Phương pháp thực tập chính niệm được trình bày trong quyển sách này, nếu cố gắng thực hành, chắc chắn sẽ chuyển hóa được đời bạn. Giờ đây, tôi xin được giới thiệu và nhấn mạnh thêm về một khía cạnh khác của đạo Phật, con đường này đi song song với chính niệm, đó là metta, hay tâm từ. Thiếu tâm từ, chỉ riêng chính niệm khó có thể nào phá vỡ được sự dính mắc và ngã chấp. Và ngược lại, chính niệm là một nhân tố căn bản cần thiết để phát huy tâm từ. Hai điều này lúc nào cũng phải song hành với nhau.
THE TOOLS of mindfulness discussed in this book, if you choose to take advantage of them, can surely transform your every experience. In the afterword to the this new edition, I’d like to take some time to emphasize the importance of another aspect of the Buddha’s path that goes hand in hand with mindfulness: metta, or loving friendliness. Without loving friendliness, our practice of mindfulness will never successfully break through our craving and rigid sense of self. Mindfulness, in turn, is a necessary basis for developing loving friendliness. The two are always developed together.
In the decade since this volume first appeared, much has happened in the world to increase people’s feelings of insecurity and fear. In this troubled climate, the importance of cultivating a deep sense of loving friendliness is especially crucial for our wellbeing, and it is the best hope for the future of the world. The concern for others embodied in loving friendliness is at the heart of the promise of the Buddha—you can see it everywhere in his teachings and in the way he lived his life.
Mỗi người trong chúng ta đều có đầy đủ những hạt giống và tiềm năng thương yêu. Nhưng chỉ với một tâm thức tĩnh lặng, không bị ảnh hưởng bởi tham lam, sân hận và ganh tỵ, những hạt giống thương yêu này mới có thể trưởng thành. Nhờ mảnh đất phì nhiêu của chính niệm mà hoa tình thương được nở rộ. Chúng ta cần nuôi dưỡng những hạt giống thương yêu ấy trong ta và trong người khác, giúp chúng cắm rễ và trưởng thành.
Each of us is born with the capacity for loving friendliness. Yet only in a calm mind, a mind free from anger, greed, and jealousy, can the seeds of loving friendliness develop; only from the fertile ground of a peaceful mind can loving friendliness flower. We must nurture the seeds of loving friendliness in ourselves and in others, help them take root and mature.
Tôi có dịp đi rất nhiều nơi trên thế giới để dạy Phật pháp, và vì vậy tôi phải mất nhiều thời gian ở những sân bay. Một hôm, tôi ngồi ở sân bay Gatwick gần London để chờ một chuyến bay. Tôi có nhiều thời gian trống, nhưng đối với tôi điều đó không bao giờ là vấn đề. Thật ra nó là một niềm vui, vì tôi có cơ hội để thực tập thiền quán. Thế là tôi ngồi đó giữa phòng đợi của sân bay, chân xếp bằng trên ghế, mắt nhắm lại, trong khi quanh tôi người ta lũ lượt đến và đi, hối hả đổi chuyến bay. Trong những hoàn cảnh này, khi ngồi thiền tôi thường thực tập niệm tâm từ, đem tình thương ban rải đến cho mọi người, ở khắp mọi nơi. Với mỗi hơi thở, mỗi mạch nhảy, mỗi nhịp tim, tôi để cho toàn thể con người mình được thấm nhuần và tỏa sáng một tình thương, một tâm từ.
I travel all over the world teaching the Dhamma, and consequently I spend a lot of time in airports. One day I was in Gatwick airport near London waiting for a flight. I had quite a bit of time, but for me having time on my hands is not a problem. In fact, it is a pleasure, since it means more opportunity for meditation! So there I was, sitting crosslegged on one of the airport benches with my eyes closed, while all around me people were coming and going, rushing to and from their flights. When meditating in situations like this, I fill my mind with thoughts of loving friendliness and compassion for everyone everywhere. With every breath, with every pulse, with every heartbeat, I try to allow my entire being to become permeated with the glow of loving friendliness.
Giữa sân bay náo nhiệt ấy, chìm đắm trong một cảm thụ của tâm từ, tôi không còn để ý đến sự ồn ào và xô bồ của thế giới chung quanh. Nhưng bỗng dưng tôi có cảm giác như có một người nào đó đang đến ngồi sát bên tôi. Tôi vẫn không mở mắt ra, tiếp tục hành thiền và phóng rải tâm từ. Rồi tôi cảm thấy có hai bàn tay nhỏ xíu ôm choàng lấy cổ tôi. Tôi từ từ mở mắt ra, và thấy đó là một em bé gái nhỏ thật dễ thương, chắc chỉ độ chừng hai tuổi. Mắt cháu màu xanh thật sáng, với những lọn tóc vàng, đang ôm chầm lấy tôi thật sát. Ngồi trong phi trường, trước đây tôi có thấy cháu đi với mẹ cháu, bàn tay bé nhỏ nắm chặt lấy ngón tay của mẹ. Có lẽ cháu đã rời mẹ cháu và chạy sang chỗ tôi.
In that busy airport, absorbed in feelings of metta, I was paying no attention to the hustle and bustle around me, but soon I had the sensation that someone was sitting quite close to me on the bench. I didn’t open my eyes but merely kept on with my meditation, radiating loving friendliness. Then I felt two tiny, tender hands reaching around my neck, and I slowly opened my eyes and discovered a very beautiful child, a little girl perhaps two years old. This little one, with bright blue eyes and a head covered in downy blond curls, had put her arms around me and was hugging me. I had seen this sweet child as I was people watching; she had had her hand grasped around her mother’s little finger. Apparently, the little girl had loosened herself from her mother’s hand and run over to me.
Tôi nhìn lên thì thấy mẹ cháu cũng vừa đuổi tới nơi. Thấy nó đang ôm cổ tôi, mẹ cháu bảo: “Xin Thầy ban phước cho cháu và để nó đi.” Tôi không biết đứa bé nói tiếng gì, nhưng tôi bảo cháu bằng tiếng Anh: “Cháu đi đi. Mẹ cháu có nhiều nụ hôn cho cháu lắm, nhiều đồ chơi và nhiều kẹo nữa kìa. Còn ta chẳng có gì hết. Cháu đi đi.” Nhưng đứa bé vẫn cứ bá chặt vào cổ tôi, không chịu buông ra. Và người mẹ lại nhìn tôi, chắp tay lại và nói với một giọng rất ân cần: “Xin Thầy làm ơn ban phước cho cháu, và để cho cháu đi.”
I looked over and saw that her mother had chased after her. Seeing her little girl with her arms around my neck, the mother asked me, “Please bless my little girl and let her go.” I did not know what language the child spoke, but I said to her in English, “Please go. Your mother has lots of kisses for you, lots of hugs, lots of toys, and lots of sweets. I have none of those things. Please go.” The child hung on to my neck and would not let go. Again, the mother folded her palms together and pleaded with me in a very kindly tone, “Please, sir, give her your blessing and let her go.”
Lúc này, những người khác trong phi trường cũng bắt đầu để ý đến chúng tôi. Có lẽ họ nghĩ tôi quen biết với đứa bé gái, hoặc là tôi với nó có liên hệ với nhau. Họ tin chắc rằng tôi và đứa bé nhất định phải có một sự ràng buộc nào đó. Nhưng trước hôm ấy, tôi chưa từng gặp nó bao giờ. Tôi cũng không rõ cháu nói ngôn ngữ gì nữa. Và tôi lại phải năn nỉ: “Cháu đi đi. Cháu và mẹ cháu còn phải lên phi cơ cho kịp giờ. Trễ rồi đó. Mẹ có nhiều đồ chơi với kẹo lắm kìa. Ta đâu có gì đâu. Hãy đi đi.” Nhưng đứa bé gái vẫn không chút nao núng. Nó lại còn ôm chặt lấy tôi hơn nữa. Người mẹ thấy vậy đến nhẹ nhàng gỡ tay của đứa bé ra và nhờ tôi ban phước cho nó. “Cháu ngoan lắm.” Tôi nói: “Mẹ cháu thương cháu lắm. Nhanh lên. Coi chừng trễ chuyến bay rồi đó. Cháu đi đi.” Nhưng đứa bé gái vẫn không chịu đi. Nó oà khóc lên. Cuối cùng, mẹ nó phải bế nó lên. Đứa bé vùng vẫy và la khóc. Nó muốn tụt xuống và chạy lại tôi. Nhưng lần này mẹ nó cố giữ nó lại và mang nó lên phi cơ. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy cháu vẫn còn đang cố thoát ra khỏi mẹ cháu để chạy lại với tôi.
By this time, other people in the airport were beginning to notice. They must have thought that I knew this child, that perhaps she was related to me somehow. Surely they thought there was some strong bond between us. But I had never before that day seen this lovely little child. I did not even know what language she spoke. Again, I urged her, “Please go. You and your mother have a plane to catch. You are late. Your mother has all your toys and candy. I have nothing. Please go.” But the little girl would not budge. She clung to me harder and harder. The mother then very gently took the little girl’s hands off my neck and asked me to bless her. “You are a very good little girl,” I said. “Your mother loves you very much. Hurry. You might miss your plane. Please go.” But still the little girl would not go. She was crying and crying. Finally the mother carefully snatched her up. The toddler was kicking and screaming. She was trying to get loose and come back to me. But this time the mother managed to carry her off to the plane. The last I saw of her she was still struggling to get loose and run back to me.
Có thể vì chiếc y tôi mặc mà đứa bé gái này tưởng tôi là ông già Nô-en hoặc một nhân vật thần thoại nào đó chăng? Nhưng cũng có thể là một lý do khác. Trong lúc đó tôi đang ngồi trên ghế và thực hành niệm tâm từ, metta, phóng rải những tư tưởng thương yêu ra khắp nơi với mỗi hơi thở. Có thể đứa bé gái này cảm nhận được điều đó. Trẻ con rất nhạy cảm trong lĩnh vực này, tâm thức của chúng dễ dàng hấp thụ được những cảm thụ chung quanh chúng. Khi bạn giận, chúng cảm nhận được sự rung động ấy, và khi bạn tràn đầy thương yêu và hạnh phúc, chúng cũng cảm nhận được. Có thể đứa bé gái ấy muốn đến gần tôi vì nó cảm nhận được một tâm từ. Giữa tôi và nó có một sự ràng buộc - bởi một sợi dây của tâm từ.
Maybe because of my robes, this little girl thought I was a Santa Claus or some kind of fairytale figure. But there is another possibility: At the time I was sitting on that bench, I was practicing metta, sending out thoughts of loving friendliness with every breath. Perhaps this little child felt this; children are extremely sensitive in these ways, their psyches absorb whatever feelings are around them. When you are angry, they feel those vibrations; and when you are full of love and compassion, they feel that too. This little girl may have been drawn to me by the feelings of loving friendliness she felt. There was a bond between us—the bond of loving friendliness.
Tâm từ rất nhiệm mầu. Chúng ta ai cũng có khả năng thương yêu cả. Cho dù ta có nhận biết hay không, năng lượng và hạt giống của thương yêu bao giờ cũng có mặt trong ta. Tâm từ là một trong bốn trạng thái siêu việt mà đức Phật có nói đến trong kinh. Ba tâm kia là tâm bi, tâm hỷ và tâm xả. Bốn trạng thái ấy đều liên kết mật thiết với nhau, ta không thể nào phát triển một cái này mà lại không cần đến ba cái kia.
Loving friendliness works miracles. We have the capacity to act with loving friendliness. We may not even know we have this quality in ourselves, but the power of loving friendliness is inside us all. Loving friendliness is one of the four sublime states defined by the Buddha, along with compassion, appreciative joy, and equanimity. All four states are interrelated; we cannot develop one without the other.
Một cách dễ hiểu hơn là lấy ví dụ của tình thương cha mẹ. Khi một người đàn bà trẻ biết rằng mình đang có thai một đứa bé, cô sẽ cảm thấy có một tình thương vô bờ bến đối với đứa con trong bụng. Cô ta sẽ sẵn sàng làm tất cả mọi việc để bảo vệ nó. Cô sẽ cố gắng hết sức mình để cái bào thai được khỏe mạnh và tốt lành. Người mẹ trẻ ấy có đầy những tư tưởng thương yêu và hy vọng về đứa con trong bụng mình. Cũng giống như tâm từ, metta, tình cảm của một người mẹ đối với đứa con là vô bờ bến, bao trùm tất cả và hoàn toàn vô điều kiện!
One way to understand them is to think of different stages of parenthood. When a young woman finds out she is going to have a child, she feels a tremendous outpouring of love for the baby she will bear. She will do everything she can to protect the infant growing inside her. She will make every effort to make sure the baby is well and healthy. She is full of loving, hopeful thoughts for the child. Like metta, the feeling a new mother has for her infant is limitless and allembracing; and, like metta, it does not depend on actions or behavior of the one receiving our thoughts of loving friendliness.
Khi đứa bé sinh ra và lớn lên, nó bắt đầu khám phá thế giới chung quanh, cha mẹ sẽ bắt đầu có tâm bi đối với nó. Mỗi khi đứa bé bị té trầy đầu gối, u đầu sứt trán, cha mẹ luôn cảm nhận được cái đau của con mình. Có nhiều bậc cha mẹ còn nói rằng, mỗi khi con mình đau là họ cũng cảm thấy như chính mình đang bị đau. Nhưng đây không phải là một sự thương hại, vì lòng thương hại chỉ tạo nên khoảng cách giữa ta và người khác. Tâm bi là một tâm muốn cho người khác được bớt khổ đau. Tâm bi dẫn ta đến những hành động thích hợp. Và một hành động thích hợp của tâm bi là muốn làm sao để sự đau đớn sớm chấm dứt, để con mình không còn khổ nữa.
As the infant grows older and starts to explore his world, the parents develop compassion. Every time the child scrapes his knee, falls down, or bumps his head, the parent feels the child’s pain. Some parents even say that when their child feels pain, it is as if they themselves were being hurt. There is no pity in this feeling; pity puts distance between others and ourselves. Compassion leads us to appropriate action; and the appropriate, compassionate action is just the pure, heartfelt hope that the pain stop and the child not suffer.
Thời gian trôi qua, đứa con lớn lên và cắp sách đến trường. Cha mẹ nhìn con mình kết bạn mới, học hành tiến bộ, tham gia các môn thể thao... Có thể đứa con học xuất sắc về môn toán, hoặc được nhận vào đội đá banh, hoặc được bầu làm lớp trưởng... Cha mẹ không bao giờ cảm thấy ganh tỵ về những thành công của con mình, ngược lại còn hân hoan vui mừng theo nó nữa. Đó chính là tâm hỷ. Ta mừng vui cho kẻ khác như là niềm vui của chính ta. Mặc dù người khác có vượt trội hơn ta, may mắn hơn ta, chúng ta vẫn hoan hỷ với những thành công của họ, mừng vui theo với niềm hạnh phúc của họ.
As time passes, the child heads off to school. Parents watch as the youngster makes friends, does well in school, sports, and other activities. Maybe the child does well on a spelling test, makes the baseball team, or gets elected class president. The parents are not jealous or resentful of their child’s success but are full of happiness for the child. This is appreciative joy. Thinking of how we would feel for our own child, we can feel this for others. Even when we think of others whose success exceeds our own, we can appreciate their achievement and rejoice in their happiness.
Và rồi khi đứa con trưởng thành. Nó ra trường, có sự nghiệp, lập gia đình và có con cái. Đây là lúc cha mẹ thực tập tâm xả. Lẽ dĩ nhiên, chắc chắn đây không phải là một thái độ lạnh lùng và dửng dưng. Nó là một sự bình an, hạnh phúc vì thấy rằng mình đã làm hết những gì cần phải làm cho con. Ta cũng ý thức được sự giới hạn của mình. Và lẽ dĩ nhiên, cha mẹ vẫn tiếp tục thương yêu và giúp đỡ con cái, nhưng họ biết rằng mình không còn kiểm soát được chúng nữa. Đó là sự thực tập tâm xả.
To continue in our example: Eventually, after many years, the child grows up. He finishes school and goes out on his own; perhaps he marries and starts a family. Now it is time for the parents to practice equanimity. Clearly, what the parents feel for the child is not indifference. It is an appreciation that they have done all that they could do for the child. They recognize their limitations. Of course the parents continue caring for and respecting their child, but they do so with awareness that they no longer steer the outcome of their child’s life. This is the practice of equanimity.
Mục đích tối thượng của thiền tập là nuôi dưỡng và phát triển bốn trạng thái này của tâm từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả.
The ultimate goal of our practice of meditation is the cultivation of these four sublime states of loving friendliness, compassion, appreciative joy, and equanimity.
The word metta comes from another Pali word, mitra, which means “friend.” That is why I prefer to use the phrase “loving friendliness” as a translation of metta, rather than “loving kindness.” The Sanskrit word mitra also refers to the sun at the center of our solar system that makes all life possible. Just as the sun’s rays provide energy for all living things, the warmth and radiance of metta flows in the heart of all living beings.
Hạt giống có mặt trong mỗi chúng ta
Mỗi sự vật sẽ phản chiếu ánh sáng mặt trời qua những cách khác nhau. Cũng vậy, mỗi người biểu lộ tâm từ qua những phương cách khác nhau. Có người bộc lộ sự nồng nhiệt một cách tự nhiên, có người hơi kín đáo và do dự khi mở con tim mình ra... Có người thực tập tâm từ một cách khá vất vả, trong khi có người lại không có khó khăn gì nhiều... Nhưng không một ai lại hoàn toàn không có tâm từ! Chúng ta đều sinh ra với một bản năng thương yêu, metta. Bạn hãy nhìn những đứa bé thơ mỉm cười rạng rỡ trước hình ảnh của một gương mặt người, bất cứ là gương mặt của ai. Tội nghiệp một điều là có nhiều người không ý thức được khả năng thương yêu của mình. Tiềm năng thương yêu ấy bị chôn vùi bên dưới những sân hận, giận hờn, ghét bỏ, mà ta đã huân tập trong một đời - mà có lẽ là rất nhiều đời - qua những tư tưởng và hành động bất thiện. Nhưng ai trong chúng ta cũng đều có thể nuôi dưỡng lại con tim biết thương yêu ấy, cho dầu trong bất cứ một hoàn cảnh nào. Chúng ta vẫn có thể tưới tẩm và nuôi dưỡng hạt giống từ bi, cho đến ngày hoa tình thương nở rộ và bay về trăm hướng.
Different objects reflect the sun’s energy differently. Similarly, people differ in their ability to express loving friendliness. Some people seem naturally warmhearted, while others are more reserved and reluctant to open their hearts. Some people struggle to cultivate metta; others cultivate it without difficulty. But there is no one who is totally devoid of loving friendliness. We are all born with the instinct for metta. We can see it even in young babies who smile readily at the sight of another human face, any human face at all. Sadly, many people have no idea how much loving friendliness they have. Their innate capacity for loving friendliness may be buried under a heap of hatred, anger, and resentment accumulated through a lifetime—perhaps many lifetimes—of unwholesome thoughts and actions. But all of us can cultivate our heart, no matter what. We can nourish the seeds of loving friendliness until the force of loving friendliness blossoms in all our endeavors.
Vào thời đức Phật, có một người tên là Aṅgulimla (Ương-quật-ma-la). Anh ta là một kẻ sát nhân giết hại rất nhiều người. Anh ta tàn ác đến nỗi đeo trên cổ mình một xâu chuỗi làm bằng ngón tay của những người anh đã giết. Và anh có ý định chọn đức Phật để làm nạn nhân thứ một ngàn của anh! Mặc dù đứng trước những lời đồn và bề ngoài dữ tợn của Aṅgulimla, đức Phật vẫn có thể nhận thấy được tiềm năng thương yêu của anh. Và nhờ khơi dậy được tiềm năng đó trong chính anh ta mà đức Phật đã cảm hoá được anh, và giảng Pháp cho kẻ giết người không gớm tay này. Sau khi nghe lời giảng của đức Phật, Aṅgulimla đã buông gươm xuống và quy y Phật. Anh ta xin xuất gia và đi theo tăng đoàn của ngài.
In the Buddha’s time, there was a man named Angulimala; this man was, to use the language of today, a serial killer, a mass murderer. He was so wretched that he wore around his neck a garland of fingers taken from the people he had slaughtered, and he planned to make the Buddha his thousandth victim. In spite of Angulimala’s reputation and his gruesome appearance, the Buddha nonetheless could see his capacity for loving friendliness. Thus, out of love and compassion—his own loving friendliness—the Buddha taught the Dhamma to this villainous murderer. As a result of the Buddha’s teaching, Angulimala threw away his sword and surrendered to the Buddha, joining the followers of the Buddha and becoming ordained.
Trong kinh kể rằng, nhiều năm về trước, Aṅgulimla bắt đầu đi giết hại nhiều người vì tin theo lời chỉ bảo của một đạo sĩ mà anh nhận làm thầy. Bản chất của Aṅgulimla không phải là tàn bạo, cũng không phải là ác độc. Thật ra, khi còn nhỏ anh là một cậu bé rất hiền lành. Trong tim anh có đầy sự thương yêu, dịu dàng và thân thiện. Sau khi xuất gia, những tiềm năng ấy trong anh lại được hiển bày, và chỉ trong một thời gian ngắn anh đã đạt được sự giác ngộ.
As it turned out, Angulimala started his vicious killing spree many years earlier because a man whom Angulimala regarded as his teacher had (for unwholesome reasons of his own) directed him to do so. Angulimala was not by nature a cruel person, nor was he an evil person. In fact, he had been a kind boy. In his heart, there was loving friendliness, gentleness, and compassion. As soon as he became a monk, his true nature was revealed, and not long after his ordination, he became enlightened.
Câu chuyện về Aṅgulimla nhắc nhở ta một điều. Đôi khi con người có thể có những hành động rất nhẫn tâm và tàn bạo, nhưng ta nên hiểu rằng đó không phải là tự tính của họ. Có thể vì hoàn cảnh, điều kiện trong cuộc đời đã khiến họ có những cách hành xử bất thiện ấy. Trong trường hợp của Aṅgulimla, đó là vì anh hoàn toàn tin tưởng theo lời hướng dẫn của thầy mình. Và đối với tất cả chúng ta, không phải chỉ riêng gì những kẻ tội phạm, có rất nhiều lý do và điều kiện khác nhau - thiện và bất thiện - đã đưa đẩy làm cho ta có cách hành xử như ngày hôm nay.
The story of Angulimala shows us that sometimes people can appear very cruel and wicked, yet we must realize they are not that way by nature. Circumstances in their lives make them act in unwholesome ways. In Angulimala’s case, he became a murderer because of his devotion to his teacher. For every one of us, not just violent criminals, there are countless causes and conditions—both wholesome and unwholesome—that make us act as we do.
Cùng với những bài thiền tập đã trình bày trong sách này, tôi xin được giới thiệu thêm một bài thiền tập niệm tâm từ. Trước hết, bạn bắt đầu bằng cách loại bỏ hết những tư tưởng tự ghét bỏ hoặc tự trách móc mình. Bắt đầu mỗi thời ngồi thiền, bạn hãy tự niệm thầm những câu sau đây, và phải thật sự cảm nhận được sự chân thành của mình:
In addition to the meditation offered earlier in this book, I’d like to offer another way to practice loving friendliness. Again, you start out in this meditation by banishing thoughts of selfhatred and condemnation. At the beginning of a meditation session, say the following sentences to yourself. And again, really feel the intention:
“Mong sao cho tâm tôi có đầy những tư tưởng từ, bi, hỷ và xả. Mong sao cho tôi được nhiều rộng lượng. Mong sao cho tôi được thoải mái. Mong sao cho tôi được vui vẻ và hạnh phúc. Mong sao cho tôi được khỏe mạnh. Mong sao cho con tim tôi được dịu dàng. Mong sao cho tôi luôn nói lời ái ngữ. Mong sao cho tôi luôn hành động tử tế.
May my mind be filled with the thoughts of loving friendliness, compassion, appreciative joy, and equanimity. May I be generous. May I be gentle. May I be relaxed. May I be happy and peaceful. May I be healthy. May my heart become soft. May my words be pleasing to others. May my actions be kind.
“Mong sao cho những gì tôi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ sẽ giúp cho tôi nuôi dưỡng thêm tâm từ, bi, hỷ và xả. Mong sao cho chúng giúp tôi được thêm rộng lượng và tử tế. Mong sao cho chúng giúp tôi được nghỉ ngơi. Mong sao cho chúng làm khơi dậy những hành động thân ái trong tôi. Mong sao cho những kinh nghiệm ấy là sẽ nguồn suối của hạnh phúc và an vui. Mong sao cho chúng sẽ giúp tôi giải thoát ra khỏi mọi sự sợ hãi, căng thẳng, lo lắng và bất an.
May all that I see, hear, smell, taste, touch, and think help me to cultivate loving friendliness, compassion, appreciative joy, and equanimity. May all these experiences help me to cultivate thoughts of generosity and gentleness. May they all help me to relax. May they inspire friendly behavior. May these experiences be a source of peace and happiness. May they help me be free from fear, tension, anxiety, worry, and restlessness.
“Bất cứ nơi nào tôi đến trên thế gian này, trong bất cứ một phương nào, mong sao cho tôi luôn tiếp xúc với mọi người bằng một niềm an vui và thân thiện. Mọng sao cho tôi được bảo vệ trong mười phương khỏi những tham lam, sân hận, ghen tỵ, nhỏ nhen và sợ hãi.”
No matter where I go in the world, in any direction, may I greet people with happiness, peace, and friendliness. May I be protected in all directions from greed, anger, aversion, hatred, jealousy, and fear.
Khi chúng ta phát triển tâm từ trong ta, ta sẽ thấy rằng nó cũng có mặt trong người khác - cho dù có bị vùi lấp đến đâu. Đôi khi ta phải đào thật sâu, và đôi khi nó hiển nhiên ngay trên bề mặt.
When we cultivate loving friendliness in ourselves, we learn to see that others have this kind, gentle nature—however well hidden it might be. Sometimes we have to dig very deep to find it, other times it might be nearer to the surface.
Nhìn xuyên qua những vết dơ bẩn
Đức Phật có kể câu chuyện về một thầy nọ tìm thấy một miếng vải dơ trên đường. Tấm giẻ rách ấy bẩn thỉu đến nỗi thầy ấy không dám sờ tới. Ông ta lấy chân đá nó một hồi cho những thứ dơ bẩn ấy rơi ra bớt. Kinh tởm, ông ta lấy hết can đảm dùng hai ngón tay cẩn thận cầm nó lên đưa ra xa, sợ chạm vào người mình. Dầu vậy, vị thầy ấy vẫn nhận thấy được tiềm năng và giá trị của miếng vải ấy, ông ta mang về và giặt rửa thật nhiều lần cho thật sạch. Cuối cùng, nước giặt trở nên trong, và phía dưới những lớp bẩn thỉu, dơ dáy ấy là một chất liệu có thể sử dụng ích lợi. Vị thầy ấy thấy rằng, nếu ông có thể tìm được thêm những miếng vải như vậy, ông có thể may được cho mình một chiếc y thật tốt.
The Buddha told the story of a monk who finds a filthy piece of cloth on the road. The rag is so nasty, at first the monk does not even want to touch it. He kicks it with his foot to knock off some of the dirt. Disgusted, he gingerly picks it up with two fingers, holding it away from himself with contempt. Yet even as the monk does this, he sees potential in that scrap of dirty cloth, and takes it home and washes it—over and over and over. Eventually, the wash water runs clean, and from underneath the filth and grime, a useful piece of material is revealed. The monk sees that if he collects enough pieces, he could, perhaps, make this rag into part of a robe.
Cũng vậy, vì một người nào đó có những lời lẽ lỗ mãng và ác độc, người ấy có thể được xem như là hoàn toàn vô dụng. Ta khó có thể nào thấy được những hạt giống và tiềm năng thương yêu trong họ. Nhưng đây chính là chỗ ta nên thực tập sử dụng những phương tiện thiện xảo. Bên dưới lớp vỏ thô lỗ và cục cằn của người ấy, bạn vẫn có thể tìm thấy được một hạt châu sáng chói và tỏa chiếu, nó chính là chân tính của họ.
Likewise, because of a person’s nasty words, that person may seem totally worthless; it may be impossible to see that person’s potential for loving friendliness. But this is where the practice of Skillful Effort comes in. Underneath such a person’s rough exterior, you may find the warm, radiant jewel that is the person’s true nature.
Một người có thể dùng những lời lẽ thô lỗ đối với người khác, nhưng đôi khi vẫn hành xử rất thương yêu và dịu dàng. Họ có thể là những người “khẩu xà tâm Phật”. Đức Phật so sánh hạng người này với một ao nước bị rong rêu phủ kín. Muốn dùng nước ấy, bạn phải biết dùng tay gạt những rong rêu sang một bên. Cũng vậy, đôi khi chúng ta cũng cần phải bỏ qua những sơ xuất bề ngoài của một người, và nhìn thấy con tim chân thành của họ.
A person may use very harsh words for others, yet sometimes still act with compassion and kindness. In spite of her words, her deeds may be good. The Buddha compared this kind of person to a pond covered by moss. In order to use that water, you must brush the moss aside. Similarly, we sometimes need to ignore a person’s superficial weaknesses to find her good heart.
Nhưng nếu một người có lời nói không dễ thương và cử chỉ, hành động cũng không dễ thương thì sao? Hạng người này cũng vẫn có một con tim chân thật. Thử tưởng tượng bạn đang đi trên sa mạc. Bạn không mang theo nước, và chung quanh cũng không có nước. Bạn mệt và khát. Mỗi bước đi làm bạn khát thêm và lại càng khát thêm. Bạn tuyệt vọng, cầu mong cho có nước uống. Và lúc ấy, bạn tìm thấy một dấu chân trâu. Trong dấu chân trâu có một chút nước, nhưng không nhiều lắm vì lỗ rất cạn. Nếu bạn lấy tay vốc nước lên, nó sẽ nổi bùn. Trong cơn khát, bạn quỳ và cúi xuống. Từ từ, bạn đưa miệng mình kề sát xuống và húp từ ngụm nhỏ, chầm chậm, không để cho bùn dơ bị khuấy lên. Mặc dù bùn dơ có mặt nhưng nước vẫn được trong. Bạn có thể làm hết cơn khát của mình. Cũng với cùng một thái độ cố gắng ấy, bạn có thể tìm thấy được một con tim chân thành trong một người mà hoàn toàn có vẻ như không có chút gì muốn hối cải.
But what if a person’s words are cruel and her actions too are unkind? Is she rotten through and through? Even a person like this may have a pure heart. Imagine you have been walking through a desert. You have no water with you, and there is no water anywhere around. You are hot and tired. With every step, you become thirstier and thirstier. You are desperate for water. Then you come across a cow’s footprint. There is water in the footprint, but not much because the footprint is not very deep. If you try to scoop up the water with your hand, it will become very muddy. You are so thirsty, you kneel down and bend over. Very slowly, you bring your mouth to the water and sip it, very carefully so as not to disturb the mud. Even though there is dirt all around, the little bit of water is still clear. You can quench your thirst. With similar effort, we can find a good heart even in a person who seems totally without redemption.
Thiền viện của tôi nằm ở một miền đồi núi thuộc vùng đồng quê tiểu bang West Virginia. Khi trung tâm thiền tập này mới mở, có một ông hàng xóm ở cuối đường tỏ vẻ dường như không có thiện cảm với chúng tôi. Mỗi ngày tôi thường đi bộ rất lâu, và mỗi khi thấy ông ta, tôi vẫy tay chào, nhưng lần nào ông cũng nhíu mày và quay đi nơi khác. Dù vậy, lần nào gặp ông tôi cũng đưa tay vẫy chào và phóng gởi những tư tưởng từ bi, tốt lành đến cho ông. Tôi không hề nản lòng trước thái độ của ông ta, tôi không bao giờ bỏ cuộc với ông. Mỗi khi gặp ông, tôi vẫy tay chào. Sau chừng một năm trời, thái độ của ông bắt đầu thay đổi. Ông ta không còn nhíu mày nữa. Tôi cảm thấy rất vui. Sự thực tập ban rải tâm từ có lẽ bắt đầu có hoa trái.
The meditation center where I most often teach is in the hills of the West Virginia countryside. When we first opened our center, there was a man down the road who was very unfriendly. I take a long walk every day, and, whenever I saw this man, I would wave to him. He would just frown at me and look away. Even so, I would always wave and think kindly of him, sending him metta. I was not phased by his attitude; I never gave up on him. Whenever I saw him, I waved. After about a year, his behavior changed. He stopped frowning. I felt wonderful. The practice of loving friendliness was beginning to bear fruit.
Một năm sau nữa, khi tôi đi ngang ông trong lúc đi bộ, có một phép lạ xảy ra. Ông lái xe đi ngang qua và đưa một ngón tay lên khỏi tay cầm lái. Và tôi nghĩ: “Ồ, thật là tuyệt vời! Từ bi quán có hiệu quả quá!” Và rồi lại một năm nữa trôi qua, mỗi lần gặp ông tôi vẫn vẫy tay chào và chúc lành cho ông. Năm thứ ba, ông giơ hai ngón tay lên về hướng tôi. Và rồi năm kế đó, ông dở lên cả bốn ngón tay khỏi tay cầm lái. Thời gian vẫn trôi qua. Một ngày nọ tôi đang đi trên đường và gặp ông đang cho xe vào ngõ nhà mình. Lần này ông dở hẳn tay mình lên khỏi tay cầm lái, đưa ra bên ngoài cửa xe, và vẫy lại tôi.
After another year, when I passed him on my walk, something miraculous happened. He drove past me and lifted one finger off the steering wheel. Again, I thought, “Oh, this is wonderful! Loving friendliness is working.” And yet another year passed as, day after day, I would wave to him and wish him well. The third year, he lifted two fingers in my direction. Then the next year, he lifted all four fingers off the wheel. More time passed. I was walking down the road as he turned into his driveway. He took his hand completely off the steering wheel, stuck it out the window, and waved back to me.
Sau đó không lâu, một ngày nọ, tôi gặp ông đậu xe bên một con đường rừng nhỏ. Ông ta ngồi bên phía tay lái và đang hút thuốc lá. Tôi đến cạnh bên ông và chúng tôi bắt chuyện. Lúc đầu chúng tôi nói về chuyện thời tiết, và dần dần, ông bắt đầu kể câu chuyện của ông. Mấy năm trước đây ông bị một tai nạn rất nặng, một cây to ngã đè lên chiếc xe tải của ông. Ông bị gãy hết phần lớn xương trong người và bị hôn mê trong một thời gian rất lâu. Lần đầu tiên tôi gặp ông trên đường, lúc ấy ông cũng mới vừa bắt đầu bình phục. Ông không vẫy tay chào lại tôi không phải vì ông là một người khó chịu, nhưng vì ông không thể cử động hết những ngón tay. Nếu tôi bỏ cuộc thì có lẽ tôi sẽ không bao giờ biết được ông là một người tốt như thế nào! Có một ngày nọ, khi tôi phải đi xa, ông có ghé sang trung tâm để tìm tôi. Ông lo lắng vì đã nhiều ngày không thấy tôi đi bộ. Bây giờ chúng tôi là bạn.
One day, not long after that, I saw this man parked on the side of one of the forest roads. He was sitting in the driver’s seat smoking a cigarette. I went over to him and we started talking. First we chatted just about the weather and then, little by little, his story unfolded: It turns out that, several years ago, he had been in a terrible accident—a tree had fallen on his truck. Almost every bone in his body had been broken, and he was left in a coma for some time. When I first started seeing him on the road, he was only beginning to recover. It was not because he was a mean person that he did not wave back to me; he did not wave back because he could not move all his fingers! Had I given up on him, I would never have known how good this man is. One day, when I had been away on a trip, he actually came by our center looking for me. He was worried because he hadn’t seen me walking in a while. Now we are friends.
Thực hành niệm tâm từ
PRACTICING LOVING FRIENDLINESS
Đức Phật dạy: “Ta đem tâm ta quán chiếu khắp thế gian này, và ta không thấy một ai mà lại thương người khác hơn thương chính mình. Vì vậy những ai thương mình nên thực hành niệm tâm từ.” Chúng ta thực hành ban rải tâm từ đến chính mình trước, với chủ ý chia sẻ những tư tưởng thương yêu ấy đến cho người khác. Phát triển cảm thụ ấy. Hãy tử tế với chính mình cho thật trọn vẹn. Chấp nhận mình là như vậy. Làm hòa với những khuyết điểm của ta. Ôm ấp và chấp nhận những yếu kém của mình. Hãy từ tốn và tha thứ cho chính mình ngay trong giây phút này. Nếu có tư tưởng khởi lên, rằng ta phải là như thế này hoặc như thế khác, hãy buông bỏ chúng đi. Hãy để cho những cảm thụ thương yêu và tha thứ này ăn sâu vào trong ta. Để cho năng lực của tâm từ dâng tràn khắp thân và tâm mình. An nghỉ trong sự ấm áp và tỏa sáng của nó. Và rồi nới rộng cảm thụ này đến với người mình thương, người không quen biết, hoặc cũng không thương không ghét - và ngay cả đến những người thù ghét mình nữa!
The Buddha said, “By surveying the entire world with my mind, I have not come across anyone who loves others more than himself. Therefore one who loves himself should cultivate this loving friendliness.” Cultivate loving friendliness toward yourself first, with the intention of sharing your kind thoughts with others. Develop this feeling. Be full of kindness toward yourself. Accept yourself just as you are. Make peace with your shortcomings. Embrace even your weaknesses. Be gentle and forgiving with yourself as you are at this very moment. If thoughts arise as to how you should be such and such a way, let them go. Establish fully the depth of these feelings of goodwill and kindness. Let the power of loving friendliness saturate your entire body and mind. Relax in its warmth and radiance. Expend this feeling to your loved ones, to people you don’t know or feel neutrally about—and even to your adversaries!
Tất cả chúng ta hãy tưởng tượng rằng tâm mình được giải thoát ra khỏi mọi ham muốn, sân hận, ganh tỵ và sợ hãi. Để cho những tư tưởng của tâm từ ôm ấp ta và phủ kín ta. Để cho mỗi tế bào, mỗi giọt máu, mỗi nguyên tử, mỗi nguyên tố của thân và tâm ta được thấm nhuần trong tâm từ. Hãy buông thư cơ thể. Hãy buông thư tâm mình. Hãy để cho thân và tâm ta được ngập tràn những ý nghĩ thương yêu. Hãy để cho sự an vui và tĩnh lặng của tâm từ thâm nhập toàn thân ta!
Let each and every one of us imagine that our minds are free from greed, anger, aversion, jealousy, and fear. Let the thought of loving friendliness embrace us and envelop us. Let every cell, every drop of blood, every atom, every molecule of our entire bodies and minds be charged with the thought of friendliness. Let us relax our bodies. Let us relax our minds. Let our minds and bodies be filled with the thought of loving friendliness. Let the peace and tranquillity of loving friendliness pervade our entire being.
Mong sao cho mọi người, mọi loài trong khắp mọi phương, trong khắp cõi thế giới, đều có trái tim thương yêu. Hãy cầu cho họ có hạnh phúc, hãy cầu cho họ được nhiều may mắn, hãy cầu cho họ được tốt lành, hãy cầu cho họ có được những người bạn tốt và chân thành. Mong sao cho mọi người và mọi loài đều được sống trong cảm thụ của tâm từ - tràn đầy, cao thượng và vô biên. Mong sao cho tất cả không bị ai thù nghịch, không bị lo âu và sầu khổ. Mong sao cho mọi người luôn sống trong hạnh phúc!
May all beings in all directions, all around the universe, have good hearts. Let them be happy, let them have good fortune, let them be kind, let them have good and caring friends. May all beings everywhere be filled with the feeling of loving friendliness—abundant, exalted, and measureless. May they be free from enmity, free from affliction and anxiety. May they live happily.
Cũng như việc ta đi bộ, chạy bộ, hoặc bơi lội để giúp cho cơ thể được tráng kiện, sự thực tập niệm tâm từ một cách đều đặn sẽ làm con tim mình được vững mạnh. Lúc đầu, nó có thể như là sự thực hành của ta chỉ ở bề ngoài mà thôi. Nhưng khi ta cứ tiếp tục liên tưởng đến những ý nghĩ từ bi một cách đều đặn, nó sẽ trở thành một thói quen, một thói quen rất tốt lành. Theo thời gian, con tim ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, và phản ứng thương yêu của ta sẽ trở nên tự động. Và khi con tim mình đã được vững chãi rồi, ta có thể dễ dàng ban rải tư tưởng từ bi, thương yêu đến những người khó tính nhất.
Just as we walk or run or swim to strengthen our bodies, the practice of loving friendliness on a regular basis strengthens our hearts. At first it may seem as if you are only going through the motions. But by associating with thoughts of
metta over and over, it becomes a habit, a good habit. In time, your heart grows stronger, and the response of loving friendliness becomes automatic. As our hearts become stronger, even toward difficult people we can think kind and loving thoughts.
Mong sao cho những người thù ghét tôi luôn được khỏe mạnh, vui vẻ và an lành. Mong sao cho họ không gặp điều nguy hại nào, không gặp một khó khăn nào. Mong sao cho họ không bao giờ bị đau đớn. Mong sao lúc nào họ cũng được thành công.
May my adversaries be well, happy, and peaceful. May no harm come to them, may no difficulty come to them, may no pain come to them. May they always meet with success.
“Thành công?” Có người sẽ hỏi: “Làm sao ta có thể cầu mong cho kẻ thù ghét mình thành công được? Nếu như họ muốn giết hại mình thì sao?” Khi chúng ta mong cầu cho người thù ghét mình được thành công, ta không có ý nói về một thứ thành công của thế gian, hoặc thành công trong những việc làm bất thiện hay thiếu đạo đức. Chúng ta có ý nói đến sự thành công thuộc về lĩnh vực tâm linh. Rõ ràng là kẻ thù ghét ta không hề thành công về tâm linh, bằng không họ đã không làm những điều gì có thể gây hại cho ta!
“Success?” some people ask. “How can we wish our adversaries success? What if they’re trying to kill me?” When we wish success for our adversaries, we don’t mean worldly success or success in doing something immoral or unethical; we mean success in the spiritual realm. Our adversaries are clearly not successful spiritually; if they were successful spiritually, they would not be acting in a way that causes us harm.
Khi chúng ta nguyện cho kẻ thù ghét mình “Mong cho họ được thành công,” là ta muốn nói rằng “Mong sao cho người thù ghét tôi được thoát khỏi những sân hận, tham lam và ganh ghét. Mong sao cho họ được an vui, dễ chịu và hạnh phúc.” Tại sao một người lại có những hành động tàn nhẫn hoặc không dễ thương? Có lẽ vì người ấy đã lớn lên trong những hoàn cảnh khó khăn hoặc thiếu may mắn. Có lẽ do những nguyên nhân sâu xa nào đó trong cuộc đời người ấy, mà ta không biết đến, đã khiến họ hành xử khó thương như vậy. Đức Phật khuyên ta nên nghĩ đến họ giống như là những người đang bị cơn bệnh khốn đốn hành hạ. Chúng ta có bao giờ bực tức hay giận hờn một người mắc bệnh không? Hay là ta có lòng thương và muốn giúp đỡ người ấy? Có lẽ kẻ thù ghét ta cần nhiều tình thương của ta hơn là những người thân, vì khổ đau của họ lớn hơn gấp bội phần. Vì vậy, họ là những người cần tâm từ của ta nhiều nhất. Chúng ta nên giữ họ trong trái tim mình, như những người thân thương nhất của ta.
Whenever we say of our adversaries, “May they be successful,” we mean: ”May my enemies be free from anger, greed, and jealousy. May they have peace, comfort, and happiness.” Why is somebody cruel or unkind? Perhaps that person was brought up under unfortunate circumstances. Perhaps there are situations in that person’s life we don’t know about that cause him or her to act cruelly. The Buddha asked us to think of such people the same way we would if someone were suffering from a terrible illness. Do we get angry or upset with people who are ill? Or do we have sympathy and compassion for them? Perhaps even more than our loved ones, our adversaries deserve our kindness, for their suffering is so much greater. For these reasons, without any reservation, we should cultivate kind thoughts about them. We include them in our hearts just as we would those dearest to us.
Mong sao cho những ai đã làm hại ta sẽ được giải thoát khỏi những ham muốn, sân hận, ganh tỵ và sợ hãi. Hãy để cho những tư tưởng của tâm từ ôm ấp họ và phủ kín họ. Hãy để cho mỗi tế bào, mỗi giọt máu, mỗi nguyên tử, mỗi nguyên tố của thân và tâm họ được thấm nhuần trong tâm từ. Hãy cầu cho họ buông thư cơ thể của mình. Hãy cầu cho họ buông thư tâm mình. Hãy để cho thân và tâm họ được ngập tràn những ý nghĩ thương yêu. Hãy cầu cho sự an vui và tĩnh lặng của tâm từ thâm nhập toàn thân của họ!
May all those who have harmed us be free from greed, anger, aversion, hatred, jealousy, and fear. Let these thoughts of loving friendliness embrace them, envelop them. Let every cell, every drop of blood, every atom, every molecule of their entire bodies and minds be charged with thoughts of friendliness. Let them relax their bodies. Let them relax their minds. Let the peace and tranquillity pervade their entire being.
Thực tập niệm tâm từ có thể thay đổi được những đường lối suy nghĩ tiêu cực của mình, và củng cố lại những tư tưởng tích cực. Khi ta thực tập niệm tâm từ, tâm ta sẽ được ngập tràn hạnh phúc và an vui. Ta sẽ được an nghỉ. Tâm ta được định. Và khi tâm ta trở nên tĩnh lặng và an vui, mọi sự ghét bỏ, sân hận, và thù hằn sẽ phai mờ đi mất. Nhưng tâm từ không phải chỉ giới hạn trong tư tưởng. Chúng cần phải được biểu lộ ra thành lời nói và hành động của mình. Ta không thể phát triển tâm từ bằng cách cô lập mình với thế giới chung quanh.
Practicing loving friendliness can change our habitual negative thought patterns and reinforce positive ones. When we practice metta meditation, our minds will become filled with peace and happiness. We will be relaxed. We gain concentration. When our mind becomes calm and peaceful, our hatred, anger, and resentment fade away. But loving friendliness is not limited to our thoughts. We must manifest it in our words and our actions. We cannot cultivate loving friendliness in isolation from the world.
Bạn có thể bắt đầu bằng cách nghĩ những tư tưởng tốt lành về tất cả mọi người bạn tiếp xúc mỗi ngày. Nếu có chính niệm, bạn có thể thực hành điều này trong mỗi giây phút bạn tiếp xúc với kẻ khác. Khi bạn gặp một người nào, bạn ý thức rằng, cũng như bạn, người ấy muốn có hạnh phúc và không thích bị khổ đau. Chúng ta ai cũng mong ước điều ấy. Mọi chúng sinh đều muốn điều ấy. Cho đến một con côn trùng nhỏ bé nhất cũng muốn trốn tránh đớn đau. Ý thức được điểm tương đồng này, ta sẽ thấy rằng tất cả mọi sự sống đều rất gần gũi với nhau. Người đàn bà đứng sau quầy hàng trả tiền, người đàn ông bạn qua mặt trên xa lộ, cặp tình nhân trẻ nắm tay nhau băng qua đường, cụ già ngồi trong chiếc ghế công viên cho bồ câu ăn... Mỗi khi bạn gặp một người nào, loài nào, bất cứ một sinh vật nào, hãy ghi nhớ một điều ấy. Hãy mong ước cho họ được hạnh phúc, an vui, và được gặp mọi điều tốt lành. Đó là một sự thực tập có thể thay đổi cuộc đời bạn, và cả những cuộc đời khác chung quanh bạn.
You can start by thinking kind thoughts about everyone you have contact with every day. If you have mindfulness, you can do this every waking minute with everyone you deal with. Whenever you see someone, consider that, like yourself, that person wants happiness and wants to avoid suffering. We all feel that way. All beings feel that way. Even the tiniest insect recoils from harm. When we recognize that common ground, we see how closely we are all connected. The woman behind the checkout counter, the man who passes you on the expressway, the young couple walking across the street, the old man in the park feeding the birds. Whenever you see another being, any being, keep this in mind. Wish for them happiness, peace, and wellbeing. It is a practice that can change your life and the lives of those around you.
Lúc đầu, có thể bạn sẽ cảm thấy có một sự chống cự lại sự thực tập này. Sự thực tập dường như hơi gượng ép và giả tạo. Có lẽ bạn không thể nào cảm nhận được những loại tư tưởng ấy. Có lẽ bạn cảm thấy mình có thể dễ dàng phóng tâm từ đến một số người này, và lại cảm thấy rất khó khăn đối với một số người khác. Ví dụ, những đứa bé thơ bao giờ cũng dễ khơi dậy lòng thương yêu trong ta, trong khi những người khác lại khó khăn hơn. Hãy quán sát thói quen ấy trong tâm ta. Hãy học nhận diện những tình cảm tiêu cực của mình và chuyển hóa chúng. Với chính niệm, từ từ từng chút một ta có thể làm thay đổi được những phản ứng của mình.
At first, you may experience resistance to this practice. Perhaps the practice seems forced. Perhaps you feel unable to bring yourself to feel these kinds of thoughts. Because of experiences in your own life, it may be easier to feel loving friendliness for some people and more difficult for others. Children, for example, often bring out our feelings of loving friendliness quite naturally; while with others, it may be more difficult. Watch the habits in your mind. Learn to recognize your negative emotions and start to break them down. With mindfulness, little by little you can change your responses.
Phóng gửi tư tưởng từ bi đến một người nào, có thật sự thay đổi được người ấy không? Thực tập niệm tâm từ có thể thay đổi được thế giới này không? Khi bạn phóng tâm từ đến những người ở xa hoặc những người mình không quen biết, lẽ dĩ nhiên bạn sẽ không thể nào biết được ảnh hưởng của nó. Nhưng bạn có thể nhận thấy được ảnh hưởng của việc niệm tâm từ trên sự an vui của mình. Điều quan trọng là sự chân thành trong lời mong cầu hạnh phúc của ta cho kẻ khác. Sự thật là ảnh hưởng ấy xảy ra tức thì. Nhưng chỉ có một cách duy nhất để biết được điều này là tự chính mình hãy thử lấy.
Does sending someone thoughts of loving friendliness actually change the other person? Can practicing loving friendliness change the world? When you are sending loving friendliness to people who are far away or people you may not even know, of course, it is not possible to know the effect. But you can notice the effect that practicing loving friendliness has on your own peace of mind. What is important is the sincerity of your own wish for the happiness of others. Truly, the effect is immediate. The only way to find this out for yourself is to try it.
Thực tập niệm tâm từ không có nghĩa là ta sẽ hoàn toàn làm ngơ trước những hành động bất thiện của kẻ khác. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là ta sẽ đáp ứng lại những hành động ấy bằng một đường lối thích hợp.
Có một vị hoàng tử tên là Abharaja Kumara, một hôm tìm đến gặp Phật và hỏi là có bao giờ đức Phật đối xử khắt khe với một người khác hay không. Lúc ấy, vị hoàng tử đang bế đứa con nhỏ của mình ngồi trong lòng. Đức Phật hỏi: “Này hoàng tử, giả sử như đứa con này của hoàng tử lấy một miếng gỗ nhỏ bỏ vào miệng và ngậm lại, hoàng tử sẽ làm gì?"
Vị hoàng tử đáp: “Nếu nó bỏ một miếng gỗ vào miệng nó, tôi sẽ giữ lấy nó thật chặt và dùng những ngón tay móc vào miệng nó để lấy ra. Dầu nó có khóc la và vùng vẫy mấy đi nữa, tôi cũng sẽ móc cho bằng được miếng gỗ ấy ra khỏi miệng, cho dù nó có bị chảy máu.”
“Tại sao hoàng tử lại làm như vậy?”
Practicing metta does not mean that we ignore the unwholesome actions of others. It simply means that we respond to such actions in an appropriate way. There was a prince named Abharaja Kumara. One day he went to the Buddha and asked whether the Buddha was ever harsh to others. At this time the prince had his little child on his lap. “Suppose, Prince, this little child of yours were to put a piece of wood in his mouth, what would you do?” asked the Buddha. “If he put a piece of wood in his mouth, I would hold the child very tightly between my legs and put my crooked index finger in his mouth. Though he might be crying and struggling in discomfort, I would pull the piece of wood out even if he bleeds,” said the prince. “Why would you do that?”
“Bởi vì tôi rất thương con của tôi. Tôi muốn cứu lấy mạng sống của nó.”
“Because I love my child. I want to save his life,” was his reply.
Đức Phật nói: “Cũng vậy đó, hoàng tử! Đôi khi ta cũng phải khắt khe đối với đệ tử của mình, không phải vì ghét bỏ, mà vì tình thương của ta đối với họ.”
Như vậy là tình thương, chứ không phải lòng sân hận, đã thúc đẩy hành động của ngài.
“Similarly, Prince, sometimes I have to be harsh on my disciples not out of cruelty, but out of love for them,” said the Buddha. Loving friendliness, not anger, motivated his actions.
Đức Phật đã cung cấp cho ta năm phương cách để giúp ta đối xử tốt lành với kẻ khác. Đó là năm giới quý báu. Có người cho rằng giới luật làm cản ngăn và giới hạn sự tự do. Nhưng thật ra, chính giới luật đã giải thoát chúng ta. Giới luật giúp ta tránh được những khổ đau mà ta thường gây ra cho chính mình và người khác khi hành xử thiếu chính niệm. Giới luật giúp ta bảo vệ người khác khỏi bị hại, và khi ta bảo vệ người khác là ta cũng đang bảo vệ chính ta! Năm giới quý báu ngăn ngừa chúng ta không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối hoặc nói lời cay độc, và không sử dụng những chất gây say khiến ta hành xử thiếu chính niệm.
The Buddha provided us with five very basic tools for dealing with others in a kindhearted way. These tools are the five precepts. Some people think of morality as restrictions on freedom, but in fact, these precepts liberate us. They free us from the suffering we cause ourselves and others when we act unkindly. These guidelines train us to protect others from harm; and, by protecting others, we protect ourselves. The precepts caution us to abstain from taking life, from stealing, from sexual misconduct, from speaking falsely or harshly, and from using intoxicants that cause us to act in an unmindful way.
Phát triển chính niệm qua thiền tập cũng có thể giúp ta đối xử với người khác bằng tâm từ. Trên tọa cụ, chúng ta theo dõi tâm mình khi có những sự thương ghét khởi lên. Chúng ta học cách thư giãn tâm mình khi các tư tưởng ấy khởi lên. Chúng ta học nhìn những thương ghét chỉ là những trạng thái tạm thời, và rồi buông bỏ chúng. Thiền tập giúp ta nhìn cuộc đời dưới một ánh sáng mới và cho ta một lối thoát. Càng thực tập sâu sắc bao nhiêu, ta sẽ càng trở nên khôn khéo bấy nhiêu!
Developing mindfulness through the practice of meditation also helps us relate to others with loving friendliness. On the cushion, we watch our minds as liking and disliking arise. We teach ourselves to relax our mind when such thoughts arise. We learn to see attachment and aversion as momentary states, and we learn to let them go. Meditation helps us look at the world in a new light and gives us a way out. The deeper we go in our practice, the more skills we develop.
Khi chúng ta giận ai, ta thường trở nên cố chấp và chỉ nhìn thấy được một khía cạnh nhỏ hẹp nào đó của người ấy. Thường thì chỉ trong chừng một vài giây cũng đã đủ để cho ta nói vài lời cay độc, một cái nhìn ghê tởm, một hành động thiếu suy nghĩ... Trong tâm ta, những khía cạnh tốt đẹp khác của người ấy đều bị tiêu tán hết. Tất cả còn lại chỉ là cái phần của người ấy mà đã khơi dậy cơn giận của ta. Khi ta làm điều này là ta đã chấp giữ và cô lập một phần rất nhỏ nhoi, luôn thay đổi, của một con người toàn vẹn, và rồi xem đó là thật, là cố định. Chúng ta không nhìn thấy hết mọi yếu tố và năng lực đã cấu thành con người ấy. Chúng ta chỉ tập trung vào một khía cạnh duy nhất của người đó - cái phần mà đã làm chúng ta nổi giận!
When we are angry with someone, we often latch on to one particular aspect of that person. Usually it’s only a moment or two, enough for a few harsh words, a certain look, a thoughtless action. In our minds, the rest of that person drops away. All that is left is the part that pushed our buttons. When we do this, we are isolating one miniscule fraction of the whole person as something real and solid. We are not seeing all the factors and forces that shaped that person. We focus on only one aspect of that person—the part that made us angry.
Trong nhiều năm qua, tôi có nhận được nhiều lá thư gửi ra từ trong tù, từ những phạm nhân muốn tìm học Phật pháp. Có nhiều người đã phạm những tội rất nặng, như là giết người. Dù vậy, bây giờ họ đã có một cái nhìn khác biệt và muốn thay đổi đời mình. Tôi có nhận được một lá thư chất chứa nhiều tuệ giác và đã làm tôi xúc cảm rất sâu đậm. Trong lá thư, người ấy kể lại những phạm nhân khác thường hay la hét và chế giễu như thế nào mỗi khi thấy người lính canh xuất hiện. Anh ta cố gắng giải thích cho những tù nhân khác rằng người lính ấy cũng là một con người! Nhưng họ đã bị sự căm thù làm mờ mắt. Tất cả những gì họ thấy chỉ là bộ đồ lính của anh ta, chứ không thấy được một con người phía dưới lớp quần áo ấy!
Over the years, I have received many letters from prisoners who are seeking to learn the Dhamma. Some have done terrible things, even murder. And yet they see things differently now and want to change their lives. There was one letter that was particularly insightful and deeply touched my heart. In it, the writer described how the other inmates shouted and jeered whenever the guard appeared. The inmate tried to explain to the others that this guard was also a human being, but the others were blinded by hatred. All they could see, he said, was the uniform, not the man inside it.
Khi chúng ta nổi giận đối với một người nào, ta có thể tự hỏi mình như sau: “Có phải tôi đang giận những sợi tóc trên đầu người đó không? Tôi giận da của người ấy? Hay răng của người ấy? Bộ óc của anh ta? Trái tim của anh? Tính hài hước của anh? Sự dịu dàng của anh? Tính rộng rãi của anh? Nụ cười của anh?...” Và khi chúng ta chịu bỏ thì giờ ra để xem xét hết tất cả những yếu tố và tiến trình cấu thành người ấy, cơn giận của ta tự nhiên sẽ nhẹ xuống.
Bằng sự thực tập chính niệm, chúng ta học cách nhìn lại mình và người khác được rõ ràng hơn. Sự hiểu biết ấy sẽ giúp chúng ta đối xử với kẻ khác bằng một tình thương. Trong mỗi chúng ta là một cốt lõi của sự tốt lành. Trong nhiều trường hợp, như trường hợp của Aṅgulimla, chúng ta không thể nào nhìn thấy được chân tính của họ. Hiểu được ý niệm về vô ngã sẽ giúp con tim ta được nhẹ nhàng hơn, và giúp ta dễ tha thứ hơn cho những hành động khó thương của người khác. Chúng ta sẽ biết đối xử với chính mình và kẻ khác bằng tâm từ.
When we are angry with someone, we can ask ourselves, “Am I angry at the hair on that person’s head? Am I angry at his skin? His teeth? His brain? His heart? His sense of humor? His tenderness? His generosity? His smile?” When we take the time to consider all the many elements and processes that make up a person, our anger naturally softens. Through the practice of mindfulness, we learn to see both ourselves and others more clearly. Understanding helps us to relate to others with loving friendliness. Within each of us is a core of goodness. In some, as in the case of Angulimala, we cannot see this true nature. Understanding the concept of “noself” softens our heart and helps us forgive the unkind actions of others. We learn to relate to ourselves and others with loving friendliness.
Nhưng nếu người khác muốn làm hại ta thì sao? Nếu người khác lăng mạ, sỉ nhục ta thì sao? Có thể bạn sẽ muốn trả đũa lại - và đó cũng chỉ là một phản ứng bình thường thôi. Nhưng rồi nó sẽ dẫn đến đâu? Kệ số 5 kinh Pháp Cú dạy rằng: “Hận thù không thể tiêu diệt được hận thù.” Một phản ứng sân hận chỉ đưa đến thêm nhiều sân hận. Và nếu bạn đem từ bi đáp lại cho hận thù, sự sân hận của người kia sẽ không thể nào tăng trưởng. Dần dần nó sẽ phai mờ đi.
But, what if someone hurts you? What if someone insults you? You may want to retaliate—which is a very human response. But, where does that lead? “Hatred is never appeased by more hatred,” it says in the Dhammapada. An angry response only leads to more anger. If you respond to anger with loving friendliness, the other person’s anger will not increase. Slowly it may fade away.
Cũng bài kệ trên trong kinh Pháp Cú viết tiếp: “Chỉ có tình thương mới diệt được hận thù.”
“By love alone is anger appeased,” continues the verse in the Dhammapada.
Một người luôn để tâm thù nghịch đức Phật là Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) có bày mưu để giết ngài. Ông ta xúi giục vua Ajtasattu (A-xà-thế) cho một con voi uống rượu say và thả nó chạy đến nơi mà ông biết đức Phật đang có mặt. Mọi người trên đường thấy con voi say hung hăng như điên cuồng đều hoảng sợ bỏ chạy. Gặp đức Phật đang đi trên đường, họ báo cho ngài hay và bảo ngài nên tránh đi. Nhưng đức Phật vẫn tiếp tục đi tới. Thấy vậy, thầy nanda, thị giả của Phật, nghĩ rằng mình phải ngăn chặn con voi điên ấy lại. Khi thầy nanda bước ra chặn phía trước đức Phật để bảo vệ ngài, đức Phật bảo nanda hãy tránh sang một bên. Sức mạnh của thầy nanda không thể nào ngăn chận được con voi say ấy!
An enemy of the Buddha named Devadatta concocted a scheme to kill the Buddha. Having enraged an elephant with alcohol, Devadatta let him loose at a time and a place Devadatta knew the Buddha would be. Everyone on the road ran away. Everyone who saw the Buddha warned him to run away. But the Buddha kept on walking. His devoted companion, the Venerable Ananda, thought he could stop the elephant. When Ananda stepped in front of the Buddha to try to protect him, the Buddha asked him to step aside; Ananda’s physical strength alone surely could not stop this elephant.
Khi con voi say tiến đến gần đức Phật, nó nhấc cao đầu lên, hai tai mở to như hai cánh quạt, vòi nó đưa lên cao một cách điên cuồng. Đức Phật chỉ đứng yên ngay trước mặt nó và phóng rải tâm từ của ngài đến con thú ấy - và con voi say đứng sựng lại. Đức Phật dịu dàng đưa bàn tay của ngài lên, lòng bàn tay hướng về phía con thú dữ, ban phóng tình thương của ngài đến cho nó. Con voi từ từ qùy xuống, khuất phục ngoan ngoãn như một con cừu. Chỉ bằng năng lực của tâm từ, đức Phật đã có thể khuất phục được một con thú dữ điên cuồng!
When the elephant reached the Buddha, his head was raised, his ears were upright and his trunk was lifted in a mad fury. The Buddha simply stood in front of him and radiated loving, compassionate thoughts toward the animal—and the elephant stopped in his tracks. The Buddha gently raised his hand up with his palm toward the beast, sending him waves of loving friendliness. The elephant knelt down before him, gentle as a lamb. With the power of loving friendliness alone, the Buddha had subdued the raging animal.
Phản ứng sân hận đối lại với sân hận là một phản ứng có điều kiện. Nó là kết quả của một sự huấn luyện hơn là một bản chất tự nhiên của ta. Nếu khi còn thơ, chúng ta được huấn luyện thực tập kiên nhẫn, dịu dàng và từ tốn, thì tâm từ sẽ trở thành một phần của đời mình. Nó trở thành một thói quen. Bằng không, sân hận trở thành thói quen. Nhưng dù vậy, dầu đã trưởng thành, chúng ta vẫn có thể thay đổi được cái thói quen phản ứng của mình. Chúng ta vẫn có thể tập cho mình phản ứng theo một cách khác.
The response of anger to anger is a conditioned response; it is learned rather than innate. If we have been trained from childhood to be patient, kind, and gentle, then loving friendliness becomes part of our life. It becomes a habit. Otherwise anger becomes our habit. But even as adults, we can change our habitual responses. We can train ourselves to react in a different way.
Có một câu chuyện khác về cuộc đời đức Phật có thể dạy cho chúng ta cách đáp lại những lời nặng nề và sự sỉ nhục của kẻ khác. Có một người thù nghịch với đức Phật, mua chuộc một cô gái điếm tên là Cinca đến để bêu xấu và làm nhục Phật. Cinca bó những thanh gỗ nhỏ lại và độn vào trong bụng, phía dưới áo, để trông giống như một người đang mang bụng chửa. Trong khi đức Phật đang giảng Pháp cho một thính chúng vài trăm người, cô bước ra trước đức Phật và nói: “Này ông lừa đảo kia. Ông làm bộ như mình là một người thánh thiện để giảng đạo cho hàng trăm người này. Nhưng hãy nhìn xem ông đã làm gì với tôi! Tôi mang cái bụng này là do ông đó.” Đức Phật vẫn điềm tĩnh, không chút tức giận, không thù ghét. Với một giọng đầy từ bi và thương yêu, đức Phật nói với Cinca: “Này cô kia, ở đây chỉ có cô và tôi là biết được việc gì đã xảy ra.” Cinca bị bất ngờ khi nghe câu trả lời của đức Phật. Vì quá lúng túng nên khi bước ra cô bị vấp té. Sợi dây bó những thanh gỗ bị đứt tung và chúng rơi xuống đất. Bụng cô nhỏ lại, và mọi người đều thấy được cái mưu chước gian dối của cô. Vài người trong đám đông muốn đánh phạt cô, nhưng đức Phật ngăn lại: “Đừng làm như vậy! Đó không phải là cách ta đối xử với cô ta. Ta nên đem giáo lý để chỉ dạy cho cô ta. Và đó mới là điều thích hợp.” Sau khi nghe đức Phật giảng dạy, tâm tính của cô Cinca hoàn toàn thay đổi. Cô trở nên hiền lành, dễ thương và lòng đầy tâm từ.
There is another story from the Buddha’s life that teaches us how to respond to insults and harsh words. The Buddha’s rivals had bribed a prostitute named Cinca to insult and humiliate the Buddha. Cinca tied a bunch of sticks to her belly underneath her rough clothes in order to look like she was pregnant. While the Buddha was delivering a sermon to hundreds of people, she came right out in front of him and said, “You rogue. You pretend to be a saint preaching to all these people. But look what you have done to me! I am pregnant because of you.” Calmly, the Buddha spoke to her, without anger, without hatred. With his voice full of loving friendliness and compassion, he said to her, “Sister, you and I are the only ones who know what has happened.” Cinca was taken aback by the Buddha’s response. She was so shocked that on the way back she stumbled. The strings that were holding the bundle of sticks to her belly came loose. All the sticks fell to the ground, and everyone realized her ruse. Several people in the audience wanted to beat her, but the Buddha stopped them. “No, no. That is not the way you should treat her. We should help her understand the Dhamma. That is a much more effective punishment.” After the Buddha taught her the Dhamma, her entire personality changed. She too became gentle, kind, and compassionate.
Khi có một người nào muốn làm cho bạn tức giận hoặc làm gì để hại bạn, hãy giữ những tư tưởng tốt lành của mình đối với người ấy. Đức Phật dạy: Một người trong tâm tràn ngập những tư tưởng từ bi cũng giống như mặt đất. Người ta có cố gắng làm tiêu hoại đất bằng cách dùng cuốc để đào xới lên, nhưng đó chỉ là những việc làm vô ích. Cho dù họ có đào xới trọn đời mình, hoặc nhiều đời đi chăng nữa, mặt đất này vẫn không suy suyễn. Quả đất này vẫn nguyên vẹn, vẫn tròn đầy. Cũng giống như đất, đối với một người có tâm từ sự tức giận sẽ không thể nào chạm tới được.
When someone tries to make you angry or does something to hurt you, stay with your thoughts of loving friendliness toward that person. A person filled with thoughts of loving friendliness, the Buddha said, is like the earth. Someone may try to make the earth disappear by digging at it with a hoe or an ax, but that is a futile act. No amount of digging—not in one lifetime or many lifetimes— makes the earth vanish. The earth remains, unaffected, undiminished. Like the earth, a person full of loving friendliness is untouched by anger.
Trong một câu chuyện khác về cuộc đời của đức Phật, có một người tên là Akkosina, có nghĩa là “không còn sân hận”. Nhưng thật ra anh ta lại hoàn toàn ngược lại: anh rất nóng tính. Khi anh ta nghe nói rằng đức Phật không bao giờ nổi giận với bất cứ ai, anh quyết định tìm gặp. Khi thấy đức Phật, anh ta đến trước mặt ngài và bắt đầu chửi rủa thậm tệ, anh dùng đủ mọi từ ngữ xấu xa để sỉ nhục đức Phật. Sau một hồi, anh ta im lặng vì thấm mệt. Khi ấy, đức Phật hỏi anh có người thân hay bạn bè gì không. Anh trả lời: “Có chứ.”. Ngài lại hỏi: “Khi anh đến thăm những người ấy, anh có thường mang quà tặng họ không?” Anh đáp: “Lẽ dĩ nhiên, lúc nào ta cũng mang theo quà.” Đức Phật hỏi: “Nhưng nếu họ không nhận quà của anh thì anh làm gì?” “À, thì ta mang về nhà cho mình và gia đình mình hưởng thụ.”
Đức Phật nói: “Cũng giống như vậy, hôm nay anh đến đây và mang cho tôi những món quà, nhưng tôi không nhận. Anh hãy mang chúng về nhà cho gia đình của anh.”
Với sự kiên nhẫn, khôn khéo và từ bi, đức Phật kêu gọi chúng ta hãy thay đổi lối suy nghĩ của mình về những “món quà” tức giận của kẻ khác.
In another story from the Buddha’s life, there was a man named Akkosina, whose name means “not getting angry.” But in fact, this man was exactly the opposite: he was always getting angry. When he heard that the Buddha never got angry with anyone, he decided to visit him. He went up to the Buddha and scolded him for all sorts of things, insulting him and calling him awful names. At the end of his tirade, the Buddha asked this man if he had any friends and relatives. “Yes,” he replied. “When you visit them, do you take them gifts?” “Of course,” said the man. “I always bring them gifts.” “What happens if they don’t accept your gifts,” the Buddha asked. “Well, I just take them home and enjoy them with my own family.” “And likewise,” said the Buddha, “You have brought me a gift today that I don’t accept. You may take that gift home to your family.” With patience, wit, and loving friendliness, the Buddha invites us to change how we think about the “gift” of angry words.
Nếu chúng ta đáp lại những lời lẽ sỉ nhục, giận dữ bằng chính niệm và tâm từ, ta sẽ có thể nhìn được vấn đề một cách trọn vẹn và rõ rệt hơn. Có thể người kia không hề ý thức được những gì mình nói. Có thể những lời ấy không hề có ác ý gì đối với ta. Chúng có thể hết sức thật thà và vô tình. Có lẽ vì tâm trạng của ta lúc nghe những lời ấy không được tốt đẹp lắm. Có lẽ ta không nghe rõ được tất cả hoặc là hiểu lầm ý của người kia. Cẩn thận xem xét lại những gì họ nói cũng là một điều rất cần thiết. Nếu chúng ta vội nổi giận, ta sẽ không thể nào thấy được cái thông điệp phía sau những lời ấy. Có thể người ấy muốn nêu lên một điều gì đó, mà ta cũng cần lắng nghe.
If we respond to insults or angry words with mindfulness and loving friendliness, we are able to look closely at the whole situation. Perhaps that person did not know what he or she was saying. Perhaps the words were not meant to harm you. It may have been totally innocent or inadvertent. Perhaps it was your frame of mind at the time the words were spoken. Perhaps you did not hear the words clearly or misunderstood the context. It is also important to consider carefully what that person is saying. If you respond with anger, you will not hear the message behind the words. Perhaps that person is pointing out something you need to hear.
Chúng ta, ai cũng đều có gặp những hạng người chuyên “chọc tức” mình. Thiếu chính niệm và tâm từ, chúng ta sẽ tự động phản ứng bằng sân hận hoặc ghét bỏ. Với chính niệm, chúng ta có thể thấy được rõ những phản ứng của tâm mình đối với một số lời nói và hành động. Cũng giống như lúc đang ngồi trên tọa cụ, ta có thể theo dõi sự khởi lên của những ham muốn và ghét bỏ. Chính niệm cũng giống như một tấm lưới an toàn, bảo vệ ta khỏi những hành động bất thiện. Chính niệm giúp cho ta có thì giờ, và thì giờ sẽ giúp cho ta có sự chọn lựa. Chúng ta không cần để cho những cảm thụ của mình lôi cuốn đi. Ta có thể đáp ứng bằng tuệ giác thay vì là si mê.
We all encounter people who push our buttons. Without mindfulness and loving friendliness, we respond automatically with anger or resentment. With mindfulness, we can watch how our mind responds to certain words and actions. Just as we do on the cushion, we can watch the arising of attachment and aversion. Mindfulness is like a safety net that cushions us against unwholesome actions. Mindfulness gives us time; time gives us choices. We don’t have to be swept away by our feelings. We can respond with wisdom rather than delusion.
Niệm tâm từ
UNIVERSAL LOVING FRIENDLINESS
Niệm tâm từ không phải là những gì chúng ta làm khi ngồi yên một chỗ trên tọa cụ: suy nghĩ, suy nghĩ và suy nghĩ... Chúng ta cần phải để cho năng lực của tâm từ biểu lộ ra trong mỗi sự tiếp xúc của mình với kẻ khác. Tâm từ là một nguyên lý nền tảng của mọi tư tưởng, lời nói và hành động tốt lành. Với tâm từ, ta sẽ nhận thấy rõ được những nhu cầu của kẻ khác và sẵn sàng để giúp họ. Với tâm từ, ta cảm nhận được một niềm vui chân thật trước sự thành công của kẻ khác. Chúng ta cần có tâm từ để sống và làm việc hài hòa với những người chung quanh. Tâm từ sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những khổ đau do lòng sân hận và ganh tỵ gây nên. Khi chúng ta nuôi dưỡng được tâm từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả, không những ta sẽ làm cho cuộc sống của những người chung quanh được dễ chịu hơn, mà chính cuộc đời ta cũng sẽ trở nên an vui và hạnh phúc hơn. Năng lực của tâm từ, cũng giống như ánh sáng mặt trời tỏa chiếu, tác dụng của nó là vô biên và vô tận.
Loving friendliness is not something we do sitting on a cushion in one place, thinking and thinking and thinking. We must let the power of loving friendliness shine through every encounter with others. Loving friendliness is the underlying principle behind all wholesome thoughts, words, and deeds. With loving friendliness, we recognize more clearly the needs of others and help them readily. With thoughts of loving friendliness we appreciate the success of others with warm feeling. We need loving friendliness in order to live and work with others in harmony. Loving friendliness protects us from the suffering caused by anger and jealousy. When we cultivate our loving friendliness, our compassion, our appreciative joy for others, and our equanimity, we not only make life more pleasant for those around us, our own lives become peaceful and happy. The power of loving friendliness, like the radiance of the sun, is beyond measure.
Mong sao cho tất cả những ai đang bị giam cầm, dầu hợp pháp hay không hợp pháp, đang ở trong sự kiềm chế của cảnh sát, trên khắp thế giới, sẽ được đối xử hạnh phúc và an vui. Mong sao cho họ thoát khỏi mọi tham lam, sân hận, thù hằn, ganh tỵ và sợ hãi. Hãy cho thân và tâm họ được tràn ngập những tư tưởng từ bi. Hãy để cho sự bình an và tĩnh lặng được thấm nhuần toàn thể thân và tâm của họ.
May all those who are imprisoned legally or illegally, all who are in police custody anywhere in the world meet with peace and happiness. May they be free from greed, anger, aversion, hatred, jealousy, and fear. Let their bodies and minds be filled with thoughts of loving friendliness. Let the peace and tranquillity of loving friendliness pervade their entire bodies and minds.
Mong sao cho tất cả những ai đang nằm trong các bệnh viện, đang chịu đựng những khổ đau vì bệnh tật sẽ được gặp nhiều an vui và hạnh phúc. Mong sao cho họ thoát khỏi mọi đau đớn, sầu khổ, thất vọng, lo âu và sợ hãi. Cầu cho những tư tưởng từ bi này ôm ấp họ, trùm phủ họ. Cầu cho thân và tâm họ được tràn ngập những tư tưởng từ bi.
May all who are in hospitals suffering from numerous sicknesses meet with peace and happiness. May they be free from pain, afflictions, depression, disappointment, anxiety, and fear. Let these thoughts of loving friendliness embrace all of them, envelop them. Let their minds and bodies be filled with the thought of loving friendliness.
Mong sao cho tất cả những bà mẹ đang sanh nở được gặp nhiều an vui và hạnh phúc. Cầu cho mỗi giọt máu, mỗi tế bào, mỗi nguyên tử, mỗi nguyên tố trong toàn thể thân và tâm của họ được tràn ngập những tư tưởng từ bi.
May all mothers who are in pain delivering babies meet with peace and happiness. Let every drop of blood, every cell, every atom, every molecule of their entire bodies and minds be charged with these thoughts of friendliness.
May all single parents taking care of their children meet with peace and happiness. May they have the patience, courage, understanding, and determination to meet and overcome the inevitable difficulties, problems, and failures in life. May they be well, happy, and peaceful.
Mong sao cho tất cả những đứa trẻ bị lạm dụng và ngược đãi bởi người lớn được gặp nhiều an vui và hạnh phúc. Mong sao cho các em luôn được tràn đầy những tư tưởng từ, bi, hỷ và xả. Mong sao cho các em lúc nào cũng được nhẹ nhàng. Mong sao cho các em được thư thái. Mong sao cho trái tim các em được dịu êm. Mong sao cho những lời em nói được dễ thương. Mong sao cho các em được thoát khỏi mọi sự sợ hãi, căng thẳng, lo lắng và bất an.
May all children abused by adults in numerous ways meet with peace and happiness. May they be filled with thoughts of loving friendliness, compassion, appreciative joy, and equanimity. May they be gentle. May they be relaxed. May their hearts become soft. May their words be pleasing to others. May they be free from fear, tension, anxiety, worry, and restlessness.
Mong sao cho tất cả những nhà lãnh đạo đều rộng lượng, tử tế và thương yêu. Mong sao cho họ cảm thông và hiểu được những kẻ bị trị, những người thấp cổ bé miệng, nghèo khó, bị áp bức và kỳ thị. Mong sao cho trái tim của họ yếu mềm trước nỗi khổ của dân chúng. Cầu cho những tư tưởng từ bi này ôm ấp họ, trùm phủ họ. Cầu cho mỗi giọt máu, mỗi tế bào, mỗi nguyên tử, mỗi nguyên tố trong toàn thể thân và tâm của họ được tràn ngập những tư tưởng từ bi. Hãy để cho sự bình an và tĩnh lặng được thấm nhuần toàn thể thân và tâm của họ.
May all rulers be gentle, kind, generous, and compassionate. May they have understanding of the oppressed, the underprivileged, the discriminated against, and the povertystricken. May their hearts melt at the suffering of their unfortunate citizens. Let these thoughts of loving friendliness embrace them, envelop them. Let every cell, every drop of blood, every atom, every molecule of their entire bodies and minds be charged with thoughts of friendliness. Let the peace and tranquillity of loving friendliness pervade their entire being.
Mong sao cho tất cả những kẻ bị trị, những người thấp cổ bé miệng, nghèo khó, bị áp bức và kỳ thị, được gặp nhiều an vui và hạnh phúc. Mong sao cho họ thoát khỏi mọi đau đớn, sầu khổ, thất vọng, lo âu và sợ hãi. Mong sao cho mọi người ở mười phương thế giới được an lành, hạnh phúc và an vui. Mong sao cho họ có được kiên nhẫn, can đảm, hiểu biết và sự cương quyết để vượt qua mọi khó khăn, thử thách và những thất bại trong cuộc đời. Cầu cho những tư tưởng từ bi này ôm ấp họ, trùm phủ họ. Cầu cho thân và tâm họ được tràn ngập những tư tưởng từ bi.
May the oppressed and underprivileged, the povertystricken and those discriminated against, meet with peace and happiness. May they be free from pain, afflictions, depression, disappointment, anxiety, and fear. May all of them in all directions, all around the universe, be well, happy, and at peace. May they have the patience, courage, understanding, and determination to meet and overcome the inevitable difficulties, problems, and failures in life. May these thoughts of loving friendliness embrace all of them, envelop them. May their minds and bodies be filled with thoughts of loving friendliness.
Mong sao cho mọi chúng sinh ở mọi nơi, trong bất cứ hình dạng nào, với hai chân, bốn chân, nhiều chân, hoặc không chân, đang sinh ra hoặc sắp được sinh ra, trong kiếp này hoặc kiếp sau, đều có được một tâm an vui. Mong sao sẽ không có loài nào lường gạt hoặc khinh miệt loài nào. Mong sao sẽ không có loài nào sát hại loài nào. Đối với tất cả mọi chúng sinh, mong sao cho tôi có được một con tim vô biên, trên, dưới, và khắp chung quanh, không bị ngăn ngại bởi thù hận hoặc ganh ghét. Mong sao cho mọi chúng sinh đều được thoát khỏi khổ đau và có được một hạnh phúc hoàn toàn.
May all beings everywhere of every shape and form, with two legs, four legs, many legs, or no legs, born or coming to birth, in this realm or the next, have happy minds. May no one deceive another nor despise anyone anywhere. May no one wish harm to another. Toward all living beings, may I cultivate a boundless heart, above, below, and all around, unobstructed without hatred or resentment. May all beings be released from suffering and attain perfect peace.
Tâm từ vượt ra mọi biên giới của tôn giáo, văn hóa, địa lý, ngôn ngữ và quốc gia. Nó là một quy luật chung và cổ xưa, buộc chặt tất cả chúng ta lại với nhau - không phân biệt ta có một hình dạng nào. Tâm từ cần được thực tập một cách vô điều kiện. Cái đau của kẻ thù ghét tôi cũng là cái đau của tôi. Cái giận của họ cũng là cái giận của tôi. Tâm từ của họ là tâm từ của tôi. Nếu họ vui, tôi cũng vui. Nếu họ an ổn, tôi cũng thấy an ổn. Nếu họ khỏe mạnh, tôi cũng khỏe mạnh. Cũng như chúng ta chia sẻ với nhau những khổ đau không phân biệt, ta cũng nên chia sẻ tâm từ với tất cả mọi người, ở mọi nơi. Không có một quốc gia nào có thể tồn tại mà không cần nương tựa vào sự giúp đỡ của những quốc gia khác, và cũng không có một cá nhân nào là cô lập. Muốn sinh tồn, chúng ta cần phải có những loài khác, nhất là những loài rất khác biệt với mình. Sự thật đơn giản là như vậy. Chính vì những sự khác biệt ấy mà sự thực tập tâm từ là một điều hoàn toàn cần thiết. Nó là sợi dây buộc chặt tất cả chúng ta lại với nhau!
Loving friendliness goes beyond all boundaries of religion, culture,geography, language, and nationality. It is a universal and ancient law that binds all of us together—no matter what form we may take. Loving friendliness should be practiced unconditionally. My enemy’s pain is my pain. His anger is my anger. His loving friendliness is my loving friendliness. If he is happy, I am happy. If he is peaceful, I am peaceful. If he is healthy, I am healthy. Just as we all share suffering regardless of our differences, we should all share our loving friendliness with every person everywhere. No one nation can stand alone without the help and support of other nations, nor can any one person exist in isolation. To survive, we need other living beings, beings who are bound to be different from us. That is simply the way things are. Because of the differences we have, the practice of loving friendliness is absolutely necessary. It is what ties all of us together.