Trong số những mong ước hầu như phổ biến nhất ở hết thảy chúng ta trong
dịp xuân về, có lẽ phải nhắc đến ước mơ về một năm mới “bình an vô sự”.
Thật vậy, bạn và tôi rất có thể không giống nhau về những mục tiêu đặt
ra cho năm mới, và vì thế chúng ta sẽ có những mong cầu khác nhau. Tuy
nhiên, cho dù là người giàu sang hay nghèo khó, đang sống ở thành thị
hay thôn quê, hết thảy mọi người cũng đều mong sao cho một năm sắp tới
sẽ luôn được “bình an vô sự”.
“Vô sự” ở đây có nghĩa không gặp phải bất cứ điều gì bất trắc, rủi ro
xảy ra trong cuộc sống. Chỉ cần được vô sự như thế thì chắc chắn đã là
một điều may mắn hết sức lớn lao cho bất cứ ai. Bởi vì cuộc sống này vốn
luôn đầy dẫy những điều bất như ý, cho dù chúng ta có cố tránh né đến
đâu thì vẫn luôn có thể gặp phải những trở lực cản đường, những tai ách,
khó khăn ngoài dự tính... Vì thế, ai ai cũng mong sao cho mọi việc làm
đều được “đầu xuôi đuôi lọt”, không gặp bất cứ trở ngại nào, vì nếu quả
thật được như thế thì những mong muốn khác của chúng ta sớm muộn gì rồi
cũng sẽ đạt được!
Sự bất an của chúng ta không chỉ đến từ những kẻ đối đầu hay có hiềm
khích với ta. Nó đến từ bất cứ điều kiện bất lợi nào, mà những điều kiện
bất lợi cho chúng ta trong cuộc sống này thì nhiều vô kể! Không ai có
thể ước lượng trước được hết, đừng nói là có thể tránh né hay loại bỏ
chúng. Vì thế, từ xưa đến nay sự mong cầu hai chữ bình an vẫn là điều mà
không một ai tránh khỏi.
Và như đã nói, nếu chúng ta thật lòng muốn cho lời cầu chúc bình an của
mình dành cho ai đó được trở thành sự thật, chúng ta cần phải có một
tình cảm chân thành đối với người ấy, cũng như tự mình hiểu được giá trị
của sự bình an và những phương cách để có được nó.
Khi chúng ta có một tình cảm chân thành với ai đó, ta mới có sự quan tâm
thực sự đến họ, và vì thế mà có thể hiểu được những nỗi bất an trong
lòng họ thường là do đâu. Một người mẹ luôn có khả năng làm cho con mình
cảm thấy an ổn, không sợ sệt. Đó chính là vì bà luôn quan tâm thực sự
đến con, luôn biết được sự bất an trong lòng đứa trẻ là do đâu, và vì
thế mà có thể trấn an, xoa dịu đứa trẻ.
Hơn thế nữa, khi chúng ta biết được ai đó đang lo sợ, bất an về điều gì
và muốn giúp họ vượt qua sự lo sợ, bất an, chúng ta cần phải tự mình
biết cách làm được điều đó. Nếu ta không thể tự mình biết cách tạo ra sự
an ổn cho chính bản thân, thì lời cầu chúc bình an của ta dành cho người
khác sẽ không thể có được những giá trị thực sự.
Thật ra, khi chúng ta mong ước được “bình an vô sự” trong năm mới, thì
trong sự mong ước đó chỉ có một nửa là khả thi mà thôi! Bởi vì sự bình
an là điều có thể đạt đến bằng những phương cách nhất định, nhưng những
sự cố đến từ bên ngoài lại hoàn toàn là điều mà chúng ta không thể tự
mình quyết định được!
Sự bất an của chúng ta có thể được hình dung như một ngọn đèn thắp lên
trước gió. Từng cơn gió thoảng qua và ánh đèn cứ lung lay, chập chờn
không sao đứng yên được. Nếu chúng ta muốn cho trời ngưng gió thì đó sẽ
là một mong muốn không sao đạt được. Vì thế, điều duy nhất có thể làm là
phải tạo ra những điều kiện bảo vệ ngọn đèn, sao cho nó có thể chịu được
sự lay động mà không bị gió thổi tắt, chẳng hạn như là dùng một cái bóng
đèn thủy tinh để che chắn gió...
Có vô số điều kiện bất lợi trong cuộc sống có thể làm cho chúng ta bất
an, lo lắng. Và chúng có thể xảy đến cho ta bất cứ lúc nào cũng giống
như những cơn gió kia luôn sẵn sàng thổi tắt ngọn đèn nếu nó không được
bảo vệ. Khi chúng ta sống một cuộc sống buông thả không tự bảo vệ chính
mình, tâm hồn ta sẽ chẳng khác gì ngọn đèn trước gió, luôn bị lay động
và dễ dàng bị thổi tắt bất cứ lúc nào. Ngược lại, nếu chúng ta biết rèn
luyện tinh thần, nhận thức đúng về mọi sự việc xảy ra trong cuộc sống,
chúng ta sẽ luôn có được một nội lực vững vàng cần thiết để đứng vững
trong cuộc sống.
Khi chúng ta ham muốn tiền bạc của cải vốn không thuộc về mình thì đồng
thời chúng ta cũng nảy sinh một sự bất an, lo sợ cho những tài sản hiện
có của mình có thể bị mất đi vì một lý do nào đó. Vì thế, cho dù tiền
bạc, của cải là hết sức cần thiết để giúp chúng ta nuôi sống bản thân và
gia đình, nhưng sự ham muốn tiền bạc, của cải lại chính là nguyên nhân
gây ra tâm trạng bất an, lo lắng. Điều này có thể nhận ra được khi so
sánh với sự lo lắng mà một người mẹ nảy sinh đối với đứa con thương yêu
nhất. Tình thương dành cho đứa con càng nhiều thì sự lo lắng đối với đứa
con ấy càng dễ nảy sinh hơn. Chẳng hạn, chỉ cần bé đi học về muộn một
chút cũng đủ để cho người mẹ phải cuống cuồng lo lắng. Ngược lại, nếu
không có lòng thương yêu thì những sự lo lắng như thế sẽ không thể nảy
sinh. Sự tham tiếc của cải, tiền bạc gây ra bất an, lo lắng cho bạn cũng
theo cách tương tự như vậy. Sự ham muốn của bạn càng mãnh liệt thì nỗi
lo lắng sẽ càng lớn hơn và dễ nảy sinh hơn, ngay cả với những nguyên
nhân tưởng chừng như không hợp lý. Trong kinh Pháp cú, kệ số 213, đức
Phật dạy rằng: “Do nơi lòng tham ái mà sinh ra sự lo lắng và sợ hãi.”
[7]
Đây chính là nói lên ý nghĩa này.
Điều này giải thích vì sao những người giàu có nhưng đôi khi vẫn phải
mất ăn mất ngủ vì lo lắng bảo vệ tài sản, trong khi có những người không
mấy dư giả mà vẫn có thể sống vô tư với nguồn thu nhập hạn chế của mình.
Sự khác biệt không được tạo ra bởi những giá trị tài sản họ có được, mà
chính là do cách nhìn đối với những tài sản ấy. Càng tham tiếc những gì
mình có được thì bạn lại càng phải lo lắng nhiều hơn vì sợ rằng chúng sẽ
mất đi!
Sự thật thì chúng ta không hề tạo ra tiền bạc, của cải bằng sự lo lắng,
bất an, mà phải tạo ra chúng bằng sự nỗ lực lao động và sức sáng tạo. Do
đó, nếu chúng ta nhận thức đúng về vai trò của tiền bạc trong cuộc sống,
chúng ta sẽ thoát khỏi sự lo lắng, bất an do nguyên nhân tham tiếc vật
chất gây ra. Chúng ta không phủ nhận giá trị của tiền bạc, của cải trong
đời sống, nhưng chúng ta cũng không buông thả lòng ham muốn chạy theo
những giá trị vật chất đó. Vì thế, chúng ta sẵn sàng lao động sáng tạo
để làm ra tiền bạc của cải phục vụ đời sống, nhưng luôn biết giới hạn
đúng mức sự quan tâm của mình đối với những những giá trị vật chất ấy.
Nhờ đó mà chúng ta luôn có khả năng đánh đổi giá trị vật chất để có được
những giá trị tinh thần cao quý hơn. Và ngay cả khi tài sản của chúng ta
có bị mất mát, tổn hại vì một lý do nào đó, chúng ta cũng sẽ không vì
thế mà rơi vào tình trạng suy sụp tinh thần.
Mặt khác, nếu chúng ta bực tức, giận dữ và luôn muốn trừng phạt, làm hại
những ai gây tổn hại cho mình thì đồng thời chúng ta cũng nảy sinh một
sự bất an, lo lắng rằng mình có thể bị người khác trừng phạt, làm hại
bằng một cách nào đó. Sự thật là đa phần những người bị chúng ta trừng
phạt hay làm hại sẽ luôn có khuynh hướng tìm cách “trả đũa” đối với việc
làm của chúng ta. Vì thế, cái vòng xoay “oan oan tương báo” này sẽ cứ
tồn tại mãi, cho đến khi nào một trong đôi bên có thể nhận ra được sự vô
lý này để chủ động chấm dứt nó.
Sự lỗi lầm là điều phổ biến ở tất cả mọi người. Chúng ta hầu như không
thể tìm thấy có ai đó chưa từng bị lầm lỗi! Và mỗi khi một ai đó mắc
phải sai lầm, điều tất nhiên là sự sai lầm đó có thể gây hại cho những
người có liên quan. Nếu mỗi lần như thế mà những người bị tổn hại đều
tìm cách “trả đũa” thì chúng ta sẽ không thể nào hình dung được cuộc
sống này sẽ đáng sợ đến mức nào!
Có thể bạn sẽ phản đối rằng, cần phải phân biệt sự gây hại của ai đó là
vô tình hay cố ý nữa chứ! Bởi vì bạn cho rằng sự cố ý gây hại tất nhiên
sẽ là hành vi rất xứng đáng để nhận lãnh một sự đáp trả!
Nhưng thật ra thì ngay cả việc cố ý gây hại cho người khác cũng chính là
một sự sai lầm. Hơn nữa, còn là sự sai lầm rất đáng thương. Bởi người ấy
đã không có đủ sự sáng suốt để nhận ra được những tác hại của một hành
vi như thế nên mới cố tình thực hiện. Và nếu như chúng ta tức giận rồi
đáp trả lại hành vi đó bằng cách tương tự thì chính bản thân ta rõ ràng
là cũng không sáng suốt gì hơn! Thi sĩ người Anh Alexander Pope
(1688-1744) đã từng viết ra một câu rất hay: “Lầm lỗi là thường tình của
con người, tha thứ mới là thánh thiện.”
[8]
Vì thế, chúng ta nên học biết cách tha thứ lỗi lầm cho người khác và cho
chính mình, bởi vì chúng ta không thể không thường xuyên đối mặt với
những lỗi lầm trong cuộc sống. Khi một người mắc lỗi, sự tha thứ bao giờ
cũng tạo ra ấn tượng mạnh mẽ và tốt đẹp đối với họ hơn là sự trừng phạt,
và vì thế sẽ hạn chế khả năng tái phạm của họ ở một mức độ thấp hơn.
Trong truyện Tam quốc, Khổng Minh liên tục 9 lần tha thứ cho Mạnh Hoạch
và nhờ đó mà đã triệt tiêu hoàn toàn khả năng tái phạm của ông này.
[9]
Mỗi một sai lầm dù là vô tình hay cố ý cũng đều là cơ hội để chúng ta
học hỏi. Nhưng chúng ta chỉ có thể học hỏi khi nào sai lầm đó được người
khác tha thứ. Bằng không, thay vì rút ra được bài học từ sai lầm, chúng
ta lại phải chú tâm vào việc giải quyết hậu quả của sai lầm ấy! Vì thế,
nếu chúng ta có thể tha thứ cho người khác khi họ mắc phải sai lầm, đó
chính là ta đã tạo điều kiện cho họ học hỏi và tiến bộ, và do đó sẽ có
ít khả năng họ mắc phải sai lầm ấy một lần sau nữa.
Tất cả những tổn hại của chúng ta đều xuất phát từ một sai lầm nào đó.
Nếu là do sai lầm của chính bản thân, chúng ta cũng cần phải biết tha
thứ cho chính mình để tiếp tục học hỏi vươn lên hoàn thiện. Nếu là sai
lầm của người khác, chúng ta càng không nên nảy sinh sự bực bội, tức
giận và nghĩ đến việc trừng phạt họ vì sai lầm ấy. Sự tha thứ sẽ giúp
người khác dễ dàng phục thiện hơn, trong khi sự trừng phạt lại dễ mang
đến oán hận. Chính vì thế mà những hành vi xuất phát từ sự bực tức, giận
dữ bao giờ cũng là nguyên nhân dẫn đến tâm trạng bất an, lo lắng của
chúng ta sau đó.
Đầu thế kỷ 15, Lê Lợi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta
đánh tan quân xâm lược nhà Minh. Tướng nhà Minh là Vương Thông bị vây
khốn trong thành Đông Quan, không còn lối thoát. Thế quân ta đang mạnh,
đã đánh tan quân cứu viện của nhà Minh, lại nhanh chóng thu được hết
thảy các thành trì khác. Quân Minh bị vây trong thành Đông Quan chỉ còn
một đường duy nhất là chờ chết. Sự cai trị tàn bạo trong những năm qua
của giặc Minh đối với nhân dân ta đã khiến cho hầu hết mọi người đều căm
phẫn, muốn thẳng tay tàn sát hết bọn tàn quân bại tướng này. Nhưng ngay
chính trong hoàn cảnh ấy, hai vị lãnh đạo tối cao là Lê Lợi và Nguyễn
Trãi đã hết sức sáng suốt nghĩ đến việc khoan dung tha thứ cho tất cả.
Họ quyết định giảng hòa và cung cấp lương thực, thuyền bè cho bọn chúng
về nước. Lịch sử đã chứng minh rằng đây là một quyết định hoàn toàn đúng
đắn, bởi vì trong suốt nhiều năm sau đó phương Bắc đã từ bỏ hẳn ý đồ xâm
lược nước ta, tạo điều kiện cho triều Lê có được những năm phát triển
trong thái bình thịnh trị.
Khi chúng ta biết khoan dung, tha thứ đối với mọi lỗi lầm, ta sẽ trở nên
sáng suốt và khách quan hơn khi nhận định về nguyên nhân của mọi sự
việc. Thường thì chúng ta luôn có một khuynh hướng nôn nóng quy lỗi về
cho một ai đó khi công việc không trôi chảy hoặc có điều gì không hay
xảy ra, vì thế mà ta rất dễ sai lầm, thiên lệch khi suy xét về nguyên
nhân của vấn đề. Khi có một sự việc không mong muốn nào đó xảy ra gây
tổn thất, thiệt hại cho ta, ngay lập tức ta sẽ tìm mọi cách để quy lỗi
về cho một ai đó. Trong trường hợp này, chúng ta luôn có những thiên
kiến nhất định đối với những người mà ta nghi ngờ, luôn cảm thấy mọi
hành vi, lời nói của họ dường như đều có liên quan đến sự việc. Và một
khi đã kết luận - thường là vội vã và không chính xác - rằng ai đó là
người có lỗi, chúng ta sẽ nghĩ ngay đến những biện pháp trừng trị “một
cách thích đáng”. Tuy nhiên, khi chúng ta có được khuynh hướng khoan
dung tha thứ thì việc trừng phạt sẽ trở nên không còn cần thiết nữa, và
vì thế mà cách nhìn của chúng ta đối với sự việc bao giờ cũng thận
trọng, khách quan và cởi mở hơn. Chính nhờ thế mà ta luôn có thể sáng
suốt nhận ra được nguyên nhân thật sự của vấn đề, thay vì là bị đánh lạc
hướng bởi những sự hoài nghi vô căn cứ.
Tinh thần khoan dung tha thứ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc
giúp ta hạn chế sự bực tức, giận dữ. Bởi vì xét cho cùng thì nguyên nhân
chủ yếu của sự bực tức, giận dữ chính là những sự việc hoặc hành vi ứng
xử của người khác không đúng theo ý muốn chủ quan của chúng ta. Nếu
chúng ta sẵn sàng tha thứ, không trách cứ nặng nề người khác vì những
lỗi lầm mà họ mắc phải, thì điều tất nhiên là tự thân những lỗi lầm đó
không thể nào kích thích, khơi dậy được sự bực tức giận dữ của chúng ta.
Và theo như đã nói, khi thoát khỏi tâm trạng bực tức, giận dữ đối với
người khác, chúng ta cũng sẽ đồng thời tránh được nguyên nhân gây ra sự
bất an, lo lắng cho chính mình. Do đó, có thể nói là chúng ta đã tích
cực tạo ra được tâm trạng an ổn cho chính mình qua việc biết khoan dung
tha thứ cho lỗi lầm của người khác.
Chỉ khi nào tự mình có thể tránh được sự bất an thì chúng ta mới có thể
mang lại sự an ổn cho người khác. Khi ấy, tự nhiên là những lời cầu chúc
của chúng ta sẽ trở nên có hiệu quả thiết thực.
Sự an bình không chỉ là một niềm mong ước khi xuân về, mà còn có thể nói
là khát vọng muôn đời của nhân loại, bởi vì con người từ xưa nay hầu như
luôn phải đồng hành cùng sự bất an. Trong khi tất cả chúng ta đều ca
ngợi những biểu tượng của hòa bình, thì sự tham lam vẫn tiếp nối nhau
khơi ngòi chiến tranh ở nơi này, nơi khác... Trong khi tất cả chúng ta
đều mong muốn cho nhau những tháng ngày được sống bình an, thì trong
những phút giây bực tức, nóng giận ta vẫn không ngừng gây hại cho
nhau... Tất cả những điều đó chỉ có thể dừng lại, chỉ có thể được chuyển
hóa khi mỗi chúng ta đều có thể hiểu đúng được vấn đề, có thể tự mình
thoát khỏi tâm trạng bất an bằng những nỗ lực loại trừ sự tham lam và
sân hận!