát.) (ĐCT, T34, 1719, tr.234a, d.10-11)

[102] Bốn trí là gồm Đại viên cảnh trí (大圓境智), Bình đẳng tánh trí (平等性智), Diệu quán sát trí (妙觀察智) và Thành sở tác trí (成所作智).

[103] Nhị đế ở đây chỉ Không đế và Giả đế theo giáo lý tông Thiên Thai.

[104] Tam đế gồm Không đế, Giả đế và Trung đế, là giáo lý đặc thù của tông Thiên Thai.

[105] Nguyên tác dùng tận trí (盡智), chuyển dịch từ Phạn ngữ Kṣaya-jñāna, chỉ trí tuệ được sinh khởi ở quả vị vô học, đoạn trừ hết thảy phiền não, tự biết mình đã thành tựu sự tu tập Tứ đế: biết khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo.

[106] Vô sinh trí (無生智), chuyển dịch từ Phạn ngữ anutpādajñāna, chỉ trí tuệ rõ biết hết thảy các pháp đều không thực sự có sinh có diệt, nhờ đó dứt trừ hết thảy phiền não, xa lìa sinh diệt.

[107] Nguyên tác chỉ nói là Pháp hoa luận (法華論), chỉ đến sách Pháp hoa huyền luận (法華玄論). Phần trích dẫn này là ở trang 403c, bắt đầu từ d.5. (ĐCT, T34, 1720)

[108] Phần trước có đề cập đến thuyết cho rằng Thập diệu chính là Thập nhất. Ở đây dẫn kinh văn để lần lượt chứng minh sự tương đồng. Thập diệu trong kinh Pháp hoa theo giải thích của tông Thiên Thai bao gồm: cảnh diệu, trí diệu, hạnh diệu, vị diệu, tam pháp diệu, cảm ứng diệu, thần thông diệu, thuyết pháp diệu, quyến thuộc diệu và lợi ích diệu. Thập diệu này được chuyển sang thành Thập nhất với cùng tên gọi, như tam pháp nhất, cảm ứng nhất, quyến thuộc nhất v.v.

[109] Nguyên tác dùng “信如符契 - tín như phù khế”, chỉ niềm tin được xác lập do sự phù hợp hoàn toàn. Khế là một phương thức tạo niềm tin thời xưa bằng cách viết nội dung giao ước trên một tờ giấy rồi xé làm đôi, mỗi người giữ một mảnh. Khi hai mảnh giấy ghép lại với nhau hoàn toàn trùng khớp thì đôi bên đều tin chắc rằng đó là nội dung đã giao ước cùng nhau. Hiện nay ta vẫn còn dùng từ “khế ước” là xuất phát từ nghĩa này.

[110] Tứ nhãn (四眼), bốn loại mắt, tức là nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn và pháp nhãn. Nhục nhãn là mắt thường của tất cả chúng sinh. Ba loại thiên nhãn, tuệ nhãn và pháp nhãn đều do tu tập mà đạt được.

[111] Tức là Noãn vị, Đảnh vị, Nhẫn vị và Thế đệ nhất pháp vị.

[112] Kinh Nhân vương, tức Phật thuyết Nhân vương Bát-nhã Ba-la-mật kinh (佛說仁王般若波羅蜜經) (ĐCT, T8, 245) Câu kinh được trích dẫn là: “入理般若名為住,住生德行名為地 – Nhập lý Bát-nhã danh vi trụ, trụ sinh đức hạnh danh vi địa” (tr.827b, d.25).

[113] Tức là hoa mạn-thù-sa (mañjūṣaka).

[114] Tức là hoa ma-ha mạn-thù-sa (mahā-mañjūṣaka).

[115] Tức là hoa mạn-đà-la (māndāra).

[116] Nguyên tác nói “從阿到茶 - tùng a đáo trà”, từ A đến Trà, tức là từ chữ A đến chữ Trà (trong Phạn ngữ). Chữ A là chữ đầu tiên trong bảng mẫu tự Phạn ngữ và chữ Trà là chữ cuối cùng. Diệu Pháp Liên Hoa kinh huyền nghĩa giải thích: “圓教菩薩從初 發心得諸法實相具一切佛法故名阿字,至妙覺地,窮一切法底故名茶字 – Viên giáo Bồ Tát tùng sơ phát tâm đắc chư pháp thật tướng, cụ nhất thiết Phật pháp cố danh A tự, chí Diệu giác địa, cùng nhất thiết pháp để cố danh Trà tự.” (ĐCT, T33, 1716, tr.735a, d.21-23)

[117] Nguyên tác là “入薩婆若海 - nhập Tát-bà-nhã hải”. Tát-bà-nhã là phiên âm từ Phạn ngữ sarvajña, dịch nghĩa là Nhất thiết trí, chỉ trí tuệ của Phật rõ biết tất cả.

[118] Câu trích dẫn trong Nhiếp Đại thừa luận là: “法界者。如理如量通三無性以為其體。 - Pháp giới giả, như lý như lượng thông tam vô tánh dĩ vi kỳ thể.” (ĐCT, T31, 1595, tr.173b, d.10-11) Ở đây Văn Cú trích dẫn lại là “如理如量通達自在 – Như lý như lượng thông đạt tự tại.”

[119] Tức là hoa ma-ha mạn-đà-la (mahā-māndāra).

[120] Tứ môn: chỉ không môn (cửa pháp không), hữu môn (cửa pháp có), diệc không diệc hữu môn (cửa pháp cũng không cũng có), phi không phi hữu môn (cửa pháp chẳng phải không chẳng phải có).

[121] Tam đế: tức Không đế, Giả đế và Trung đế.

[122] Tức Bồ Tát Anh Lạc kinh (菩薩瓔珞經), ĐCT, T16, 656, tr.109b, bắt đầu từ d.28. Nội dung giải thích tiếp theo cũng lấy từ kinh này.

[123] Trong nguyên tác đến đây là hết phần Thượng, bắt đầu phần hạ của quyển 4.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 11 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.170 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...