Nước Tây Tạng chia ra năm mươi ba tỉnh, mỗi tỉnh có một viên quan cai
trị, thường ở trong một cái lâu đài to lớn cất trên cao, dựa theo triền
núi, nhìn ngay xuống chợ búa của dân gian, chung quanh là đồng bằng. Lâu
đài xây cất cũng uy nghi tráng lệ lắm, tuy chịu không nổi với súng đại
bác hiện đại, chớ cung tên và súng thường khó mà phá được. Người ta xây
cất lâu đài uy nghi, chẳng những là để phòng ngừa những khi binh biến,
mà còn để làm cho dân gian kính sợ phục tùng nữa.
Phía trong nhơ nhớp tối tăm, chứ nhìn bề ngoài thì đẹp lắm. Trông thấy
phải nhận là mỹ thuật khéo léo tài tình, nhưng không hợp với trình độ
thấp kém, lạc hậu của dân chúng xứ Tây Tạng.
Vào khi thua trận năm 1940, hai thành Gyangtsé và Pari bị phá nát. Và
khi ký hòa ước, người ta cấm không cho dựng lại hai cái lâu đài ở các
tỉnh thành ấy. Nhưng ít lâu sau, chính phủ Tây Tạng cũng cất lại to lớn
như xưa. Và chính phủ Anh không thể nào ngăn cản được, nên Tây Tạng dần
dần xây cất lại tất cả các đền đài. Sự đặc biệt đáng chú ý về hành chính
là: mỗi tỉnh đều có hai viên quan cai trị, một người về thuộc giới tu
sĩ, một người là cư sĩ. Không cần nói ai cũng
biết là vị tu sĩ có quyền thế hơn, lại nhờ có học thức hơn, nên chịu
trách nhiệm về thư từ và tin tức trực tiếp với cấp trên. Còn viên quan
cư sĩ kia thì lo về những việc thông thường. Lương bổng của quan chức
không được dồi dào lắm, nhưng họ vẫn làm giàu rất nhanh! Thông thường,
mỗi vị nhận một địa phương là năm năm, nhưng cũng có khi chưa đúng kỳ đã
đổi đi hoặc quá kỳ mà còn ở lại. Chính phủ thường thuyên chuyển quan lại
từ tỉnh này sang tỉnh kia, vì sợ để ở một chỗ quá lâu rồi họ không phục
tùng chính phủ trung ương. Các quan địa phương có đủ quyền hành như vua
một nước nhỏ, mỗi năm cống hiến về kinh một lần, phần lớn là nộp bằng
bơ, lúa, lông cừu.
Việc sinh hoạt trong mỗi tỉnh không lấy làm phiền phức. Lại về mùa đông
thì không có thú gì vui, người nào có việc cần phải đi lại Shigatsé và
Lhassa mới hưởng được nhiều cuộc giải trí. Tôi có biết một viên quan vẫn
ở tại kinh, không hay về tỉnh, giao phó công việc cho người thay mặt
mình, còn mình thì hưởng sự sung sướng sang trọng ở kinh đô.
Tôi xem đền đài và cảnh vật đã chán, mới nằm ngủ lại. Nhưng ngủ không
lâu, vì phải dè dặt. Tôi bèn ra khỏi thành trước cùng với La-ten, để mấy
người kia lo sắp đặt hành lý và trả tiền rồi theo sau. Trời trong, bóng
hồng đã chói trên các đỉnh núi Hy-mã-lạp-sơn. Phong cảnh đẹp như ghi vào
ký ức, không thể nào quên. Tôi ngừng lại mà ngắm cái tuyệt hảo của tạo
hóa! Tôi đang đứng trước cảnh quang đãng, chung quanh là các hòn núi
cao, có cả ngọn Everest là cao nhất trên thế giới.
Đất cát ở đây phì nhiêu lắm, nhưng thời tiết thì khắc nghiệt. Phần thì
hay giông bão, phần thì nắng gắt, nên không dễ có được mùa màng. Ở Ấn
Độ, một cánh đồng bằng như vầy có biết bao là người với vật, còn ở đây
thì phóng mắt tận bốn phương trời không thấy một đám ruộng, một cái nhà,
hoặc một sinh vật nào.
Khỏi thành Kampa-Dzong đã xa, tới một chỗ đường rẽ làm ba, tôi bèn dừng
lại đợi mấy người kia. Chờ không lâu, giây lát họ kéo tới, Sa-tăn cưỡi
ngựa đi đầu. Nhưng tôi lấy làm ngạc nhiên vì không phải anh đi với hai
người kia, mà là đến bốn người! Anh ta nói với tôi rằng, vừa thuê thêm
hai người phu để vác đồ.
Tôi nghe xong, chết sửng. Tôi mới biết hốt hoảng lần này là lần đầu từ
hôm ra đi. Tôi liền rầy la anh chàng thật nghiêm khắc, và nói thẳng rằng
trong đời hẳn không còn ai ngu dại hơn anh nữa. Tôi đã dè dặt đủ mọi
cách để người khác đừng chú ý, mà anh ta còn thuê thêm hai người cho lớn
chuyện. Đây rồi còn phải nhọc lòng hơn mỗi khi ngừng nghỉ ở các làng.
Đành rằng mấy con la đang phải chở nặng lắm, nhưng thà bỏ bớt đi một
phần hành lý còn hơn là thuê thêm hai người để khuân đồ.
Tôi muốn bảo thôi, nhưng không có cớ. Nếu đuổi họ liền thì họ nghi ngờ,
vì họ thấy sao mướn có vài giờ lại thôi, và thấy sao đầy tớ hèn mạt mà
lại dám cãi với ông chủ nhà giàu, e họ sanh nghi.
Tôi bảo với Sa-tăn phải giải thích với họ rằng định thuê họ là vì tưởng
hai người phụ việc (chỉ La-ten và tôi) còn bị bệnh, nhưng giờ đây nhờ ăn
được và đã nghỉ ngơi trọn đêm nên khỏe lại rồi, vậy không cần người theo
khuân đồ nữa, sẽ trả tiền cho họ đủ trọn ngày. Sa-tăn muốn cãi lẫy lỗ
mãng với tôi, nhưng rồi thấy tôi giận dữ không dằng được, lại thấy tay
tôi chụp ngọn dao trong lưng nên phải buộc lòng nghe theo. Sau cùng thì
mọi chuyện cũng được dàn xếp yên ổn, mọi người cùng nhau tiếp tục cuộc
hành trình.
Buổi cãi lẫy hôm ấy làm cho về sau có chuyện lôi thôi. Tôi quở trách
Sa-tăn nhiều tiếng nặng nề, hắn ta nghe tức lắm, nên căm giận mãi và
thành ra đối nghịch với tôi luôn. Hắn còn theo tôi là vì tham tiền, và
muốn tới kinh đô để chơi cho biết. Nhưng hắn sẽ tìm cơ hội để làm nhục
tôi rửa hờn. Cũng may là những người kia không ai ưa hắn, vì bị hắn hiếp
đáp và hành hạ luôn.
Đi vòng, theo nhiều dãy núi nhỏ, đến một chỗ nhiều làng xóm có vẻ sung
túc. Chúng tôi dừng lại hỏi thăm đường. Người ta sẵn lòng chỉ và họ cũng
không tò mò, nghi ngờ chi cả. Tôi đã được vững lòng về sự giả dạng của
tôi rồi. Chỉ còn lo ngại về đường xa xôi và về thái độ của Sa-tăn mà
thôi. Chúng tôi không nghỉ trong làng, cùng nhau dựng trại theo ven một
con mương giữa trời.
Nước đóng băng thành lớp không dày lắm, tôi lấy đó làm nước uống. Còn
mấy người kia lại thích uống rượu mua ở chợ Kampa-Dzong hôm qua. Tôi
không uống rượu, ấy là muốn giữ thể diện cho thanh cao. Mình là một
người xa lạ dám nghĩ đến việc viếng thăm kinh đô nghiêm cấm, cần phải
làm cho bọn này kính phục. Cho nên tôi thường nói với họ rằng tôi có
phái điệp tu sĩ của giáo hội Tăng già cấp cho, vì tôi có khảo cứu về
Phật học. Nhờ tôi nói tôi là người đạo Phật nên bọn ở mới dám nghe theo
mà đi.
Theo giới luật, một tu sĩ không bao giờ uống rượu. Tôi đóng hai vai trò
đều được hoàn hảo: đối với những người tôi thuê, họ nghĩ tôi là một tu
sĩ, còn trước mắt người ngoài thì tôi là một thằng người làm thuê theo
đoàn.
Sa-tăn cũng là một tu sĩ, nhưng rượu gì hắn ta cũng uống không chừa.
Buổi sáng lên đường, đi không bao lâu gặp ngã rẽ. Bên trái là đường về
Shigatsé, bên phải đến chùa Sakya. Chùa này có từ rất lâu đời và đã nổi
tiếng từ xưa, nhờ sự sắp đặt bên trong và còn nhờ có một pho kinh sách
cổ viết bằng tay.
La-ten có biết chỗ này, anh nói rằng cảnh chùa đẹp lắm. Người ta sơn
vách từ trên xuống dưới bằng sọc đen và xanh, còn vách phía trong lại
làm bằng đất sét nung màu đỏ nên trông rất lạ lùng.
Nội thành Sakya có bốn ngôi đền cất lên theo kiểu Trung Hoa. Mỗi đền có
một vị sư trưởng truyền gia. Vị này có quyền cưới vợ. Hồi trước, chùa
Sakya là tư dinh của quan phủ tỉnh. Tôi muốn ghé đó rồi sẽ qua Shigatsé,
nhưng nghĩ kỹ rồi không đi. Sợ rằng nếu vắng mặt lâu, ở bên Ấn Độ người
ta sẽ nghi tôi đã sang Tây Tạng. Vì vậy, nếu tôi muốn vào kinh thành thì
phải đi thật nhanh.
Chúng tôi rẽ qua tay mặt và lên một cái đèo. Chỗ này còn khó đi hơn cái
đèo hôm trước. Sa-tăn dẫu đang đóng vai ông chủ, nhưng phải xuống ngựa
để tiếp sức cho mấy con la. Ba giờ chiều mới lên tới đỉnh đèo. Ở đây có
một cái bàn thờ. Tôi lấy một viên đá cúng dường trước bàn thờ và vái lớn
tiếng cầu xin đức Phật phò hộ cho được bình yên khi đi đường!
Sau khi qua khỏi một cánh đồng rộng thì đến làng Kuna. Người ta đem chút
ít đồ mà bán cho chúng tôi. Dân trong làng là những người sống trôi dạt.
Chỗ nào làm ăn được thì họ tới, cùng nhau đùm bọc chở che cho nhau và lo
nuôi thú vật mà bán ra ngoài. Họ vẫn không ưa những người ở thị tứ. Thấy
bọn tôi cũng là người trôi dạt nên họ có cảm tình. Tôi có mua được sữa
để dùng nhưng phải nói với họ rằng trong bọn có người bệnh cần phải uống
sữa cho nhiều. Ở Tây Tạng, người ta không ai thích uống sữa. Họ cho rằng
sữa cũng như một thứ nước tiểu, chỉ dùng chút ít để làm thuốc mà thôi.
Trái lại, họ cho rằng bơ là sạch hơn, nên họ thích dùng bơ để ăn uống và
làm dầu đốt đèn.
Bây giờ tôi tính không che trại nữa, vì dùng trại coi giống người phương
Tây quá, người ta có thể nghi ngờ. Phải ngủ ngoài trời, những người theo
tôi không bằng lòng. Lạnh ghê lắm, tê tái đến cả thể xác lẫn tinh thần.
Nhờ có đốt lửa bằng cỏ trộn với phân bò nên cũng đỡ được phần nào, nhưng
cả bọn còn phải ôm chặt lấy nhau mà ngủ để được ấm áp hơn.
Mọi người trong nhóm đi ròng rã, thấy buồn lắm. Nhất là Sa-tăn ra vẻ khó
chịu hơn ai hết. Mà quả thật, đường đi rất nhọc nhằn. Phần thì trời
lạnh, phần đường sá nguy hiểm, lại không được ngừng nghỉ gần xóm làng,
bảo sao họ chẳng cứng đầu!
Họ đã toan trở lại. Tôi nói rằng đường sá đã bị tuyết phủ rồi. Họ dần dà
lâu mới chịu, nhưng khăng khăng rằng nếu gặp xóm làng thì phải dừng lại
nghỉ ngơi. Tôi vẫn biết rằng chậm trễ thời giờ là khó khăn thêm cho
chuyến đi của mình, nhưng biết làm thế nào, chẳng lẽ bắt họ phải chịu
đói rét mãi ở non cao!
Trong khi đi đường, đôi khi gặp người dừng lại để nói chuyện với bọn
tôi. Nhưng nhất là họ thích chuyện trò cùng tôi, vì nghĩ tôi là người
tôi tớ hèn mọn nhất trong đám. Họ đâu dám mong trò chuyện với ông chủ
Sa-tăn. Ban đầu tôi sợ lắm. Nhưng dần dần về sau, thấy không ai biết tôi
giả hình giả dạng, nên mới tha hồ mà chuyện vãn bằng tiếng Tây Tạng,
không còn lo ngại chi hết. Cả bọn cho đến bây giờ mới được yên ổn với
nhau. Sa-tăn với tôi cũng bớt đối nghịch, và mấy người kia cũng thôi
không oán ghét nữa.