Lâu đài bí mật – Buổi  sơ giao – Trạng thái xuất thần – Lễ Nhập môn
  
Lâu đài bí mật 
  Độ một tháng đã trôi qua kể từ  ngày 
Zanoni ra đi và Kiềm Mâu thâu nhận Linh Đông làm đệ tử. Sáng hôm  đó, Linh Đông một mình một ngựa lên đường ra khỏi thành phố. Anh nhắm về hướng  những vùng núi non cheo leo hiểm trở, hồi thời đó là sào huyệt của những bọn lục  lâm cường đạo, ít người du khách nào dám mạo hiểm đặt chân đến, dẫu rằng ngay  giữa ban ngày. 
  Linh Đông thúc ngựa đi mau và  chỉ gò ngựa đi chậm lại khi đã vào trong làng. Anh nhìn thấy hai bên đường xuất  hiện những người có vẻ mặt hung dữ và ngơ ngác. Linh Đông nhìn dáo dác chung  quanh mà cảm thấy trong lòng lo ngại, và câu hỏi mà anh định thốt ra lại nghẹn  trong cổ họng. Sau cùng, từ trong một gian nhà tranh cũ kỹ bước ra một người  tráng sĩ có vẻ ngoài tươm tất sạch sẽ hơn những người kia. 
  Người này có vóc dáng trung  bình, gương mặt rắn rỏi bạo dạn nhưng có vẻ thành thật chứ không hung ác. Những  nét mặt thẳng ngay và có góc cạnh vuông vắn cùng với cặp mắt sáng và cái nhìn  táo tợn biểu lộ một vẻ thách thức, gần như khiêu khích đối phương. Tuy thế, nó  không gây một cảm giác nghi ngờ hay đố ky. Ngoài ra bộ quần áo ngắn của người  dân miền núi, nơi sợi dây nịt da có giắt hai khẩu súng ngắn cán bằng bạc và một  con dao chuôi ngà có bao da cẩn thận. Tất cả đồ trang phục đó được tăng cường bằng  một khẩu súng trường chạm trổ tinh vi mà ông ta đeo lủng lẳng trên vai. 
  Sau khi đã ngắm nhìn người  tráng sĩ ấy một lúc, Linh Đông bèn dừng ngựa và hỏi thăm đường đi đến “tòa lâu  đài trên núi”. 
  Người kia vừa nghe hỏi câu ấy  liền dở nón chào và bước lại gần Linh Đông, đặt tay lên cổ ngựa và hỏi nhỏ: 
  – Ông có phải là người kỵ mã  mà chủ nhân của tôi đang chờ đợi không? Chủ tôi có dặn tôi đợi ông ở đây để dẫn  đường cho ông. 
  Nói xong, người ấy dang ra và  nói lớn giọng với những người chung quanh đó: 
  – Này các anh em! Kể từ nay về  sau, anh em phải kính trọng người kỵ mã này. Đây là vị khách quý mà chủ chúng  ta đang chờ đợi. Chúng ta có bổn phận bảo vệ quí khách này cũng như bảo vệ chủ  chúng ta, về cả mọi mặt: về sinh mạng cũng như về tài sản. Các anh em nghe rõ  chưa? 
  – Tuân lệnh! 
  Hàng trăm giọng nói cùng thốt  lên một lượt, và những nhóm người rời rạc ở các chòi tranh bèn lần lượt bước ra  đường lộ và tề tựu lại chung quanh người kỵ mã. Người tráng sĩ bèn nói tiếp: 
  – Và để cho các bạn tôi dễ nhận  ra ông, tôi trao cho ông cái khăn choàng cổ này và khẩu hiệu đi đường: “Dũng  mãnh!” Thưa ông, khi họ nhìn thấy cái khăn choàng này, những người anh em ở đây  sẽ kính cẩn và phục tùng. Khi ông thốt ra khẩu hiệu này, họ sẽ lập tức tuân lệnh.  Khi ông cần đến bất cứ điều gì, dù là một nơi tạm trú, hoặc một sự thanh toán đẫm  máu, hoặc chinh phục một người đẹp, hay giết một kẻ thù, ông chỉ cần thốt ra khẩu  hiện này là chúng tôi sẽ tận tâm ra sức đến chết cũng không sờn lòng. Phải vậy  không, các bạn? 
  Một lần nữa, các giọng rừng  rú lại vang lên cùng một lượt: 
  – Tuân lệnh! 
  Đến đây, người tráng sĩ liền  xuống giọng thì thầm: 
  – Bây giờ, thưa ông, nếu ông  có tiền lẻ, ông hãy quăng cho chúng nó, rồi chúng ta đi. 
  Linh Đông lấy làm sung sướng  với hồi kết thúc như vậy, bèn dốc hết cả túi bạc trên đường lộ cho đám dân làng  tranh nhau lượm, trong số đó có cả đàn bà và trẻ con. 
  Người tráng sĩ nắm dây cương  ngựa đi bộ theo Linh Đông. Chỉ trong vài phút họ đã ra khỏi làng và đi qua một  vùng hẻo lánh hoang vu không có nhà cửa, xóm làng gì cả, hai bên đường mòn là  núi non trùng điệp nối tiếp nhau với những vách núi dựng đứng. 
  Người ấy chợt buông dây cương  ngựa và đi chậm bước, rồi vừa nhìn Linh Đông bằng cặp mắt đen láy chiếu một tia  sáng ranh mãnh vừa hỏi: 
  – Chắc hẳn ông không ngờ đến  một cuộc tiếp đón nồng hậu như vừa rồi? 
  – Thật tình tôi cũng đã có ngờ  trước, vì vị tiên sinh mà tôi sẽ đến gặp có nói cho tôi biết trước về tính cách  khác thường của vùng này... À, ông bạn có thể cho tôi biết quí danh chứ? 
  – Người trong làng vẫn gọi  tôi là Phao Lồ. Xưa kia tôi cũng có một tên khác, nhưng tôi đã quên mất kể từ  khi tôi từ bỏ cuộc sống bình thường. 
  – Phải chăng do sự nghèo túng  hay thất bại, hoặc thất tình... mà anh đã rút lui vào chỗ núi rừng? 
  Người tráng sĩ đáp với một nụ  cười thích thú: 
  – Thưa ông, những kẻ lục lâm  như chúng tôi không thích bộc lộ đời tư của mình bao giờ. Nhưng dù sao, tôi  không còn gì phải giấu giếm khi đặt chân lên vùng sơn cước này với một cái còi  trong túi và khẩu súng trường trên lưng. 
  Kế đó, tên cướp tằng hắng lấy  giọng và bắt đầu kể chuyện về cuộc đời ông ta... Sau khi đã kể qua nhiều giai  đoạn thăng trầm của thời niên thiếu, ông ta nói tiếp: 
  – Trong giai đoạn sau cùng,  tôi gia nhập đảng cướp núi. Tôi trở nên khá dần, và vì tôi luôn luôn hành nghề  một cách êm ái, chỉ cướp tiền thôi chứ không cắt cổ nạn nhân, nên tôi nổi tiếng  là nhân đạo và nhờ đó thỉnh thoảng tôi có thể xuống 
Naples để ăn 
macaroni một cách tuyệt đối an toàn. Kể từ khi tôi cư trú tại đây đã hơn hai năm, tôi đã  làm chủ vùng này và tậu được một ít ruộng đất. Người ta gọi tôi là địa ehủ, và  bây giờ tôi chỉ thỉnh thoảng mới đi ăn hàng một chuyến để tiêu khiển chơi cho  vui và cũng để giữ cho được nhuần tay. Đó là tất cả những gì về cuộc đời tôi, để  gọi là làm thỏa mãn sự tò mò của ông. À, chúng ta chỉ còn độ trăm thước nữa là  đến rồi. 
  Linh Đông vô cùng thích thú  khi nghe câu chuyện của người tráng sĩ. Anh ta bèn hỏi: 
  – Trong trường hợp nào anh đã  quen với người chủ lâu đài trên núi? Ông ta làm thế nào để được sự giúp đỡ của  anh và các bạn anh? 
  Phao Lồ nhìn người đối thoại  bằng cặp mắt đen láy và đáp: 
  – Nhưng thưa ông, chắc ông phải  biết nhiều hơn tôi về người kỵ mã ngoại quốc có cái danh hiệu dị kỳ ấy chứ! Tôi  chỉ biết rằng cách đây hai tuần, tôi đang tình cờ đứng gần một tiệm trên đường 
Tolède thì một người quí phái có gương mặt đạo mạo đến gần tôi và nói: “Tiên sinh Phao  Lồ, tôi muốn làm quen với anh. Xin mời anh bước vào quán rượu gần đây để cùng  tôi uống chơi một chén!” Tôi đáp: “Rất hân hạnh.” Rồi chúng tôi bước vào quán  rượu, và khi đã ngồi xuống, người khách ấy nói: “Bá tước Hoa Lư muốn cho tôi  thuê cái lâu đài cũ của ông ta. Anh biết chỗ ấy không?” Tôi đáp: “Tôi biết rõ lắm!  Lâu đài ấy bỏ hoang đã hơn một trăm năm nay. Nó đã hư hoại hết một nửa. Đó là một  chỗ ở không được tốt lắm; tôi hy vọng rằng tiền thuê cũng vừa phải thôi, phải vậy  không thưa ông?” Người ấy nói: “Tiên sinh Phao Lồ, tôi là một triết nhân nên  không bận tâm nhiều đến nếp sống xa hoa sang trọng. Tôi cần có một nơi yên tĩnh  để làm một vài cuộc thí nghiệm khoa học. Lâu đài ấy thật đúng là nơi tôi đang cần,  miễn là anh chịu xem tôi như một người láng giềng, và anh với các bạn anh vui  lòng dành cho tôi một sự bảo vệ đặc biệt. Tôi có tài sản, nhưng tôi sẽ không  đem theo vật gì quí báu đáng để cho người ta ăn cắp. Tôi sẽ trả tiền thuê nhà  nho bá tước và một số tiền thù lao cho anh.” Chúng tôi thỏa thuận mau chóng về  việc đó, và vì người khách lạ ấy bằng lòng trả gấp đôi số tiền thù lao mà tôi đề  nghị, nên tôi và các đồng nghiệp của tôi sẽ phụng sự ông ta hết lòng. Và bây giờ,  thưa ông, vì tôi đã thành thật với ông, tôi mong ông cũng sẽ thành thật với tôi  như thế. Người khách lạ ấy là ai vậy? 
  – Người ấy... Chẳng phải ông  ta đã nói với anh rồi sao? Đó là một triết nhân! 
  – Chà chà! Như vậy chắc là  ông ta có thể luyện đá hóa vàng, phải không? Hay một nhà phù thủy? Hẳn ông ta  phải sợ các hàng giáo phẩm, phải không? 
  – Đúng vậy, anh đã đoán đúng  đấy. 
  – Tôi cũng ngờ là như thế, và  ông là đệ tử của ông ấy? 
  – Phải, tôi là học trò của  ông ta. 
  Tên tướng chóp vừa làm dấu  thánh giá vừa nói một cách trịnh trọng: 
  – Tôi chúc ông thành công.  Tôi không hơn gì một người thường, nhưng mỗi người đều lo cho phần linh hồn của  mình. Tôi không nói rằng tôi tốt lành với cái nghề lục lâm cường đạo này, nhưng  còn việc... bán mình cho quỷ dữ thì... hãy coi chừng nhé, thưa ông, hãy coi chừng!  
  Linh Đông mỉm cười và đáp: 
  – Ông bạn đừng sợ gì cả, thầy  tôi rất sáng suốt và tốt lành nên không thể chấp nhận một sự giao kết thuộc loại  đó. Nhưng có lẽ chúng ta đã đến nơi rồi đây, phải không? A! Tòa nhà thật vĩ đại!  Phong cảnh đẹp thay! 
  Linh Đông dừng chân trong sự  ngạc nhiên và ngắm nhìn phong cảnh chung quanh bằng cặp mắt của nhà họa sĩ.  Trong khi vừa đi đường vừa nghe chuyện của tên tướng cướp, anh đã dần dần đi  lên sườn núi đến một chiều cao tột độ lúc nào không biết, và lúc ấy anh đang đứng  trên một khối đá lớn phủ đầy rong rêu và những bụi cây um tùm. 
  Giữa ngọn đồi này và một ngọn  đồi khác có độ cao gần như nhau là một khe núi rất hẹp và sâu, cỏ cây sầm uất đến  nỗi người ta không thấy được đáy khe sâu đến mức nào. Tuy vậy, người ta cũng có  thể đoán ra bề sâu đó dễ dàng bằng cách lắng tai nghe tiếng nước chảy róc rách  dưới đáy vực thẳm. Trên ngọn đồi phía bên kia là tòa lâu đài của đạo sư Kiềm  Mâu. Từ trên ngọn đồi nhìn ra xa thấy lác đác những lâu đài, những nóc chuông  nhà thờ vút nhọn như mũi tên dựng đứng, và rải rác quanh các sườn đồi là những  xóm làng thưa thớt. 
  Xa tít tận chân trời là thành  phố 
Naples với những vách tường nhà trắng xóa phản chiếu ánh nắng vàng của  mặt trời chiều, và chân trời màu hồng nhạt hòa lẫn với màu nước biển xanh rờn.  Một cái cầu gỗ bắc ngang qua khe suối giữa hai ngọn đồi. Cầu cũng khá lớn nên  hai người kỵ mã có thể sóng đôi cùng đi. Những tấm ván lót cầu rung chuyển và  phát ra tiếng động khi họ thúc ngựa đi qua. Một con đường mòn trước kia có lót  đá nhưng bây giờ đã bị chôn lấp hết một nửa dưới những ngọn lau sậy và những loại  cây rừng, dẫn đến sân ngoài của tòa lâu đài. 
  Phân nửa tòa lâu đài này đã sụp  đổ, những chỗ điêu tàn ẩn khuất dưới những loại dây leo và mây rừng mọc rễ bám  chặt vào đã nhiều thế kỷ. Nhưng khi bước vào sân trong, Linh Đông lấy làm nhẹ  nhõm mà thấy rằng đã có dấu hiệu của sự săn sóc quét dọn và có người ở. Vài đóa  hoa hồng nở lớn như tươi cười chào đón khách ngay bên vách tường rêu xám, và giữa  sân có một vòi nước phun ra từ miệng của một con nhân ngư khổng lồ bằng sành. Tại  đó, anh được Kiềm Mâu đón tiếp với một nụ cười: 
  – À! Đệ tử đã đến.  Người đi tìm chân lý có thể tìm thấy nơi chốn hoang vu này một kho tàng minh  triết bất diệt với thời gian. 
  
Buổi sơ giao 
  Là một triết gia có một đời sống  giản dị ít nhu cầu, đạo sư Kiềm Mâu chỉ thuê vài người gia nhân giúp việc nhà.  Một lão bộc người vùng Trung Đông, trước đây đã từng phục dịch Kiềm Mâu khi còn  ở 
Naples, một người đàn bà người địa phương có nét mặt rắn rỏi, do Phao  Lồ giới thiệu, và hai thanh niên tóc dài, vẻ mặt hung tợn, cũng là người trong  làng và mới được tuyển chọn. 
  Trong nhiều ngày, Kiềm Mâu vẫn  im lặng không thảo luận gì với Linh Đông về những vấn đề mà anh muốn biết. Người  nói: 
  – Mọi việc đều sẵn sàng về  phương diện ngoại cảnh, nhưng về bên trong thì chưa. Tâm hồn con phải tập quen  với chốn này và thấm nhuần bầu không khí thiên nhiên ở chung quanh, vì cõi  thiên nhiên là gốc của mọi nguồn cảm hứng. 
  Thế rồi Kiềm Mâu xoay câu  chuyện qua những vấn đề thông thường, ít quan trọng hơn. Người thường hay dắt  Linh Đông đi theo trong những chuyến đi dạo chơi quanh vùng giữa những khung cảnh  thiên nhiên rừng rú, và hé mở trước tâm hồn ngạc nhiên và thán phục của người  thanh niên Anh những kho tàng quí báu của một khoa học có vẻ dồi dào phong phú  đến bất tận. 
  Dần dần, người nghệ sĩ trẻ được  nâng cao tâm hồn và cảm thấy lòng lắng dịu nhờ hấp thụ những kiến thức của thầy,  và những ước muốn mãnh liệt của anh trước đây cũng tiêu tan không còn nữa. Tâm  hồn anh ngày càng đắm chìm trong một cơn yên tĩnh thiêng liêng của sự suy tư  thâm trầm. Anh cảm thấy mình trở nên cao thượng hơn, và trong sự im lặng của  các giác quan, anh cảm thấy dường như nghe được tiếng nói của nội tâm. 
  Chính Kiềm Mâu đã tìm cách  giúp người đệ tử trẻ đạt tới trạng thái yên tĩnh nội tâm, và trong bước nhập  môn đầu tiên đó, người đã hành động giống như mọi nhà đạo sư khác. Đó là vì người  mới nhập môn cần phải giữ cho tâm hồn vắng lặng như hư không, để cho những khả  năng suy gẫm và tưởng tượng có điều kiện hoạt động, trước khi tập khám phá và  lãnh hội những chân lý trừu tượng siêu hình. 
  Kiềm Mâu có phong độ khác hẳn 
Zanoni về nhiều điểm, và nếu phong độ ấy không thu hút hấp dẫn bằng 
Zanoni thì trái lại nó gây cho Linh Đông một sự khuất phục và ấn tượng rất sâu xa. 
  Câu chuyện của 
Zanoni biểu lộ một sự lưu tâm sâu sắc và tổng quát đối với nhân loại, một tình cảm gần  như hứng khởi đối với nghệ thuật và Cái Đẹp. Những giai thoại được lưu truyền về  sinh hoạt của 
Zanoni càng làm nổi bật sự huyền bí khi nói về những nét từ  thiện và lòng quảng đại của chàng. 
Zanoni có một cái gì gần gũi với nhân  loại hơn, nó làm dịu bớt sự e dè sợ hãi mà chàng gây ra cho người khác. 
  Trái lại, Kiềm Mâu dường như  hoàn toàn thản nhiên đối với thế giới bên ngoài. Nếu ông ta không làm ác, thì  dường như cũng không đặc biệt tìm cách làm thiện. Những việc làm của ông ta  không làm xoa dịu một kẻ lầm than đau khổ nào, những lời nói của ông ta không  an ủi một kẻ vô phước bất hạnh nào. Nơi ông, điều mà ta gọi là tình cảm dường  như đã bị che khuất, lu mờ bởi lý trí. Ông ta suy nghĩ, hành động và sống như một  thực thể trừu tượng, yên lặng và đều đặn, chứ không như một nhân vật còn giữ lại  những tình cảm và lòng ưu ái, yêu ghét của con người! 
  Ngày nọ, nhân dịp Kiềm Mâu  nói về những sự biến chuyển lớn lao mà ông ta từng chứng kiến trên mặt quả địa  cầu, với một giọng hoàn toàn thản nhiên không hề mảy may xúc động, Linh Đông  bèn mạo muội bày tỏ sự ngạc nhiên của mình về điểm đó. Kiềm Mâu đáp một cách lạnh  lùng: 
  – Đúng vậy! Đời thầy là một  cuộc quan sát, suy nghiệm; còn đời của 
Zanoni là một cuộc thưởng thức.  Khi thầy hái một cành hoa, nhánh cỏ, thầy chỉ nghĩ đến công dụng về dược tánh của  nó, còn 
Zanoni thì ngừng lại để ngắm nghía, chiêm ngưỡng cái đẹp. 
  – Và thầy có tin rằng trong  hai trường hợp đó thì cuộc đời của thầy là cao siêu hơn chăng? 
  – Không! Cuộc đời của 
Zanoni là lối sống trẻ, cuộc đời của thầy là lối sống già. Chúng tôi đã luyện tập những  khả năng khác nhau, mỗi người trong chúng tôi đều có những quyền năng khác hẳn  của người kia. Những người học hỏi theo 
Zanoni phát triển lối sống đẹp,  còn những người theo thầy thì mở mang sự minh triết và kiến thức sâu rộng. 
  Linh Đông nói: 
  – Thật vậy, con có nghe rằng  những người gần gũi với 
Zanoni một thời gian ở 
Naples về sau đã  có một đời sống trong sạch và cao quí hơn trước. Nhưng một nhà hiền triết như 
Zanoni sao lại giao du với những người như vậy? Đó là điều mà con lấy làm lạ. Còn cái  quyền năng lợi hại mà ông ta sử dụng tùy ý muốn, như trong cái thết của hoàng  thân Vệ Công và bá tước Ô Diên, thật không phù hợp chút nào với trình độ tâm  linh của một bậc siêu nhân! 
  Kiềm Mâu nói với một nụ cười  lạnh như băng: 
  – Con nói rất đúng, và đó  chính là sự sai lầm của những bậc hiền giả muốn chen chân vào cuộc đời thế tục.  Người ta không thể giúp đỡ một hạng người này mà không gây tổn hại đến một hạng  người khác. Ta không thể che chở người tốt lành mà không sát phạt kẻ hung dữ,  và nếu muốn sửa trị kẻ tội lỗi, người ta phải sống chung với họ để biết họ tội  lỗi như thế nào. 
Paracelse cũng nói như thế. “Người ta cần biết điều ác  cũng như điều thiện, vì có ai có thể biết điều thiện mà không biết điều ác?”  Nhưng thầy không dại dột như vậy. Thầy chỉ sống bằng kiến thức và hiểu biết chứ  không sống theo cuộc đời của thế gian. 
  Một lần khác, Linh Đông hỏi  Kiềm Mâu về tổ chức huyền môn mà 
Zanoni đã có lần nói đến: 
  – Nếu con không lầm thì phải  chăng 
Zanoni và thầy đều là những môn đồ của phái Hồng Hoa?
  Kiềm Mâu đáp: 
  – Môn phái Hồng Hoa bắt nguồn  từ năm 1378 sau khi những vị đạo sư Ả Rập tại 
Damas truyền dạy cho một  du khách người Đức tên là 
Christian Rosenkreuz những bí quyết về khoa  huyền môn làm nền tảng cho việc thành lập môn phái đó. Nhưng trước đó, cũng đã  có những tổ chức huyền môn gồm có những người đi tìm đạo bằng những phương pháp  tương tự. Tuy nhiên, thầy nhìn nhận rằng phái Hông Hoa là môn phái xuất xứ từ một  tổ chức huyền môn lớn nhất và lâu đời nhất. Phái Hồng Hoa còn cao hơn cả phái  luyện kim về mặt giáo lý và đạo đức tâm linh. 
  – Môn phái ấy hiện nay còn được  bao nhiêu người? 
  – Chỉ còn có hai người, là 
Zanoni và Thầy. 
  – Chỉ còn có hai vị thôi sao?  Nhưng môn phái ấy truyền dạy cho tất cả môn đồ bí quyết trường sinh bất tử kia  mà? 
  – Vị tổ phụ của con đã học được  bí quyết đó. Nhưng ông ta đã chọn cái chết thay vì sống một mình sau cái chết của  người duy nhất trên đời mà ông ta yêu. Trong môn phái Hồng Hoa, điều mà chúng  ta xem là cao quí nhất chính là sự đào luyện tinh thần chứ không phải bí quyết  giữ gìn thể xác. Pháp môn tu luyện tinh thần giúp cho hành giả có thể chiến thắng  kẻ cường bạo, chế ngự đối phương và tạo ra một bức màn ảo ảnh để tàng hình trước  mắt mọi người. Vài hạng pháp sư cho rằng bí thuật ấy có thể thực hiện bằng cách  sử dụng một đạo linh phù hay một loại đá quý, nhưng thầy có thể dùng một thứ cỏ  dại ngoài đồng công hiệu chắc chắn hơn cả một đạo bùa hay ngọc quý Nói tóm lại,  có khi những vật nhỏ mọn tầm thường nhất trong thiên nhiên lại là những thứ mà  người ta có thể khai thác được sự công dụng thần hiệu nhất. 
  Linh Đông nói: 
  – Nhưng nếu thầy nắm được những  bí quyết đó, tại sao thầy lại không đem phổ biến ra ngoài? Phải chăng sự khác  biệt giữa huyền môn và khoa học là khoa học truyền bá rộng rãi những phương  pháp và kết quả thực nghiệm cùng những phát minh và khám phá, còn giới huyền  môn thì tự hào đạt được những kết quả nhiệm mầu nhưng không chịu giải thích  nguyên nhân của những điều sở đắc? 
  – Phải, nhưng con cần phải  suy nghĩ kỹ hơn nữa. Bây giờ ta hãy thí dụ rằng nếu như khoa huyền môn được truyền  bá rộng rãi trên thế gian, không phân biệt kẻ chánh người tà, kẻ thiện người  ác, thì chừng đó phải chăng khoa ấy sẽ trở thành một tai họa cho nhân loại? Nếu  như kẻ bạo chúa, lăng loàn, dâm ác, những kẻ hung dữ, sa đọa nắm được những quyền  năng thần bí trong tay, chừng đó họ có khác gì những loài ác quỷ tự do phóng  túng nghênh ngang trên mặt địa cầu? Nếu đồng thời những quyền năng đó cũng được  ban cho những người hiền lương, chân chính, thì chừng đó xã hội loài người sẽ  ra sao? Chánh và tà sẽ phải đương đầu nhau trong một trận chiến tranh khốc liệt  một mất một còn; những người tốt lành sẽ luôn luôn ở thế tự vệ, còn kẻ hung ác  luôn luôn ở thế tấn công. Trong tình trạng tiến hóa hiện thời của nhân loại, điều  ác hoạt động mạnh hơn và lấn lướt điều thiện, như vậy điều ác sẽ thắng và chiếm  ưu thế. Chính vì những lý do đó cho nên chúng ta không những chỉ truyền dạy  khoa huyền môn cho những người thật tốt lành và xứng đáng để tránh sự lạm dụng,  mà còn phải đặt ra những cuộc thử thách khó khăn nguy hiểm để bảo đảm tuyệt đối  kết quả chọn lựa. Về việc này, cõi thiên nhiên cũng kiểm soát và giúp đỡ chúng  ta, vì trong thiên nhiên đã sẵn có những “
người giữ cửa” khủng khiếp,  rùng rợn và những bức rào chướng ngại kiên cố không thể vượt qua giữa cõi hữu  hình và cảnh giới vô hình. 
  Đó là một vài câu chuyện đại  lược trong những cuộc đối thoại giữa hai thầy trò Kiềm Mâu. Những cuộc nói chuyện  ấy càng làm kích thích sự tò mò của Linh Đông. Như thế, ngày tháng trôi qua,  tâm hồn của Linh Đông dần dần quen với lối sống cô đơn trầm lặng, thiền định  suy tư, và quên cả những điều phù du giả tạm cùng những mơ ước hão huyền vô vị  của thế giới bên ngoài. 
  Thế rồi một đêm nọ, Linh Đông  đang lúc ngắm nhìn cảnh vật bao la với muôn nghìn ngôi sao lấp lánh trên nền trời,  anh bỗng có một sự cảm hứng tâm linh đột ngột, có cảm giác lạ lùng về một cái  gì thiêng liêng vĩ đại huy hoàng ẩn giấu trong thân xác hữu hình này. Điều ấy  làm khơi dậy trong anh những hoài bão to tát, dường như một ký ức mơ màng về một  kiếp sống trong lành và thánh thiện trong thời dĩ vãng xa xăm. 
  Một động lực bên trong mà  Linh Đông không sao cưỡng lại được đã thúc đẩy anh đi tìm vị đạo sư. Anh ta muốn  xin thầy khai mở cánh cửa nhập môn vào đạo, để anh có thể bước vào những cảnh  giới siêu việt khác lạ. Anh cảm thấy như mình đã sẵn sàng để bước vào một cuộc  sống thiêng liêng hơn cuộc sống hiện tại. 
  Linh Đông bèn trở vào tòa lâu  đài và đi qua dãy hành lang tăm tối dưới ánh sao khuya để bước đến phòng của đạo  sư Kiềm Mâu. 
  
Trạng thái xuất thần 
  Nơi ở của Kiềm Mâu trong tòa  lâu đài gồm có hai phòng làm việc thông với nhau và một phòng ngủ. Khu vực ấy  được bố trí trong một cái đài cao hình vuông, nhô lên bên bờ vực thẳm đầy những  bụi cây um tùm phía dưới. 
  Linh Đông bước vào căn phòng  thứ nhất thì thấy trống trơn. Anh lẳng lặng bước tới bằng những bước chân êm  như ru và mở cánh cửa đưa vào phòng thứ hai. Bỗng nhiên một mùi nồng nặc từ  trong phòng này xông vào mũi, làm cho anh phải thụt lùi lại. Một thứ sương mù  làm cho không khí trở nên dày đặc hơn bình thường nhưng vẫn có màu trong suốt,  giống như một làn mây tuyết từ từ tiến tới một cách đều đặn, tạo thành những dợn  sóng xuyên qua khoảng không. 
  Linh Đông cảm thấy tim mình  như ngừng đập vì một cơn lạnh buốt người, và máu như đông đặc lại trong huyết  quản. Anh đứng sững lại như trời trồng trước ngưỡng cửa, và khi đôi mắt anh cố  nhìn xuyên qua gian phòng, anh hình dung như có những bóng ma hình thù ghê rợn,  mờ ảo, đang lướt nhẹ xuyên qua những đợt khói sương mù. 
  Trước khi Linh Đông có đủ thời  gian để hít thở bầu không khí đó, vì khi đó toàn thân anh dường như đã ngừng mọi  hoạt động và rơi vào một trạng thái hôn mê khủng khiếp, thì anh bỗng cảm thấy  có ai đó nắm lấy tay anh và dẫn ra phòng ngoài. 
  Anh nghe tiếng cửa đóng lại,  rồi máu anh bắt đầu lưu thông trở lại trong huyết quản, và anh nhìn thấy đạo sư  Kiềm Mâu đang đứng một bên mình. Toàn thân anh run bắn lên như bị phong giật, rồi  anh ngã quỵ xuống đất, bất tỉnh nhân sự. 
  Khi Linh Đông tỉnh dậy, anh  thấy mình đang nằm ở chỗ thoáng khí, trên một bao lơn bằng đá gie ra ngoài trời.  Những vì sao khuya tỏa ánh sáng mờ nhạt xuống tòa lâu đài yên tĩnh tịch mịch và  chiếu lên gương mặt vị đạo sư đứng một bên, hai cánh tay khoanh vòng trước ngực  và đang nhìn anh chăm chú. Kiềm Mâu nói: 
  – Này con! Với những gì đã xảy  ra vừa rồi, con nên biết rằng sẽ vô cùng nguy hiểm nếu muốn tìm sự hiểu biết  trước khi được chuẩn bị sẵn sàng. Nếu con chỉ đứng thêm một lúc nữa thôi trong  không khí của gian phòng đó, thì bây giờ con chỉ còn là một cái xác chết! 
  Linh Đông thưa: 
  – Khoa huyền môn lợi hại như  thế nào mà Thầy có thể theo đuổi nó một cách an toàn trong bầu không khí âm u lạnh  lẽo này trong khi đối với con thì lại nguy hiểm đến tánh mạng? Thưa thầy, con  đã sẵn sàng chuẩn bị, ít nhất cũng là cho một vài bước đầu tiên. Con xin thầy  hãy cho phép con được nhập môn. 
  Kiềm Mâu đặt bàn tay trên quả  tim Linh Đông, một quả tim đang đập mạnh, đều đặn và đầy sinh khí. Với đôi mắt  chiêm ngưỡng, vị đạo sư nhìn nét mặt thản nhiên lạnh lùng của người đệ tử trẻ  và thầm nhủ: 
  – Với một tâm hồn quả cảm như  thế này, chắc là ta sẽ có một đệ tử chân thành xứng đáng. 
  Rồi ông cất tiếng nói với giọng  bình thường: 
  – Được rồi! Bước đầu tiên  trong thời kỳ nhập môn là trạng thái xuất thần. Mọi sự minh triết của con người  đều khởi đầu từ những cơn mộng mơ. Chính trong những giấc mơ mà người ta thiết  lập được một nhịp cầu giao cảm đầu tiên, tuy hãy còn rất mỏng manh yếu ớt,  nhưng có thể nối liền thế gian với các cảnh giới vô hình. Con hãy nhìn kỹ ngôi  sao kia! 
  Linh Đông vâng lời và Kiềm  Mâu rút lui vào phòng. Từ trong phòng ấy, từ từ tỏa ra một luồng khí màu nhợt  nhạt hơn và có mùi ít nồng hơn so với đám mây mù lúc nãy đã gây cho Linh Đông một  ảnh hưởng khốc hại. 
  Luồng khí này bao phủ lấy  Linh Đông và sau đó tiêu tan ngay trong không khí ban đêm, tỏa ra một mùi hương  trong lành và mát rượi. Anh nhìn lên ngôi sao không chớp mắt, và ngôi sao dường  như dần dần chế ngự anh, thu hút tầm nhãn quang của anh. 
  Một cảm giác uể oải xâm chiếm  toàn thân Linh Đông nhưng thần trí anh vẫn sáng suốt tỉnh táo, và khi cảm giác  uể oải ấy càng lúc càng thấm sâu vào cơ thể, anh cảm thấy hai bên thái dương dường  như được thấm nhuần trong một loại nước hoa thơm nhẹ và ấm áp. Trong lúc ấy, cả  tứ chi của anh đều run rẩy và cảm giác suy nhược càng tàng thêm. Anh vẫn tiếp tục  nhìn chăm chú vào ngôi sao, vùng sáng quanh ngôi sao ấy giờ đây dường như đã nới  rộng hơn trước, ánh sáng dần dần trở nên chói rạng hơn, nới rộng hơn nữa và từ  từ xâm chiếm lấy cả không gian vô tận. 
  Sau cùng, giữa bầu không khí  sáng chói lung linh màu bạc, anh cảm thấy có một cái gì vừa nứt rạn bên trong  tâm thức, dường như một sợi dây sắt vừa bị chặt đứt. Lúc đó, một cảm giác giải  thoát lâng lâng, nhẹ nhàng, thoát tục, một niềm an lạc vô biên xâm chiếm lấy  anh và gây cho anh một ấn tượng như đang bay lượn phất phơ giữa không gian. Giọng  nói thì thầm của đạo sư Kiềm Mâu bỗng lọt vào tai anh: 
  – Bây giờ con có muốn nhìn thấy  ai trên cõi thế gian này không? 
  – Kiều Dung và 
Zanoni.  
  Linh Đông đáp lại từ trong  tâm thức, nhưng anh cảm thấy đôi môi mình không hề cử động. Thình lình, khi tư  tưởng ấy vừa mới khởi lên thì xuyên qua không gian tràn ngập thứ ánh sáng êm dịu  và lung linh vừa nói trên, Linh Đông bỗng nhìn thấy những hình ảnh nối tiếp  nhau diễn ra như trong một cuốn phim: cây cối, núi non, thành thị, biển cả,  thung lũng, đồng bằng... Và sau cùng, tầm mắt của anh dừng lại ở một nơi: anh  nhìn thấy một động đá ẩn khuất sau những bụi cây rậm rạp sầm uất, trên một bãi  cát trắng phau chạy dài xuống tận bờ biển. Ngoài miệng hang động ấy, dưới ánh  trăng êm dịu hiện ra hai bóng người, có những đợt sóng biển từ ngoài khơi chạy  vào rồi tan biến nhanh dưới chân họ. 
  Linh Đông cảm thấy dường như  anh cũng nghe được tiếng sóng vỗ rì rào. 
Zanoni ngồi trên một tảng đá,  còn Kiều Dung ngả mình nằm dựa gần bên và ngắm nhìn khuôn mặt chàng đang cúi xuống  kề sát khuôn mặt của nàng. Nét mặt Kiều Dung lúc ấy biểu lộ một niềm hạnh phúc  hoàn toàn của một tâm hồn đang bơi lội trong biển yêu đương. 
  Kiềm Mâu lại hỏi với một giọng  đến với Linh Đông nhẹ như hơi thở: 
  – Con có muốn nghe họ nói  chuyện không? 
  Và một lần nữa, Linh Đông đáp  lại bằng tư tưởng mà không thốt ra âm thanh nào: 
  – Có. 
  Khi ấy, những tiếng nói của  hai kẻ si tình liền vọng đến tai Linh Đông, nhưng bằng một giọng có vẻ lạ lùng,  xa xôi, dường như giọng nói từ cõi khác mà các vị thánh hay tu sĩ nhập định thường  nghe được trong những cơn linh ảnh. Kiều Dung nói: 
  – Làm sao anh có thể cảm thấy  thích thú khi nghe chuyện của một người đàn bà dốt nát, kém tri thức? 
  
Zanoni đáp: 
  – Bởi vì quả tim không biết đến  sự dốt nát bao giờ; bởi vì những bí quyết của tình cảm cũng có đầy những điều  huyền diệu như những bí quyết của trí tuệ. Nếu em không phải lúc nào cũng hiểu  được ngôn ngữ tư tưởng của anh, thì đôi khi anh cũng nhận thấy có những điều  đáng yêu không sao hiểu được trong ngôn ngữ tình cảm của em. 
  Kiều Dung vừa nói vừa quàng  tay lên cổ 
Zanoni: 
  – Ồ! Anh đừng nói thế! Chính  những gì không thể hiểu được bằng lý trí mới là ngôn ngữ của tình yêu, và hãy để  cho tình yêu giải đáp. Trước khi em biết anh, trước khi sống với anh, trước khi  biết dõi theo dấu chân anh khi anh vắng nhà, và để thấy anh hiện diện ở khắp  nơi, em không ngờ rằng cõi thiên nhiên và tâm hồn con người có một sự hấp dẫn  tương ứng mãnh liệt và sâu xa đến như thế. Tuy vậy, bây giờ em mới biết chắc chắn  điều mà em vẫn tin tưởng từ lúc đầu: những tình cảm thu hút em đến với anh lúc  đó không phải là ái tình. Em biết như vậy nhờ so sánh hiện tại với quá khứ. Hồi  đó, cái tình cảm ấy chỉ là một thứ tình cảm bị chi phối bởi lý trí, còn bây giờ,  em không thể nào chịu nổi khi anh nói với em rằng em hãy sung sướng mà sống  chung với một kẻ khác. 
  – Anh cũng vậy. Bây giờ anh cũng  không thể nào thốt ra được câu nói đó với em. Kiều Dung! Em đừng bao giờ quên  nói với anh là em được sung sướng. 
  – Tại sao em không sung sướng,  vì chính anh cũng sung sướng kia mà. Tuy vậy, 
Zanoni ơi, đôi khi anh lại  có vẻ buồn. 
  – Đó là vì anh thấy đời người  thật ngắn ngủi, và vì rốt cuộc rồi chúng ta cũng phải xa nhau, vì con trăng kia  sẽ tiếp tục chiếu sáng khi con chim hoàng oanh đã ngừng hót trên cành. Không  bao lâu nữa, đôi mắt em sẽ mờ, sắc đẹp của em sẽ phai nhạt, những lọn tóc vàng  óng nuột này sẽ bạc màu và không còn xinh đẹp nữa. 
  Kiều Dung nói: 
  – Còn anh, em sẽ không bao giờ  nhìn thấy nơi anh những dấu hiệu của sự già nua! Nhưng phải chăng cả hai ta sẽ  cùng già nua như nhau, và mắt ta sẽ quen nhìn thấy sự thay đổi về phần thể xác,  nhưng điều đó sẽ không ảnh hưởng gì đến tình yêu? 
  
Zanoni thở dài. Chàng quay  mặt sang bên và có vẻ như hướng cả tâm tư vào bên trong. Linh Đông càng chăm  chú nghe. 
Zanoni vừa nhìn Kiều Dung vừa nói với nụ cười mỉm: 
  – Em không tò mò muốn  biết thêm về người yêu mà trước kia đã có lần em xem như một nhà phù thủy tà đạo  hay sao? 
  – Không! Tất cả những  gì người ta muốn biết về người mình yêu thì em đã biết rồi: anh yêu em! 
  – Anh đã nói với em  rằng cuộc đời anh khác hẳn với mọi người. Em có muốn thử chia sẻ cuộc sống đặc  biệt ấy chăng? 
  – Thì hiện nay em  đang chia sẻ cuộc sống đó với anh đây 
  – Nhưng em chỉ được  như vậy nếu em có thể trẻ đẹp mãi mãi! 
  – Chúng ta sẽ được  như vậy khi chúng ta từ giã cõi đời này. 
  
Zanoni im lặng trong giây  lát rồi nói: 
  – Em có nhớ chăng những  giấc mơ thần diệu đã đến với em khi xưa, khi em tin rằng em sẽ có một định mệnh  khác hẳn người thường? 
  – Anh 
Zanoni anh ơi! Em đã tìm thấy định mệnh của em! 
  – Em có cảm thấy lo  sợ gì về tương lai chăng? 
  – Tương lai ư? Em đã quên mất  điều đó từ lâu và cũng không cần biết nữa! Dĩ vãng, hiện tại và tương lai, tất  cả đối với em đều hiện rõ trên nụ cười của anh. 
Zanoni! Anh đừng nghĩ gì  về sự tin tưởng dại dột của em khi xưa. Em đã trở nên tốt lành hơn và khiêm tốn  hơn kể từ ngày sự hiện diện của anh quét sạch đám mây mù u ám bao phủ quanh em.  Tương lai ư? Nếu có lúc chúng ta phải lo ngại vì nó, thì em sẽ ngẩng mặt lên trời  và nghĩ đến đấng Tạo hóa đã dẫn dắt định mệnh của chúng ta. 
  Khi đó, nàng ngước mắt nhìn  lên. Linh Đông chợt thấy một đám mây xám thình lình che khuất bãi cát trắng  trên bờ biển. Đôi mắt say mê thích thú của anh vẫn còn nhìn thấy Kiều Dung và  Zanoni: gương mặt Kiều Dung tràn đầy một niềm an lạc, hạnh phúc tuyệt vời; còn  gương mặt của 
Zanoni thì có vẻ suy tư với những nét đẹp nghiêm nghị hơn  lúc bình thường, trong một vẻ đẹp u buồn và trầm lặng. 
  Đạo sư Kiềm Mâu bỗng nói: 
  – Con hãy tỉnh dậy, cơn thử  thách đã bắt đầu với con. Bây giờ con hãy trở về phòng nằm nghỉ. Hãy nhịn đói  trọn ngày hôm nay. Đừng đọc sánh, mà hãy tham thiền quán tưởng. Rồi con hãy trở  lại gặp thầy vào lúc trước nửa đêm. 
  
Lễ nhập môn 
  Lúc ấy đã gần nửa đêm, khi  Linh Đông trở lại tư thất của tôn sư. Anh đã nhịn đói suốt ngày như lời thầy dặn,  và trong cơn thiền định công phu anh không những đã trở nên bất động thản nhiên  đối với những nhu cầu của thể xác, mà còn vượt lên cao hơn mọi điều ham muốn, dục  vọng. 
  Kiềm Mâu ngồi bên cạnh người  đệ tử và nói: 
  – Trong sự tiến hóa vĩ đại của  tự nhiên, không chỉ có cõi trần gian này là nơi duy nhất có sự sống mà thôi. Sự  sống là một nguyên lý đại đồng thấm nhuần khắp nơi trong vũ trụ, dầu ở trên mặt  địa cầu này hay nơi những thế giới khác. Sự sống cũng hiện diện khắp nơi trong  không gian, và trong những cảnh giới mà mắt người thường không nhìn thấy được,  nên ta gọi là những cõi vô hình. Khoa học vẫn chưa phát minh ra bất cứ loại khí  cụ nào có thể giúp khám phá những sinh vật thuộc cảnh giới vô hình, cho dù những  sinh vật ấy vẫn thực sự hiện hữu trong không gian vô tận. Tuy vậy, giữa những  sinh vật đó và loài người vẫn có một sự giao cảm bí mật và thường xuyên. Chính  vì thế mà trong chuyện thần thoại của các dân tộc đều có nói đến việc ma quái  hiện hình cùng sự tin tưởng nơi quỉ thần. Nếu sự hiện hình đó vẫn thường xảy ra  trong những chủng tộc cổ xưa hãy còn sơ khai, chất phác, hơn là trong thế hệ chạy  theo văn minh vật chất hiện nay, đó là vì thuở xưa kia loài người có những giác  quan tinh tế và nhạy cảm hơn. Người dân ở những vùng rừng rậm châu Phi hay châu  Mỹ có thể dùng cách đánh hơi để phát hiện dấu vết kẻ thù cách xa họ nhiều cây số;  trong khi đó những người được xem là văn minh lại không thể nào làm được, vì những  giác quan của họ không còn giữ được sự tinh tế, bén nhạy. Cũng vậy, bức rào chướng  ngại ngăn cách nhân loại với thế giới vô hình không phải là quá kiên cố và  không thể vượt qua đối với những dân tộc còn trong trạng thái sơ khai, nhưng đối  với những người văn minh thì điều đó là không thể được. Con có nghe rõ chăng? 
  – Bạch thầy, con đang nghe với  tất cả tâm hồn. 
  – Nhưng trước hết, muốn vượt  qua bức rào ngăn cách đó, hành giả phải có một tâm hồn vững chãi như sắt thép,  được trui rèn bởi một sự hứng khởi nồng nhiệt và được tinh luyện để không còn đắm  nhiễm mọi dục vọng của cõi trần. Cũng vì lẽ đó mà các đạo sư của mọi thời đại  và ở bất cứ nơi đâu cũng đều dạy rằng sự tuyệt dục và thiền định công phu là những  điều kiện tất yếu để bước vào cửa đạo. 
  Khi tâm hồn đã được chuẩn bị  như thế, hành giả mới sẵn sàng thụ cảm đối với những ảnh hưởng từ cõi vô hình.  Giác quan linh thị có thể trở nên bén nhạy, hệ thần kinh cũng sẽ nhạy cảm hơn,  tinh thần sẽ được sáng suốt mẫn nhuệ hơn, thậm chí cả bầu không khí và cõi  không gian quanh ta cũng có thể trở nên linh động hơn. Hành giả sở đắc khoa  pháp môn có thể kiểm soát được cõi thiên nhiên và giao cảm được với cảnh giới  vô hình. Trong cõi vô hình có vô số những sinh linh mà mắt thường không nhìn thấy  được. Những sinh linh này thật ra cũng có hình thể, nhưng đó là những hình thể  được cấu tạo rất mỏng manh, nhẹ nhàng và tinh tế hơn so với thể xác của con người.  
  Khoa huyền môn có nói đến một  loại trong những sinh linh đó, và gọi chúng là những tinh linh 
ngũ hành,  được phân loại như 
kim tinh, 
mộc tinh, 
thủy tinh, 
hỏa  tinh, 
thổ tinh... Nhưng ngoài ra còn có vô số những loại sinh linh  khác nữa, khác biệt nhau đến thiên hình vạn trạng. Thậm chí còn có những loại  có trình độ tâm linh rất cao và thông minh hơn cả loài người. Cũng có những loại  rất hung ác, lại có loại thấp hèn giống như cầm thú trong thế giới con người.  Những loài sinh linh hung ác luôn thù nghịch với loài người, luôn gây hại và được  gọi là ác quỷ. Những loài hiền lành và thường âm thầm giúp đỡ loài người thì được  gán cho tên gọi là thần linh. 
  Người nào muốn tiếp xúc với  các sinh linh đó cũng chẳng khác nào người du khách muốn khám phá những nơi xa  lạ. Người ấy có thể gặp phải những nguy hiểm bất ngờ, những điều rùng rợn khủng  khiếp không thể nào lường trước. Khi con tiếp xúc được với cõi vô hình, thầy  không thể che chở cho con trước những hiểm nguy của cuộc phiêu lưu đó. Thầy sẽ  không thể hướng dẫn con theo những đường lối an toàn để tránh khỏi sự tấn công  bất ngờ của những kẻ thù nguy hiểm nhất! Con phải đương đầu một mình với mọi sự  hiểm nguy và gánh chịu mọi hậu quả. 
  Nhưng nếu con yêu thích sự sống  và chỉ muốn được trường sinh bất tử bằng một loại kim đơn linh dược, có lẽ con  sẽ tự hỏi rằng tại sao phải dại dột chuốc lấy hiểm nguy trong việc tiếp xúc với  những vong linh trong cõi vô hình làm gì. Đó là vì con không thể làm khác hơn.  Người ta nói rằng, kim đơn linh dược sẽ đưa vào cơ thể một nguồn sinh lực dồi  dào gấp bội, làm khai mở các giác quan, khiến chúng trở nên bén nhạy vô cùng, đến  nỗi người ta có thể nhìn thấy và nghe được cả những sinh vật cực kỳ nhỏ bé  quanh mình. 
  Vì thế, nếu không có một sự  rèn luyện chuẩn bị từ trước để đối phó với những sinh linh hung ác và khắc phục  chúng, thì sự bén nhạy của các giác quan sẽ trở thành một tai họa khủng khiếp  nhất cho người dùng kim đơn. Và cũng vì thế, chỉ những người nào đã vượt qua cuộc  thử thách khốc liệt nhất, và đã trải qua một thời kỳ tu luyện ráo riết, gắt gao  như đã kể trên, mới có thể sử dụng kim đơn một cách an toàn. Và dẫu cho với tất  cả những điều kiện đó, cũng có những người bị khủng khiếp kinh sợ đến cực điểm  vì phải đương đầu với những loài ma quái thình lình xuất hiện ngay trước mắt họ  khi vừa vượt qua những rào chắn tự nhiên lần đầu tiên. Khi đó họ mới nhận thấy  rằng kim đơn linh dược không có đủ sức mạnh để cứu nguy cho họ, còn những sức mạnh  thiên nhiên lại vô cùng lợi hại và có thể tiêu diệt họ bất cứ lúc nào. Cho nên,  đối với những ai chưa chuẩn bị sẵn sàng thì kim đơn chỉ là loại thuốc độc nguy  hiểm nhất. 
  Trong những loại vong linh đứng  trấn giữ cửa ngõ đưa vào cõi vô hình, có một loại mệnh danh là “người giữ cửa”.  Loại này hung ác và lợi hại hơn tất cả các loại khác. Cái nhìn khốc hại từ  trong cặp mắt ám ảnh của nó đã từng làm cho những kẻ gan dạ nhất phải sợ hãi rụng  rời. Uy lực áp đảo của nó đối với linh hồn kẻ sơ cơ càng tăng thêm tùy theo mức  độ sợ hãi rùng rợn mà nó gây ra cho người ấy. Con đã cảm thấy sợ chưa? 
  – Bạch thầy, con không sợ.
  – Vậy con hãy đi theo ta,  chúng ta sẽ tiến hành những nghi thức chuẩn bị cho con được nhập môn. 
  Kế đó, Kiềm Mâu đưa Linh Đông  vào phòng trong và bắt đầu giải thích cho anh nghe về một số phản ứng hóa học  mà ông đang làm. Tuy đó là những tác động rất đơn giản, nhưng Linh Đông nhận thấy  chúng có thể đưa đến những kết quả rất lạ lùng. Kiềm Mâu nói: 
  – Cõi thiên nhiên là một  phòng thí nghiệm khổng lồ, nơi đó các loại kim khí và khoáng chất luôn luôn có  sự biến đổi thường xuyên. Với sự hiểu biết tường tận về cội rễ của vật chất và  bí quyết tạo thành những tác động phản ứng hóa học, người ta có thể biến chì  thành vàng như môn phái luyện kim đã từng làm. Tuy vậy, luyện các kim khí khác  thành vàng vẫn còn dễ dàng hơn là làm ra kim cương và ngọc quí. Những kẻ ngu dốt  nông cạn bảo rằng những việc ấy là tà đạo và tìm cánh đàn áp khủng bố thẳng  tay. Nhưng họ lại không cho là tà đạo việc phát minh ra thuốc súng, cho dù nó  giúp người ta có thể bắn ra một trái đạn lớn giết chết hàng nghìn người! Kẻ nào  phát minh những loại vũ khí giết người hàng loạt lại được suy tôn như một bậc  vĩ nhân, nhưng người tìm ra một thứ linh dược để kéo dài sự sống lại bị xem như  là đồ bịp bợm! Kẻ nào nghĩ ra phương cách để làm cho người giàu trở nên giàu  thêm, kẻ nghèo càng thêm nghèo khó, sẽ được người đời dựng tượng đồng kỷ niệm,  nhưng người tìm ra phương pháp để san bằng mọi sự chênh lệch và đem lại sự bình  đẳng sẽ bị người đời mỉa mai và ném đá! Người đời là như thế! Đó là cuộc đời thế  gian mà 
Zanoni hãy còn luyến tiếc. Ta hãy bỏ cuộc đời đó lại cho ông ta.  Và bây giờ, sau khi con đã nhìn thấy một vài tác dụng của khoa học huyền bí,  con hãy bắt đầu học những bài học vỡ lòng! 
  Kế đó, Kiềm Mâu giao cho Linh  Đông một vài công việc để làm trong những giờ còn lại trước khi trời sáng.