Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Thành công không phải là chìa khóa của hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa của thành công. Nếu bạn yêu thích công việc đang làm, bạn sẽ thành công. (Success is not the key to happiness. Happiness is the key to success. If you love what you are doing, you will be successful.)Albert Schweitzer
Nếu quyết tâm đạt đến thành công đủ mạnh, thất bại sẽ không bao giờ đánh gục được tôi. (Failure will never overtake me if my determination to succeed is strong enough.)Og Mandino
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn

Trang chủ »» Danh mục »» SÁCH ANH NGỮ HOẶC SONG NGỮ ANH-VIỆT »» Vầng sáng từ phương Đông »» Xem đối chiếu Anh Việt: PHÁP GIỚI VŨ TRỤ: TÂM VÀ VẬT »»

Vầng sáng từ phương Đông
»» Xem đối chiếu Anh Việt: PHÁP GIỚI VŨ TRỤ: TÂM VÀ VẬT

Donate

(Lượt xem: 10.459)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  Vietnamese || English || Tải về bảng song ngữ


       

Điều chỉnh font chữ:

PHÁP GIỚI VŨ TRỤ: TÂM VÀ VẬT

UNIVERSAL: MIND AND MATTERS

MIKE AUSTIN: Ngài nhìn thấy sự tiến hóa của nhân loại đang ở giai đoạn nào? Chẳng hạn, nếu so sánh toàn thể nhân loại như sự phát triển của một người, thì ngài cho rằng chúng ta đang ở trong thời kỳ trẻ thơ, niên thiếu hay trưởng thành?
Mike Austin: At what stage do you see mankind’s evolution? For instance, if you were to look at the entire human race as one person, would you say we’re in childhood, adolescence, adulthood?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Theo phần giáo lý chung của đạo Phật được ghi trong kinh điển, thế giới này có những giai đoạn tốt hơn và có những giai đoạn xấu hơn. Nay nếu bạn nói về thời gian của một kiếp, thì kỉ nguyên của chúng ta vẫn còn là trẻ thơ; nhưng nếu xét trong một khoảng thời gian ngắn hơn thì chúng ta đã già. Tôi sẽ giải thích điều này.
Dalai Latma: According to the general Buddhist teaching - Buddhist scriptures - sometimes the world is better, sometimes worse. Now if you speak about the period of one aeon, then our era is still childhood, but within a smaller period, it is old. I will explain.
Theo A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, một đại kiếp gồm 80 trung kiếp, chia làm 4 nhóm 20 trung kiếp. Nhóm 20 trung kiếp thứ nhất là kiếp không. Kiếp không là sự trống rỗng hoàn toàn khi thế giới hệ trước đó không còn tồn tại. Sau đó là 20 trung kiếp của kiếp thành, tức là thời kỳ hình thành của thế giới. Kế đến là 20 trung kiếp của kiếp trụ. Tiếp theo là 20 trung kiếp của kiếp hoại. Hiện nay chúng ta đang ở trong Kiếp trụ. Trong khoảng 20 trung kiếp của kiếp trụ, chúng ta đang ở vào thời kỳ đầu của kiếp giảm. Vì thế, khi kiếp này giảm, sẽ có 18 lần tăng và 18 lần giảm. Rồi lại tiếp tục nhóm 20 trung kiếp sau đó.
According to the Abhidharmakosha, one great aeon is composed of eighty intermediate aeons in four groups of twenty. The first twenty are aeons of vacuity. The vacuity is the absence of the last world system. They are followed by twenty aeons of formation of the new world system; then twenty aeons of abiding; then twenty aeons of destruction of that system. Right now we’re in the aeons of abiding. Within these twenty intermediate aeons of abiding, we are in the first long period of decline. So, as this one is coming down, there are eighteen ups and downs afterwards. Then the twentieth goes on up.
Nay chúng ta đang ở trong lần giảm thứ nhất, đến mức mà tuổi thọ trung bình của con người còn khoảng 100 tuổi. Trong ý nghĩa thời kỳ đầu của kiếp giảm thì chúng ta đã qua lâu rồi, bởi vậy nên gọi là già. Nhưng với ý nghĩa của 20 kiếp trụ thì chúng ta chỉ mới ở giai đoạn đầu.
Now we are in the first downward one, at the point in which the average lifespan is around a hundred years. In terms of this first period of decline, we are far along in it, and thus, old, but in terms of the twenty aeons of abiding, we are only at the beginning.
 MIKE AUSTIN: Có phải quan điểm tổng quát này chỉ xuất phát từ kinh điển?
Mike Austin: Is this panoramic view from scriptural sources only?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Đúng vậy.
Dalai Latma: Yes.
 MIKE AUSTIN: Phải chăng đó là căn cứ duy nhất cho cách mô tả như thế này về không gian và thời gian?
Mike Austin: Is that the only proof that can be cited for this picture of time and space?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tôi cho là vậy. Có lẽ chỉ là dựa vào kinh điển. Nhưng chẳng cần nói đến những khái niệm về “kiếp” này, ngay như việc giải thích về một ngôi sao gần nhất theo khoa học cũng đã là khó khăn. Quả thật là rất khó!
Dalai Latma: I think so; probably just scriptural. But forgot about all these aeons, it’s even difficult for us to explain in terms of science the nearest star. Quite difficult.
MIKE AUSTIN: Ngài muốn nói việc xác định vị trí hoặc mô tả hình thể?
Mike Austin: Where it is, or what it’s like?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Không, tôi muốn nói đến nguyên nhân hình thành thực sự hay những điều tương tự... Điều tôi đang nói đến lại là một thế giới hệ nằm trong cả nghìn tỉ thế giới, giống như giải thích về một thái dương hệ.
Dalai Latma: What is its real cause, and so forth. What I’m talking about is one world system within a billion worlds, like explaining one galaxy.
MIKE AUSTIN: Vâng! Vậy xin được đi ngay vào vấn đề. Phật giáo quan niệm như thế nào về nguồn gốc vũ trụ?
Mike Austin: OK, let’s go right to the beginning then. What is the Buddhist view of the origin of the universe?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Về mặt vật thể, đó chính là năng lượng. Còn xét về các sinh vật hoặc con người sống trong đó thì nguồn lực tạo ra đời sống của mỗi chúng sinh chính là nghiệp lực của những hành vi mà chúng sinh ấy đã tích tạo. Nghiệp lực là nguyên nhân khiến chúng sinh phải tái sinh theo hình thức nào đó.
Dalai Latma: In terms of matter, it’s really energy. In terms of the internal beings, or persons, the force that produces them is that of the actions they have accumulated, which cause them to be reborn in that way.
MIKE AUSTIN: Hãy xem xét trước hết vấn đề vật chất. Vật chất vốn vô tri. Cái gì là năng lượng khiến cho có các hiện tượng xuất hiện?
Mike Austin: Dealing first with the matter side of it, inanimate matter. What is the energy by which phenomena manifest?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Về các yếu tố cấu thành vũ trụ, yếu tố ban đầu là gió (phong đại), có nền tảng từ hư không. Rồi gió chuyển động, và dựa vào đó mà hơi nóng xuất hiện (hỏa đại), rồi có hơi nước (thủy đại), rồi chất rắn, chính là yếu tố đất (địa đại). Nếu bạn cần giải thích yếu tố gió ban sơ tương tục từ cái gì, thì có lẽ nó có từ thời kỳ kiếp không của thế giới hệ trước đó.
Dalai Latma: In terms of the elements, wind is first. Its basis is space. Then the wind moves, and in dependence on that, heat occurs; then moisture, then solidity - the earth element. If you have to explain what the initial wind is a continuation of, then probably it comes out of the period of vacuity of the former world system.
Dù sao đi nữa thì vũ trụ vẫn là vô cùng, vô hạn. Nếu bạn chỉ đề cập đến một thế giới trong phạm vi của thế giới hệ gồm cả ngàn tỷ thế giới thì có thể nói về một sự khởi nguyên. Còn như đề cập chung đến toàn thể vũ trụ thì không thể được.
In any case, it’s infinite. If you speak about one world within a world system of a billion worlds, then you can speak about a beginning; otherwise, in general, you can’t.
MIKE AUSTIN: Nhưng cái gì là nguyên nhân trực tiếp khởi đầu của hư không; và sau đó là của yếu tố gió hay năng lượng mà ngài đề cập đến?
Mike Austin: But what is the direct cause, initially, of space; and secondly, of this wind or energy you are speaking about.
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Nếu nói về nguyên nhân đến từ bên ngoài, thì như tôi đã trình bày, đó là thời kỳ kiếp không của thế giới hệ trước đó.
Dalai Latma: If you’re speaking externally, then just what I said; the period of vacuity of the former world system.
MIKE AUSTIN: Năng lượng có thể tự nhiên sinh khởi từ hư không?
Mike Austin: Energy spontaneously arises from vacuity?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Điều đó là tự nhiên, không phải do bịa đặt, nhưng đằng sau đó còn có nghiệp lực.
Dalai Latma: It’s natural, not something fabricated, but behind that is karmic force.
MIKE AUSTIN: Nghiệp lực ấy là gì?
Mike Austin: What is this karmic force?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Tất nhiên là cần phải giải thích về nghiệp. Nghiệp có nghĩa là hành vi tạo tác. Chẳng hạn như tôi đang nói, đó là hành vi tạo tác bằng lời nói (khẩu nghiệp). Khi tôi đưa bàn tay lên, đó là hành vi tạo tác của thân (thân nghiệp). Còn có sự tạo tác bằng tâm ý (ý nghiệp), đó là những trường hợp tạo tác mà không hề có bất cứ sự biểu hiện nào của thân hay lời nói.
Dalai Latma: Of course, it’s necessary to explain karma. Karma means action. For instance, I’m speaking now, and that’s a verbal act. I’m moving my hands, and that’s a physical act. Then there are mental actions which are cases in which there isn’t any physical or verbal manifestation.
Do những hành vi tạo tác này mà dẫn đến những hậu quả tức thời và lâu dài. Chẳng hạn như cuộc nói chuyện của chúng ta tạo ra được một bầu không khí giao tiếp nơi đây, và đó là kết quả tức thì. Tuy nhiên, cuộc nói chuyện của chúng ta cũng đồng thời khơi dậy một sức mạnh tinh thần, hoặc tạo ra một ấn tượng trong sự tương tục của tâm thức. Do những dấu ấn này mà sẽ có thêm những hành vi thiện, ác và không thiện không ác (vô ký), rất lâu sau khi những hành vi tạo tác ban đầu đã chấm dứt.
Due to these actions, there are both immediate and long - range results. Because of our speaking, a certain atmosphere is generated here and that’s an immediate effect. However, our speaking also establishes a potency, or makes an imprint on the continuum of the mind. Through this imprint there come to be further good, bad and neutral actions long after the original ones stop.
Do đó mà có các nghiệp thiện, nghiệp ác và nghiệp không thiện không ác. Lại có một trạng thái dừng chờ - khi hành vi tạo tác đã dừng hẳn - và trạng thái này tồn tại trong dòng tâm thức tương tục. Trạng thái dừng chờ này là một sự tĩnh tại có tác động - một sự vắng bặt có hàm chứa tác nhân. Đó là một năng lực khi hành vi tạo tác không đơn thuần là hoàn toàn dừng hẳn mà vẫn còn có khả năng tạo ra những kết quả trong tương lai. Những trạng thái dừng chờ này có khả năng tự phục hoạt từng sát-na cho đến khi kết quả được hình thành. Khi hội đủ những điều kiện thích hợp (duyên), nó sẽ chín muồi, tạo ra quả. Cho dù trải qua thời gian lâu dài hay ngắn ngủi cũng không khác gì nhau. Thậm chí có thể là qua hàng tỷ kiếp. Nếu con người không nương nhờ vào một phương tiện để hóa giải tiềm lực này - chẳng hạn như sám hối và phát nguyện không làm những việc ác - thì nghiệp lực này vẫn tồn tại.
Thus there are good, bad and neutral karmas. There is this state of cessation - the state of the activity’s having ceased - and this remains in the mental continuum. This state of cessation is an affirming negative - an absence which includes something positive. It is a potency which is not just the mere cessation of the action, but has the capacity of producing an effect in the future. These states of cessation are capable of regenerating moment by moment until an effect is produced. When it meets with the proper conditions, it fructifies, or matures. It doesn’t make any difference how much time passes. It could even be billions of aeons. If one hasn’t engaged in a means to cause the potency to be reduced - such as confession and intention of restraint in the case of bad actions - then it will just remain.
MIKE AUSTIN: Nghiệp lực tồn tại ở đâu?
Mike Austin: Where does it remain?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Trong dòng tương tục của tâm thức. Có hai cơ cở để giải thích cho sự tồn tại của nghiệp lực. Một là dòng tương tục của tâm thức vốn mang tính tạm thời. Và hai là cái ‘tôi’, cái bản ngã tương đối của một con người, vốn mang tính tương tục.
Dalai Latma: With the continuum of the mind. There are two bases that are explained for this imprint. One is continual, the other temporary. The temporary one is the mental continuum, and the continual one is the mere “I”, the relative self of a person.
MIKE AUSTIN: Chưa cần phải đi sâu vào chi tiết như vậy, nhưng hãy trở lại với chủ đề ban đầu, sự khác biệt cơ bản nhất giữa tâm và vật là gì?
Mike Austin: Not getting into such detail yet, but going all the way back to the beginning, what is the most basic difference between mind and matter?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vật tức là sắc thể; còn tâm chỉ thuần là sự chiếu tri.
Dalai Latma: Matter is physical; mind is mere illumination and knowing.
MIKE AUSTIN: Cái gì đã tạo thành tâm này?
Mike Austin: What has caused this mind?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Về mặt căn nguyên của tâm, có một nguyên nhân chính yếu cũng như hợp thể các duyên - năng duyên và sở duyên. Sở duyên - đối tượng được nhận biết - có thể là một hình sắc vật thể; nhưng hình sắc vật thể không thể là nguyên nhân chính yếu tạo ra một tâm, mà đó phải là một cái gì tự nó có được sự chiếu tri. Chẳng hạn, khi tôi nhìn vào cái máy ghi âm, nhãn thức của tôi có đối tượng sở duyên là chiếc máy ghi âm, còn năng duyên - cái tạo ra khả năng nhìn thấy màu sắc và hình dáng - là thị lực của mắt, nhưng nguyên nhân chính yếu (cũng gọi là điều kiện dẫn khởi) tạo thành một thực thể có sự chiếu tri phải là một sát-na có trước sự chiếu tri ấy, một sát-na trước đó của thức tâm.
Dalai Latma: As regarding the causes of mind, there is a substantial cause, as well as cooperative conditions - an empowering condition and an observed object condition. This last condition - the object which is perceived - could be a form; but a form, a physical thing, cannot be the substantial cause of a mind. It must be something that, itself, is illuminating and knowing. For instance, when I look at the tape recorder, my eye consciousness has as its observed object condition the tape recorder. Its empowering condition - that which enables it to see colour and shape - is the sense power of the eye, but its substantial cause (also called its preceding condition), which generates it into an entity that is illuminating and knowing, must be a previous moment of illumination and knowing, a previous moment of consciousness.
MIKE AUSTIN: Cái gì là căn nguyên tạo thành thực thể chiếu tri ấy? Phải chăng cũng là do ngẫu nhiên? Căn nguyên ấy xuất phát từ đâu?
Mike Austin: That entity which is illuminating and knowing: what has caused that? Is that spontaneous, too? Where does that originally come from?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Theo như những gì nói trên thì không có sự khởi đầu của tâm.
Dalai Latma: And thus there’s no beginning to the mind.
MIKE AUSTIN: Không có sự khởi đầu của tâm?
Mike Austin: There is no beginning to the mind...
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vâng, và cũng không có sự kết thúc. Với những thức tâm riêng biệt nào đó thì có sự khởi đầu và kết thúc, nhưng xét riêng yếu tố thuần túy chiếu tri này thì không có sự khởi đầu hay kết thúc. Với một số dạng tâm thức, có trường hợp không có sự khởi đầu nhưng có sự kết thúc. Chẳng hạn như cảm xúc đau khổ. Cuối cùng khi bạn loại bỏ được một cảm xúc gây đau khổ nào đó, chẳng hạn như sự ghen tức, thì sự tương tục của tâm thức đau khổ ấy sẽ chấm dứt. Bản chất của tâm như thế chính ở chỗ nó là một thực thể có khả năng chiếu tri. Đúng không? Chẳng có gì khác hơn.
Dalai Latma: No ending, either. With regard to specific minds and consciousnesses, there are beginnings and ends, but with regard to this mere factor of illumination and knowing, there’s no beginning or end. Now, with some consciousnesses, there are cases where there is no beginning, but there is an end. For instance, an afflictive emotion. When you finally remove a specific mental affliction such as jealousy, then the continuum of that consciousness meets its end. The very nature of mind is that it is this thing which is illuminating and knowing. Right? There isn’t anything further.
MIKE AUSTIN: Ngài chấp nhận cho rằng điều đó chỉ là bản chất tự nhiên?
Mike Austin: That satisfies you to say it’s just nature?
ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có bốn hình thức khảo sát hiện tượng. Một là dựa vào sự tương thuộc, chẳng hạn như quan sát khói tương thuộc với lửa. Hai là lưu tâm đến những chức năng của sự vật. Ba là dựa vào suy luận, chứng minh đúng hoặc sai. Bốn là sự nhận thức bản chất của hiện tượng đúng như thực.
Dalai Latma: There are four types of investigation of phenomena. One is by way of dependence, such as seeing that smoke depends on fire. Another is to notice the functions of things. The third is by way of reasoning; proving correctness or incorrectness. The last is the recognition that such and such is the object’s nature.
Chẳng hạn, việc chúng ta mong muốn được hạnh phúc là bản chất tự nhiên. Chẳng có gì khác cần phải khám phá thêm. Bây giờ, nói về nguyên nhân tạo thành vũ trụ thì hoặc là bạn phải chấp nhận có một đấng sáng tạo, hoặc phải chấp nhận là vũ trụ không có sự khởi đầu. Chẳng còn cách nào khác; chẳng còn khả năng nào nữa cả.
For instance, that we want happiness is just our nature. There’s nothing else to discover. Now, with regard to universal causation, either you have to accept a creative deity, or you have to accept that the universe is beginningless. There’s no other way; there’s no other possibility.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 9 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Nắng mới bên thềm xuân


Kinh Phổ Môn


Nguồn chân lẽ thật


Nghệ thuật chết

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.118.1.63 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...