Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý,
sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên
hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên
không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà.
Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya
nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé.
Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
Cha ngài hỏi: “Vì sao đặt tên là Huệ Năng?” Hai vị tăng đáp: “Huệ, nghĩa
là đem Pháp mà bố thí cho chúng sanh; Năng, nghĩa là đủ sức làm nên Phật
sự.”
Hai người nói rồi ra đi, chẳng biết đi đâu!
Ngài không dùng sữa mẹ, đêm đêm có thần nhân hiện đến nuôi bằng nước
cam-lộ.
Khi lớn lên, năm 24 tuổi ngài nghe kinh Kim Cang chợt có chỗ bừng sáng,
mới đến núi Hoàng Mai cầu đạo, được Ngũ Tổ nhận cho là được. Ngũ Tổ nhận
biết ngài là bậc pháp khí, liền trao y bát và truyền pháp, nối làm Tổ
đời thứ sáu. Lúc ấy là năm đầu niên hiệu Long Sóc.
Ngài theo lời dạy của Ngũ Tổ mà đi về phương Nam ẩn náu trong 16 năm,
mang hình tướng của người thế tục. Qua năm đầu niên hiệu Nghi Phụng,
nhằm ngày mùng tám tháng giêng, Ngài gặp pháp sư Ấn Tông cùng luận bàn
những ý nghĩa cao siêu huyền diệu. Pháp sư Ấn Tông nghe qua tỉnh ngộ,
hiểu được nghĩa lý trong lời dạy của ngài, liền bái phục. Bảy ngày sau,
tức ngày rằm tháng giêng, pháp sư Ấn Tông nhóm họp bốn chúng, làm lễ
xuống tóc cho ngài.
Ngày mùng tám tháng hai, Pháp sư lại nhóm họp các vị danh đức, làm lễ
truyền giới cụ túc. Các vị truyền giới có ngài Trí Quang Luật sư ở Tây
Kinh (Trường An) làm Thọ giới sư, ngài Huệ Tĩnh Luật sư ở Tô Châu làm
Yết-ma, ngài Thông Ứng Luật sư ở Kinh Châu làm Giáo Thọ, ngài Kỳ-đa-la
Luật sư ở Trung Thiên Trúc làm Thuyết Giới, ngài Mật-đa Tam Tạng ở nước
Tây Trúc làm Chứng Giới.
Giới đàn này là do ngài Cầu-na Bạt-đà-la Tam Tạng hồi triều Lưu Tống
sáng lập, có dựng bia đề rằng: “Sau này sẽ có vị Bồ Tát hiện thân người
phàm mà thọ giới nơi đây”.
Lại nữa, năm đầu niên hiệu Thiên Giám nhà Lương, Trí Dược pháp sư từ
nước Tây Trúc vượt biển sang đây, mang theo một cây Bồ-đề bên xứ ấy mà
trồng kế bên đàn này, cũng có nói rằng: “Về sau, khoảng 170 năm nữa, sẽ
có vị Bồ Tát hiện thân người phàm mà khai diễn pháp Thượng thừa dưới cội
cây này, độ cho vô số chúng sanh, là vị Pháp chủ chân truyền tâm ấn của
Phật vậy.”
Trong pháp hội này, Ngài chính thức cạo bỏ râu tóc, thọ giới tỳ-kheo, và
vì bốn chúng mà khai thị pháp Đại thừa Đốn giáo, mọi việc đều đúng như
những lời dự báo từ trước.
Mùa xuân năm sau, Ngài từ giã bốn chúng mà về chùa Bảo Lâm ở Tào Khê. Ấn
Tông pháp sư và cả hai giới tăng tục theo tiễn chân có tới trên ngàn
người, thẳng đến tận Tào Khê.
Khi ấy, Thông Ứng Luật sư ở Kinh Châu với vài trăm người tu học cùng về
nương theo ngài.
Ngài đến chùa Bảo Lâm, Tào Khê, thấy nhà cửa thấp hẹp, chẳng đủ cho bốn
chúng ăn ở. Muốn mở rộng ra, Ngài liền đến gặp một người trong làng là
Trần Á Tiên mà nói rằng: “Lão tăng muốn đến thí chủ, cầu xin một chỗ đất
để trải cái tọa cụ, không biết có được chăng?”
Á Tiên hỏi: “Tọa cụ của Hòa thượng rộng chừng nào?” Tổ Sư đưa tọa cụ ra
cho xem. Á Tiên đồng ý.
Tổ Sư lấy tọa cụ giũ ra một cái, tỏa rộng phủ hết cả vùng Tào Khê, có
bốn vị Thiên vương hiện thân ngồi nơi bốn góc. Ngày nay, ở cảnh chùa ấy
có núi Thiên Vương, là nhân chuyện này mà đặt tên.
Á Tiên nhìn thấy liền nói: “Nay tôi được biết pháp lực của Hòa thượng
thật là rộng lớn; có điều, mồ mả tổ tiên nhà tôi từ trước đến nay đều ở
tại đất này. Nếu về sau có cất chùa dựng tháp, xin đừng hủy hoại, còn
ngoài ra xin cúng dường cả để mãi mãi dùng làm ngôi Tam Bảo. Nhưng đất
này là mạch đến của sanh long, bạch tượng, chỉ có thể làm bằng bên trên,
chứ không nên làm bằng phía dưới.”
Theo lời Á Tiên, mọi sự kiến thiết, xây dựng về sau đều tuân thủ như
vậy.
Một hôm, Tổ Sư đi dạo chơi đến một chỗ cảnh vật tốt tươi, có suối nước,
non cao, liền dừng nghỉ lại đó, bèn thành một nơi lan-nhã. Có cả thảy 13
cảnh như vậy, ngày nay gọi là Hoa Quả Viện. Còn tên gọi đạo tràng Bảo
Lâm là do ngài Trí Dược Tam Tạng ở nước Tây Trúc đặt. Khi ngài từ Nam
Hải qua cửa Tào Khê, lấy tay vốc nước uống thấy thơm và ngon, lấy làm lạ
mà bảo môn đồ rằng: “Nước này với nước bên Tây Thiên không khác gì. Trên
nguồn suối này ắt có thắng địa, cất chùa lên rất tốt.” Liền lần theo
dòng suối mà đi lên nguồn, thấy bốn bề non nước quanh co, đèo động tốt
lạ, khen rằng: “Thật không khác gì núi Bảo Lâm bên Tây Thiên!” Liền nói
với cư dân thôn Tào Hầu rằng: “Nơi đây nên cất một ngôi chùa. Sau này
chừng một trăm bảy mươi năm nữa, sẽ có pháp bảo vô thượng được diễn
giảng ở đây, kẻ đắc đạo nhiều vô kể, nên đặt hiệu là Bảo Lâm.”
Quan Mục Thiều Châu thuở ấy là Hầu Kính Trung đem lời đó soạn tờ biểu
tâu lên triều đình. Nhà vua chuẩn lời xin, ban cho tấm biển đề là Bảo
Lâm Tự. Bởi đó mà thành một ngôi chùa. Việc ấy bắt đầu từ năm thứ 3 niên
hiệu Thiên Giám.
Trước chùa có hồ lớn, thường có một con rồng nổi lên, thân hình to lớn
quấn quanh, làm hại cây cối trong rừng. Một ngày kia, nó hiện hình rất
lớn, quẫy đạp sóng dậy tràn lên, mây mưa mù mịt, khiến tăng chúng đều sợ
hãi.
Tổ Sư ra nạt con rồng rằng: “Ngươi chỉ hiện được hình lớn, chẳng hiện
được hình nhỏ. Nếu là rồng thần biến hóa được, lẽ ra nên từ nhỏ thành
lớn, từ lớn thành nhỏ mới phải.”
Ngài nói xong, con rồng ấy liền lặn ngay xuống, giây lâu hiện lên thân
hình rất nhỏ bé, nhảy nhót trên mặt hồ. Tổ Sư mở bình bát ra, hỏi rằng:
“Ngươi có dám nhảy vào cái bát của lão tăng đây không?”
Con rồng bèn lượn quanh, rồi chập chờn đến trước Tổ Sư, Ngài lấy cái bát
úp lại, con rồng chẳng cựa quậy gì được nữa. Tổ Sư liền mang bát trở lên
chùa, thuyết pháp với rồng. Rồng bèn thoát xác mà đi, bỏ lại bộ xương
dài chừng bảy tấc, đầu, đuôi, sừng, chân đều đủ cả, tương truyền là vẫn
để ở cửa chùa. Sau này, Tổ Sư sai lấy đất đá lấp cái hồ ấy. Ngày nay ở
trước đền, phía bên trái có cây tháp sắt, tức là chỗ đó vậy.