Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV

Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Điều khác biệt giữa sự ngu ngốc và thiên tài là: thiên tài vẫn luôn có giới hạn còn sự ngu ngốc thì không. (The difference between stupidity and genius is that genius has its limits.)Albert Einstein
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Việc người khác ca ngợi bạn quá hơn sự thật tự nó không gây hại, nhưng thường sẽ khiến cho bạn tự nghĩ về mình quá hơn sự thật, và đó là khi tai họa bắt đầu.Rộng Mở Tâm Hồn
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Pháp Hoa Văn Cú »» Giải thích phẩm Phương tiện (tiếp theo) »»

Pháp Hoa Văn Cú
»» Giải thích phẩm Phương tiện (tiếp theo)

(Lượt xem: 13)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Giải thích phẩm Phương tiện (tiếp theo)

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

PHẦN THỨ HAI

KINH VĂN

“Xá-lợi-phất! Ta nay cũng như vậy, biết rõ chúng sinh có đủ mọi ham muốn, bám chấp sâu nặng trong tâm, nên tùy theo bản tánh của chúng sinh mà dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, sức phương tiện để thuyết giảng pháp. Xá-lợi-phất, như vậy đều là vì để giúp chúng sinh đạt một Phật thừa, được Nhất thiết chủng trí.

Xá-lợi-phất! Trong khắp thế giới mười phương vốn không có hai thừa, huống gì lại có ba? Xá-lợi-phất, chư Phật thị hiện ở đời xấu ác có năm sự uế trược, đó là kiếp trược, phiền não trược, chúng sinh trược, kiến trược, mạng trược. Như vậy, này Xá-lợi-phất, vào thời kiếp trược hỗn loạn, chúng sinh cấu nhiễm nặng nề, nhiều tham lam, ganh ghét, tạo thành các gốc rễ bất thiện, nên chư Phật dùng sức phương tiện, đối với một Phật thừa mà phân biệt thuyết dạy thành ba thừa.”

Phần này giảng rộng về [nghĩa quyền thật của] đức Phật Thích-ca. Trong sáu ý nghĩa[1] [thì phần này] không có nghĩa “xưng tán chánh pháp là ít có”.

Trước tiên trừ bỏ quyền thừa, thứ hai là hiển bày chân thật, thứ ba là nêu lên 5 sự uế trược để giải thích nghĩa phương tiện, thứ tư là chọn trừ hư ngụy, củng cố niềm tin vào lẽ chân thật duy nhất, thứ năm là [xác định lời Phật] không hư dối.[2]

[Kinh văn nói] “Ta nay cũng lại như vậy”, “ta” ở đây là đức Phật Thích-ca. Hiện tại trước nêu ba thừa, sau nói chỉ có một, cũng giống như trên, bốn lượt đã nêu về chư Phật chẳng khác, cho nên nói là “cũng lại như vậy”.

[Kinh nói] “biết rõ chúng sinh có đủ mọi ham muốn”, tức là nói căn, tánh và dục vọng của chúng sinh trong 5 thừa.[3] [Tập khí từ] quá khứ gọi là [dục] căn, [phát khởi trong] hiện tại gọi là dục vọng ham muốn, [tiềm tàng cho đến] tương lai gọi là [dục] tánh. [Sự ham muốn] bám chấp từ sâu thẳm trong tâm nên gọi là [dục] căn.

[Kinh nói] “phương tiện” có nghĩa là tùy chỗ thích hợp mà quyền biến mở bày ba thừa. Kinh nói “như vậy đều là vì để giúp chúng sinh đạt một Phật thừa, được Nhất thiết chủng trí”, tức là hiển bày lẽ chân thật.

Phật thừa là nghĩa “giáo nhất”, nhất thiết [chủng trí] là “hành nhất”, đối tượng rõ biết của chủng trí là “lý nhất”.

Từ câu “trong khắp thế giới mười phương vốn không có hai thừa, huống gì lại có ba” [trở đi] là ý thứ ba, nêu lên năm sự uế trược để giải thích việc trừ bỏ quyền thừa [đã nêu trên]. Vì sắp nêu ra sự uế trược nên trước tiên làm rõ chủ ý [trừ bỏ quyền thừa].

Phần trên đã nói việc chư Phật trừ bỏ quyền thừa, hiển bày [thừa] chân thật, nhưng chưa nêu rõ việc [trước đó tạm] ẩn chân thật, thi hành quyền biến. Pháp [chân thật] ấy thanh tịnh vắng lặng, thuần nhất như hư không, vốn đã không có 2 hoặc 3 [thừa] quyền biến kèm theo, huống chi lại có 3 hay 5 thừa quyền biến riêng biệt? Chỉ vì có 5 sự uế trược che chướng nặng nề nên pháp chân thật ấy không thể nêu cao, phải mở bày 5 hoặc 3 thừa quyền biến riêng biệt, lại cũng mở bày 2 hay 3 thừa quyền biến kèm theo.[4] Cho nên nói rằng từ nơi chỉ một Phật thừa mà phân biệt nói thành ba [thừa]. Trong chỗ phân biệt nói ra đó, hoặc nói ba thừa kèm theo Nhị thừa, tam thừa, hoặc nói ba thừa chia riêng ngũ thừa, tam thừa.

PHẦN THỨ BA

Nói về 5 sự uế trược, phần này có 4 ý khác biệt. Thứ nhất là nêu số lượng, thứ hai là kể tên, thứ ba là nêu tự thể và hình tướng, thứ tư là giải thích và kết lại.

Phần nêu số lượng và kể tên [5 sự uế trược] thì [ý nghĩa đã rõ ràng] như trong kinh văn. [Kinh văn nói] “như vậy” là [sẽ lần lượt] nêu bản chất, hình tướng [của 5 sự uế trược như vậy].

Kiếp trược không có tự thể riêng biệt. Kiếp (kalpa) là [đơn vị] chỉ thời gian rất dài, sát-na là [đơn vị] chỉ thời gian rất ngắn. Dựa vào 4 sự uế trược kia nên lập ra tên gọi giả tạm này. Kinh văn nói “vào thời kiếp trược hỗn loạn”, tức là ý nghĩa này.

Chúng sinh trược cũng không có tự thể riêng biệt. Dựa trên quả báo [uế trược] của hết thảy tà kiến và kiêu mạn mà lập ra tên gọi giả tạm này. Kinh văn nói “chúng sinh cấu nhiễm nặng nề”, tức là ý nghĩa này.

Phiền não trược chỉ cho 5 độn sử,[5] lấy đó làm tự thể. Kiến trược chỉ cho 5 lợi sử,[6] lấy đó làm tự thể. Mạng trược chỉ cho [trạng thái chúng sanh] liên tục duy trì hình sắc [thân thể] và tâm thức không đứt đoạn, lấy đó làm tự thể. Đại lược là như vậy.

Về hình tướng, [kinh văn nói về] thời điểm 4 sự uế trược tăng lên quá nhiều và kết tụ lại. Sân hận tăng lên quá nhiều thì nạn đao binh sinh khởi, tham dục tăng lên quá nhiều thì nạn đói kém sinh khởi, ngu si tăng lên quá nhiều thì nạn dịch bệnh sinh khởi. Ba nạn [như trên] sinh khởi thì phiền não càng tăng lên gấp bội, những kiến chấp sai lầm càng phát triển cực kỳ mạnh mẽ. Hình sắc và tâm thức [chúng sinh trở nên] thô kệch xấu ác nên gọi là uế trược. Tuổi thọ [chúng sanh] giảm đi, những sự uế trược càng tụ lại nhiều, như nước chảy xiết tối tăm mù mịt, sóng gió cuồn cuộn dâng trào, các loài cá, rồng trôi giạt không chút yên ổn, do thời [kiếp tận] hóa thành như thế. Như vào thời kiếp sơ, [chư thiên] cõi trời Quang Âm rơi xuống cõi đất [ở thế giới này], đất liền hóa thành có dục. Như [chư thiên] cõi trời Đao Lợi khi vào vườn thô nhám, [ở trong] vườn ấy liền sinh tâm [muốn] đấu tranh.[7] Như trên là tướng của kiếp trược.

Về phiền não trược, tham dục như biển lớn, dù [bao nhiêu dòng] chảy vào cũng chưa bao giờ đầy; sân hận như rắn độc nhiễu hại người trong khắp thế gian; ngu si u ám tối tăm đen kịt còn hơn nhựa sơn, hơn màu mực; kiêu mạn cao ngạo nhìn [người khác đều] thấp hèn kém cỏi, lấn lướt khinh thường vô chừng vô độ; lưới nghi không có lòng tin, không thể nghe ai tỏ bày sự thật. Đó là tướng của phiền não trược.

Về kiến trược, [nhận thức sai lầm], vốn không thật có [tự ngã] con người mà cho là có, vốn có đạo [chân thật] mà cho là không, cho đến 16 loại tri kiến, 62 kiến chấp [sai lầm], [hết thảy] như lưới giăng, như rừng rậm, trói buộc chằng chịt không thể ra khỏi. Đó là tướng của kiến trược.

Về chúng sinh trược, bám chấp ôm giữ hình sắc với tâm thức này mà lập nên một chủ tể [tự ngã], như keo như nhựa, không một vật gì không dính mắc bám víu, luân chuyển lưu lạc trong 6 đường, thọ sinh khắp chốn, khi nghèo khi giàu, lúc sống lâu, lúc chết yểu... Đó là tướng của chúng sinh trược.

Về mạng trược, [mạng sống chúng sinh mong manh,] sáng sinh ra, tối chết đi, ngày vừa hiện, đêm đã mất, như con sóng chuyển, như cụm khói xoay, chẳng hề dừng trụ dù trong chớp mắt. Đó là tướng của mạng trược.

Tướng của uế trược rất nhiều, không thể nói hết. Nếu theo thứ tự [sinh khởi trước sau] thì phiền não trược và kiến trược là căn bản. Từ nơi 2 sự uế trược này mà chúng sinh hình thành [nên có chúng sinh trược]. Từ chúng sinh [đã hình thành mới] có sự liên tục duy trì mạng sống [mà thành mạng trược]. Bốn sự uế trược này trải qua thời gian gọi là kiếp trược. Lược nói đơn giản là như thế.

Hỏi: Nếu như 5 sự uế trược [ở cõi này] che chướng nặng nề thì tại sao trong hội Hoa nghiêm có những người chưa trừ bỏ uế trược mà vẫn nghe pháp được là thế nào?

Đáp: Ở đây cần phân biệt có 4 trường hợp. Thứ nhất là hàng căn cơ Đại thừa nhanh nhạy nhưng [uế trược] che chướng nặng nề. Vì căn cơ nhanh nhạy nên dù chướng nặng cũng không thể chướng. Đó là những người ở cõi này này trong hội Hoa nghiêm lần đầu tiên được nghe giáo pháp Đại thừa.

Trường hợp thứ hai là căn cơ nhanh nhạy, che chướng nhẹ. Trường hợp thứ ba là căn cơ chậm lụt, che chướng nhẹ. Đó là những người từ các cõi Tịnh độ phương khác [đến đây] nghe giáo pháp Đại thừa.

Trường hợp thứ tư là căn cơ trì độn và [uế trược] che chướng nặng nề. Đó là như nhóm các vị Xá-lợi-phất... [sau khi] dứt trừ uế trược rồi mới nghe được giáo pháp Đại thừa.

Hỏi: Năm sự uế trược này có che chướng [giáo pháp] Tiểu thừa chăng?

Đáp: Điều này cũng áp dụng với Tiểu thừa, nên phân biệt bốn trường hợp. Thứ nhất là căn cơ Tiểu thừa nhanh nhạy, [uế trược] chướng nhẹ nên không thể che chướng, như trường hợp ngài Xá-lợi-phất. Thứ hai là căn cơ nhanh nhạy, [uế trược] chướng nặng cũng không thể che chướng, như trường hợp của Ương-quật-ma-la. Thứ ba là căn cơ trì độn, [uế trược] che chướng nhẹ, [việc nghe pháp] cũng không bị chướng, như trường hợp của ngài Bàn-đặc. Thứ tư là căn cơ trì độn lại thêm [uế trược] che chướng nặng nề, không thể nghe giáo pháp Tiểu thừa, là trường hợp của những người không được hóa độ.

Hỏi: Có những người không ở hội Hoa nghiêm, chẳng ở nơi thuyết giáo pháp A-hàm[8] mà vẫn được nghe giáo pháp Đại thừa và Tiểu thừa, như vậy là thế nào?

Đáp: Việc này cũng phải [nói] từ trong giáo pháp của bốn giáo [Tạng, Thông, Biệt, Viên], mỗi giáo đều phân biệt có bốn cửa vào đạo.[9] Đối với người căn cơ nhanh nhạy, [uế trược] che chướng nhẹ, khi nghe [giảng rằng hết thảy các pháp] “chẳng phải không, chẳng phải có” liền vào được đạo. Đối với người căn cơ nhanh nhạy, che chướng nặng thì khi nghe [giảng rằng hết thảy các pháp] “cũng là không, cũng là có” liền vào được đạo. Đối với người căn cơ trì độn, che chướng nhẹ thì khi nghe [giảng rằng hết thảy các pháp] đều là không liền vào được đạo. Đối với người căn cơ trì độn, che chướng nặng thì khi nghe [giảng rằng hết thảy các pháp] đều có liền vào được đạo.

Bốn cửa vào đạo của hai giáo [Tạng, Thông] dựa theo Tiểu thừa để phân biệt, bốn cửa vào đạo của hai giáo [Biệt, Viên] dựa theo Đại thừa để phân biệt. [Cứ theo đó] suy xét thật kỹ thì có thể hiểu rõ được. Đại lược là như vậy.

Hỏi: Cũng là năm uế trược ấy, vì sao che chướng Đại thừa mà không che chướng Tiểu thừa?[10]

Đáp: Chúng sinh uế trược nặng nề, sai lầm chấp kể năm ấm [trong thân này] là thường còn, là vui thú, là có tự ngã, là thanh tịnh (thường, lạc, ngã, tịnh),[11] nếu nghe [giáo pháp Đại thừa] thường, [lạc,] ngã, [tịnh] liền lập tức bám chấp cho rằng chỗ sai [của mình] là đúng. Như [trong kinh Đại Bát Niết-bàn nêu ví dụ][12] người thầy thuốc cũ ngu si không biết chỗ tốt, xấu của sữa, không biết nguyên nhân, nguồn gốc sinh khởi bệnh, không biết lúc nên dùng, lúc không nên dùng.[13] Vì không có sự hiểu biết rõ ràng cho nên [5 sự uế] trược che chướng Đại thừa. Kinh văn nói rằng “Nếu Ta xưng tán Phật thừa thì chúng sinh phải chìm đắm trong khổ não”, chính là ý nghĩa này.

[Những chúng sinh si mê như vậy,] nếu nghe [thuyết giảng về] vô thường, khổ, không, [vô ngã] liền [sinh tâm] chán bỏ sinh tử, vui thích Niết-bàn. [Do giáo pháp Tiểu thừa] phá trừ được sự bám chấp tà vạy sai lầm [của chúng sanh] nên 5 sự uế trược không che chướng [giáo pháp] Tiểu thừa. Kinh văn nói “Lúc ta vừa nghĩ như thế thì mười phương chư Phật đều thị hiện Phạm âm để an ủi khích lệ ta”,[14] chính là ý nghĩa này.

Nếu dựa theo 5 sự uế trược để luận về tứ tất đàn thì kiếp [trược và] mạng [trược] tương ứng với thế giới [tất đàn]; chúng sinh [trược và] kiến [trược] tương ứng với vị nhân [tất đàn]; phiền não [trược] tương ứng với đối trị [tất đàn]. Dùng 3 loại tất đàn này để dứt trừ 5 sự uế trược [tương ứng], sau đó mới thuyết giảng Đại thừa đệ nhất nghĩa tất đàn.

Nếu luận về nhân quả thì [trong 5 sự uế trược] có 2 nhân, 3 quả.[15] [Luận về nhân pháp thì] một loại thuộc về nhân, bốn loại thuộc về pháp.[16]

[Luận về thời pháp thì] bốn loại thuộc về pháp, một loại thuộc về thời;[17] [Luận về tam chướng[18] thì có] hai [uế trược] thuộc về báo chướng,[19] hai [uế trược] thuộc phiền não chướng,[20] riêng nghiệp chướng nằm trong các chướng ấy.[21]

[Luận về tam giả[22] thì] chúng sinh trược là nhân thành giả, mạng trược là tương tục giả, [các uế trược còn lại là] tương đãi giả,[23] có thể suy ra biết được.

[Luận về tam giả quán[24] thì] chúng sinh trược là thọ giả, bốn uế trược còn lại là pháp giả, riêng danh giả bao trùm cả hai nhóm này.

[Luận về phàm thánh thì] phiền não trược và kiến trược chỉ có ở phàm phu, ba uế trược còn lại có đủ ở cả phàm lẫn thánh.

[Luận về lâu dài hay ngắn ngủi thì] mạng trược là ngắn ngủi, kiếp trược là lâu dài, ba uế trược còn lại có cả lâu dài và ngắn ngủi.

[Luận về đơn nhất hay kèm theo thì] kiếp trược thuần về thời gian, mạng trược luận thời gian phải kèm theo [ấm] pháp [của thân], [ba trược còn lại không thuộc thân, cũng không kèm theo, chỉ thuộc về pháp].[25]

[Luận về trong ngoài thì] kiếp trược bao quát trong ngoài, mạng trược chỉ ở trong [thân].

[Luận về kiếp trược thì] ba tiểu [tai kiếp] gây hại con người, không hại đến vật chất thế giới,[26] ba đại [tai kiếp] hủy hoại vật chất thế giới, không hại người.[27]

Tiểu tai kiếp chỉ ở nơi con người, đại tai kiếp bao trùm đến cả Sắc giới.

[Luận về năm đường ba cõi thì] mạng trược trùm khắp năm đường, ba cõi.[28]

[Luận về chung hay riêng thì] kiếp trược là uế trược chung, còn bốn loại uế trược còn lại, mỗi loại đều riêng.[29]

[Lại nữa,] tiểu kiếp là kiếp trược, đại kiếp thì có uế trược và không uế trược.

[Về tiểu kiếp và đại kiếp,] con người từ [tuổi thọ trung bình là 10 tuổi tăng dần đến] 80.000 [tuổi, lại giảm dần] đến 10 tuổi là một tiểu kiếp. [20 tiểu kiếp là một trung kiếp.] Qua 80 lần [trung kiếp] là một đại kiếp.[30]

● Hỏi: Đã giảng nói về năm sự uế trược, còn thế nào là năm sự thanh tịnh?

● Đáp: Điều này dựa theo chuẩn mực tà hay chánh, có ba độc [tham sân si hay không mà phân biệt]. Tà tức là năm uế trược, chánh tức là thanh tịnh.

Các cõi Tịnh độ phương khác không có tà, không có ba độc, tất nhiên sự che chương của năm uế trược không có, ý nghĩa này có thể rõ được. Đại lược là như thế.

PHẦN THỨ TƯ

KINH VĂN

“Xá-lợi-phất! Nếu các đệ tử của ta có người tự cho mình là A-la-hán, Phật Bích-chi mà không nghe không biết việc chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, những người ấy không phải đệ tử Phật, cũng không phải A-la-hán, không phải Phật Bích-chi.”

Từ câu “Nếu các đệ tử của ta có người tự cho là...” trở đi là phần thứ tư, giản trừ những điều hư ngụy và củng cố niềm tin vào pháp chân thật. [Kinh nói,] nếu là đệ tử Phật ắt tự mình có thể tin nhận, hiểu rõ. Nếu không tin nhận hiểu rõ thì không phải là đệ tử chân thật của Phật, cũng không phải là A-la-hán. [Đây là ý] thúc giục đại chúng khi ấy phải tin nhận, hiểu rõ.

Phần văn này chia làm 2 đoạn. Phần thứ nhất là chọn lọc phân biệt giữa chân thật với hư ngụy. Phần thứ hai là khai mở ngoại lệ và giải thích nghi ngờ.

[Phần thứ nhất] chọn lọc phân biệt lại chia 2 ý. Trước tiên nói rằng [những ai] không nghe không biết [pháp này] thì không phải đệ tử chân thật. Tiếp theo nói rằng nếu nghe mà không tin nhận thì thành hạng tăng thượng mạn.

Giống như [việc học] ở đời, đệ tử phải thuận theo tri thức của thầy để tiếp nối tông phái, truyền lại đời sau. Nếu [khi theo học mà] không nghe không biết thì chẳng có tri thức gì để có thể thuận theo, sao có thể gọi là đệ tử?

Đức Như Lai trước đây thuyết giảng về 5 sự uế trược, mở bày ba thừa, chúng đệ tử nghe theo [tu tập] nên đạt được Niết-bàn. Có nghe có biết [như vậy] nên gọi là đệ tử [Phật]. Ngày nay 5 sự uế trược đã dứt trừ, [Phật mới] vì đệ tử mà thuyết giảng Nhất thừa, vậy [đệ tử Phật lại] có ý gì mà không nghe, không biết?

Không nghe là ý nói không nghe [nghĩa] “giáo nhất”, không biết là ý nói không biết [nghĩa] “hành nhất”, không phải chân thật tức là không phải “lý nhất”, không phải đệ tử tức là không phải “nhân nhất”.

KINH VĂN

“Lại nữa, Xá-lợi-phất, những tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni ấy tự cho mình đã chứng quả A-la-hán, cho đó là thân sau cùng, đã được Niết-bàn rốt ráo, không có chí hướng cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nên biết rằng hạng người ấy đều là tăng thượng mạn. Vì sao vậy? Nếu có tỳ-kheo nào thật sự chứng quả A-la-hán mà không tin nhận pháp Nhất thừa thì thật vô lý, trừ phi sau Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật.”

Tiếp theo, từ câu “Lại nữa, Xá-lợi-phất...” trở đi, là ý thứ hai, nêu việc [những ai] không tin [vào pháp này] đều là hạng tăng thượng mạn. Đây là ý thúc giục [đại chúng] khiến cho tin tưởng. Vì sao những người này tự cho là đã được thân sau cùng? Vẫn còn đến vô số thân, thật chẳng phải thân sau cùng. Những người ấy tự cho là [đã đạt đến] cứu cánh rốt ráo, giống như [người đi đường trong thí dụ phần sau,] còn cách đến 200 do-tuần thì thật chưa phải đến đích. Chưa chứng đắc mà nói đã chứng đắc, chẳng phải là tăng thượng mạn đó sao? Bậc A-la-hán chân thật đã trừ uế trược, căn cơ nhanh nhạy, rõ biết [pháp mình đã chứng] chưa phải rốt ráo; tin pháp chân thật, biết rằng chưa phải thân sau cùng nên không khởi tâm cao ngạo khinh mạn.

Rõ biết chỗ chưa phải cứu cánh nên tin vào pháp cứu cánh. Đó là tin vào “lý nhất”; không phải tăng thượng mạn tức là “hành nhất”; tin nghĩa là tin vào giáo pháp, đó là “giáo nhất”; [đúng thật] là đệ tử Phật, tức là “nhân nhất”.

Từ câu “trừ phi sau Phật diệt độ...” trở đi là phần thứ hai, khai mở ngoại lệ và giải thích chỗ nghi ngờ.

Trước tiên là khai mở ngoại lệ, nghĩa là [trong trường hợp] sau khi Phật diệt độ [thì những người như trên] không thành tăng thượng mạn.

KINH VĂN

“Vì sao vậy? Sau khi Phật diệt độ thì người có thể thọ trì, tụng đọc, giảng giải những kinh như thế này rất khó gặp được. Nhưng nếu gặp Phật ở cõi khác thì ở trong giáo pháp này liền được thấu triệt rõ ràng.”

Tiếp theo từ câu “Vì sao vậy? Sau khi Phật diệt độ...” trở đi là giải thích việc [vào lúc ấy] hiếm có người tốt, kinh điển này thì sâu xa khó thấu hiểu, [nên dù không hiểu được] cũng không thành tăng thượng mạn. Nếu khi Phật còn tại thế, chính thức thuyết giảng kinh này mà không tin tưởng, không thọ nhận thì chẳng phải bậc A-la-hán chân thật, thành hạng tăng thượng mạn.

Nếu sau khi Phật diệt độ rồi mới chứng quả A-la-hán, dù thiên lệch bám chấp những kinh điển quyền thừa, không tin nhận giáo pháp viên mãn rốt ráo, [người như vậy vẫn được Phật] cho là không phải tăng thượng mạn.

Lại nữa, tuy Phật đã nhập diệt nhưng kinh điển này vẫn còn tồn tại, nếu không tin tưởng, không thọ nhận thì có phải là tăng thượng mạn chăng? [Trường hợp này vẫn] được cho là ngoại lệ. [Vì] sau khi Phật diệt độ rồi, tuy vẫn còn kinh điển này nhưng rất khó gặp người có khả năng giảng giải ý nghĩa kinh văn, do vậy nên tuy chứng quả A-la-hán vẫn không tin tưởng, không thấu hiểu [được ý nghĩa kinh điển này. Trường hợp này cũng] được cho là không phải tăng thượng mạn.

Tiếp theo là giải thích các mối nghi.

● [Hi:] Nếu như sau khi Phật diệt độ rồi, khó gặp được người giảng giải [ý nghĩa] kinh điển này, có phải những bậc chứng quả A-la-hán đều sẽ nhập Niết-bàn vĩnh viễn hay chăng?

● [Đáp:] Người như vậy tuy có khởi sinh ý tưởng diệt độ, nhưng sau khi xả bỏ thân này rồi liền sinh vào cõi nước khác nằm ngoài ba cõi,[31] được gặp Phật ở đó, được nghe kinh điển này, liền chứng ngộ thấu triệt.

● [Hỏi:] Trong [Đại Trí độ] luận thích, quyển 93, phẩm Tất định[32] nói rằng: “Thân đời trước [do nhân duyên mà có] của các vị A-la-hán ắt phải mất đi,[33] vậy thì [vị ấy] trụ nơi nào mà [tu học] được trọn đủ Phật đạo?”

● [Đáp:] “Các vị A-la-hán nhân duyên lậu hoặc trong ba cõi đã dứt hết, không còn tái sinh trong ba cõi. Vượt ngoài ba cõi có cõi Phật thanh tịnh, [thậm chí] không có danh xưng phiền não [huống gì là thật có]. [Vị A-la-hán sinh về] cõi Phật ấy, được nghe kinh Pháp hoa liền trọn đủ Phật đạo.”

[Sau đó luận này] dẫn kinh Pháp hoa rằng: “Có vị A-la-hán, nếu không được nghe kinh Pháp hoa, tự cho là mình đã được diệt độ, ta ở cõi nước bên ngoài ba cõi[34] sẽ vì vị ấy mà thuyết giảng việc này: Ông sẽ thành Phật.”

Luận đã dẫn kinh để chứng minh, nay giải thích kinh sẽ dẫn luận để giảng giải.

Ngài Nam Nhạc [Tuệ Tư] nói rằng: “Phật ở ngoài ba cõi, đó là nói bốn chỗ nương theo.”[35] Vị A-la-hán gặp [Phật] nghe kinh liền rõ biết thấu triệt. Lại nữa, vị A-la-hán tu pháp định niệm Phật [có thể] gặp chư Phật mười phương, [chư Phật] liền vì vị ấy thuyết giảng kinh này nên cũng được rõ biết thấu triệt. Lại nữa, kẻ phàm phu tu hành, chí thành sám hối[36] liền gặp được chư Phật mười phương, [chư Phật] liền vì vị ấy thuyết giảng [kinh này] nên cũng được rõ biết thấu triệt.

Ngài Pháp Dao nói: Nếu thật A-la-hán ắt phải tự rõ biết [giáo nghĩa] Pháp hoa, chí nguyện cầu Đại thừa. Người căn cơ nhanh nhạy ắt tự rõ biết. Những người căn cơ trung bình và thuộc bậc thấp thì phải được nghe [thuyết giảng] mới rõ biết, cho nên gọi là “nghe biết”, làm sao lại có người sau khi Phật diệt độ không nghe kinh Pháp hoa, hoặc nghe mà không tin, đến khi gặp Phật ở ngoài ba cõi mới nhận hiểu rõ? Kẻ phàm phu ở đời mạt pháp mà còn có thể tin nhận, huống chi là bậc thánh [A-la-hán]? [Cho nên], câu “trừ phi sau Phật diệt độ...” là chỉ những kẻ phàm phu [đời sau].

Có người nói: Phàm phu chưa chứng pháp tướng, chỗ thấy không sáng tỏ, tâm bám chấp không kiên cố, cho nên dễ tin. Vị A-la-hán đã chứng pháp tướng, chỗ thấy sáng tỏ rõ ràng, tâm bám chấp kiên cố, bỗng dưng nghe thuyết giảng pháp khác [với chỗ mình đã biết] nên chưa thể tin nhận ngay. Do đó nói [A-la-hán] không tin cũng là nghĩa tất nhiên. Cho nên ngài Xá-lợi-phất [thoạt nghe pháp Nhất thừa liền] nghĩ: “Chẳng phải là ma giả làm Phật để não loạn tâm ta đây sao?” Nếu theo nghĩa này thì [kinh văn thật] chỉ đến A-la-hán, không phải chỉ phàm phu. Đại lược là như vậy. Cách giải thích như vậy hoàn toàn khác biệt, nay không dùng nghĩa này.

PHẦN THỨ NĂM

KINH VĂN

Xá-lợi-phất! Các ông nên hết lòng tin hiểu, thọ trì lời Phật dạy. Lời của chư Phật Như Lai không hư dối, thật không có thừa nào khác, chỉ duy nhất một Phật thừa.

Từ câu “Xá Lợi Phất! Các ông nên hết lòng...” trở đi là phần thứ năm, nêu rõ [lời Phật dạy] không hề hư dối, ngăn dứt việc khởi tâm hủy báng. Phần này chia làm 3 ý. Thứ nhất, khuyến khích [đại chúng] tin vào sự thuyết giảng chân thật của đức Phật Thích-ca, cho nên nói rằng: “Các ông nên hết lòng tin hiểu, thọ trì lời Phật dạy.” Thứ hai là khuyến khích [đại chúng] tin tưởng vào chư Phật, cho nên nói: “Lời của chư Phật Như Lai không hư dối.” Đạo của chư Phật thảy đều tương đồng như nhau, [điều này khiến cho đại chúng] càng tăng thêm sự tin tưởng thọ nhận. Sau cùng là kết lại thành nghĩa không hư dối, cho nên nói rằng: “Không có thừa nào khác, chỉ duy nhất một Phật thừa.”

B. Kệ tụng

Tổng phần kệ tụng này gồm 121 khổ kệ, chia làm 2 phần. Phần đầu tiên có 4 khổ kệ và 1 câu, tụng lại ý nghĩa [đức Phật] hứa khả sẽ giải đáp [đã nói trong phần văn trường hàng] bên trên. Phần sau có 116 khổ kệ và 3 câu, tụng lại nội dung [đức Phật] chính thức giải đáp trong phần trên.

KINH VĂN

Bấy giờ, Thế Tôn muốn nhắc lại ý nghĩa trên liền nói kệ rằng:

Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Ôm lòng tăng thượng mạn,
Ưu-bà-tắc ngã mạn,
Ưu-bà-di bất tín.
Bốn chúng thuộc hạng này,
Số nhiều đến năm ngàn,
Không tự thấy lỗi mình,
Giới luật có thiếu sót,
Ôm tiếc lỗi của mình.
Do oai đức của Phật,
Nên những người kém cỏi,
Hạng trí nhỏ rời đi,
Vì phước đức mỏng manh,
Không đủ sức tiếp nhận.
Hội chúng sạch cành lá,
Chỉ còn quả hạt chắc,
Xá-lợi-phất, lắng nghe.

Phần hứa khả việc giải đáp [trong văn trường hàng] bên trên có 3 ý: một là [Phật hứa] chấp thuận [thuyết giảng], hai là răn dạy [thính chúng], ba là chọn lọc [thính chúng]. Nay trong phần kệ tụng không tụng lại ý chấp thuận [của Phật], chỉ tụng lại [hai ý ] chọn lọc và răn dạy.

Ý nghĩa chọn lọc thính chúng [được tụng trước,] lại chia làm 2. Trước tiên là 3 khổ rưỡi kệ (14 câu), tụng lại việc 5.000 người lui ra [khỏi Pháp hội]. Tiếp theo là 2 câu, tụng lại ý nghĩa đại chúng đã thanh tịnh và 1 câu tụng ý nghĩa răn dạy phải lắng nghe.

Những hạng người tăng thượng mạn, ngã mạn và bất tín[37] thì trong bốn chúng đều có. Nhưng riêng trong hai chúng xuất gia [là tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni] thì có nhiều người tu tập chứng đắc thiền định lại sai lầm cho rằng mình chứng đắc thánh quả, thành tăng thượng mạn; ở trong thế tục thì cao ngạo, thường khởi tâm ngã mạn. Nữ giới thì trí tuệ cạn cợt, thường khởi sinh nhiều sự sai lệch hẹp hòi.

[Kệ tụng nói] “không tự thấy lỗi mình”, đó là nói do 3 lỗi trên che lấp tự tâm [nên thường] che giấu lỗi lầm, phô trương nết tốt,[38] không thể tự phản tỉnh. Người như vậy là không có đức hổ thẹn.[39] Nếu tự thấy được lỗi mình thì đó là vị tăng biết xấu hổ.

[Kệ tụng nói] “giới luật có thiếu sót”. Trong việc nghiêm trì luật nghi có mắc lỗi, đó gọi là thiếu; trong tu đạo tập định đều mắc lỗi, đó gọi là sót. Do “sót đạo thiếu định” nên bên trong thường khởi lên ý niệm xấu, như viên ngọc quý ẩn chứa tỳ vết. Do chẳng có luật nghi nên bên ngoài [biểu lộ thành] hành vi, lời nói loạn động, như viên ngọc quý lộ ra tỳ vết.

[Kệ tụng nói] “quý tiếc lỗi của mình”. Che giấu tội lỗi không ray rứt nên gọi là quý tiếc [tội lỗi].

[Lại nói] “hạng trí nhỏ rời đi”. Hạng trí nhỏ là nói kẻ không đạt được cả trí hữu học và trí vô học [trong Phật pháp], chỉ có trí nhỏ hẹp của thế gian, nên sai lầm cho các pháp hữu lậu là vô lậu. [Thế gian nhỏ hẹp, mà những kẻ che giấu tội lỗi như thế này còn] nhỏ hẹp hơn trong thế gian, cho nên nói là trí nhỏ hẹp.

[Kệ tụng nói] “những người thấp hèn kém cỏi trong chúng hội”. Vì không có sự trau giồi của thiền định vô lậu nên kém cỏi, thấp hèn. Vì không có trí tuệ như lý nên vô dụng, như vỏ trấu. Đây là nói 5.000 người rời khỏi Pháp hội đó chỉ tu tập thiền định thế gian, nên thấp hèn, kém cỏi, chỉ nhận hiểu giáo pháp qua văn tự nên vô dụng, như vỏ trấu. Rườm rà văn tự mà bỏ mất đi nghĩa lý chân thật, giống như vỏ trấu không có hạt gạo bên trong. Lại nữa, thấp hèn kém cỏi là nói kẻ không có căn cơ Đại thừa. Cành, lá là ví cho việc những kẻ ấy không phải hạng pháp khí, không có chỗ dùng [trong Đại thừa] cho nên loại bỏ ra.

[Kệ tụng nói] “Xá-lợi-phất, lắng nghe”, tức là tụng lại ý nghĩa hứa khả giảng thuyết bên trên và răn dạy [thính chúng] lắng nghe.

Cấu trúc phân chia phần kệ giải đáp

Từ câu “Pháp chư Phật chứng đắc...” trở đi có 116 khổ kệ và 3 câu, tụng lại [nội dung] giải đáp chính [trong văn trường hàng] ở trước.

Nội dung này lại được chia làm hai tổng phần. Tổng phần thứ nhất từ câu “pháp chư Phật chứng đắc” trở đi, có 73 khổ kệ và 1 câu, tụng lại [ý nghĩa] bốn lượt nói về chư Phật ở trước. Tổng phần thứ hai từ câu “Nay ta cũng như vậy” trở đi, có 43 khổ rưỡi kệ, tụng lại [ý nghĩa] nói về đức Phật Thích-ca ở trước.

Tổng phần thứ nhất [gồm bốn lượt nói về chư Phật] lại chia làm bốn phần. Thứ nhất, từ câu “Pháp chư Phật chứng đắc” trở đi, gồm 34 khổ kệ và 3 câu, tụng lại [ý nghĩa] phần nói về chư Phật ở trên. Thứ hai, từ câu “Vô số kiếp quá khứ” trở đi, gồm 27 khổ rưỡi kệ, tụng lại [ý nghĩa] nói về chư Phật quá khứ. Thứ ba, từ câu “Các vị Phật tương lai” trở đi, gồm 6 khổ rưỡi kệ, tụng lại [ý nghĩa] về chư Phật vị lai. Thứ tư, từ “Hàng trời người cúng dường” trở đi, gồm 4 khổ rưỡi kệ, tụng lại [ý nghĩa] về chư Phật trong hiện tại.

Phần thứ nhất, tụng lại [ý nghĩa] về chư Phật, so với văn trường hàng có ba điểm khác biệt. Thứ nhất là bên có bên không bổ sung cho nhau, thứ hai là thứ tự trước sau khác biệt, thứ ba là khai kết và phân hợp khác nhau.

[Điểm khác biệt thứ nhất], phần văn trường hàng [trong 6 nghĩa] thì có nghĩa “xưng tán chánh pháp là hy hữu” nhưng không có nghĩa nói về 5 sự uế trược. Phần kệ tụng lại có nói về 5 sự uế trược nhưng không có nghĩa xưng tán chánh pháp.

[Điểm khác biệt thứ hai], trong văn trường hàng trước tiên xưng tán chánh pháp, sau nêu việc [lời Phật dạy] không hư dối, trừ bỏ pháp quyền, hiển bày pháp thật. Nay phần kệ tụng thì trước tiên nêu việc trừ bỏ pháp quyền, hiển bày pháp thật, sau đó mới nêu việc [lời Phật dạy] không hư dối.

[Điểm khác biệt thứ ba], phần văn trường hàng kết hợp trình bày chung hai ý khuyến khích tin nhận và [khẳng định lời Phật dạy] không hư dối. Nay trong phần kệ tụng thì phân chia tách biệt ý nghĩa khuyến khích tin nhận với ý nghĩa [lời Phật dạy] không hư dối.

Nay theo ý riêng tôi cho rằng trong văn trường hàng nêu pháp phương tiện của đức Phật Thích-ca để giải thích thành pháp quyền thừa của chư Phật, trong phần kệ tụng lại nêu pháp chân thật của đức Phật Thích-ca để giải thích thành sự hiển bày chỉ có một Phật thừa của chư Phật.

Như vậy là có 4 điểm khác biệt.

Trong phần thứ nhất này lại chia làm 5 tổng đoạn.

- Tổng đoạn thứ nhất từ câu “Pháp chư Phật chứng đắc” trở đi, gồm 5 khổ kệ và 3 câu, tụng về [ý nghĩa] chư Phật thi hành pháp quyền.

- Tổng đoạn thứ hai từ câu “Ta bày phương tiện này” trở đi, có 13 khổ kệ, tụng về [ý nghĩa] chư Phật hiển bày pháp thật.

- Tổng đoạn thứ ba là từ câu “Nếu người tin theo Phật” trở đi, gồm 4 khổ rưỡi kệ, tụng về [ý nghĩa] chư Phật khuyến khích tin nhận.

- Tổng đoạn thứ tư từ câu “Nếu ta gặp chúng sanh” trở đi, có 9 khổ rưỡi kệ, tụng về [ý nghĩa] năm sự uế trược.

- Tổng đoạn thứ năm là từ câu “Ta có sức phương tiện” trở đi, có 2 khổ kệ, tụng lại [ý nghĩa lời Phật dạy] không hư dối đã nói trong văn trường hàng.

KINH VĂN

Pháp chư Phật chứng đắc,
Vô số lực, phương tiện,
Vì chúng sinh thuyết dạy,
Chúng sinh tâm khởi niệm,
Cùng đủ mọi việc làm,
Có bao nhiêu tham muốn,
Nghiệp đời trước thiện ác,
Phật đều rõ biết hết.

Dùng nhân duyên, thí dụ,
Sức phương tiện, ngôn từ,
Khiến cho đều hoan hỷ.
Hoặc thuyết giảng Khế kinh,
Hay Già-đà, Bản sự,
Bản sinh, Vị tằng hữu,
Lại thuyết kinh Nhân duyên,
Thí dụ cùng Kỳ-dạ,
Kinh Ưu-ba-đề-xá.
Kẻ ngu, ưa pháp nhỏ,
Bám chấp chốn sinh tử,
Gặp vô số chư Phật,
Vẫn không tu đạo mầu,
Nên bị khổ giày vò,
Vì họ, thuyết Niết-bàn.

Tổng đoạn thứ nhất nói về việc chư Phật mở bày pháp quyền. Tổng đoạn này chia thành hai đoạn. Trước là bốn khổ kệ với một câu, tụng về [ý nghĩa] chính thi hành pháp quyền. Kế đến là một khổ rưỡi kệ tụng ý nghĩa tóm kết về việc thi hành pháp quyền.

Đoạn thứ nhất, câu [đầu tiên] “pháp chư Phật chứng đắc” là nói việc tu tập đạo, chứng đắc các pháp quyền. Từ câu [tiếp theo] “vô số lực, phương tiện”[40] trở đi, tụng lại ý nghĩa “dùng vô số phương tiện, đủ loại nhân duyên để diễn nói thuyết các pháp” trong phần văn trường hàng. Từ câu “chúng sinh tâm khởi niệm”,[41] tụng lại ý nghĩa tùy nghi thuyết pháp trong văn trường hàng. Trong phần kệ tụng này nói rộng ra các hình tướng của sự tùy nghi, tức là chiếu theo căn cơ trong chín pháp giới mà thuyết giảng [thích hợp] cho bảy [thừa] phương tiện.[42] Chỉ nói tổng quát chín và bảy như vậy, không thể xác định cụ thể, cho nên nói là “có bao nhiêu”. Tùy sự thích hợp với chỗ tham muốn [của chúng sanh] mà vận dụng tương ứng thế giới tất đàn. Tùy theo sự thích hợp với [căn] tánh [của chúng sanh] mà vận dụng tương ứng vị nhân tất đàn. Tùy theo sự thích hợp với nghiệp ác [của chúng sanh] mà vận dụng tương ứng đối trị tất đàn.

[Trong tâm chúng sanh] khởi lên sự mong muốn khát khao gọi là “niệm”. Pháp môn [nhiều loại] khác nhau gọi là “đủ mọi”, [khuynh hướng] được huân tập từ trong quá khứ gọi là “tánh”, hiện tại được thỏa mãn vui thích gọi là “tham muốn”. Hoặc cũng có thể nói tập hợp các tham muốn mà thành tánh, thành tánh rồi lại sinh ra các tập hợp tham muốn. Đại lược là như vậy.

[Kệ tụng nói] “Nghiệp đời trước thiện ác” là nói [chúng sinh trong] bảy [thừa] phương tiện mãi mãi tiếp nối làm các việc thiện ác. Đại lược là như vậy.

Phật dùng trí quyền biến soi chiếu [rõ biết] “căn tánh”, “tham muốn” [của chúng sanh] trong các [thừa] phương tiện, sau đó mới dùng những thí dụ nhân duyên, tùy chỗ thích hợp [với từng chúng sanh] mà thuyết giảng 9 bộ kinh,1 [hoặc là] 12 bộ nếu nói theo Pháp hoa huyền nghĩa.

Đoạn thứ hai từ câu “Kẻ ngu ưa pháp nhỏ” [là nói kẻ căn cơ trì độn ưa thích pháp Tiểu thừa], gồm một khổ rưỡi kệ, tóm kết lại ý nghĩa của việc thi hành pháp quyền biến. [Những người] kiếp trước căn trì độn, kiếp này không có cơ duyên, [dù gặp vô số Phật cũng] không đủ sức nghe giáo pháp Đại thừa, cho nên nói rằng “vẫn không tu đạo mầu”. Kiếp trước tham chấp, che chướng nặng nề, kiếp này chịu nhiều khổ não vây bức, chỉ có thể nghe được pháp Tiểu thừa, cho nên nói rằng: “Vì những chúng sinh này mà thuyết giảng Niết-bàn của Tiểu thừa.”

KINH VĂN

Ta bày phương tiện này,
Giúp nhập trí tuệ Phật,
Chưa từng nói các ông,
Rồi sẽ thành Phật đạo.
Sở dĩ chưa từng nói,
Vì thời chưa thích hợp,
Nay chính lúc hợp thời,
Quyết định thuyết Đại thừa.
Chín bộ kinh đã thuyết,
Là tùy thuận chúng sinh,
Nhập Đại thừa là gốc,
Cho nên thuyết kinh này.

Tổng đoạn thứ hai từ câu “Ta bày phương tiện này” trở đi gồm 13 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa chư Phật hiển bày lẽ thật. Tổng đoạn này chia ra làm bốn đoạn.

Đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng ý nghĩa “lý nhất”. “Giúp nhập trí tuệ Phật” là tụng lại ý nghĩa “một đại sự nhân duyên” trong phần văn trường hàng bên trên. “Quyết định thuyết Đại thừa” là tụng tổng quát về ý nghĩa “khai thị ngộ nhập” (khai mở, chỉ bày, tỏ ngộ, thể nhập) tri kiến Phật. “Nhập Đại thừa là gốc” là tụng lại ý nghĩa “nhập Phật tri kiến” (thể nhập tri kiến Phật) trong phần văn trường hàng.

KINH VĂN

Có Phật tử tâm tịnh,
Nhu hòa lại sáng suốt,
Nơi vô số chư Phật,
Đã tu sâu đạo mầu.
Vì những Phật tử ấy,
Thuyết kinh Đại thừa này,
Thụ ký những người ấy,
Tương lai thành quả Phật.
Người tâm thành niệm Phật,
Giữ giới hạnh thanh tịnh,
Vừa nghe được thành Phật,
Hoan hỷ khắp toàn thân.
Phật rõ biết tâm hạnh,
Vì họ thuyết Đại thừa.
Thanh văn hay Bồ Tát,
Nghe ta thuyết kinh này,
Dù chỉ một bài kệ,
Chắc chắn đều thành Phật.

Đoạn thứ hai bắt đầu từ câu “có Phật tử tâm tịnh” trở đi, gồm 4 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa “chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa toàn là Bồ Tát”, để làm sáng tỏ ý nghĩa “nhân nhất”. Văn trường hàng trên đã trực tiếp nói về nghĩa “giáo hóa toàn là Bồ Tát”, trong phần kệ tụng này lại nói rộng ra, những người [trong pháp] phương tiện [cuối cùng] tất cả đều thành người [trong pháp] chân thật.

“Có Phật tử tâm tịnh” tức là nói những người [phương tiện] thuộc Biệt giáo. [Kinh văn nói] “vì những Phật tử ấy, thuyết kinh Đại thừa này”, các vị được thụ ký nên tâm vui mừng hoan hỷ, tức là trở thành người chân thật thuộc Viên giáo. [Kinh văn nói] “Thanh văn hay Bồ Tát”, Thanh văn ở đây là bao gồm luôn cả Duyên giác. Nếu Bồ Tát gồm đủ sáu pháp ba-la-mật, cùng với các vị Bồ Tát Thông giáo đều chắc chắn sẽ thành Phật, không có gì để nghi ngờ. Có nghĩa là trong bảy thừa phương tiện,[43] tất cả đều là con Phật, [đều sẽ thành Phật]. Đây tức là tụng về ý nghĩa “nhân nhất”.

KINH VĂN

Cõi Phật trong mười phương,
Chỉ có pháp Nhất thừa,
Không hai cũng không ba,
Trừ Phật phương tiện thuyết,
Chỉ là tên giả tạm,
Để dẫn dắt chúng sinh,
Thuyết dạy trí tuệ Phật.
Chư Phật hiện ở đời,
Chỉ có một sự thật,
Ngoài ra đều không thật.
Rốt không dùng Tiểu thừa,
Để cứu độ chúng sinh.
Phật trụ nơi Đại thừa,
Dùng pháp đã chứng đắc,
Định, tuệ, lực trang nghiêm,
Để cứu độ chúng sinh.
Phật chứng đạo Vô thượng,
Pháp bình đẳng Đại thừa,
Nếu dùng pháp Tiểu thừa,
Dù giáo hóa một người,
Ắt tâm Phật tham tiếc,
Việc ấy không thể có.

Đoạn thứ ba từ câu “Cõi Phật trong mười phương” trở đi, gồm 1 khổ kệ và 3 câu, tụng lại ý nghĩa trong văn trường hàng nói về việc đức Như Lai chỉ dùng một Phật thừa để thuyết pháp cho chúng sinh, chẳng có thừa nào khác như Nhị thừa hoặc tam thừa. Nếu mười phương chư Phật đều chỉ thuyết cùng một pháp này, tức là ý nghĩa “giáo nhất”. [Kinh văn nói] “tên giả tạm”, “dẫn dắt chúng sanh”, tức là nói phương tiện để giáo hóa. Tên gọi giáo pháp ba thừa là giả tạm, hiển bày trí tuệ Phật chỉ có một thừa, kinh văn nói rất rõ ràng. Không có thừa nào khác, là nói không có [hàng Bồ Tát] Viên nhập Biệt[44] trong Biệt giáo. Không có hai thừa, là nói không có [hàng Bồ Tát] Bán và Mãn đối đãi nhau[45] trong Thông giáo. Không có ba thừa, là nói không có ba thừa trong Tạng giáo. Những sự phân chia hai thừa, ba thừa như vậy đều chỉ là tên gọi giả tạm, dùng để dẫn dắt chúng sinh, nay [nói rõ] chỉ có duy nhất một Phật thừa viên mãn rốt ráo.

Đoạn thứ tư từ câu “Chư Phật hiện ở đời, chỉ có một sự thật” trở đi là bắt đầu ý thứ tư, gồm 3 khổ kệ và 3 câu, tụng lại ý nghĩa “mọi việc làm của chư Phật đều chỉ vì một việc”1 trong phần văn trường hàng, tức là nói “hành nhất”, vì “việc làm” tức là hành. “Rốt không dùng Tiểu thừa, để cứu độ chúng sanh”, tức là tụng lại ý nghĩa “chỉ vì duy nhất một đại sự” trong văn trường hàng. “Phật trụ nơi Đại thừa, dùng pháp đã chứng đắc, định, tuệ, lực trang nghiêm, để cứu độ chúng sanh”, đây là tụng lại ý nghĩa “chỉ dùng tri kiến Phật để khai ngộ chúng sanh” trong văn trường hàng. Một khổ kệ sau cùng giải thích ý nghĩa không dùng Tiểu thừa để hóa độ chúng sinh.

KINH VĂN

Nếu người tin theo Phật,
Như Lai không dối gạt,
Không tham tiếc, ganh ghét,
Dứt các pháp xấu ác.
Nên trong khắp mười phương,
Riêng Phật không sợ hãi.
Phật thân tướng trang nghiêm,
Hào quang chiếu thế gian,
Vô số chúng tôn kính,
Vì chúng thuyết tướng thật.
Xá-lợi-phất nên biết,
Phật xưa đã thệ nguyện,
Độ hết thảy chúng sinh,
Được như Phật không khác.
Như thệ nguyện từ trước,
Nay thành tựu viên mãn,
Giáo hóa khắp chúng sinh,
Khiến đều vào Phật đạo.

Tổng đoạn thứ ba từ câu “Nếu người tin theo Phật” trở đi gồm 4 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa khuyến tín trong phần văn trường hàng bên trên. Văn trường hàng nói “các ông nên tin lời Phật dạy”, phần tụng lại ý nghĩa này chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất có 2 khổ kệ rưỡi nêu quả của việc khuyến tín. Đoạn thứ hai từ câu “Xá-lợi-phất...” trở đi gồm 2 khổ kệ nêu nhân khuyến tín.

Trong phân đoạn nêu quả khuyến tín này thì một khổ kệ rưỡi là nêu về nội tâm [của Phật]. “Nếu người tin theo Phật, Như Lai không dối gạt” là nêu rõ tâm Phật thanh tịnh. Vô minh, tham tiếc, các việc xấu ác đã dứt trừ, từ trong tâm thanh tịnh mà thuyết giảng nên lời nói đáng tin cậy.

Từ câu “Phật thân tướng trang nghiêm” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu rõ về hình sắc bên ngoài [của Phật, có] thân tướng rực rỡ huy hoàng, sáng tỏ đoan nghiêm.

[Như vậy,] trong nội tâm không có sự tối tăm mê hoặc, bên ngoài có hào quang sáng tỏ, nên miệng không nói ra lời hư dối, là chỗ tôn kính của đại chúng, nói pháp Đại thừa ắt có thể tin nhận thọ trì.

Đoạn thứ hai từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, Phật xưa đã thệ nguyện” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu nhân khuyến tín, chia làm 2 ý. Ý thứ nhất từ câu “Xá-lợi-phất nên biết...” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu thệ nguyện thuở xưa. Ý thứ hai từ câu “như thệ nguyện từ trước” trở đi gồm 1 khổ kệ, nói rõ việc thệ nguyện thành tựu viên mãn.

Nói “thệ nguyện thuở xưa” không chỉ là thệ nguyện [chứng đạo] Bồ-đề, mà còn là thệ nguyện [giáo hóa] hết thảy chúng sinh được thể nhập trí tuệ Phật. Nay ứng với thệ nguyện ấy nên [Phật] thuyết pháp [Đại thừa], do vậy cũng là điều đáng tin cậy.

Ngày nay [Phật] đã trọn thành quả vị Bồ-đề, chúng sinh cũng được thể nhập [trí tuệ Phật], đại chúng đều đã tự chứng biết trí tuệ Phật, cũng là chứng tỏ thệ nguyện của Phật [thuở xưa] không hề hư dối. Kết lại [ý nghĩa này] tức là nêu nhân khuyến tín.

Hỏi: Thệ nguyện thuở xưa [của Phật] là rộng khắp, nay chúng sinh vẫn còn rất nhiều người [chưa chứng quả], sao có thể nói là nguyện ấy đã [thành tựu] viên mãn?

Đáp: Chư Phật ba đời đều làm lợi ích cho muôn loài [chúng sanh], nay chỉ nêu rõ việc hiện tại [đại chúng được thụ ký] để luận về thệ nguyện viên mãn.[46]

KINH VĂN

Nếu ta gặp chúng sinh,
Đều dạy bằng Phật đạo,
Kẻ thác loạn ngu si,
Mê hoặc chẳng nghe lời.

Ta biết chúng sinh ấy,
Chưa từng tu gốc thiện,
Bám chấp nặng năm dục,
Si mê, ái luyến khổ.

Do nhân duyên các dục,
Đọa vào ba đường ác,
Luân hồi trong sáu nẻo,
Chịu đủ các khổ độc.

Thọ thân từ bào thai,
Đời đời thêm nghiệp khổ.
Người thiếu phước, đức mỏng,
Bị các khổ bức bách,
Vào sâu rừng tà kiến,
Chấp có hoặc chấp không,
Cùng các loại kiến chấp,
Đủ số sáu mươi hai.

Chấp sâu pháp hư dối,
Bám chặt không thể buông,
Ngã mạn, tự cao ngạo,
Dua nịnh, không chân thật,
Trong ngàn muôn ức kiếp,
Chẳng nghe danh xưng Phật,
Cũng chẳng nghe chánh pháp,
Người như vậy khó độ.

Cho nên, Xá-lợi-phất!
Ta bày ra phương tiện,
Thuyết dạy đường dứt khổ,
Bảo đó là Niết-bàn.

Tuy nói là Niết-bàn,
Nhưng chưa thật diệt độ,
Các pháp từ xưa nay,
Tướng thường tự tịch diệt.
Phật tử tu hành đạo,
Tương lai sẽ thành Phật.

Tổng đoạn thứ tư từ câu “Nếu ta gặp chúng sanh” trở đi có 9 khổ rưỡi kệ, nêu ra 5 sự uế ngũ trược. Phần văn trường hàng ở trên nói rõ 5 sự uế trược sau phần nói về đức Phật Thích-ca. Trong phần kệ tụng này thì nêu ra ở cuối phần nói chung về chư Phật. Trong phần nói về Phật Thích-ca cũng nhắc lại nữa. Đây là nói rõ việc tất cả chư Phật đều thị hiện ở đời có 5 sự uế trược, đều [thuyết dạy] trước là ba [thừa], sau [dẫn về] Nhất [thừa].

Tổng đoạn này được chia làm 4 đoạn. Đoạn thứ nhất có 1 khổ kệ, nói tổng quát về 5 sự uế trược che chướng [việc tu tập] Đại [thừa]. Đoạn thứ hai gồm 6 khổ kệ nêu riêng việc 5 sự uế trược che chướng [tu tập] Tam [thừa]. Đoạn thứ ba gồm 1 khổ kệ nêu ý nghĩa vì sự che chướng của 5 sự uế trược nên phương tiện thuyết dạy Tiểu thừa. Đoạn thứ tư gồm 1 khổ rưỡi kệ giảng rõ ý nghĩa vì Đại [thừa] mà [phương tiện] thuyết dạy Tiểu [thừa], dùng Tiểu thừa đối trị 5 sự uế trược nên thệ nguyện Đại thừa được khởi phát mạnh mẽ.

Đoạn thứ nhất, kệ nói “Nếu ta gặp chúng sanh”, trong kinh A-hàm quyển 12 nói rằng, vào thuở kiếp sơ [chư thiên] từ cõi trời Quang Âm sinh xuống thế gian này, chưa có tôn ti trật tự, không phân biệt nam nữ, số đông hỗn tạp cùng sinh sống ở đời nên gọi là chúng sinh, đó là dựa vào việc thuở ban sơ mà gọi tên. Nếu [theo ý nghĩa] do tập hợp 5 ấm mà có sự hiện hữu, giả tạm gọi tên là chúng sinh thì đó là dựa vào mỗi một lần thọ báo. Nếu [theo ý nghĩa luân hồi] thọ sinh ở khắp nơi nên gọi là chúng sinh thì đó là dựa vào việc nghiệp lực [xô đẩy] lưu chuyển trong 5 đường.

Kinh Chánh pháp niệm[47] nói có 10 loại chúng sinh, đó là nói [bao gồm trong các tính chất của cuộc sinh tử] dài, ngắn, vuông, tròn, tam giác, xanh, vàng, đỏ, trắng, tím.[48]

Thế nào gọi là chúng sinh sinh tử dài?

Nơi cảnh giới địa ngục thì thân chịu khổ không thể nghĩ bàn mà tâm vẫn nhớ nghĩ vô lượng vô số điều xấu ác. Trong cảnh giới súc sinh thì [các loài] luân phiên ăn nuốt thân xác của nhau, tâm niệm thì luân phiên bức bách gây khổ cho nhau. Trong cảnh giới [ngạ] quỷ thì thân thể như ngọn núi bị thiêu đốt, trong tâm cũng sùng sục như nước đang sôi, tà kiến nung đốt hừng hực thúc đẩy si mê hung ác. Trong cảnh giới làm người thì thân, miệng, ý thường làm những việc không mang lại lợi ích nên tự chuốc lấy khó nhọc khổ não; thân, miệng, ý thường nghĩ nhớ đến những việc không lợi ích nên tự thôi thúc trói buộc. Trong cảnh giới các cõi trời thì chìm đắm trong [sự khoái lạc với] 6 trần cảnh,[49] buông thả phóng túng trong sự vui chơi đùa cợt, không được nghe chánh pháp, ngăn lấp cội nguồn [tạo tác] phước đức. [Chúng sinh trong các cảnh giới như trên đều mê muội tiếp tục tạo nghiệp, tiếp tục lưu chuyển luân hồi nên] đó gọi là chúng sinh [phải chịu] sinh tử lâu dài.

Thế nào là chúng sinh sinh tử ngắn?

Trong cảnh giới địa ngục, [trong khi thân chịu khổ mà] tâm có thể giữ một niệm tịch tĩnh nhớ nghĩ đến giới luật. Trong cảnh giới súc sinh [các loài ăn nuốt thân xác lẫn nhau mà] có thể giữ một niệm an tĩnh nương theo Tam bảo. Trong cảnh giới ngạ quỷ [thân như ngọn núi bị thiêu đốt mà] có thể giữ một niệm tĩnh lặng làm cho các căn tĩnh lặng. Trong cảnh giới làm người thường tu sáu pháp ba-la-mật, hiếu dưỡng cha mẹ, kính tin Tam bảo, dùng việc thiện lành để làm cho tốt đẹp thân, miệng, ý. Trong cảnh giới các cõi trời thì buông bỏ những khoái lạc cõi trời, ưa thích giữ giới, ưa thích thiền định, [nhận sự] giáo hóa tụng đọc [kinh điển], giữ hạnh thanh tịnh, không nói nhiều. [Chúng sinh ở trong luân hồi mà có thể tu tập được như vậy] gọi là chỉ chịu sinh tử trong thời gian ngắn [vì sẽ được thoát ra].

Thế nào là chúng sinh sinh tử [theo hình] vuông?

Như [chúng sanh] ở cõi Uất-đan-việt, đối với tất cả muôn vật đều không xem là của mình, khi xả bỏ thân mạng liền được sinh lên cõi trời. Từ cõi trời ấy [sau khi xả thân] lại sinh lên cõi trời cao hơn. Chỉ theo một hướng đi lên cảnh giới tốt đẹp hơn. Đó gọi là sinh tử [theo hình] hình vuông [vì cảnh giới đã qua rồi thì không trở lại].

Sao gọi là chúng sinh sinh tử [theo hình] tròn?

Đó là nói [những chúng sanh] chỉ ở mãi trong ba đường bốn cõi, xoay vòng lưu chuyển như lửa quyện với khói, [tiếp nối không dứt].

Thế nào là chúng sinh sinh tử [theo hình] tam giác?

Đó là nói [nghiệp lực chúng sinh có ba khía cạnh,] nghiệp thiện, nghiệp bất thiện và nghiệp vô ký.

Thế nào gọi là chúng sinh sinh tử có màu xanh?

Đó là thường vào trong địa ngục tối tăm, thường hoảng hốt sợ hãi.

Thế nào là chúng sinh sinh tử có màu vàng?

Đó là nói ngạ quỷ đói khát gầy gò vàng héo.

Thế nào là chúng sinh sinh tử có màu đỏ?

Đó là nói các loài súc sinh luân phiên ăn thịt lẫn nhau máu chảy đỏ rực.

Thế nào là chúng sinh sinh tử có màu trắng?

Đó là nói nghiệp thiện đường lành trong cõi người, cõi trời. Như chư thiên vào lúc sắp chết, có chư thiên khác nói: Ông hãy sinh vào cõi người. Hoặc như con người vào lúc sắp chết, có bậc tri thức bảo: Ông hãy sinh lên cõi trời. Nên biết hai chỗ [sinh về] đó là sinh tử có màu trắng.

● [Hi:] Lại [cũng trong kinh Chánh pháp niệm] quyển thứ 5 nói rằng, tâm vẽ ra cảnh địa ngục màu đen, cảnh ngạ quỷ màu [xám như] chim câu, cảnh súc sinh màu vàng, cõi người màu đỏ, cõi trời màu trắng, như vậy là ý nghĩa gì?

Đáp: Phần trên là nói về quả báo của năm cảnh giới,[50] còn ở đây nói về sự tạo nghiệp trong năm cảnh giới, cho nên không giống nhau. Đại lược là như thế.

Những chúng sinh như vậy nếu được cùng với Phật gặp nhau, chúng sinh ấy dùng sự khổ não để tự làm khổ mình, chư Phật thì dùng lòng đại bi để cứu giúp muôn loài. Lòng bi [của Phật] đối lại với khổ não [của chúng sanh], cho nên nói là “gặp nhau”.

Lại nữa, chỗ như của Phật và chỗ như của chúng sinh chỉ là một chỗ như, không phải hai. Vì tánh tự nhiên[51] tương quan như vậy cho nên nói là “gặp nhau”.

Tâm đại bi thường thương xót lân mẫn chúng sinh, nếu dùng [các giáo pháp] nhân thừa (cõi người), thiên thừa (cõi trời) để giáo hóa chúng sinh thì sẽ rơi vào chỗ hôn ám mê hoặc, chỉ [giúp] thoát được những cảnh sinh tử màu xanh (địa ngục), màu vàng (ngạ quỷ), màu đỏ (súc sinh), hoặc hình vuông, tròn, tam giác v.v. đó không phải là “dạy bằng Phật đạo”.

Nếu [Phật] gặp chúng sinh lại dạy cho tu tập Tiểu thừa, ắt là Phật rơi vào chỗ tham tiếc [pháp]. Đây là việc không thể có, [vì pháp Tiểu thừa ấy] chỉ giúp thoát ra khỏi 25 cảnh giới hiện hữu.[52]

Nếu [Phật] gặp chúng sinh lại dạy cho theo Thông giáo, Biệt giáo, Phật liền rơi vào chỗ thiên lệch hẹp hòi, đánh mất tri kiến Phật.

Nay khiến cho hết thảy chúng sinh đều đạt được tướng thật và trí tuệ nhiệm mầu, thấu rõ được tất cả [các pháp] đều là Phật pháp, không có gì không phải chánh đạo. Đây chính là “dạy bằng Phật đạo” cho tất cả chúng sinh.

Nỗi khổ sinh tử được dứt trừ vĩnh viễn, Phật vẫn thường thuyết dạy như vậy, chỉ vì chúng sinh căn tánh trì độn, tội chướng nặng nề nên không thể được như lời nguyện [của Phật].

Vào thời quá khứ có một vị Phật hiệu là Trụ Vô Trụ, phát nguyện rằng tất cả chúng sinh trong cõi Phật của mình sẽ đồng thời thành Phật trong cùng một ngày, rồi ngay trong ngày [phát nguyện] ấy, Phật diệt độ.

Lại nữa, vào thuở trước Hiền kiếp này có vị Phật hiệu là Bình Đẳng, lại cũng phát nguyện rằng tất cả chúng sinh trong cõi Phật của mình cũng như trong khắp mười phương đều sẽ thành Phật trong cùng một ngày, rồi cũng ngay trong ngày [phát nguyện] đó, Phật diệt độ.

Ngày nay có Phật, lại cũng có chúng sinh, như vậy là vì sao ư? Phật dạy: “Thôi, thôi! Việc [chư Phật phát nguyện như] ta nói trước đây chỉ là nói [những chúng sinh được] thân người mà thôi.” Lẽ nào có việc phát nguyện làm cho [chúng sinh trong] 5 cảnh giới cùng thành Phật trong một ngày được sao? Phật đã dạy, không thể dùng thân không phải [pháp] khí để thành tựu đạo Vô thượng. [Cho nên] điều quan trọng trước tiên là phải giáo hóa [chúng sinh trong] ba đường [ác][53] làm cho được [sinh vào] cõi trời, cõi người, sau đó mới có thể [độ thoát tất cả chúng sanh] như nguyện được. Ba cảnh giới xấu ác chẳng phải đường lành, làm sao có thể thành Phật được? Cũng như người tìm cầu kho báu, không thể tìm cầu ở giữa hư không.

Đoạn thứ hai từ câu “Ta biết chúng sinh ấy” trở đi, gồm 6 khổ kệ, nói riêng về 5 sự uế trược, có thể chia ra 5 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, nói về chúng sinh trược. [Lời kệ nói “chưa từng tu gốc thiện”,] gốc thiện là nói chân như thật tướng. Vì không y theo gốc thiện này cho nên không dám [tin nhận] Đại thừa. “Bám chấp nặng năm dục” tức là nói cội nguồn sinh ra những việc xấu ác. [“Si mê, ái luyến khổ” là như trong kinh Duy-ma-cật có nói:] “Từ nơi si mê và ái luyến mà bệnh ta sinh ra.”

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Thọ thân từ bào thai” trở đi, gồm 1 khổ kệ, riêng nói về mạng trược. Giải thích theo quán tâm thì khi tâm khởi lên một niệm tức là đã tạo nghiệp trong tương lai. Nghiệp đó [thành] thai, [thai ấy tạo] nghiệp, [luân chuyển đến] vô cùng, đời đời kiếp kiếp không gián đoạn. Không gián đoạn tức là thường tăng trưởng, cũng tức là “thêm nghiệp khổ”. Nói “thọ thân từ bào thai”, thai đó chính là 5 ấm. Năm ấm [hình thành gọi] là một đời. Tuổi thọ kéo dài, đó là các ấm đi vào trong đời, từ ban sơ lúc thai vừa tượng hình cho đến khi già chết cũng gọi là đời đời tăng thêm, đó là mạng trược.

Kinh Thụ ấm thân[54] nói rằng, kẻ phàm phu thọ thân [trong bào thai], tuần đầu tiên chưa có sự thay đổi gì; tuần thứ hai [bào thai] hình thành như một váng sữa mỏng; [khi thai được] 3 tuần thì hình dạng như váng sữa dày; 4 tuần như khối sữa đặc; 5 tuần thai đã thành phôi; 6 tuần như cục thịt tròn; 7 tuần thì chớm mọc ra 5 bọc, đó là đầu và tứ chi; 8 tuần thì 5 bọc ấy đã hình thành rõ đầu và hai tay, hai chân; 9 tuần lại tiếp tục hình thành 24 bọc nữa, 4 bọc sẽ là mắt, tai, mũi, lưỡi, còn 20 bọc sẽ là các ngón tay, ngón chân; 10 tuần dần hiện rõ hình dáng của bụng, lại dần dần phân biệt các phần da, xương và các bộ phận khác, lại sinh ra 700 dây gân, 7.000 mạch máu. Tùy sự hình thành tướng trạng khác nhau mà có những loại gió khác nhau thổi vào, như tướng trắng thì có gió trắng, cho đến các loại gió khác cũng đều như vậy. Gió thơm thổi vào thì [bào thai] được an ổn, [hình thể sinh ra được] đoan chính, xinh đẹp; gió hôi thối thổi vào thì [bào thai] không được an ổn, [hình thể sinh ra] xấu xí, lệch lạc. Sau khi ra khỏi bào thai, ăn các loại ngũ cốc thì trong thân sinh ra 80.000 loại trùng.[55]

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Vào sâu rừng tà kiến” trở đi, gồm 1 khổ kệ nói về kiến trược. Năm kiến chấp sai lầm[56] đan xen nhau, phát triển thêm như rừng cây rậm rạp. Nếu rơi vào chấp có là thường kiến, chấp không là đoạn kiến. Do 2 kiến chấp sai lầm này mà sinh ra 62 [tà kiến].

Hoặc cũng giải thích rằng, ngoại đạo bám chấp bản ngã [trong tương quan với năm ấm] theo 4 luận đề. [Thứ nhất, cho rằng] sắc tức là ngã; [thứ hai, cho rằng] lìa khỏi sắc là ngã; [thứ ba, cho rằng] sắc là lớn, ngã là nhỏ nên ngã ở bên trong sắc; [thứ tư, cho rằng] ngã là lớn, sắc là nhỏ nên sắc ở bên trong ngã. [Bốn luận đề sai lầm này lại áp dụng cho] bốn ấm còn lại [là thọ, tưởng, hành và thức] cũng đều như vậy, tạo thành 20 kiến chấp sai lầm. Trong cả ba đời [là quá khứ, hiện tại và vị lai đều sai lầm như vậy] nên hợp thành 60 tà kiến, cộng với hai kiến chấp căn bản [là thường kiến và đoạn kiến vừa kể trên] thành 62 [tà kiến]. Hoặc [cũng có thể giải thích] như trong Đại phẩm [Bát-nhã].

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Chấp sâu pháp hư dối” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nói về phiền não trược, [ý nghĩa có thể hiểu được] y như kinh văn [nên không cần giải thích].

Tiểu đoạn thứ năm từ câu “Trong ngàn muôn ức kiếp” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nói về kiếp trược. [Kệ nói] trong suốt thời gian dài không gặp Phật, không gặp chánh pháp, đó chính là kiếp trược. Lại nữa, bốn sự uế trược nói trên cùng hợp lại trong thời gian này cho nên gọi là kiếp trược.

[Kệ nói] “Người như vậy khó độ” là vì sự che chướng của 5 sự uế trược nên không tin nhận Nhất thừa, ắt không thể hóa độ được.

Giải thích theo quán tâm thì trong mỗi một niệm đều là những tư tưởng xấu ác, vĩnh viễn không có chánh quán tự giác, đó chính là không gặp Phật. Trong tâm không có 8 điều chân chánh,1 tức là không nghe pháp. Tâm như vậy thật khó độ.

Đoạn thứ ba từ câu “Cho nên, Xá-lợi-phất” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nói việc [Phật] quyền biến vì [chúng sanh] mà thuyết dạy Tiểu thừa, ý nghĩa có thể hiểu được theo như kinh văn.

Đoạn thứ tư từ câu “Tuy nói là Niết-bàn” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, nói việc rốt cùng khiến cho [hết thảy chúng sanh] đều thể nhập Đại thừa. Dù có phá trừ hết hư vọng trong ba cõi, nếu diệt hết hình sắc lại bám chấp lẽ không thì cũng không phải là tịch diệt chân thật. Nếu thấu hiểu được bản chất của vô minh vốn thường tịch tịnh, đó mới là tịch diệt chân thật. Nhưng lẽ không tuy vốn thường tịch tịnh, nếu không tu hành theo chánh đạo thì cũng không do đâu mà khế nhập, thể hội được. Cho nên [lời kệ] nói rằng: “Phật tử tu hành đạo, tương lai sẽ thành Phật.”

KINH VĂN

Ta dùng sức phương tiện,
Mở bày pháp ba thừa.
Hết thảy các đức Phật,
Đều thuyết đạo Nhất thừa.
Nay đại chúng ở đây,
Nên dứt trừ nghi hoặc,
Chư Phật dạy không khác,
Duy Nhất thừa, không hai.

Tổng đoạn thứ năm từ câu “Ta dùng sức phương tiện” trở đi, gồm 2 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa “lời Phật không hư dối” [trong phần văn trường hàng] ở trên. [Kinh văn trường hàng] nói rằng: “Các ông nên hết lòng tin hiểu, thọ trì lời Phật dạy. Lời của chư Phật Như Lai không hư dối.”

Phần kệ khuyến tín thì trước đã nói đủ, đến đây tụng lại ý nghĩa không hư dối. Hai câu kệ đầu tiên nói rõ ý nghĩa đức Phật Thích-ca trước [dùng phương tiện tạm] bày ra ba thừa. Hai câu kệ tiếp sau nói rõ việc chư Phật về sau đều hiển bày lẽ thật, là để hỗ tương [làm rõ thêm việc trong] hiện tại. Một khổ kệ sau chính là nêu rõ ý nghĩa không hư dối. Trước nêu pháp quyền biến, sau hiển bày pháp chân thật, đều là những lời thành thật, không hư dối, [nên khuyên đại chúng] chớ sinh nghi.

KINH VĂN

Vô số kiếp quá khứ,
Vô lượng Phật diệt độ,
Trăm ngàn muôn ức vị,
Số không thể tính đếm.
Các đức Phật như vậy,
Dùng nhân duyên, thí dụ,
Vô số sức phương tiện,
Giảng thuyết các tướng pháp.

Phần thứ hai từ câu “Vô số kiếp quá khứ” trở đi, gồm 27 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa nói về chư Phật quá khứ trong văn trường hàng ở trên. Phần này chia làm 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ đầu tiên tụng ý nghĩa [chư Phật] tạm bày ba thừa, y như kinh văn có thể hiểu được [không cần giảng giải].

KINH VĂN

Những bậc Thế Tôn ấy,
Đều thuyết pháp Nhất thừa,
Giáo hóa vô số chúng,
Khiến được vào Phật đạo.
Lại các bậc Đại thánh,
Rõ biết khắp thế gian,
Chư thiên cùng nhân loại,
Nhiều tham muốn sâu xa,
Nên dùng phương tiện khác,
Giúp hiển bày nghĩa thật.

Tổng đoạn thứ hai từ câu “Những bậc Thế Tôn ấy” trở đi có 25 khổ rưỡi kệ, tụng ý nghĩa hiển bày [lẽ thật] Nhất thừa. Phần văn trường hàng ở trên khi hiển bày lẽ thật cũng nêu cả nghĩa “tứ nhất” (4 nghĩa nhất). Trong phần kệ tụng này cũng có đủ [tứ nhất], lại chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất 1 khổ kệ, tụng sơ lược 3 nghĩa nhất. “Đều thuyết pháp Nhất thừa” là nghĩa giáo nhất. “Giáo hóa vô số chúng” là nghĩa nhân nhất. “Khiến được vào Phật đạo” là nghĩa lý nhất, cũng bao gồm được cả nghĩa hành nhất.

Đoạn thứ hai từ câu “Lại các bậc Đại Thánh” trở đi, gồm 24 khổ rưỡi kệ, dựa theo 5 thừa[57] để nói rộng ý nghĩa hiển bày lẽ thật Nhất thừa. Đoạn này chia làm 2 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất có 1 khổ rưỡi kệ, nói tổng quát về năm thừa để hiển bày lẽ thật Nhất thừa. “Chư thiên cùng nhân loại” là nêu lên các thừa để làm rõ nghĩa nhân nhất. “Nên dùng phương tiện khác” là nêu các hành để làm rõ nghĩa hành nhất, cũng bao gồm được cả nghĩa giáo nhất. “Giúp hiển bày nghĩa thật” tức là nghĩa lý nhất.

Từ chỗ nói “phương tiện khác” trở đi, nói chánh nhân Phật tánh tức là đệ nhất nghĩa lý. Nếu nhìn từ chánh pháp viên mãn nhiệm mầu thì đây tức là phương tiện của thật tướng, không thể gọi là khác. Nếu nhìn từ ý nghĩa phân biệt 7 phương tiện thì [các pháp này] “giúp hiển bày nghĩa thật” nên gọi là “phương tiện khác”.

KINH VĂN

Nếu có những chúng sinh,
Gặp Phật trong quá khứ,
Hoặc nghe pháp, bố thí,
Hoặc trì giới, nhẫn nhục,
Tinh tấn, thiền, trí tuệ...
Tu các pháp phúc, tuệ.
Phật dạy: Những người ấy,
Đều đã thành Phật đạo.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Nếu có những chúng sanh” trở đi, gồm 23 khổ kệ, riêng dựa theo 5 thừa để hiển bày lẽ chân thật. Tiểu đoạn này lại phân chia thành 3 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ nói việc khai mở Bồ Tát thừa. Phân đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ nói việc khai mở hai thừa [Thanh văn và Duyên giác]. Phân đoạn thứ ba gồm 20 khổ kệ nói việc khai mở nhân thừa và thiên thừa.

§ Phân đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, từ câu “Nếu có những chúng sanh” trở đi, khai mở Bồ Tát thừa. Nếu giải thích theo 5 thừa thì đây chính là nói 6 ba-la-mật với Bồ Tát thừa. Nếu giải thích theo [nghĩa phân biệt] 7 hạng phương tiện thì phần này gồm cả Bồ Tát thừa của Thông giáo và Biệt giáo. Vì sao vậy? Vì giáo pháp Đại thừa của Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo đều [dạy] thực hành 6 ba-la-mật, chỉ khác nhau ở sự vận dụng tâm. Dùng tâm hữu tướng thực hành 6 ba-la-mật tức là Bồ Tát Tạng giáo, [dùng tâm] vô tướng tức là Bồ Tát Thông giáo, dùng tâm chẳng phải tướng chẳng phải vô tướng mà theo thứ lớp thực hành 6 ba-la-mật tức là Bồ Tát Biệt giáo. Nay [trong kệ này] chỉ nói 6 ba-la-mật nên chưa biết phải xác định thuộc hàng [Bồ Tát] nào. Xét lại ở câu trước nói “dùng phương tiện khác” không chỉ nói riêng 6 ba-la-mật của Bồ Tát, nên biết rằng [nói đến] phương tiện của Bồ Tát trong cả Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo. [Nói việc] thuở xưa từng nghe pháp nên đều đã thành tựu nghĩa giáo nhất, từng tu hành 6 ba-la-mật nên đều đã thành tựu nghĩa “hành nhất”. [Kệ nói] “những người như vậy” là nghĩa “nhân nhất”. “Đều đã thành Phật đạo”, nghĩa là đều đã thành tựu nghĩa “lý nhất”.

KINH VĂN

Chư Phật diệt độ rồi,
Ai khéo điều phục tâm,
Hết thảy những người ấy,
Đều đã thành phật đạo.

Chư Phật diệt độ rồi,
Ai cúng dường xá-lợi,
Dựng muôn ức ngọn tháp,
Bằng vàng, bạc, pha lê,
Xa cừ cùng mã não,
Hồng ngọc, châu lưu ly,
Cao rộng, sạch, trang nghiêm,
Trang hoàng nơi các tháp.

Hoặc dùng đá xây miếu,
Với chiên-đàn, trầm hương,
Gỗ mật, các loại khác,
Hay gạch, ngói, bùn đất...
Hoặc giữa nơi đồng trống,
Đắp gò cao thờ Phật,
Thậm chí trẻ chơi đùa,
Vun cát làm tháp Phật...
Những trường hợp như thế,
Đều đã thành Phật đạo.

§ Phân đoạn thứ hai từ câu “Chư Phật diệt độ rồi, ai khéo điều phục tâm” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nói rõ việc hàng Thanh văn, Duyên giác thảy đều thể nhập Nhất thừa. Làm sao biết được như vậy? Bởi vì trong kinh Đại phẩm [Bát-nhã] khen ngợi bậc A-la-hán tâm đã được điều phục nhu nhuyễn. Lại nữa, kinh Tịnh Danh nói: “Nếu trụ nơi tâm được điều phục, đó là pháp Thanh văn.”[58] Do vậy nên biết câu này [nói về hàng Thanh văn, Duyên giác]. [Kể chuyện] thuở xưa khéo điều phục tâm đều là thành tựu nghĩa “hành nhất”. Nói “những người ấy” là nghĩa “nhân nhất”. Nói “thành Phật đạo” là nghĩa “lý nhất”.

§ Phân đoạn thứ ba từ câu “Ai cúng dường xá-lợi” trở đi, gồm 20 khổ kệ, mở nói về nhân thừa và thiên thừa. [Tuy nội dung] không nói rõ ràng là nhân thừa và thiên thừa, chỉ nêu việc tạo tượng, xây tháp với tâm chuyên nhất cho đến tâm tán loạn, cho nên biết rằng đó là [nói về] nghiệp trong hai cõi trời, người.

Các bậc thầy phái Địa luận giải thích rằng: “Đồng tử là chỉ địa vị Đồng chân trụ,[59] không còn tâm tham muốn của hàng phàm phu và Nhị thừa. ‘Vun cát thành tháp’ thì cát là nói sự không bám chấp, tháp là nói các công hạnh lành tích tập, hàm chứa trong đó tâm chánh giác.” Các vị thầy ấy cho rằng giải nghĩa như vậy phù hợp lý vô sinh nên đó chính là nghĩa sâu xa [của kinh văn]. Nay cho rằng [giải nghĩa như vậy] là trái ngược với kinh văn, làm cho ý nghĩa trở thành hẹp hòi. Vì sao vậy? Vì Bồ Tát đã lên hàng Thập địa[60] thì tất nhiên sẽ thành Phật, cũng như loài a-tu-la [có khả năng] vượt qua biển lớn thì chẳng có gì lạ. Nay lại đem những việc [kinh văn nói] trẻ con nghịch cát, kẻ loạn tâm xưng tán Phật [mà cho là] chỉ đến việc dứt sạch mọi bám chấp vi tế [của hàng Bồ Tát Thập địa, chẳng biết rằng] như kẻ phàm phu mà vượt qua biển lớn mới thật là không thể nghĩ bàn. [Kinh văn] Phật dạy rõ ràng, bao quát cả 5 thừa, [kẻ làm được] một chút việc lành nhỏ nhoi cũng [đều được lợi lạc] không bỏ sót, nay sao lại bỏ đi ý nghĩa rộng lớn trùm khắp mà suy tắt đến nghĩa vô sinh. Nếu như giải thích theo cách đó thì cho đến hàng Nhị thừa cũng chẳng lọt vào huống hồ là phàm phu. Luận giải như vậy tuy là sâu xa nhưng chỉ hẹp theo một hướng, nếu nói rộng ra thì trái ngược với kinh văn.

Hỏi: Hàng trời, người [thuở ấy] nếu như chỉ làm được chút ít việc lành, lẽ ra vẫn còn ở trong vòng nghiệp báo, vì sao nói là đều đã thành Phật?

Đáp: Chỗ này nên hiểu rõ về ý nghĩa ba loại Phật tánh.[61] Kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Có Phật tánh, người có căn lành thì có, hạng nhất-xiển-đề thì không.” Như vậy tức là hàng trời, người tuy làm việc lành ít oi như cúi đầu, chắp tay [xưng tán Phật], nhưng cũng giống như nhiều sọt đất nhỏ đắp mãi cũng thành núi đất cao, việc nhỏ nhoi góp lại thành lớn.[62] Thuở trước chưa trừ bỏ pháp phương tiện nên [người làm việc lành ít] phải ở trong vòng nghiệp báo, nay [Phật] trừ bỏ pháp phương tiện, tức là [những ai có] duyên nhân Phật tánh đều sẽ hướng đến quả vị Bồ-đề, thành tựu ý nghĩa hiển bày lẽ thật.

Phân đoạn thứ ba [gồm 20 khổ kệ] này lại có thể chia làm hai ý. Ý thứ nhất gồm 19 khổ kệ lược nói về những việc thiện nhỏ của hàng trời, người giúp thành tựu nhân duyên chủng tử để làm sáng tỏ ý nghĩa hiển bày lẽ thật. Ý thứ hai gồm 1 khổ kệ, lược nói liễu nhân chủng tử[63] để làm sáng tỏ ý nghĩa hiển bày lẽ thật, xem theo kinh văn có thể hiểu được, [không cần giảng giải].

Ý thứ nhất có 19 khổ kệ, chia ra thành 10 tiểu ý.

Tiểu ý thứ nhất gồm 3 khổ rưỡi kệ đầu tiên lược nói việc xây tháp để làm rõ nghĩa thiên thừa. Lúc tạo nhân thì chí thành dốc hết tài lực, buông xả tiền tài châu báu [không tham tiếc]; khi nhận quả thì thuận hợp tự nhiên mà thọ hưởng khoái lạc, nên [biết đó] là nói về thiên thừa.[64]

Gỗ mật là tên một loại gỗ ở Trường An, cũng dùng để tạc tượng.

Kinh Kim Quang Minh nói: “Lấy xá-lợi Phật chỉ nhỏ như hạt cải, hạt lúa đặt trong tháp nhỏ để thờ thì tự nhiên được quả báo [sinh về] cõi trời Đao-lợi.”1 Tức là ý nghĩa [nói ở phần] này.

Tiểu ý thứ hai gồm 1 khổ kệ, từ câu “Thậm chí trẻ chơi đùa”. Trẻ con chơi đùa nghịch cát, vun lại thành tháp, tức là nói về nghiệp thuộc cõi người. Lúc tạo nhân thì thản nhiên vô tư làm việc lành; khi nhận quả thì khởi ý mong cầu được sự vui thích, nên [biết] đây là [nói về] nghiệp [sinh trong] cõi người.

KINH VĂN

Có người vì kính Phật,
Nên vẽ hình, tạc tượng,
Chạm khắc các tướng Phật,
Đều đã thành Phật đạo.

Hoặc dùng bảy món báu,
Hợp kim, đồng đỏ, trắng...
Hoặc chì, thiết... các loại,
Sắt, thép, gỗ, đất bùn...
Hoặc keo, nhựa sơn, vải...
Trang hoàng nên tượng Phật.
Những người làm như vậy,
Đều đã thành Phật đạo.

Hoặc vẽ hình tượng Phật,
Đủ phước tướng trang nghiêm,
Tự làm, sai người làm,
Đều đã thành Phật đạo.

Tiểu ý ba từ câu “Có người vì kính Phật” trở đi là ý thứ ba gồm 4 khổ kệ, lược nói việc thành tâm tạo tượng, nêu rõ nghiệp [sinh về] cõi trời. Kinh Ưu-bà-tắc giới không cho phép dùng loại keo giao [nấu từ da trâu bò], nếu dùng phạm vào tội để mất chánh niệm. Nhưng việc kinh này bảo dùng keo giao, các bậc thầy ngày trước giải thích rằng đó là loại keo lấy từ nhựa cây. Ngài Quang Trạch nói, cũng có những nơi cho phép dùng keo giao nấu từ da trâu bò, nếu từ những con vật khác thì không được. Có người nói, dùng nước nhựa đậu nành có thể thay thế keo giao mà trong sạch, còn keo giao nấu từ da trâu bò thật không sạch sẽ, [nếu dùng thì] ngày sau phải chịu quả báo bất tịnh.

Như tiền không thanh tịnh cũng không được dùng để làm tượng [Phật]. Chỉ nên dùng tiền trong sạch đúng pháp để làm tượng. Không được dùng loại đất nhão màu vàng có lẫn tạp vật nhơ nhớp. Giới Kinh cũng không cho phép tạo tượng [Phật] bán thân, nếu làm thì phạm tội để mất chánh niệm. Nếu không dựng lên hình tướng tốt đẹp thì [chúng sinh phải] đọa lạc mãi trong sinh tử, nhưng việc tạo tượng [Phật] ở mỗi nơi đều phải có sự suy tính [thích hợp]. Nếu tượng Phật chính giữa điện thờ thì phải [tạc tượng] ngồi. [Miêu tả] Phật nghỉ ngơi thì có thể [tạc tượng] ngồi hoặc nằm. [Miêu tả] Phật hành động thì nên [tạc tượng] đứng. Đệ tử Phật khi ở trước điện thờ, tháp thờ có tượng Phật đứng thì không được phép ngồi, vì những chỗ ấy được xem là thuộc về Phật. Tại nhà cư sĩ hoặc ở những nơi khác có thờ tượng Phật ngồi thì không được phép đứng lâu, nếu xin phép rồi thì có thể ngồi. Phía trước tượng Phật đứng không được phép ngồi. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Thậm chí trẻ chơi đùa,
Dùng cỏ, cây, ngọn bút,
Hoặc móng tay, ngón tay...
Vẽ thành hình tượng Phật.
Những đứa trẻ như thế,
Dần dần thêm công đức,
Trọn đủ tâm đại bi,
Đều đã thành Phật đạo.
Chỉ giáo hóa Bồ Tát,
Độ thoát vô số chúng.

Tiểu ý thứ tư từ câu “Thậm chí trẻ chơi đùa” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu rõ nghiệp [sinh trong] cõi người.

Tiểu ý thứ năm từ câu “Những đứa trẻ như thế” trở đi là ý thứ năm, gồm 1 khổ rưỡi kệ, tóm kết thành tựu ý nghĩa hiển bày chân thật. Tất cả “đều đã thành” là ý nghĩa nhân nhất. “Dần dần thêm công đức, trọn đủ tâm đại bi” là thành tựu ý nghĩa hành nhất. “Phật đạo” là thành tựu ý nghĩa lý nhất, nhưng [kinh văn nói] “đã thành Phật” lại cũng có thể hiểu là [trọn đủ] tứ nhất. Thường “chỉ giáo hóa Bồ Tát” tức là nghĩa giáo nhất. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Nếu người nơi tháp miếu,
Tượng báu hay hình Phật,
Dùng hoa, hương, phướn, lọng...
Tâm cung kính cúng dường.

Hoặc sai người tấu nhạc,
Đánh trống, thổi tù và...
Tiêu, sáo, đàn không hầu,
Đàn tỳ bà, chập chõa,
Bao âm thanh tuyệt diệu,
Đều dâng lên cúng dường.
Hoặc dùng tâm hoan hỷ,
Xưng tán công đức Phật,
Dù một lời nhỏ nhặt,
Đều đã thành phật đạo.

Nếu người tâm tán loạn,
Dùng chỉ một bông hoa,
Cúng dường tranh vẽ Phật.
Dần gặp vô số Phật.
Nếu có người lễ bái,
Hoặc là chỉ chắp tay,
Thậm chí đưa tay lên,
Hay cúi nhẹ đầu xuống.

Tiểu ý thứ sáu từ câu “Nếu người nơi tháp miếu” trở đi gồm 3 khổ rưỡi kệ lược nói việc dùng các trần cảnh [như hình sắc, âm thanh...] cúng dường [chư Phật] để nêu rõ nghiệp [lành được sinh] cõi trời. Đồng bạt (銅鈸) là cái chập chõa bằng đồng, [dùng làm nhạc khí]. Người Trường An gọi là cái mâm đồng nhỏ để hứng sương đêm (lộ bàn - 露盤) là đồng bạt. Vì kinh này được phiên dịch ở Trường An nên dùng luôn tên đồng bạt để chỉ cái chập chõa bằng đồng.

Tiểu ý thứ bảy từ câu “Nếu người tâm tán loạn” trở đi, gồm 1 khổ kệ, lược nói việc dùng tâm tán loạn mà cúng dường các trần cảnh [như hình sắc, âm thanh...] lên chư Phật, nêu rõ nghiệp [lành sinh trong] cõi người.

Tiểu ý thứ tám từ câu “Nếu có người lễ bái” trở đi, gồm 1 khổ kệ, lược nói về thân nghiệp cúng dường [chư Phật] để nêu rõ nghiệp lành [được sinh vào] hai cõi trời, người.

“Lễ bái” là nói chung, [có hai hình thức.] Năm vóc đều sát đất1 gọi là thượng lễ, tức là nghiệp lành [được sinh về] cõi trời; chắp tay, cúi đầu gọi là trung lễ, là nghiệp lành [được sinh trong] cõi người.

KINH VĂN

Cúng dường hình tượng Phật,
Dần gặp vô số Phật.
Tự thành đạo Vô thượng,
Độ vô số chúng sinh,
Nhập Niết-bàn Vô dư,
Như củi hết lửa tắt.

Nếu người tâm tán loạn,
Vào tháp miếu thờ Phật,
Niệm một tiếng nam-mô,
Đều đã thành Phật đạo.

Tiểu ý thứ chín từ câu “Cúng dường hình tượng Phật” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu nội dung tóm kết lại, không chỉ riêng hiển bày lẽ thật “tự thành đạo Vô thượng” mà cũng có thể hiểu theo nghĩa trừ bỏ quyền thừa như “củi hết [lửa tắt]”, “nhập Niết-bàn Vô dư”. Đại lược là như thế.

Tiểu ý thứ mười từ câu “Nếu người tâm tán loạn” trở đi, gồm 1 khổ kệ lược nói về khẩu nghiệp [cúng dường Phật], xét theo ước lệ như phần trên thì lẽ ra nói đủ về nghiệp lành [sinh vào hai cõi] trời, người, nay [trong đoạn kệ này] chỉ nêu nghiệp sinh trong cõi người. Đại lược là như vậy.

Chữ “nam-mô” có nghĩa rất rộng. Hoặc hiểu là “cứu độ chúng con”. Nghĩa này có thể áp dụng cho chúng sinh, còn nếu là lời Phật đáp lại chư Phật thì không thích hợp. Trong kinh Ngũ giới giải thích “nam-mô” là kinh sợ, nghĩa này có thể áp dụng với chư Phật. [Chư Phật nhìn] cuộc sinh tử là hiểm nạn [của chúng sanh], thật đáng kinh sợ, dùng pháp Đại thừa cứu vớt không thể được, nay cũng làm giống như chư Phật, [tạm] dùng Tiểu thừa để [dẫn dắt] cứu độ. Cho nên ý nghĩa “kinh sợ” này có thể vận dụng với chư Phật.[65]

Kinh văn nói: “Vui xưng Nam-mô Phật.”[66] Vui đây có nghĩa là vui được cứu thoát [sinh tử], không còn gì phải nghi ngại. Kinh Ngũ giới cũng giải thích “nam-mô” có nghĩa là “quy mạng”, chính là nghĩa áp dụng cho chúng sinh. Khi Điều-đạt[67] sắp chết, niệm được chữ nam-mô nhưng chưa kịp niệm chữ Phật thì đã bị đọa vào địa ngục. Đức Phật thụ ký cho ông sau này khi ra khỏi địa ngục rồi sẽ thành Phật Bích-chi, có danh hiệu là Phật Nam-mô.

Ở Ấn Độ[68] thờ tượng Phạm thiên,[69] dùng vàng làm đầu tượng. Kẻ trộm lẻn đến trộm đầu [tượng vàng] nhưng không thể nào lấy được, nhân đó niệm Nam-mô Phật liền gỡ lấy được đầu tượng vàng. Hôm sau, mọi người ở đó cùng họp lại nói rằng: “[Chúng ta thờ Phạm thiên] nhưng chẳng có chư thiên nào ở đây cả. Nếu có thì làm sao tượng Phạm thiên lại đến nỗi bị mất đầu?” Phạm thiên liền giáng xuống [nhập vào] một người, nói rằng: “[Không phải là không có chư thiên ở đây, nhưng vì] khi kẻ trộm đến lấy đầu tượng đã niệm Nam-mô Phật, khiến chư thiên đều kinh sợ hoảng loạn, cho nên kẻ trộm mới thừa dịp mà lấy được đầu tượng.” Mọi người liền nói: “Như vậy hẳn là Phạm thiên không bằng Phật. Nếu đã không bằng Phật, nay vì sao chúng ta không thờ Phật [mà phải thờ Phạm thiên?]”

Kẻ trộm niệm Nam-mô Phật mà còn lấy được đầu của tượng Phạm thiên, huống chi những người hiền lương mà niệm Nam-mô Phật, ắt là thần thánh trong khắp mười phương đều không thể sánh bằng. Chỉ cần nỗ lực tinh tấn, không biếng nhác [thì sẽ được thành tựu].

Kinh [Tỳ-kheo] Na-tiên nói rằng: “Người sắp chết niệm Nam-mô Phật thì không bị đọa vào địa ngục. Vì sao vậy? Cũng giống như người lấy viên đá nhỏ để trên mặt nước, viên đá chắc chắn phải chìm, nhưng nếu đem cả trăm viên đá xếp lên thuyền thì thuyền cũng không chìm. Nếu [người làm ác], sau khi chết phải đọa ngay vào địa ngục, cũng như viên đá đặt trên mặt nước [phải bị chìm]. Nếu khi sắp chết niệm Nam-mô Phật, nhờ sức Phật nên không phải đọa địa ngục, giống như sức của thuyền giúp đá [trên thuyền] chẳng bị chìm.” Đại lược là như vậy.

Thai kinh[70] và kinh Báo Ân[71] nói rằng, trong đại pháp hội [của Phật Di-lặc] lần thứ ba tại vườn Hoa Lâm,[72] có 92 ức người từng ở trong giáo pháp của đức Phật Thích-ca còn lưu lại. [Cho nên nói rằng,] người nào niệm một tiếng Nam-mô Phật thì đều được gặp Phật Di-lặc.

_________________________________________

CHÚ THÍCH


[1] Sáu ý nghĩa đã trình bày ở phần trước: Sáu ý nghĩa đó bao gồm: Thứ nhất, xưng tán chánh pháp là ít có. Thứ hai, Phật giảng thuyết không hư dối. Thứ ba, khai mở phương tiện. Thứ tư, chỉ bày lẽ chân thật. Thứ năm, nêu năm sự uế trược để giải thích về quyền. Thứ sáu, chọn trừ hư ngụy, nêu cao chân thật.

[2] Ở đây trình bày lại năm trong số sáu nghĩa đã nêu nhưng không theo thứ tự như trước.

[3] Chỉ tất cả chúng sinh còn mê lầm hoặc chưa hoàn toàn giác ngộ, bao gồm: nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa.

[4] Về đoạn này, Văn Cú Ký giải thích là “今一實中尚無般若帶二方等帶三況有鹿苑單三單五 – kim nhất thật trung thượng vô Bát-nhã đái nhị, Phương đẳng đái tam, huống hữu Lộc uyển đơn tam đơn ngũ.” Theo đây có thể biết rằng “đái nhị” và “đái tam” chỉ Nhị thừa và Tam thừa được đức Phật quyền thuyết trong thời Bát-nhã, “đơn tam” và “đơn ngũ” chỉ các thừa quyền thuyết trong thời Lộc uyển. Giáo pháp thuyết giảng trong thời Lộc uyển được xem là sơ cơ nhất trong các thời thuyết giáo của Phật, trong đó đề cập đến Ngũ thừa gồm nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa. “Tam” chỉ Tam thừa gồm Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa. “Nhị” chỉ Nhị thừa gồm Thanh văn và Duyên giác gọi chung là Tiểu thừa và Bồ Tát là Đại thừa.

[5] Ngũ độn sử (五鈍使), tức 5 độn sử, gồm tham, sân, si, mạn và nghi. Năm loại này là những phiền não thuộc loại thô, ảnh hưởng đến phàm phu hoặc người tu tập còn sơ cơ nên gọi là độn sử. Sử (使) có nghĩa là sai sử, vì những phiền não này thường xuyên thôi thúc, sai sử chúng sinh tạo tác các nghiệp bất thiện nên gọi là sử.

[6] Ngũ lợi sử (五利使), tức 5 lợi sử, gồm 5 loại kiến chấp sai lầm là thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới cấm thủ kiến. Năm loại này là những phiền não thuộc loại vi tế, ảnh hưởng đến ngay cả những người đã tu tập lâu năm nên gọi là lợi sử. Cả hai loại ngũ độn sử và ngũ lợi sử được gọi chung là thập sử.

[7] Vườn thô nhám, Hán ngữ là “thô sáp viên - 麁澁園”, là một trong 4 khu vườn bên ngoài thành của Đế thích ở cung trời Đao-lợi. Chư thiên cõi trời này đều là những vị tu tập thiện pháp, tâm tánh từ hòa, nên trước khi đi chiến đấu với a-tu-la phải vào khu vườn này, để tâm từ hòa lắng xuống, tâm chiến đấu nổi lên mạnh mẽ, mới có thể ra trận đánh nhau. Văn Cú dẫn việc này để chứng minh rằng do nghiệp xấu ác của chúng sinh mà tự nhiên sinh ra các tai kiếp.

[8] Nguyên tác nói “不在華嚴不在三藏 – bất tại Hoa nghiêm bất tại Tam tạng”. Thời Hoa nghiêm Phật giảng thuyết giáo pháp Đại thừa. Tam tạng tức chỉ thời A-hàm, thuyết giảng giáo pháp Tiểu thừa.

[9] Tức là giáo lý tứ môn (4 cửa vào), bao gồm: không môn (cửa không), hữu môn (cửa có), diệc không diệc hữu môn (cửa cũng không cũng có) và phi không phi hữu môn (cửa chẳng phải không chẳng phải có).

[10] Câu hỏi này dựa theo ý kinh, Phật nói do chúng sinh chướng nặng không thể thuyết dạy Đại thừa, phải phương tiện thuyết dạy Tiểu thừa. Vì không thể thuyết Đại thừa mà có thể thuyết Tiểu thừa nên ở đây cho là “không che chướng Tiểu thừa”.

[11] Nguyên tác dùng tứ đức (四德), tức chỉ bốn phẩm đức thường, lạc, ngã, tịnh.

[12] Ví dụ được dẫn ở đây trích từ kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 2. (ĐCT, T12, 374, tr.378a, d.17)

[13] Nguyên tác dùng “開遮 - khai già”, trong ngữ cảnh này nói về việc dùng thuốc nên khai là mở ra, nghĩa là nên dùng, già là ngăn chặn, nghĩa là không nên dùng.

[14] Trong câu kinh này nói lúc đức Phật khởi lên suy nghĩ phải dùng phương tiện nói pháp Tiểu thừa để dẫn dắt chúng sinh.

[15] Như phần trên đã giải thích, phiền não trược và kiến trược là nhân, vì từ đó mới hình thành ba uế trược còn lại.

[16] Ở đây, chúng sinh trược là thuộc về nhân, tức là chủ thể, kiến trược, phiền não trược, mạng trược và kiếp trược đều thuộc về pháp, tức là đối tượng.

[17] Ở đây, phiền não trược, kiến trược, chúng sinh trược và mạng trược đều thuộc về pháp, kiếp trược thuộc về thời.

[18] Tam chướng, tức ba loại che chướng gồm phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng.

[19] Hai uế trược thuộc về báo chướng là chúng sinh trược và mạng trược.

[20] Hai uế trược thuộc về phiền não chướng là kiến trược và phiền não trược.

[21] Nguyên tác nói “業在其間 - nghiệp tại kỳ gian”. Văn Cú Ký giải thích rằng: Phiền não tạo thành nghiệp, nghiệp chiêu cảm quả báo. Do vậy nói nghiệp [chướng] nằm [trong các chướng] ấy.

[22] Tam giả (ba điều không thật), ở đây chỉ nhân thành giả (các pháp do nhân duyên mà thành nên không thật có), tương tục giả (các pháp liên tục sinh diệt, tiếp nối nhau nên không thật có), tương đãi giả (các pháp tồn tại trong sự tương quan, đối đãi với nhau nên không thật có).

[23] Văn Cú Ký giải thích rằng, kiếp trược là “trường đoản tương đãi” (dài ngắn đối đãi nhau), phiền não trược là “vi thuận đẳng tương đãi” (thuận nghịch đối đãi nhau) và kiến trược là “hữu vô tương đãi” (có và không đối đãi nhau).

[24] Tam giả quán (三假觀), gồm pháp giả hư thật quán (法假虛實觀), thọ giả hư thật quán (受假虛實觀) và danh giả hư thật quán (名假虛實觀).

[25] Văn Cú nói quá ngắn gọn, cũng không nói đến “ba trược còn lại”, đoạn này dựa theo Văn Cú Ký để hiểu nghĩa.

[26] Nguyên tác nói “三小 - tam tiểu”, chỉ tam tiểu tai kiếp, tức là các nạn đao binh, dịch bệnh và nạn đói. Do nghiệp của chúng sinh chiêu cảm các tai kiếp này nên thuộc về kiếp trược.

[27] Nguyên tác nói “三大害物不害人 - tam đại hại vật bất hại nhân”. Tam đại là tam đại tai kiếp, bao gồm hỏa tai, thủy tai và phong tai. Ba đại tai kiếp này xảy ra khi thế giới đi vào giai đoạn hoại diệt trong bốn giai đoạn là “thành, trụ, hoại, không”, cho nên sau ba đại tai kiếp này thì thế giới bị hủy diệt hoàn toàn, không còn gì nữa, sau đó mới đi vào giai đoạn kiếp sơ để dần hình thành trở lại. Ý nghĩa câu này là khi đại tai kiếp xảy ra thì hết thảy chúng sinh đã bị các tiểu tai kiếp hủy hoại rồi, nên các đại tai kiếp chỉ còn hủy hoại thế giới mà thôi.

[28] Chỗ này Văn Cú Ký lập luận rằng lẽ ra cũng phải nói cả bốn trược còn lại cũng trùm khắp năm đường ba cõi. “言命通者, 亦應云餘四通於三界五道 – Ngôn mạng thông giả, diệc ưng vân dư tứ thông ư tam giới ngũ đạo.”

[29] Chung có nghĩa là ảnh hưởng chung đến tất cả chúng sinh, riêng có nghĩa là ảnh hưởng tùy theo nghiệp lực riêng biệt của mỗi người.

[30] Đây là kiểu nói vắn tắt tiêu biểu của Văn Cú. Nguyên tác chỉ nói “從八萬至十歲為小劫, 八十反為大劫也 - Tùng bát vạn chí thập tuế vi tiểu kiếp, bát thập phản vi đại kiếp dã.” Thật ra, nhờ vào ý nghĩa được trình bày trong nhiều kinh luận khác nên chúng ta hiểu được ý nghĩa đầy đủ của câu này là: Từ lúc tuổi thọ trung bình của con người là 10 tuổi, cứ mỗi 100 năm sẽ tăng thêm 1 tuổi, tăng dần cho đến 84.000 tuổi thì gọi là 1 kiếp tăng, từ đó cứ mỗi 100 năm lại giảm đi 1 tuổi, giảm đến còn 10 tuổi thì gọi là 1 kiếp giảm. Trọn một vòng tăng giảm như vậy gọi là 1 tiểu kiếp, 20 tiểu kiếp thành 1 trung kiếp, 80 trung kiếp thành một đại kiếp.

[31] Bậc chứng quả A-la-hán đã dứt sạch mọi nhân duyên lậu hoặc nên không còn tái sinh trong ba cõi. Tuy nhiên, kinh điển Đại thừa đề cập đến các cõi Tịnh độ nằm ngoài ba cõi, không có cả tên gọi phiền não. Các vị A-la-hán có phát tâm Đại thừa sinh vào thời không có Phật có thể được sinh về các cõi này và được gặp chư Phật ở đó, được nghe kinh điển Đại thừa.

[32] Nguyên tác gọi là “Thích luận”, thật ra là chỉ cho Đại Trí độ luận (大智度論), thích Tất định phẩm (釋 畢定品) thứ 83 (第八十三), nằm trong quyển 93. (ĐCT, T25, 1509) Câu hỏi trích dẫn này và phần giải thích nằm ở trang 714a, từ d.9 đến d.15.

[33] Văn Cú trích dẫn không đầy đủ nên câu văn tối nghĩa: “羅漢受先世身身必應滅 - La-hán thọ tiên thế thân thân tất ưng diệt”. Nguyên văn trong Đại Trí độ luận là: “阿羅漢先世因緣所受身必應當滅 – A-la-hán tiên thế nhân duyên sở thọ thân tất ưng đương diệt.”

[34] Nguyên tác dùng “餘國 - dư quốc” để chỉ các cõi Phật nằm ngoài ba cõi.

[35] Câu trích dẫn này nằm trong Chỉ quán phụ hạnh truyện hoằng quyết (止觀輔行傳弘決), quyển 3. (ĐCT, T46, 1912, tr.251b, d.7-8) Nguyên tác dùng “tứ y”, có lẽ chỉ thân độ tứ y (身土四依), tức bốn pháp nương theo thân Phật (佛身之四依 - Phật thân chi tứ y), bao gồm: sắc thân y sắc tướng độ (色身依色相土), sắc thân y pháp tánh độ (色身依法性土), pháp thân y pháp tánh độ (法身依法性土) và pháp thân y sắc tướng độ (法身依色相土). Nếu hiểu theo nghĩa thường gặp như “y pháp bất y nhân” v.v. thì không hợp với ngữ cảnh giảng giải này.

[36] Nguyên tác dùng “苦到懺悔 - khổ đáo sám hối”, nghĩa là nỗ lực khó nhọc hết sức. Trong việc sám hối thì có nghĩa là chí tâm, chí thành.

[37] Câu này nêu ba lỗi (三失 tam thất) rõ rệt. Tăng thượng mạn là lỗi vọng xưng chứng thánh, tu tập có chỗ sở đắc nhưng chưa phải thánh quả mà sai lầm cho là đã chứng. Ngã mạn là tự cho mình tài giỏi, cao quý hơn người, xem thường kẻ khác. Bất tín là được nghe chánh pháp mà không khởi lòng tin, thường sinh nghi ngờ.

[38] Nguyên tác dùng “藏玼揚德 - tàng tỳ dương đức”, nghĩa là che giấu lỗi lầm của mình mà chỉ khoe khoang, phô trương những điều tốt đẹp.

[39] Nguyên tác dùng chữ “慚 - tàm”, thường đi đôi với “愧 - quý”. Tàm là hổ thẹn, nghĩa là tự thấy hổ thẹn với những điều xấu ác mình đã phạm vào. Quý là xấu hổ, nghĩa là thấy xấu hổ khi có người khác biết việc xấu ác mình đã làm. Hai đức tàm và quý hổ tương cho nhau giúp người tu tập quyết tâm tránh xa mọi điều xấu ác.

[40] Kinh văn câu này là “無量方便力 - vô lượng lực phương tiện”, Văn Cú trích dẫn thành “無量方便力 - vô lượng phương tiện lực”. Chúng tôi điều chỉnh lại theo kinh văn. Kinh văn đề cập đến các lực (thập lực) và phương tiện của chư Phật, trong khi Văn Cú dẫn lại sẽ mang nghĩa “sức phương tiện”, hoàn toàn khác nhau.

[41] Kinh văn là “眾生心所念 – chúng sinh tâm sở niệm”, Văn Cú trích dẫn là “眾生心所念 - chúng sinh tâm niệm”.

[42] Nguyên tác dùng “thất phương tiện”, theo giáo lý Thiên Thai tông là chỉ bảy thừa phương tiện. Chúng sinh tùy theo công phu tu tập đã có mà thuộc về một trong bảy thừa này, bao gồm: 1. Nhân thừa, 2. Thiên thừa, 3. Thanh văn thừa, 4. Duyên giác thừa, 5. Bồ tát thừa của Tạng giáo, 6. Bồ tát thừa của Thông giáo, và 7. Bồ tát thừa của Biệt giáo.

[43] Bảy thừa phương tiện đã nói rõ ở trước, bao gồm: 1. Nhân thừa, 2. Thiên thừa, 3. Thanh văn thừa, 4. Duyên giác thừa, 5. Bồ tát thừa của Tạng giáo, 6. Bồ tát thừa của Thông giáo, và 7. Bồ tát thừa của Biệt giáo.

[44] Nguyên tác dùng “Viên nhập Biệt” (圓入別), cũng gọi là Viên tiếp Biệt (圓接別), chỉ hàng Bồ Tát ở Biệt giáo nhưng đã thấu suốt giáo pháp, có thể tiếp nhập vào Viên giáo.

[45] Nguyên tác dùng “Bán, Mãn tương đối” (半滿相對), đó là nói dựa theo giáo nghĩa rốt ráo viên mãn thì Bồ Tát Thông giáo và Biệt giáo được gọi là “bán trung mãn” (半中滿), còn Bồ Tát Viên giáo được gọi là “mãn trung mãn” (滿中滿). Ở đây muốn nói rằng ngay cả Thông giáo rốt ráo đã là giả lập thì các khái niệm bán, mãn đối đãi nhau cũng không còn nữa.

[46] Câu trả lời này hàm ý những chúng sinh chưa giác ngộ rồi sẽ tiếp tục được chư Phật trong tương lai giáo hóa, cho nên ở đây chỉ nêu rõ việc hiện tại để nói lên sự viên mãn thệ nguyện độ sinh của Phật.

[47] Tức là Chánh pháp niệm xứ kinh (正法念處經), 70 quyển, do ngài Cù-đàm Bát-nhã-lưu-chi Hán dịch. (ĐCT, T17, 721)

[48] Ở đây nêu màu tím (紫 - tử) nhưng phần sau không thấy giải thích.

[49] Ở đây chỉ các cõi trời thuộc Dục giới nên mới có đủ sáu trần cảnh: hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm của thân và ý nghĩ tưởng các pháp.

[50] Năm cảnh giới được đề cập ở đây là cõi trời, cõi người, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

[51] Nguyên tác dùng thiên tánh (天性), nghĩa đen là “tánh trời”, hiểu theo ý nghĩa trong Phật pháp thì ở đây chỉ bản tánh tự nhiên.

[52] Nhị thập ngũ hữu (二 十五 有): cách phân chia ba cõi chúng sinh luân hồi thành hai mươi lăm cảnh giới, vì thế cũng đồng nghĩa với những danh từ như Tam giới, Ba cõi, Tam hữu, chư hữu. Trong Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) có tất cả 25 cảnh giới, mỗi cảnh giới đều có chúng sinh hữu tình, cho nên gọi là nhị thập ngũ hữu. Trong Dục giới có 14, trong Sắc giới có 7, trong Vô sắc giới có 4; phân chia cụ thể như sau: Tứ ác đạo (四惡道) gồm: 1. Địa ngục, 2. Súc-sinh, 3. Ngạ-quỷ, 4. A-tu-la; Tứ châu (四洲) hay Tứ thiên hạ gồm: 1. Phất-vu-đãi, 2. Cồ-da-ni, 3. Uất-đan-việt, 4. Diêm-phù-đề; Lục dục thiên (六欲天) gồm: 1. Tứ thiên vương xứ, 2. Tam thập tam thiên xứ, 3. Diệm-ma thiên, 4. Đâu-suất thiên, 5. Hóa lạc thiên, 6. Tha hóa tự tại thiên. Mười bốn cảnh này thuộc về Dục giới. Tứ thiền thiên (四禪天) gồm: 1. Sơ thiền, 2. Nhị thiền, 3. Tam thiền, 4. Tứ thiền; Tịnh cư thiên (淨居天) gồm: 1. Đại phạm vương, 2. Vô tưởng thiên, 3. Tịnh cư A-na-hàm. Bảy cảnh này thuộc về Sắc giới. Tứ không xứ thiên (四空處天) gồm: 1. Thức xứ, 2. Không xứ, 3. Bất dụng xứ (Vô sở hữu xứ) 4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Bốn cảnh này thuộc về Vô sắc giới.

[53] Tức là các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

[54] Nguyên tác chép là Thụ ấm thân kinh (受陰身經), hiện nay chúng tôi không tìm thấy tên kinh này. Pháp hoa văn cú ký cho rằng đây có thể là tên khác của Nhập thai kinh (入胎經). Các bản mục lục như Chúng kinh mục lục, Khai Nguyên Thích giáo lục, Lịch đại Tam bảo kỷ v.v. đều có ghi nhận tên chính thức của kinh này là Tu-đa-la nhập thai kinh (須多羅入胎經). Hiện không tìm thấy các kinh này trong Đại Chánh tạng nên không rõ nội dung.

[55] Tất cả những mô tả ở đây chỉ có tính chất biểu trưng, không phải những mô tả chính xác, cả về hình thể cũng như số lượng.

[56] Năm kiến chấp sai lầm, tức ngũ kiến (五見), bao gồm: 1. Ngã kiến (我見), tức quan niệm chấp chặt về sự tồn tại của bản ngã; 2. Biên kiến (邊見), tức quan niệm bám chấp thiên lệch, cực đoan, hoặc rơi vào thường kiến, hoặc rơi vào đoạn kiến; 3. Tà kiến (邪見), tức quan niệm, kiến giải sai lầm, nhất là về hiểu sai về nhân quả; 4. Kiến thủ kiến (見取見), tức là định kiến, thành kiến, là sự chấp chặt quan niệm sai lầm rồi vận dụng vào các quan niệm khác, tiếp tục dẫn đến sai lầm; 5. Giới cấm thủ kiến (戒禁取見), tức quan niệm sai lầm về việc giữ giới luật, không hiểu đúng mục đích của sự trì giới, hoặc chấp nhận những giới luật sai lầm của ngoại đạo.

[57] Năm thừa, chỉ hàng phàm phu chưa chứng quả gồm chư thiên các cõi trời (thiên thừa) và loài người (nhân thừa), cùng ba tầng bậc tu chứng là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa. Như vậy, năm thừa thật ra là chỉ tất cả chư thiên và loài người, những chúng sinh có khả năng tu tập và chứng đắc quả Phật.

[58] Văn Cú trích dẫn kinh Tịnh Danh, tức kinh Duy-ma-cật sở thuyết, nhưng chỗ này chép là: “住調伏心是賢聖行 - trụ điều phục tâm thị hiền thánh hạnh” (Xem ĐCT, T34, 1718, trang 56c, d.24-25.) Trong thực tế, nội dung chính xác trong kinh Duy-ma-cật sở thuyết là: “若住調伏心是聲聞法 - nhược trụ điều phục tâm thị Thanh văn pháp” (Xem ĐCT, T14, 475, trang 545b, d.25-26.) Do vậy, chúng tôi điều chỉnh phần Việt dịch theo đúng kinh văn.

[59] Văn Cú trích câu này là “童子是童真地 - Đồng tử thị Đồng chân địa”, nhưng thật ra không có Đồng chân địa trong Thập địa (十地) của hàng Bồ Tát mà chỉ có Đồng chân trụ (童真住 - kumārabhūta) xếp thứ 8 trong Thập trụ (十住). Do vậy chúng tôi có điều chỉnh lại cho thích hợp.

[60] Văn Cú nói “登地自應成佛 - đăng địa tự ưng thành Phật”, chỉ hàng Bồ Tát đã lên đến Thập địa. Đây có thể là do tiếp tục hiểu địa vị Đồng chân là thuộc Thập địa thay vì đúng ra là ở Thập trụ. Xét theo 52 giai vị được trình bày trong kinh Thủ-lăng-nghiêm thì khác biệt này khá xa vì tiến trình từ thấp lên cao là: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác. Như vậy, Thập địa đã cận kề quả Phật, trong khi Thập trụ còn cách rất xa.

[61] Ba loại Phật tánh (tam Phật tánh): tức chánh nhân Phật tánh, liễu nhân Phật tánh và duyên nhân Phật tánh. Đây là cách giải thích do Đại sư Trí Khải nêu ra, căn cứ vào ý nghĩa trong kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 28.

[62] Nguyên tác dùng “為山始簣, 合抱初毫 - vi sơn thủy quỹ, hợp bão sơ hào”, nghĩa đen là “ngọn núi ban đầu chỉ là sọt đất, đống lớn ban sơ chỉ là sợi lông”.

[63] Nhân duyên chủng tử và liễu nhân chủng tử là nói các chủng tử Phật tánh theo nghĩa đã nêu trước.

[64] Thiên thừa, hàm nghĩa các pháp tu, việc lành dẫn đến được tái sinh về các cõi trời hưởng phước lạc.

[65] Toàn bộ đoạn văn này tuy Văn Cú nói là dẫn kinh Ngũ giới nhưng thật ra là trích dẫn lại nguyên văn trong Phiên dịch danh nghĩa tập (翻譯名義集), quyển 4. (ĐCT, T54, 2131, tr.1125c)

[66] Kinh văn trong đoạn kệ đang dẫn ở đây nói “一稱南無佛 - nhất xưng Nam-mô Phật.” Văn Cú nói “喜稱南無佛- hỷ xưng Nam-mô Phật” là một câu kệ ở phần sau. (Xem trang 9c, d.29, kinh văn đã dẫn.)

[67] Tức Đề-bà-đạt-đa.

[68] Nguyên tác nói “外國 - ngoại quốc” (nước ngoài), ở đây là người Trung Hoa dùng chỉ Ấn Độ.

[69] Nguyên tác chỉ nói “事天像 - sự thiên tượng” (thờ tượng trời), thật ra là chỉ việc thờ Phạm thiên, được tin là đấng sáng tạo và làm chủ thế giới.

[70] Thai kinh (胎經), tức Xử thai kinh (處胎經). Nội dung ở đây thật ra có thể được trích dẫn lại từ Chư kinh yếu tập (諸經要集) hoặc Pháp uyển châu lâm (法苑珠林). Cả hai sách này đều chép lại nội dung bài kệ giống nhau như sau: “又處胎經。佛告彌勒偈云。汝所三會人,是吾先所化, 九十六億人,受吾五戒者, 次是三歸人,九十二億者, 一稱南無佛,皆得成佛道 - Hựu Xử thai kinh, Phật cáo Di-lặc kệ vân: Nhữ sở tam hội nhân,thị ngô tiên sở hóa, cửu thập lục ức nhân, thụ ngô ngũ giới giả, thứ thị tam quy nhân, cửu thập nhị ức giả, nhất xưng Nam-mô Phật, giai đắc thành Phật đạo.” (Xem Chư kinh yếu tập, quyển 1, ĐCT, T54, 2123, tr.5c, bắt đầu từ d.5 và Pháp uyển châu lâm, quyển 16, ĐCT, T53, 2122, tr.402b, bắt đầu từ d.4.

[71] Có thể là Đại phương tiện Báo ân kinh (大方便報恩經), 7 quyển. Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy nội dung trích dẫn ở đây nên có thể Văn Cú chỉ dẫn lại từ nguồn đã nói trên.

[72] Nguyên tác là Hoa Lâm viên (華林園), theo kinh Di-lặc hạ sinh thành Phật thì là khu vườn có cây Long Hoa, nơi Bồ Tát Di-lặc sẽ đản sinh, thành Phật và giáo hóa chúng sinh.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 11 chương »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Đừng bận tâm chuyện vặt


Hai Gốc Cây


Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn


Gõ cửa thiền

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.170 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...