Chương 
        X: Đệ Thập Yếu 
        Niệm Phật Phải Dự Bị Lúc Lâm Chung
        Khải Đề: 
        Bên đường xe tang 
        buồn đi qua 
        Chiều hôm mồ hoang sương trăng tà 
        Vô thường đời trần thương ôi mau! 
        Người đi rồi lần sang phiên ta. 
        Nghìn xưa xa vời trong mông lung 
        Tài hoa tan về nơi vô cùng! 
        Luân hồi không cầu đường siêu thăng 
        Dù cho hiền minh sao anh hùng? 
        Hoàng hôn mây hồng in non xa 
        Dung hoa thầm khô theo suy già 
        Di Đà chuyên tu phòng lâm chung 
        Tương tư mơ về trời Liên Hoa. 
        Mục 
        A. Những Dự Bị Cần Thiết Cho Lúc Lâm Chung 
        Tiết 67 Dự Bị 
        Về Ngoại Duyên 
        Cổ thi nói: "Ta 
        thấy người khác chết. Trong lòng nóng xót xa! Chẳng phải 
        xót kẻ mất. Vì sẽ đến phiên ta!" Giữa đời, việc 
        buồn thảm lớn lao không chi hơn tử biệt. Nhưng sự chết, 
        người đời lại chẳng ai tránh khỏi. Cho nên những kẻ có 
        lòng muốn lợi mình lợi người, không thể không sớm dự 
        bị lo toan. Thật ra, chữ chết nguyên là giả danh, vì đó 
        chẳng qua là sự kết liễu của một thời quả báo, do 
        nghiệp cảm liên chuyền giữa mỗi đời, khi xả thân này, 
        lại thọ thân khác mà thôi. Kẻ không biết Phật pháp vẫn 
        đành để cho tùy nghiệp xoay vần. Người đã nghe pháp môn 
        Tịnh Độ của Như Lai, phải tín nguyện niệm Phật dự 
        bị tư lương, để khi lâm chung được vãng sanh an thuận. 
        Như thế mới mong sớm thoát nỗi huyễn khổ của sống 
        chết luân hồi, chứng vào cảnh chân lạc của Niết Bàn thường 
        trú. Lại người đã tu Tịnh Độ, chẳng những chỉ lo riêng 
        vì mình, mà đối với cha mẹ quyến thuộc cùng những thân 
        bằng quen biết, nên phát lòng hiếu thuận từ bi, khuyên cho 
        đồng niệm Phật, và trợ niệm cho khi bịnh nặng, lúc lâm 
        chung. Đó là công hạnh lợi tha, cũng là việc gây phước báo 
        duyên lành cho mình đời sau vậy. 
        * Nhưng dự bị cho lúc 
        lâm chung có nhiều chi tiết, nay trước tiên xin nói về 
        ngoại duyên. Người tu Tịnh Độ khi còn khoẻ mạnh, phải 
        dự trước tìm kết những đồng bạn, nhứt là kẻ ở 
        gần mình, để trợ niệm cho nhau khi bịnh nặng và lúc lâm 
        chung. Bởi chúng ta phần nhiều nghiệp nặng, tuy đã gắng 
        hết sức mình, song những lúc ấy e khi túc chướng phát 
        hiện, thân lực yếu kém, tâm thức hôn mê, khó giữ vững 
        được chánh niệm. Nếu không nhờ người hộ trợ, tất 
        dễ bị tùy nghiệp lưu chuyển, công tu một đời chẳng cũng 
        uổng lắm ư? Đây là điểm cần yếu thứ nhứt. 
        * Điểm thứ hai là 
        người niệm Phật khi thấy mình suy yếu, nên đem hậu sự 
        sắp đặt dặn dò trước, để khi lâm chung khỏi bận tâm. 
        Nếu là người xuất gia thì phải đem việc chùa chiền phó 
        chúc đệ tử, chỉ định kẻ thay thế mình điều hành 
        Phật sự. Như người tại gia thì đem tài sản ruộng vườn 
        tương phân cho con cháu, sắp đặt trước mọi duyên. Lại 
        phải dặn trước người quyến thuộc, khi mình đau nặng 
        hoặc lâm chung, không được khóc lóc hoặc lộ nét bi sầu. 
        Nếu có thương thì nên bình tỉnh, vì mình niệm Phật cầu 
        nguyện, hoặc hộ trợ cho sự vãng sanh, đó mới là tình thương 
        chân thật. 
        Tiết 68 Dự Bị 
        Về Tinh Thần 
        Về ngoại duyên như 
        trên đã nói, người niệm Phật lại còn phải dự bị về 
        tinh thần cho chính mình. Cách dự bị ấy như thế nào? - Trên 
        đường tu, hành giả phải có tinh thần giải thoát, xem từ 
        tiền của ruộng vườn cho đến thân tình quyến thuộc đều 
        là duyên giả tạm, sống tùy cảnh huyễn, chết rũ sạch không. 
        Nếu chẳng hiểu lẽ này, tất nó sẽ ngăn trở sự giải 
        thoát, có khi phải đọa làm loài bàng sanh như chó hoặc 
        rắn để giữ nhà giữ cửa. Đã có nhiều người vì nắm 
        níu tiền của hoặc thân nhơn, mà khi sắp chết phải khó 
        khăn, không yên tâm nhắm mắt được. 
        Hồi bút giả còn làm 
        đạo hầu, trong lúc dâng trà khuya, có nghe một vị Giáo 
        thọ thuật lại câu chuyện, bao hàm ý nghĩa giác tỉnh. 
        Cốt truyện đại khái như sau: 
        Khi xưa có hai bạn 
        đồng tu, một ông thích ở cảnh non cao, một vị cất am 
        dựa khu rừng bên bờ suối. Thời gian sau, tăng sĩ ở cạnh 
        suối tịch trước, vị sư trên núi hay được xuống viếng 
        thăm. Sau khi tụng kinh cầu nguyện, sư liền ngồi yên nhập 
        định coi bạn mình sanh về cõi nào? Nhưng tìm kiếm quan sát 
        khắp các nơi, từ cõi trời đến địa ngục, ông không 
        thấy người bạn ở đâu cả. Xuất định ra, sư hỏi thị 
        giả của ông bạn: "Hằng ngày thầy mi làm những việc 
        chi?" Đạo đồng đáp: "Bạch, mấy lúc sau này vì 
        thấy bụi mía trước am mập tốt, thầy con thường ra vun 
        phân tỉa lá, săm soi mãi, ra chiều thích thú lắm!" Vị 
        sư nghe nói nhập định lại, quán thấy ông bạn hóa ra làm 
        con sâu trong thân cây mía. Sư liền đốn cây mía ấy, chẻ 
        bắt lấy con sâu ra, thuyết pháp chú nguyện cho nó siêu thoát. 
        Câu chuyện trên 
        chỉ là truyền khẩu, bút giả chưa tìm thấy trong kinh sách. 
        Nhưng cứ theo lý mà đoán, thì sự kiện ấy vẫn chẳng 
        phải hư huyền. Nơi điển tích nhà Phật cũng có mấy 
        việc tương tợ. Chẳng hạn như: -Chuyện ông sa di vì tham 
        ăn sữa tô lạc, nên khi chết đọa làm con vòi trong bình 
        sữa. - Chuyện vị ưu bà tắc tuy có công giữ giới tu hành, 
        nhưng bởi quá quyến luyến vợ, nên khi chết thần thức hóa 
        sanh làm con vòi trong mũi vợ. Lúc cô vợ thương khóc sì mũi 
        con vòi văng ra, cô cả thẹn đưa chân muốn chà đạp, may 
        nhờ một vị A La Hán can ngăn, nói rõ nguyên do, thuyết pháp 
        siêu độ cho con vòi ấy. - Chuyện vợ một khách thương 
        đường biển, bởi luyến tiếc nhan sắc xinh đẹp của mình, 
        nên lúc chết liền hóa thành con vòi từ trong mũi bò ra đi 
        quanh trên mặt, như Kinh Hiền Ngu đã nói. Cho nên người tu 
        Tịnh Độ hằng ngày phải tỉnh tâm quán xét, dứt trừ lòng 
        tham gốc ái, quyết chí hướng về cõi Phật, để khi lâm 
        chung không bị sức nghiệp ngăn trở cuốn lôi. 
        * Từ Chiếu đại sư 
        nói: "Người tu Tịnh Độ khi lâm chung thường có ba điều 
        nghi, bốn cửa ải, hay làm chướng ngại cho sự vãng sanh, 
        phải dự bị suy nghĩ trước để phá trừ ba điều nghi là: 
        
          1- Nghi mình túc 
          nghiệp sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không 
          được vãng sanh. 
          2- Nghi mình bản nguyện chưa trả xong, tham sân si chưa 
          dứt, e không được vãng sanh. 
          3- Nghi mình niệm Phật, Phật không đến rước, e không 
          được vãng sanh. 
         
        Bốn cửa ải là: 
        
          1- Hoặc nhân bị 
          bịnh khổ mà trở lại hủy báng Phật không linh. 
          2- Hoặc nhân tham sống mà giết vật mạng cúng tế. 
          3- Hoặc nhân uống thuốc mà dùng rượu cùng chất máu 
          tanh hôi. 
          4- Hoặc nhân ái luyến mà tự ràng buộc với gia đình." 
         
        Đại sư nêu ra 
        thuyết Tam Nghi Tứ Quan ở trên, bậc trí huệ có thể suy 
        nghĩ tìm phương pháp giải quyết. Nay bút giả xin mạn phép 
        nói lược qua cách phá trừ để góp ý, và các bạn đồng 
        tu với sự hiểu biết của mình, có thể suy diễn hiểu 
        rộng thêm ra. 
        1. Phá mối nghi túc 
        nghiệp nặng, công tu ít: - Phật A Di Đà từng có lời thệ 
        nguyện: "Chúng sanh nào chí tâm muốn về Cực Lạc, 
        niệm danh hiệu Ngài cho đến mười niệm, nếu không được 
        vãng sanh, Ngài thề không thành Phật." Phật không khi nào 
        nói dối, vậy hành giả phải tin nơi đức Từ Tôn. Mười 
        niệm là thời gian công phu tu hành rất ít mà còn được vãng 
        sanh, huống chi ta niệm nhiều hơn số đó. Lại dù kẻ 
        nghiệp nặng đến đâu, như phạm trai phá giới, tạo đủ 
        nghiệp ác, nếu chí tâm sám hối nương về Phật A Di Đà, 
        Ngài đều tiếp dẫn. Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã chẳng nói 
        kẻ tạo tội nặng ngũ nghịch thập ác, khi lâm chung chí tâm 
        niệm mười niệm đều được vãng sanh đó ư? Trong truyện 
        Vãng Sanh, như Trương Thiện Hòa, Hùng Tuấn, Duy Cung, trọn 
        đời giết trâu bò, phá giới, làm ác, khi lâm chung tướng 
        địa ngục hiện, sợ hãi niệm Phật, liền thấy Phật đến 
        rước. Cho đến loài chim sáo, két niệm Phật , còn được 
        vãng sanh, huống chi ta chưa phải là tệ đến mức đó? 
        2. Phá mối nghi bản 
        nguyện chưa trả, tham sân si chưa dứt: - Bản nguyện của hành 
        giả đại khái có hai: đạo và đời. Về đạo, có người 
        nguyện cất chùa bố thí hay nguyện tụng số kinh chú bao 
        nhiêu, làm chưa tròn đã đến giờ chết. Phải nghĩ rằng: 
        chỉ tín tâm niệm Phật, khi được vãng sanh sẽ làm vô lượng 
        vô biên công đức, còn bản nguyện chỉ là việc nhỏ, làm 
        xong hay chưa không mấy quan hệ, và chẳng có hại chi cả. 
        Về đời, hoặc có người vì nhiệm vụ gia đình chưa tròn, 
        như cha mẹ suy già không ai săn sóc, vợ con thơ dại thiếu 
        chỗ tựa nương, hoặc có kẻ thiếu nợ người chưa kịp 
        trả, tâm nguyện chưa vẹn nên lòng chẳng yên. Phải nghĩ 
        rằng: lúc ta sắp chết, dù có lo hay không cũng chẳng làm 
        sao được. Chi bằng chuyên tâm niệm Phật, khi đã được vãng 
        sanh Tây Phương chứng đạo quả, thì tất cả bản nguyện 
        trái duyên đều có thể trả xong, tất cả kẻ oán người 
        thân đều có thể cứu độ. 
        Lại Kinh Na Tiên nói: 
        "Ví như hột cát nhẹ, bỏ xuống nước liền chìm. Trái 
        lại tảng đá dù nặng to, nếu được thuyền chở, có 
        thể đem từ chỗ này sang chỗ khác. Người niệm Phật cũng 
        thế, nghiệp tuy nhẹ nếu không được Phật cứu độ, 
        tất bị luân hồi, tội chướng dù nặng bao nhiêu, được 
        Phật tiếp dẫn sẽ sanh về Cực Lạc." Theo đoạn kinh 
        đây, ta thấy môn Niệm Phật là pháp có thể đới nghiệp 
        vãng sanh, vì nhờ tha lực. Tảng đá lớn ví cho sức 
        nghiệp nặng to, thuyền chở ví cho nguyện lực của Phật. 
        Vậy người tu đừng nghĩ rằng mình còn tham, sân, si, e không 
        được vãng sanh. Thí dụ trên có thể phá luôn điểm nghi 
        về nghiệp nặng ở điều thứ nhứt. 
        3. Phá mối nghi 
        niệm Phật, e Phật không đến rước: - Người niệm Phật 
        tùy theo công đức mình, khi lâm chung thấy Phật, hoặc Bồ 
        Tát, hay Thánh chúng đến rước. Có khi không thấy chi, mà 
        nhờ sức nguyện của mình và Phật lực thầm nhiếp thọ, 
        thần thức tự bay về Tây Phương. Đây là bởi công hạnh 
        của mình có cao thấp, sâu cạn. Chỉ cần yếu lúc ấy ta 
        phải chí tâm niệm Phật, đừng nghĩ chi sai khác. Nếu nghi 
        ngờ sẽ tự sanh ra chướng ngại. Tóm lại, khi lâm chung dù 
        thấy tướng tốt hay không cũng đừng quản đến, chỉ 
        hết lòng niệm Phật cho đến giây phút cuối cùng mà thôi. 
        * Phá chung bốn cửa 
        ải: - nhân bịnh khổ hủy báng Phật - tham sống sát sanh cúng 
        tế - cầu lành bịnh uống ruợu, hoặc dùng thuốc có chất 
        huyết tanh - vì ái luyến nên tâm niệm ràng buộc với gia 
        đình. 
        Người niệm Phật mà 
        bị tai nạn bịnh khổ, đó là do nhờ công đức tu hành, nên 
        chuyển quả nặng thành quả nhẹ, chuyển hậu báo thành 
        hiện báo, trả cho hết để được sanh về Tây Phương. 
        Nếu trở lại nghi ngờ hủy báng, là người kém tin hiểu, 
        phụ ơn Phật, tự gây tội chướng cho mình. Trong sự tích 
        Tịnh Độ có thuật chuyện ông Ngô Mao cùng rất nhiều 
        Phật tử khác, nhờ dồn nghiệp mà sớm được vãng sanh. 
        Vậy khi gặp cảnh này, người niệm Phật nên ý thức để 
        hiểu rõ. 
        Lại thân này giả 
        tạm, tùy theo tội nghiệp mà kiếp sống có vui khổ lâu 
        mau. Nếu giết sanh mạng để nuôi dưỡng sanh mạng, hoặc cúng 
        tế, thì tội khổ càng thêm nặng, phải triệt để nương 
        theo Phật và tin chắc lý nhân quả. 
        Khi đau yếu chỉ 
        cầu Phật, không nên cầu phù phép tà sư, hoặc nghe lời 
        kẻ chưa hiểu đạo, trở lại ăn mặn, uống rượu, hay dùng 
        thuốc bằng chất máu huyết tanh hôi. Thân này nhơ nhớp, 
        được về cõi Phật sớm chừng nào hay chừng ấy, như bỏ 
        chiếc áo hôi rách mặc sắc phục đẹp thơm, đáng chi 
        phải bận lòng? 
        Đến như mối hại 
        về ái luyến khi lâm chung, thì như đoạn trên đã nói. 
        Phải nghĩ: trong gia đình từ cha mẹ, anh em, vợ chồng, con 
        cái, đều do đời trước có nợ nần ân oán, nên mới 
        tạm hội ngộ nhau. Khi nhân duyên đã hết thì mỗi người 
        đi mỗi ngả. Nếu có lòng thương, tốt hơn ta nên gát bỏ 
        tình trần cầu sanh Tây Phương, để độ tất cả kẻ oan 
        thân. Khi cái chết sắp đến, dù có quyến luyến cũng không 
        thể đem theo, không làm chi được, bởi chính sắc thân 
        của ta còn phải tan về cát bụi. Nếu ái luyến thì đã không 
        được vãng sanh, lại bị khổ luân hồi vô cùng vô tận. 
        Những điểm về Tam 
        Nghi Tứ Quan trên đây, hành giả phải suy nghiệm ghi nhớ 
        kỹ, để dự bị trước cho tinh thần được yên ổn trong 
        lúc lâm chung. 
        Mục 
        B. Sự Khẩn Yếu Lúc Lâm Chung 
        Tiết 69 Thỉnh 
        Bậc Tri Thức Khai Thị 
        Người tu Tịnh Độ, 
        khi bịnh chưa nặng cũng nên uống thuốc, nhưng vẫn tinh 
        tấn niệm Phật, chớ tưởng nghĩ rằng: uống thuốc rồi 
        sẽ lành bịnh. Lúc bịnh đã nặng, có thể không cần dùng 
        thuốc. Hoằng Nhứt đại sư khi đau nặng, có kẻ thưa để 
        xin rước thầy hốt thuốc. Ngài liền từ tạ và nói kệ 
        rằng: 
        Đức Phật A Di Đà. 
        Là vô thượng y vương. 
        Nếu bỏ đây không cầu 
        Ấy là kẻ si cuồng! 
        Một câu hồng danh Phật. 
        Là thuốc diệu Dà Đà. 
        Nếu bỏ đây không uống. 
        Thật lầm to lắm mà! 
        Rồi Ngài chỉ chuyên 
        tâm niệm Phật. Quả nhiên bịnh cũng lần lần thuyên 
        giảm. 
        Nên nhớ khi bịnh đã 
        nặng, hành giả phải buông bỏ tất cả mọi việc xung 
        quanh, cho đến chính thân tâm của mình, chỉ chuyên nhứt 
        niệm Phật, một lòng mong cầu vãng sanh Tây Phương. Làm như 
        thế, nếu thọ mạng đã hết, quyết được vãng sanh. Như 
        thọ mạng chưa dứt, tuy cầu vãng sanh mà trở lại mau lành 
        bịnh, do vì lòng mình chuyên thành, nên có thể diệt trừ 
        nghiệp ác đời trước. Trái lại, nếu chẳng buông bỏ 
        mọi duyên nhứt tâm niệm Phật, như thọ mạng đã hết 
        quyết không được vãng sanh, vì mình chỉ chuyên cầu lành 
        bịnh chớ không cầu vãng sanh, nên không do đâu được về 
        Cực Lạc. Nếu thọ mạng chưa dứt, chẳng những không được 
        mau thuyên giảm, mà bịnh lại tăng thêm, vì mình nhân cầu 
        lành bịnh, vọng sanh lòng buồn lo sợ hãi. 
        Có nhiều người tu 
        Tịnh Độ, trong lúc đau nặng, thân nhơn vì kém hiểu đạo, 
        chẳng lo khuyến tấn sự niệm Phật, trở lại không tiếc 
        tiền rước nhiều đông, tây y hoặc thầy phù thủy, đến 
        cầu điều trị hoặc cúng tế cho mau lành bịnh. Làm như 
        thế, khiến cho người bịnh đã không được sự trợ 
        niệm, lại bị rộn ràng phân tâm, nên không được vãng 
        sanh. Đó là lấy tiền mua hiếu hoặc mua danh, để cho người 
        ngoài thấy mình là kẻ ân hậu, tận tâm lo lắng. Họ đâu 
        hiểu rằng, có lòng hay không Phật Thánh đều chứng biết, 
        chớ nào phải hình thức bên ngoài! Hành động ấy khiến 
        cho người sáng suốt chỉ mỉm cười thương xót! 
        Lúc bịnh nhơn đau 
        nhiều, như thần thức còn thanh tỉnh, người nhà nên 
        thỉnh bậc tri thức đến thuyết pháp khai ngộ cho. Nếu không 
        có bậc tri thức, nên mời một vị đồng tu đến an ủi 
        khai thị. Vị này nên khuyên nhắc thân nhơn kẻ bịnh, dùng 
        lòng từ bi cố chủ trương điều hành cho mọi việc hợp 
        với đạo, để cho người sắp mãn phần được sự lợi 
        ích vãng sanh. Đại khái vị khai thị nên y theo mấy chi 
        tiết sau đây: 
        1. Nói cảnh khổ Ta 
        Bà, cảnh vui Cực Lạc, nhắc cho bịnh nhơn phát lòng hâm 
        mộ. Lại nên đem việc lành, công tu của bịnh nhơn kể rõ 
        ra và khen ngợi, khiến cho người bịnh sanh lòng vui mừng không 
        còn nghi ngại, tự biết khi mình chết sẽ nương nơi 
        nghiệp lành ấy sanh về Tây Phương. 
        2. Nếu bịnh nhơn có 
        điều nghi ngờ gì, nên tùy cơ giải thích như thuyết Tam 
        Nghi Tứ Quan ở đoạn trên đã nói. Trong đây điểm cần 
        yếu là khuyên phải dứt trừ tâm tham tiếc tài sản và 
        niệm ái luyến gia đình. 
        3. Nếu người sắp 
        chết có di chúc trước thì thôi, bằng không, vị khai đạo 
        phải can ngăn, khuyên thân nhơn không nên hỏi han về di chúc. 
        Lại cũng khuyên đừng nói chuyện tạp vô ích khiến cho 
        bịnh nhơn động tâm niệm tình ái, quyến luyến thế gian, 
        có ngại cho sự vãng sanh. 
        4. Khi có bà con hay 
        thân hữu của kẻ bịnh đến thăm nên ngăn không cho đến 
        trước bịnh nhơn tỏ vẻ buồn thảm hỏi han. Nếu đã vì 
        cảm tình đến viếng thăm, chỉ nên đứng gần bên chắp 
        tay niệm Phật ra tiếng một hồi, đó mới thật là có lòng 
        thương mến. Như kém hiểu biết chỉ dùng theo tục tình, đó 
        chính là xô người xuống biển khổ, tình tuy đáng cảm, mà 
        sự lại di hại đáng thương. 
        5. Nên khuyên bịnh 
        nhơn đem những y phục vật dụng của mình thí cho kẻ khác. 
        Hoặc y theo phẩm Như Lai Tán Thán trong Kinh Địa Tạng, đem 
        vật liệu ấy cúng dường kinh tượng lại càng hay. Điều 
        này cũng giúp cho người bịnh thêm phước tiêu tội, được 
        dễ dàng trong sự vãng sanh. 
        Những điều đại 
        khái như trên, vị khai thị phải lưu ý. Ngoài ra có thể tùy 
        cơ ứng biến, ở đây không thể nói hết được. 
        Tiết 70 Cách 
        Thức Trợ Niệm 
        Người bịnh từ khi 
        đau nặng cho đến lúc sắp tắt hơi, thân nhơn quyến 
        thuộc phải bình tỉnh đừng khóc lóc. Có kẻ tuy không khóc 
        nhưng lại lộ nét bi thương sầu thảm, đó cũng là điều 
        không nên. Bởi lúc bấy giờ, bịnh nhơn đã đi đến ngả 
        rẽ phân chia giữa quỉ, người, phàm, Thánh, sự khẩn yếu 
        nguy hiểu khác thường, như ngàn cân treo dưới sợi tóc. 
        Khi ấy duy nhứt tâm trợ niệm Phật hiệu là điều thiết 
        yếu. Người dù có chí nguyện vãng sanh, mà bị quyến 
        thuộc thương khóc làm cho khơi động niệm tình ái, tất 
        phải bị đọa lạc luân hồi, công tu cũng đành luống 
        uổng! 
        Lại khi bịnh nhơn 
        gần qua đời, tự họ muốn tắm gội, thay y phục hay đổi 
        chỗ nằm, thì có thể thuận theo, song phải nhẹ nhàng cẩn 
        thận mà làm. Như họ không chịu, hoặc á khẩu không nói 
        được, rất không nên miễn cưỡng mà làm. Bởi người 
        sắp chết thân thể thường đau nhức, nếu ép di động, đổi 
        chỗ nằm hoặc tắm rửa, thay y phục, thì bịnh nhơn càng 
        đau đớn thêm. Nhiều người tu hành phát nguyện cầu về 
        Cực Lạc, nhưng khi lâm chung vì bị quyến thuộc di động 
        nhiễu loạn, phá hoại chánh niệm, nên không được vãng 
        sanh, việc này xảy ra rất thường. Hoặc kẻ mạng chung có 
        thể sanh về cõi lành, nhưng bị người khác không biết, xúc 
        chạm thân thể, sửa đổi tay chân làm cho đau đớn, nên 
        sanh lòng giận tức. Do một niệm đó, liền đọa vào đường 
        ác, làm rồng, rắn, cọp, beo, hoặc các loài độc khác. Như 
        vua A Xà Thế tu nhiều phước lành, khi lâm chung bị người 
        hầu cận ngủ gục làm rớt cây quạt trên mặt, nên giận 
        chết đọa làm rắn mãng xà. Gương này không nên răn sợ 
        ư! 
        Người bịnh khi lâm 
        chung hoặc ngồi, hoặc nằm, đều tùy tiện, chớ nên gắng 
        gượng. Nếu cảm thấy suy nhược chỉ có thể nằm, mà 
        muốn xem cho ra vẻ, gắng gượng ngồi dậy, là điều nguy 
        hại không nên. Hoặc theo lẽ, phải nằm nghiêng bên mặt hướng 
        về tây, nhưng vì thân thể đau nhức phải nằm ngửa, hay 
        nằm nghiêng bên trái hướng về đông, cũng cứ để tự 
        nhiên chớ nên gắng gượng. Đây là chính bịnh nhơn phải 
        hiểu như thế mà tự xử sự. Còn người thân thuộc cũng 
        phải hiểu lẽ này, chẳng nên cầu danh, bắt người bịnh 
        nằm nghiêng bên mặt hướng về tây, hay đỡ dậy, mặt áo 
        tràng sửa ngồi kiết dà. Đâu biết rằng chỉ vì cầu chút 
        hư danh, mà khiến cho người chết phải đọa tam đồ, 
        chịu vô lượng sự khổ! 
        * Lúc bịnh nhơn 
        sắp mãn phần, sự trợ niệm là điều rất cần thiết. 
        Bởi khi ấy, người bịnh từ tinh thần đến thể chất đều 
        yếu kém mê mờ, khó bề tự chủ. Đừng nói kẻ bình 
        nhựt chưa tu không giữ nỗi câu niệm Phật được lâu 
        bền; mà người bình nhựt lấy câu niệm Phật làm thường 
        khóa, nếu không nhờ sức trợ niệm cũng khó mong đắc 
        lực. Cách thức trợ niệm phải y theo những điều kiện như 
        ở dưới đây: 
        1. Thỉnh tượng 
        Phật Di Đà tiếp dẫn để trước bịnh nhơn khiến cho họ 
        trông thấy. Cắm một bình hoa tươi và đốt lò hương 
        nhẹ, khói thơm vừa thoảng để dẫn khởi chánh niệm cho 
        bịnh nhơn. Nên nhớ khói chỉ nhẹ thôi, đừng để nhiều 
        vì e ngột ngạt khó thở. 
        2. Người trợ niệm 
        tùy theo nhiều ít nên luân phiên mà niệm. Ít thì mỗi lần 
        một hoặc hai người, chia thành ba phiên. Nhiều thì mỗi phiên 
        có thể độ sáu hay tám người. Nên nhớ lúc ấy bịnh nhơn 
        sức yếu rất cần thanh khí, nếu để cho người ta vào đông, 
        hoặc kẻ trợ niệm quá nhiều, tất làm cho người bịnh 
        ngột ngạt xao động, có hại hơn là có lợi. Lại, các phiên 
        phải canh theo đồng hồ mà im lặng luân chuyển nhau, để 
        cho câu niệm Phật tiếp tục không gián đoạn, đừng kêu 
        gọi. Mỗi phiên niệm lâu ước độ một giờ. 
        3. Theo ngài Ấn 
        Quang, nên niệm bốn chữ để cho bịnh nhơn dễ thâu nhận 
        trong khi tinh thần thể chất quá suy yếu. Nhưng ý kiến 
        của Hoằng Nhứt đại sư, thì muốn niệm bốn chữ hay sáu 
        chữ, tốt hơn nên hỏi bịnh nhơn, để thuận với tập quán 
        ưa thích thuở bình nhựt của người bịnh, khiến cho họ có 
        thể niệm thầm theo. Nếu trái với tập quán ưa thích, 
        tức là phá hoại chánh niệm của người bịnh, tất mình cũng 
        có tội. Lại cách trợ niệm, không nên niệm to tiếng quá, 
        vì mình sẽ tổn hơi khó bền; không nên niệm nhỏ quá, vì 
        e người bịnh tinh thần lờ lạc khó thâu nhận. Cũng 
        chẳng nên niệm quá mau, bởi làm cho bịnh nhơn đã không 
        nghe nhận được rõ ràng, lại không thể theo kịp; chẳng nên 
        niệm quá chậm, bởi có lỗi tiếng niệm rời rạc khiến 
        người bịnh khó liên tục nhiếp tâm. Đại khái tiếng 
        niệm phải không cao không thấp, chẳng chậm chẳng mau, 
        mỗi chữ mỗi câu đều rành rẽ rõ ràng, khiến cho câu 
        niệm trải qua tai đi sâu vào tâm thức của người bịnh, 
        như thế mới đắc lực. Lại có điều nên chú ý, khi 
        bịnh nhơn tâm thức quá hôn trầm, niệm ở ngoài tất họ 
        nghe không rõ. Trong trường hợp ấy, phải kê miệng sát vào 
        tai họ mà niệm, mới có thể khiến cho người bịnh được 
        minh tâm. 
        4. Về pháp khí để 
        dùng trong khi trợ niệm, thông thường nên đánh khánh. Bởi 
        tiếng mõ âm thanh đục, không bằng tiếng khánh trong trẻo, 
        dễ khiến cho bịnh nhơn tâm thần thanh tỉnh. Nhưng vấn đề 
        đó cũng tùy, vì theo kinh nghiệm riêng, Hoằng Nhứt đại sư 
        đã dạy: "Những kẻ suy yếu thần kinh, rất sợ nghe 
        tiếng khánh và mõ nhỏ. Bởi âm thanh của mấy thứ này chát 
        chúa đinh tai, kích thích thần kinh khiến cho người bịnh tâm 
        thần không an. Theo thiển ý, chỉ nên niệm suông là thỏa 
        đáng hơn hết. Hoặc nếu có, thì chỉ nên đánh thứ chuông 
        mõ lớn. Những món này âm thanh hùng tráng, khiến cho người 
        bịnh sanh niệm nghiêm kính, thật hơn đánh khánh và mõ 
        nhỏ nhiều. Thứ mõ âm thanh đục cũng không nên đánh, vì 
        làm cho bịnh nhơn tâm thần hôn trược. Tuy nhiên, sở thích 
        của mỗi người không đồng, tốt hơn là nên hỏi trước 
        bịnh nhơn. Nếu có chỗ nào không hợp, phải tùy cơ cải 
        biến, chớ nên cố chấp." 
        Trên đây là mấy điểm 
        nên lưu ý về cách thức trợ niệm. 
        Mục 
        C. Điều Khẩn Yếu Sau Khi Mãn Phần 
        Tiết 71 Khi Tắt Hơi 
        Cho Đến Lúc Truy Tiến 
        Người mới tắt hơi, 
        điều thiết yếu là không nên vội di động. Hoặc kẻ 
        chết thân mình dính chất dơ cũng không nên gấp lau rửa, 
        phải đợi qua tám tiếng đồng hồ, hay ít nhứt cũng ba 
        giờ, mới được tắm rửa thay đổi y phục. Trước và sau 
        khi chết, người thân không được khóc lóc. Bởi khóc là vô 
        ích mà lại có hại, vì làm cho kẻ mạng chung sanh niệm 
        quyến luyến, không được giải thoát. Chỉ nên gắng sức 
        niệm Phật mới thật có ích cho vong nhơn. Nếu muốn khóc lóc, 
        phải đợi tám giờ sau. Tại sao thế? Vì bịnh nhơn tuy 
        tắt hơi nhưng thức A Lại Da còn chưa đi. Nếu khi ấy lay 
        động, tắm rửa thay y phục, hoặc kêu khóc, họ vẫn còn 
        cảm giác đau đớn hoặc sanh buồn giận bi thương mà phải 
        sa đọa. Điều này rất quan hệ, rất cần yếu, nên để 
        ý ghi nhớ kỹ. 
        Thuyết thăm dò hơi 
        nóng để nghiệm xem sanh về đâu, tuy có chứng cớ, song cũng 
        không nên câu chấp. Nếu bịnh nhơn bình thời tín nguyện 
        chân thiết, khi lâm chung chánh niệm rõ ràng, có thể chứng 
        nghiệm là vãng sanh. Nhiều người không kỹ, cứ mãi thăm dò, 
        rờ chỗ này chỗ kia, làm động niệm kẻ mạng chung, cũng 
        có hại rất lớn. 
        Sau khi bịnh nhơn 
        tắt hơi, người trợ niệm vẫn phải tiếp tục niệm 
        Phật cho đến ba giờ đồng hồ sau, để cho sự vãng sanh 
        được bảo đảm. Trợ niệm xong, liền đóng cửa phòng 
        lại canh chừng cho kỹ, kẻo loài mèo chó hoặc kẻ không am 
        hiểu đổ xô vào xúc chạm, đợi mãn tám giờ sẽ tắm 
        rửa thay đổi y phục. Nếu luôn trong tám giờ, có người 
        ở gần bên niệm Phật, là điều rất tốt. Ngoài ra cấm 
        tuyệt không nên làm điều chi khác. Xin nhắc lại trong 
        khoảng thời gian này, người chết vẫn còn cảm giác. 
        Sau tám giờ nếu tay 
        chân người chết đã cứng không thể chuyển động, nên dùng 
        vải thấm nước nóng đắp bao quanh khớp xương. Làm như 
        thế giây lâu, có thể sửa tay chân co duỗi như thường. 
        Trong đám tang của 
        người quá cố, thân nhơn nên làm đơn giản, đừng quá rườm 
        rà mà tốn vô ích. Điều cần thiết là phải nên dùng đồ 
        chay, chớ có sát sanh để đãi đằng cúng tế. Bất đắc dĩ 
        cần có chút ít đồ mặn, thì nên mua thịt cá chết, hoặc 
        người ta đã làm sẵn bán ngoài chợ. Nếu sát sanh để cúng 
        tế đãi đằng, tất người mãn phần bị oan đối không 
        được giải thoát. Dù kẻ mạng chung đã được vãng sanh, 
        phẩm sen cũng vì đó mà bị giảm thấp. 
        Trong thời gian trước, 
        bút giả cùng chư tăng có đi tụng kinh siêu độ cho bà kế 
        mẫu người bạn là thượng tọa Bảo Huệ ở xã Tân Hội 
        tỉnh Long An. Nơi đám tang, bút giả thấy dùng toàn đồ 
        chay, có khen ngợi và hỏi thăm, thì thượng tọa đáp: 
        "Sự cúng đãi đồ chay thật ra có do tôi khuyến hóa, 
        nhưng phần lớn cũng nhờ động lực bởi một chuyện đã 
        xảy ra ở xóm trên. Nguyên trên ấy có một nhà khá giàu, 
        gia chủ mãn phần, người con cho giết nhiều bò heo gà vịt 
        để tiếp đãi họ hàng thân thuộc và kẻ quen biết gần 
        xa, suốt cả mấy ngày. Lúc sanh tiền gia chủ là người 
        hiền lành phúc hậu thường ăn chay tụng niệm, lại có 
        giao du rộng. Sau đám tang ấy, vào buổi chiều hồn ông 
        nhập vào đứa cháu nội, mặt đỏ rần nhảy lên ván 
        ngồi vỗ bàn kêu gọi ngay tên đứa con lại, và quát bảo: 
        "Một đời tao tu hành làm phước, không tội lỗi chi 
        nặng, đáng lẽ được sanh đến chỗ giàu sang. Nay bị mày 
        sát sanh quá nhiều để cúng đãi, nên tao bị oan đối không 
        được giải thoát. Hiện thời tao bị quản thúc phạt vạ, 
        phải chăn giữ một bầy bò heo gà vịt, chạy trong bùn 
        lầy gai gốc, thật khổ sở vô cùng!" Thuật xong câu 
        chuyện, thượng tọa cười bảo: "Chính nhờ việc đó 
        đồn vang ai cũng đều biết, lại mới xảy ra cách đây ít 
        tháng, người nhà đã tin tưởng kinh sợ, nên tôi mới vừa 
        đề nghị là được chấp thuận liền." Việc sát sanh 
        đãi đằng cúng tế trong đám tang, Kinh Địa Tạng cũng đã 
        có nói rõ sự nguy hại, vậy hàng Phật tử nên để tâm 
        ghi nhớ. 
        Khi làm Phật sự 
        truy tiễn cho người quá vãng, thân nhơn nên đem công đức 
        ấy hồi hướng khắp chúng sanh trong pháp giới. Như thế, công 
        đức sẽ càng thêm lớn, mà sự phước lợi của vong nhơn 
        cũng nhân đó được tăng thêm nhiều. 
        Những điểm dự 
        bị về lúc lâm chung trên đây, phần lớn bút giả rút 
        lấy ý kiến của các bậc danh đức như ngài „n Quang và 
        Hoằng Nhứt đại sư mà dung hội lại. Bởi buổi lâm chung 
        chính là lúc quan yếu nhứt trong cuộc đời người. Nếu trước 
        chưa dự bị tư lương vãng sanh cho đầy đủ, đến chừng 
        ấy khó khỏi kinh hoàng bối rối, kêu cầu không kịp, 
        nghiệp ác trong nhiều kiếp đồng thời hiện ra, làm sao 
        giải thoát? 
        Cho nên khi lâm chung 
        tuy nhờ người y theo phương pháp mà trợ niệm, nhưng chính 
        mình lúc bình nhựt phải cố gắng tu trì chừng ấy mới 
        được tự tại. 
        Xin các bạn tu tịnh 
        nghiệp sớm lưu tâm dự bị, để đồng được dự phẩm 
        sen nơi hải hội Liên Trì. 
        Tiết 72 Những Gương 
        Đắc Thất Về Sự Trợ Niệm 
        1. Sự tích cư 
        sĩ Lưu Cảnh Liệt 
        Cư sĩ Lưu Cảnh 
        Liệt, người tỉnh Giang Tây ở Trung Hoa, buổi thiếu thời 
        có sang lưu học Nhựt Bản. Sau khi quang phục, ông từng làm 
        nghị viên ở quốc hội và ty trưởng nhiệm chức phương 
        ty. Anh của cư sĩ là Cảnh Hy, vốn hàng quan thân, từ lâu 
        đã mến chuộng Phật học, nên đối với cửa đạo, cư sĩ 
        cũng khẳng khái hộ trì. Ông đã làm nhiều điều công đức, 
        như việc trùng tu ngôi Thọ Lượng cổ sát, xuất tư sản 
        mua chuộc ruộng hương hỏa cho chùa, lại thỉnh Đại Xuân 
        hòa thượng về trụ trì. Khi Đức Sum pháp sư đề xướng 
        việc đúc pho tượng Quán Âm Đại Sĩ bằng đồng, cao hai mươi 
        tám thước, cư sĩ cũng bôn tẩu góp quyên cho đến khi hoàn 
        thành Phật sự. 
        Năm Dân Quốc 22, 
        Cảnh Liệt nhân tỵ nạn chiến tranh đến Tô Châu, quy y 
        với „n Quang đại sư, được pháp danh là Đức Thành. Từ 
        đó ông giữ lục trai và chuyên tu tịnh nghiệp. Khi chưa vào 
        đạo, Cảnh Liệt thích đánh cá lưới chim, tạo nghiệp sát 
        cũng nhiều. Do nhân ác đó về sau cư sĩ mang chứng ghẻ Đối 
        Khẩu Sang rất nguy kịch, ngày đêm đau nhức rên la. Trong 
        cảnh khổ, ông phát nguyện dứt trừ nghiệp ác, chuyên 
        niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm bỗng nghe mùi hương lạ 
        bay ngào ngạt, bịnh lần lần thuyên giảm. 
        Đến năm Dân Quốc 
        25, cư sĩ mới trở lại quê hương. Tuy lòng tin đã phát, nhưng 
        vì việc đời việc đạo bận rộn quá nhiều, nên về 
        phần thật hành, ông chưa được chuyên thuần, mỗi ngày 
        chỉ tùy duyên niệm Phật chút ít mà thôi. Sang năm Dân 
        Quốc 27, do nghiệp sát đời này và đời trước, cư sĩ 
        lại phát sanh bịnh nặng. Lâu ngày triền miên trong cơn 
        bịnh khổ, ông khó kham nhẫn, liền bảo con là Lưu Phát 
        Trang xuất tiền gởi Đức Sum pháp sư nhờ cúng dường ngài 
        „n Quang và làm các việc công đức để cầu mau tiêu 
        tội. Pháp sư viết thơ trả lời khuyên cư sĩ nên trường 
        trai, nhưng dây dưa mãi đến cuối năm ông mới thật hành 
        được. 
        Qua năm Dân Quốc 28 
        bịnh thế của cư sĩ càng thêm nặng. Vợ con ông đều là 
        đệ tử quy y của ngài „n Quang, đã biết sự khẩn yếu lúc 
        lâm chung, vội thỉnh chư tăng ở chùa Thọ Lượng đến 
        trợ niệm. Ngày mười chín tháng giêng năm ấy, cư sĩ 
        biết mình sẽ từ trần, bảo người nhà đem ghế đỡ ra 
        trước sân ngồi để thay đổi thanh khí. Sau khi gọi anh em 
        dặn dò hậu sự và bảo con là Phát Trang quì nghe di chúc 
        xong, thần sắc ông bỗng đổi khác. Vợ con thấy thế 
        liền đỡ vào nhà, đem tượng Di Đà tiếp dẫn đến để 
        trước mặt cư sĩ, rồi cùng chư tăng lớn tiếng trợ 
        niệm danh hiệu Phật. Đã vài tháng cư sĩ bị bịnh xuội 
        hết một cánh tay trái, nhưng khi thấy tượng Phật, ông 
        bỗng hoạt động được như thường, hai tay chắp lại, 
        miệng niệm Phật, mặt lộ vẻ hớn hở vui mừng. Lúc đó, 
        dường như ông không còn cảm thấy thống khổ, tùy theo 
        mọi người niệm Phật giây lâu, rồi an lành thoát hóa. 
        Cư sĩ vãng sanh vào 
        lúc được sáu mươi mốt tuổi. Mấy tháng ông bị bịnh 
        khổ là do nghiệp sát sanh chuyển thành khinh báo trong hiện 
        tại. Đến khi lâm chung nhờ sức trợ niệm nên hiện ra điềm 
        tốt, có thể gọi là: các căn vui đẹp, chánh niệm phân 
        minh, xả báo an lành, như vào thiền định. Như thế sự vãng 
        sanh Tây Phương đã chắc không còn nghi ngờ nữa. Lúc tang 
        tế đãi khách, cả nhà tuân theo lời ngài „n Quang, dùng toàn 
        đồ chay, ai nấy đều khen ngợi. 
        Sự việc cư sĩ được 
        vãng sanh, tuy do căn lành đã thành thục, mà cũng nhờ sức 
        trợ niệm lúc lâm chung. Vậy đối với điểm khẩn yếu 
        rốt sau, chư liên hữu cần để tâm chú ý. 
        2. Sự tích nữ 
        cư sĩ Đức Hoằng 
        Nữ cư sĩ Đức 
        Hoằng, là vợ của một người họ Lý ở Dương Châu. Nhân 
        vì chồng có vợ bé mà mình lại không sanh dục, cô khó 
        nỗi yên thân nơi nhà, nên đến nương ngụ với kế mẫu là 
        nữ cư sĩ Đinh Đức Nguyên. Bà Đức Nguyên cũng thương cô 
        như con đẻ, đôi bên nương nhau tình thân thiết hai mươi năm 
        như một ngày. 
        Đức Hoằng cư sĩ 
        trường trai tu tịnh nghiệp, hôm sớm rất chuyên cần. Cô và 
        kế mẫu vì nghĩ duyên đời phước bạc, quyến thuộc điêu 
        linh, nên nương tựa nhau cùng làm bạn pháp trên đường đạo. 
        Luận về sự tín hướng và công hạnh tu trì lúc bình 
        nhựt, thì mỗi mỗi cô đều vượt xa hơn Lưu Cảnh Liệt cư 
        sĩ. Chỉ tiếc vì túc nghiệp cuốn lôi, nhân duyên khiếm 
        khuyết, nên cô hằng gặp cảnh chướng nạn không mấy lúc 
        được yên thân. 
        Năm Dân Quốc 27, nhân 
        thấy miền Vũ Hán sắp chìm trong cuộc chiến, hai mẹ con 
        liền từ Hương Cảng đến thị xã Hộ tạm lánh nạn. 
        Bấy giờ vì vật giá lên cao, mướn nhà rất khó, mà ở lâu 
        nơi khách sạn tổn phí nhiều lại càng bất tiện. Duyên 
        may nhờ Diệu Chân hòa thượng xót thương, mở một gian 
        tịnh thất nơi chùa Thái Bình để cho mẹ con cô và ba người 
        Phật tử tản cư nữa cùng ở. 
        Năm Dân Quốc 28, vào 
        khoảng tháng ba, Đức Hoằng cư sĩ bỗng cảm chứng thương 
        hàn. Dây dưa qua đến tháng tư, thuốc thang đều vô hiệu. 
        Bịnh thế mỗi ngày càng thêm nặng. Lúc ấy trong chùa 
        Phật sự nhiều, phòng xá lại ít, nếu để chết tại đó 
        thấy có điều bất tiện, nên bất đắc dĩ bà kế mẫu 
        phải đưa cô vào y viện. Chương trình nơi đây đều theo cách 
        thức Tây Phương, muốn được tự do trợ niệm trong lúc lâm 
        chung, thật khó toàn vẹn. Đức Hoằng cư sĩ vào y viện 
        được hai ba ngày, người biết Phật pháp không thể tới 
        lui hộ trợ, nên buổi sáng ngày mười tám tháng tư, cô mãn 
        phần một cách hồ đồ trong y viện. Lúc ấy nữ cư sĩ 
        được năm mươi mốt tuổi. 
        Như Đức Hoằng cư 
        sĩ xác thực là người có tín tâm tu trì. Nếu khi lâm chung 
        được sự trợ niệm đúng pháp, tất điềm lành tướng 
        tốt vãng sanh không ở sau Lưu cư sĩ. Cũng bởi cơ duyên 
        trở ngại, nên đời này cô không thọ dụng được công 
        hạnh tu niệm lúc bình thời, chỉ gây nhân đắc độ về 
        sau mà thôi. Việc xảy ra thật đáng tiếc cho cô, song cũng 
        cho ta thấy sự trợ niệm lúc lâm chung quả là trọng yếu. 
        3. Sự tích cư 
        sĩ Dương Liên Hàng 
        Cư sĩ Dương Liên Hàng, 
        người thời Trung Hoa Dân Quốc, quê ở huyện Dư Diêu tỉnh 
        Triết Giang. Ông nhà nghèo từ nhỏ theo nghề buôn bán, tánh 
        lịch thiệp quán xuyến hơn người. 
        Năm Dân Quốc thứ mười 
        một, Liên Hàng được biết người bạn cùng xóm là Đồng 
        Giác Hàng tu tịnh nghiệp, trong lòng ưa thích hằng qua lại 
        để nghe lời chỉ giáo. Sau đó, ông thọ quy giới làm hàng 
        Phật tử tu tại gia. Phần văn học tuy cư sĩ còn yếu kém, 
        song về nghĩa lý kinh Phật, sự giải ngộ lại hơn người. 
        Tháng chín năm Quý Hợi, các bạn ở Liên Xã ước hẹn cùng 
        nhau thệ nguyện phát lòng Bồ Đề, Liên Hàng cũng có dự 
        trong cuộc lễ ấy. 
        Cuối mùa Xuân năm 
        Giáp Tý, vì đau bịnh, cư sĩ lén phá giới sát sanh, nhân đó 
        lần lần xa cách với các liên hữu. Đến tháng bảy, bịnh 
        ông càng thêm nặng, bạn đồng tu đến thăm, ai cũng bảo 
        rằng tất sẽ chết. Liên Hàng cũng xét biết mình khó 
        sống, tự cảnh giác ăn năn việc đã làm. Đầu tháng tám, 
        ông gượng đau đến trước bàn Phật, hết lòng phát lộ 
        chí thành sám hối, nguyện giữ lại năm giới, thề không tái 
        phạm. Từ đó cư sĩ buông bỏ muôn duyên, dứt trừ ái 
        dục, một lòng thầm niệm hồng danh Phật, chờ đến lúc 
        mạng chung. Các liên hữu biết công phu trì niệm của cư sĩ 
        còn cạn, nên trước khi ông lâm chung sáu ngày, thỉnh người 
        đến trợ niệm. Mấy hôm rốt sau, những bạn đồng tu cũng 
        tự mình đến niệm Phật giúp duyên. 
        Cuộc trợ niệm 
        khởi đầu từ ngày mười hai tháng tám. Qua ngày rằm, Liên 
        Hàng bỗng tự cảm thấy thần khí thanh nhẹ tươi tỉnh. Đến 
        ngày mười bảy cư sĩ bảo trong giấc mơ thấy một vầng 
        ánh sáng như năm sáu ngọn đèn điện chói lòa. Vào chiều 
        tối, xem thần sắc ông cũng như thường, các liên hữu cho 
        là chưa đến giờ, tiếp tục niệm Phật tới sang canh hai, 
        rồi sắp sửa muốn ra về. Các vị ấy không ngờ rằng, lúc 
        đó sự trợ niệm đã đến hồi tinh thuần đắc lực. 
        Liên Hàng nghe tiếng 
        niệm Phật bỗng ngưng bặt, liền nói: "Tôi hãy còn chưa 
        đến Tây Phương, mong nhờ chư liên hữu trợ niệm cho 
        suốt đêm nay." Chúng nghe lời nói có vẻ khác lạ, 
        lại cao tiếng niệm Phật. Không đầy nửa giờ sau, cư sĩ 
        bỗng cười bảo: "Tôi đã đến Tây Phương. Ôi! Ao 
        thất bảo to rộng quá! Kìa! Hoa sen thật là đẹp! Ánh quang 
        minh cũng sáng đẹp vô cùng!" Rồi ông lại dặn đại 
        chúng cao tiếng trợ niệm đừng nghỉ. Từ trước Liên Hàng 
        vẫn lặng lẽ nằm yên. Đến lúc bây giờ tay và đầu ông 
        đều hoạt động, miệng liên tiếp nói to: "Ôi! Hoa sen 
        thật tươi xinh! Ao báu thật sáng đẹp!" Lúc ấy mặt 
        của cư sĩ tươi cười hớn hở, trông như người bất 
        chợt có việc vui mừng vượt quá hy vọng. Như thế qua 
        một giờ sau, ông trở lại lặng yên không nói, tay chân cũng 
        không động, chỉ nằm ngửa mắt chăm chú nhìn tượng 
        Phật trước giường. Kế tiếp đôi tròng lần lần lờ 
        lạc, hơi thở cũng lần yếu mòn. Đến năm giờ sáng ngày 
        mười tám, cư sĩ mới tắt hơi. 
        Đêm ấy liên hữu 
        chỉ có bốn người, mà vừa thay phiên nhau lớn tiếng trợ 
        niệm suốt đêm, vừa thỉnh thoảng lại xen đôi lời sách 
        tấn. Như thế cứ tiếp tục niệm cho đến sau khi cư sĩ 
        tắt hơi một giờ rưởi, mới đổi phiên cho những vị khác 
        vừa đến. Sự trợ niệm vẫn tiếp tục cho tới lúc thân 
        thể kẻ mãn phần lạnh hẳn, người nhà đều bị ngăn không 
        được khóc thương. Đến mười giờ trưa, một liên hữu 
        thăm dò thử, thì các nơi khác đều lạnh, duy đảnh đầu 
        còn nóng như nước sôi. 
        Trong kinh, có bài 
        kệ nói: 
        Đảnh Thánh, mắt 
        sanh trời. 
        Người tim, ngạ quỉ bụng. 
        Bàng sanh ra đầu gối. 
        Địa ngục lòng bàn chân. 
        Khi người chết các 
        nơi khác đều lạnh, duy đảnh đầu nóng sau rốt, là kẻ 
        ấy đã sanh về cõi Thánh, cõi Phật; mắt nóng sau rốt là 
        sanh lên cõi trời; chỗ tim ngực nóng sau rốt là sanh lại cõi 
        người. Còn nếu ở bụng thì kẻ đó sanh về cõi ngạ 
        quỉ, ở đầu gối đầu thai vào loài bàng sanh; ở lòng bàn 
        chân, tất đọa xuống địa ngục. Thần thức thoát ly từ 
        nơi nào, thì chỗ đó nóng sau cùng. Cư sĩ đảnh đầu nóng 
        sau rốt, chứng tỏ ông đã vãng sanh về Cực Lạc vậy. 
        Như Liên Hàng cư sĩ, 
        giới phẩm không tròn, công hạnh tu trì lại còn non kém. Nhưng 
        không được vãng sanh, xét ra toàn nhờ sức trợ niệm của 
        các bạn đồng tu. Xem đây, ta thấy sự trợ niệm rất 
        thiết yếu cho hành giả lúc lâm chung. Bấy giờ nhằm ngày 
        18 tháng bảy, năm Dân Quốc thứ 13 (1924), cư sĩ được ba mươi 
        tuổi. 
        ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | 01 
        | 02 | 03 | 04 
        | 05 | 06 | 07 
        | 08 | 09 | 10 | Mục 
        lục  |