Chương 
        VII: Đệ Thất Yếu 
        Niệm Phật Phải Khắc Kỳ Cầu Chứng Nghiệm
        Khải Đề: 
        Thân như bọt 
        Bể thương tang 
        Chìm nổi kiếp mênh mang! 
        Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn 
        Chỉ nương Vô Lượng Quang. 
        Trời niệm tâm 
        Núi kiên quyết 
        Vọng tình xin cách tuyệt 
        Dần dà khó thể nhập Liên Bang 
        Khi nao thật được nhàn? 
        Mục 
        A. Nên Định Kỳ Kiết Thất 
        Tiết 43 Sự Sống 
        Chết Lớn Lao 
        Đạo lý "Cơn vô 
        thường mau chóng, sự sống chết lớn lao" duy có Phật 
        Giáo đề cập và giải quyết một cách rốt ráo. Thế gian 
        chỉ nói đến vấn đề sinh hoạt sau khi sanh, trước khi 
        chết; đến như vấn đề sanh tử trước khi chưa sanh, sau 
        khi đã chết thì không nghiên cứu tận cùng. Đạo Nho tuy có 
        luận bàn việc sau khi chết, nhưng với mục đích hoàn thành 
        hiếu đạo, trọn vẹn lễ nghi. "Thờ chết như thờ 
        sống, thờ mất như thờ còn" mà thôi. Khi xưa có một 
        lúc thầy Tử Lộ hỏi về việc chết, đức Khổng Tử đáp: 
        "Sống còn chưa biết, đâu đã biết chết!" Đạo 
        Tiên giải quyết cái chết bằng cách kéo dài sự sống, 
        gọi là trường sanh. Nhưng trường sanh tuy có, mà bất tử 
        thì không, vì mọi pháp tạo tác hữu vi đều ở trong vòng 
        sanh diệt. Trong đạo lý Thập nhị nhân duyên, đức Phật 
        đã truy nguyên cho thấy rõ "sự sanh già bịnh chết, lo 
        thương sầu khổ", đều do một niệm mê mờ đầu tiên, 
        gọi là vô minh. Phá vô minh trở về bản tánh, mới đoạn 
        hẳn nguồn sanh tử. Nhưng đó chỉ dứt phân đoạn sanh tử 
        thuộc nhơn ngã chấp mà thôi; còn phải trừ biến dịch 
        sanh tử thuộc pháp ngã chấp, mới đi đến chỗ toàn giác. 
        Tuy nhiên, dứt được phân đoạn sanh tử, trụ nơi Vô Dư 
        Niết Bàn, thoát khỏi sự khổ luân hồi trong ba cõi, đã quí 
        hóa hy hữu lắm rồi. Và đó cũng là giai đoạn đầu tiên, 
        mà người tu Phật cần phải giải quyết. 
        Như lời Phật 
        huyền ký, thời mạt pháp bậc ngộ đạo còn ít có, huống 
        chi là chứng đạo, và chưa chứng đạo tất còn phải 
        chịu luân hồi. Cho nên muốn giải quyết vấn đề sanh tử 
        ngay đời hiện tại giữa thời mạt pháp này, chỉ có phương 
        tiện duy nhất là cầu đới nghiệp vãng sanh về Cực Lạc. 
        Tại sao phải như thế? Vì nếu không chứng đạo mà lại 
        không được vãng sanh, tất phải đọa luân hồi. Khi luân 
        hồi trong cõi ngũ trược, lại ở sâu vào thời mạt pháp 
        đạo đức lần lần suy tàn này, nghiệp dữ dễ tạo, duyên 
        lành khó tu, kết cuộc vẫn phải đọa trong ba đường ác. 
        Cho nên sống chết là vấn đề lớn lao, mà những vị tu hành 
        quyết cầu giải thoát đều phải thao thức. Ngài Bát Chỉ 
        Đầu Đà, một bậc cao tăng cận đại bên Trung Hoa, khi còn 
        trẻ chưa xuất gia, thấy những đóa hoa héo rụng trước nhà, 
        liền suy tư rơi lệ. Đó là vì ngài có trí huệ, biết ý 
        thức sâu đến sự sống chết của kiếp người. 
        Một mảnh phương tâm 
        không chỗ gởi. 
        Giàn hoa chầm chậm ánh trăng soi. 
        Có thể mượn hai câu 
        này, để diễn tả tâm trạng người tu với mối tư lương 
        thao thức ấy. 
        Tiết 44 Ý Nghĩa 
        Kiết Thất 
        Như trên đã nói, 
        nếu không chứng đạo, phải niệm Phật cầu vãng sanh. 
        Muốn chắc chắn được vãng sanh, phải niệm đến trình độ 
        nhứt tâm bất loạn. Và muốn luyện cho đến mức một lòng 
        không loạn, lại cần phải kiết thất. Kiết thất là ở 
        trong ngôi nhà nhỏ hay một gian phòng, tuyệt hết ngoại duyên, 
        chỉ chuyên lo niệm Phật trong khoảng bảy ngày. Nhưng tại 
        sao phải bảy ngày, không sáu ngày hoặc tám ngày? Kinh dạy: 
        "Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nào, nghe nói đến 
        Phật A Di Đà, giữ niệm danh hiệu, hoặc một ngày, hoặc 
        hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, 
        hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không loạn." 
        Trong kinh không nói chỉ sáu ngày, hay quá đến tám ngày, cho 
        nên người tu Tịnh Độ xưa nay căn cứ theo kinh qui định 
        thời gian để kiết kỳ niệm Phật trong bảy ngày. 
        Theo Mật Giáo, số 
        bảy là số cùng cực của sự sanh hóa, nên thân Trung ấm 
        bảy ngày phải biến thể một lần, tụng chú ít nhứt cũng 
        bảy lượt mới sanh hiệu lực. Đạo Phật gọi điều này 
        bằng bốn chữ "pháp nhỉ như thị", nghĩa là theo 
        phép của lẽ tự nhiên nó phải như thế, không thể giải 
        thích được; cũng như không thể cắt nghĩa tại sao lửa thì 
        nóng, băng tuyết lại lạnh. Từ số bảy làm trung tâm điểm, 
        diễn lên ba lần thành hăm mốt, bảy lần thành bốn mươi 
        chín; nên để hoàn thành công hiệu, Mật Giáo dạy tụng chú 
        bảy lần, nếu tâm lực yếu chưa thể thành tựu thì tụng 
        hăm mốt lần, hoặc bốn mươi chín lần. Vì thế người 
        nhập thất y theo lệ đó, có khi kiết kỳ bảy ngày, hăm 
        mốt ngày hay bốn mươi chín ngày. 
        Sao gọi là 
        "Nhứt tâm bất loạn?" "Nhứt tâm" là duy có 
        một tâm niệm Phật, không xen tạp niệm chi khác. "Bất 
        loạn" là lòng không rối loạn duyên tưởng cảnh nào 
        ngoài cảnh niệm Phật. Bậc thượng căn niệm một ngày có 
        thể được nhứt tâm, bậc trung căn hoặc ba bốn ngày mới 
        được nhứt tâm, còn bậc hạ căn phải đến bảy ngày. Cũng 
        có ý nghĩa khác, bậc thượng căn trong bảy ngày hoàn toàn 
        nhứt tâm, bậc trung căn chỉ nhứt tâm được ba bốn ngày, 
        bậc hạ căn duy nhứt tâm được trong vòng một ngày. Nhưng 
        tại sao đức Thế Tôn ước hạn trong bảy ngày có thể 
        được nhứt tâm, mà chúng ta nhiều kẻ niệm hai ba năm 
        hoặc nhiều năm vẫn chưa được nhứt tâm? - Điều này có 
        ba nguyên nhân: 
        1. Về sự tướng, 
        ta không y theo lời Phật dạy kiết kỳ tu hành, khi kiết 
        thất lại tạp tu. Phải biết trong kỳ thất, muốn được 
        nhứt tâm, nên chuyên giữ một câu niệm Phật, không được 
        xen trì chú, tụng kinh hay tham thiền chi khác. 
        2. Trong bảy ngày chưa 
        tránh được tạp duyên, dứt được tạp niệm, chuyên chú 
        tu hành. Bởi có vị kiết thất, vì thiếu sự ngoại hộ, 
        phải tự lo việc cơm nước, chưa yên lòng về các chuyện 
        lặt vặt bên ngoài, cho đến chưa có tâm cầu sự tất 
        chứng. 
        3. Ba căn như đã nói, 
        chỉ là ước lược. Chẳng hạn như trong thượng căn có thượng 
        thượng căn, thượng trung căn, thượng hạ căn; trung và 
        hạ căn cũng thế, thành ra chín căn. Trong chín căn nếu chia 
        chẻ ra, còn rất nhiều căn nữa. 
        Lại nên biết lời 
        Phật nói chỉ là khái lược. Lệ như bậc thượng căn 
        chỉ nó bảy ngày không loạn, mà chẳng nói tám chín ngày. 
        Thật ra bậc ấy, chẳng những tám chín ngày không loạn, mà 
        cho đến suốt đời cũng có thể không loạn. Và ngược 
        lại, kẻ độn căn nghiệp chướng nặng nhiều, chẳng 
        những bảy ngày không được nhứt tâm, mà có thể niệm 
        suốt đời cũng chưa được nhứt tâm. Cho nên đối với 
        tất cả kinh nghĩa phải khéo hiểu, không nên chấp văn 
        hại lời, và chấp lời hại ý. 
        Tiết 45 Cách Đả 
        Thất 
        Kiết thất hay đả 
        thất, ý nghĩa cũng không xa. Đả thất là dụng công trong 
        bảy ngày. Chữ "đả" rút từ nguyên ngữ "đả 
        thành nhứt phiến", nghĩa là: đánh cho thành một khối 
        tịnh niệm. Đả thất niệm Phật, có khi nhiều người đồng 
        tu, hoặc chỉ một người cho dễ được thanh tịnh. Người 
        đả thất chuyên tu, phải có ba bậc thiện tri thức. 
        1. Giáo Thọ Thiện 
        Tri Thức: - Đây là một vị thông hiểu Phật pháp và có 
        kinh nghiệm về đường tu để thường chỉ dạy mình; hay mình 
        đến thỉnh giáo trước và sau khi kiết thất. Trong trường 
        hợp nhiều người đồng đả thất, nên thỉnh vị giáo 
        thọ này làm chủ thất, mỗi ngày đều khai thị nửa giờ 
        hoặc mươi lăm phút. 
        2. Ngoại Hộ Thiện 
        Tri Thức: - Đây là một hay nhiều vị ủng hộ bên ngoài, 
        lo việc cơm nước quét dọn, cho hành giả được yên tu. 
        Theo thông từ, vị này thường được gọi là "người 
        hộ thất." 
        3. Đồng Tu Thiện 
        Tri Thức: - Đây là những người đồng tu một môn với mình, 
        để nhìn ngó sách tấn lẫn nhau. Vị đồng tu này có thể 
        là người đồng kiết thất chung tu, hoặc có một ngôi 
        tịnh am tu ở gần bên mình. Ngoài sự trông nhìn sách tấn, 
        vị đồng tu còn trao đổi ý kiến hoặc kinh nghiệm, để cùng 
        tiến bước nhau trên đường đạo. Lời tục thường nói: 
        "Ăn cơm có canh, tu hành có bạn" là ý nghĩa này. 
        * Ngài Sơn Kỳ, một 
        bậc thạc đức bên Thiền Tông đã dạy: "Bản sắc người 
        tu, là phải lấy mười phương làm đạo tràng viên giác, không 
        cuộc hạn sự kiết kỳ dài ngắn. Nếu một năm không tỏ 
        ngộ thì tham đến mười năm; mười năm không tỏ ngộ, 
        tham cứu hai hoặc ba mươi năm, cho đến trọn đời, trước 
        sau không dời đổi." Người niệm Phật cũng thế. Đả 
        thất là phương tiện để cho mau được nhứt tâm; nếu 
        một kỳ chưa nhứt tâm, nên kiết thất nhiều kỳ, chí 
        tiến tu không hề thối chuyển. 
        * Có kẻ hỏi: 
        "Muốn được vãng sanh, phải niệm Phật cho được 
        nhứt tâm bất loạn. Nhưng các hành giả đời nay mấy ai đi 
        đến trình độ ấy, thế thì công tu chẳng thành luống 
        uổng hay sao?" - Đáp: "Lời này trước đã có đề 
        cập qua, nay xin nhắc lại để gây thêm sự chú ý. -Niệm 
        Phật cần được nhứt tâm hoặc chứng Tam Muội, là sự 
        khuyến tấn hay mức kỳ vọng, mà các hành giả phải đi đến. 
        Song, môn Tịnh Độ có điểm đặc biệt là "Trên đến 
        một lòng không loạn, dưới chỉ mười niệm thành công." 
        Bậc thượng căn hiện tiền niệm đến nhứt tâm bất 
        loạn, quyết được vãng sanh. Kẻ hạ căn khi lâm chung mười 
        niệm không loạn cũng được về Cực Lạc. Cho nên vấn đề 
        "nhứt tâm bất loạn được vãng sanh." là nói khi lâm 
        chung, không phải chỉ cho lúc hiện tiền. Bởi bình thời dù 
        được nhứt tâm bất loạn, song nếu đổi ý tu qua môn khác, 
        khi lâm chung cũng không được vãng sanh." 
        Được mười niệm 
        không loạn lúc sắp mãn phần, thật ra không phải chuyện 
        dễ. Vì khi ấy có một sức nghiệp do đời này hoặc từ 
        kiếp trước phát hiện, gọi là Cận Tử Nghiệp. Nếu lúc 
        bình thời không cố gắng niệm Phật cho thuần thục, khi 
        sắp chết bị sức Cận Tử Nghiệp lấn át, chánh niệm không 
        hiện, tâm thức tùy nghiệp rối loạn, làm sao mà được vãng 
        sanh? Có một vị cư sĩ tên là Hoàng Hậu Giác cũng tu Tịnh 
        Độ, ưa làm Phật sự nhưng bình thời công khóa lơ là, nay 
        có mai không. Lúc sắp chết ông ghét nghe tiếng niệm Phật, 
        không chịu theo lời khuyến tấn của các bạn cư sĩ đồng 
        tu. „n Quang pháp sư đã phán định: "Đó là do những 
        nghiệp ác từ nhiều kiếp trước tập hợp nhứt là 
        nghiệp bỏn sẻn lời nói, thấy người đi đến chỗ chết 
        mà làm lơ không khuyên ngăn. Khi tướng ấy hiện ra, tất 
        phải đọa vào loài ngạ quỉ." 
        Thuở xưa, đức 
        Phật nói với A Nan: "Có người suốt đời làm lành mà 
        khi chết lại đọa địa ngục, có kẻ suốt đời làm ác, 
        lúc chết được sanh lên cõi trời; ngươi có biết tại sao 
        chăng?" Ngài A Nan thưa: "Dạ, kính xin nhờ Thế Tôn 
        chỉ dạy." Phật bảo: "Kẻ làm lành bị đọa địa 
        ngục, là do nghiệp lành đời nay chưa thuần thục, mà 
        nghiệp ác đời trước đã tới lúc chín mùi. Người làm 
        ác được sanh thiên cung, là bởi nghiệp ác đời nay chưa 
        chín mùi, mà nghiệp lành kiếp trước tới thời kỳ thuần 
        thục. Nghiệp quả lành dữ nhiều đời xen nhau mà phát 
        hiện, như mối nợ nào mạnh nó kéo đi trước. Vậy người 
        tu lúc bình thời phải tinh tấn chớ nên lơ là biếng 
        trễ." 
        Xem đây suy gẫm, người 
        tu Tịnh Độ muốn được vãng sanh, lúc bình thời phải siêng 
        năng chuyên cần niệm Phật, để khi lâm chung dễ phát 
        hiện cảnh nhứt tâm bất loạn. Vì thế, nếu tịnh niệm 
        chưa thuần, nên ước hạn nhiều kỳ đả thất. 
        Mục 
        B. Quyết Định Cầu Nghiệm 
        Tiết 46 Sự Và Lý 
        "Lý" là lẽ 
        phải, là điều suy luận, là cảnh giải ngộ, thuộc về 
        phần tánh. "Sự" là phương tiện, là công hạnh, là 
        hình thức, thuộc về phần tướng. Tuy nhiên, đi đến chỗ 
        cùng, Sự tức là Lý, tánh tức là tướng, đồng một thể 
        như thật tròn sáng dung thông. Trên đường tu, Lý và Sự làm 
        trong ngoài cho nhau, phối hợp nhau, giúp đỡ lẫn nhau để 
        thành tựu. Có Lý, việc làm mới có căn cứ, có cương lãnh, 
        có mục tiêu để khởi sanh tác dụng. Có Sự, mới thật 
        hiện được điều suy luận, chứng minh được chỗ lý 
        giải, đi đến mục tiêu, và cuối cùng đoạt lấy kết 
        quả. Lý như đôi mắt để nhìn đường. Sự như đôi chân 
        để tiến bước. Không có mắt, hoặc mắt lờ lạc, tất 
        dễ lầm đường. Không có chân, dù mắt sáng tỏ bao nhiêu, 
        cũng chẳng làm sao đi đến nơi đến chốn. Lại, có Lý không 
        Sự, như người có họa đồ, biết đường lối mà chẳng 
        chịu đi. Có Sự không Lý, như kẻ tuy đi nhưng thiếu người 
        hướng đạo, lộ tuyến mê mờ. Có Lý có Sự, như đã thông 
        suốt đường lối, lại vừa cất bước hành trình, tất 
        sẽ về nơi bảo sở. 
        * Sự và Lý đã nương 
        nhau như thế, nếu thiếu một tất chẳng có hy vọng thành 
        công. Nhưng người tu tuy thiếu phần giải ngộ, song nếu 
        chịu y theo lộ trình của bậc tiên đức đã chỉ dạy mà 
        thật hành, cũng đi đến mục tiêu và sẽ thành công, đồng 
        với cổ nhơn không khác. Kinh luận, sự tích cùng các pho 
        trứ tác của người xưa, hay lời chỉ dạy của bậc 
        thiện tri thức đời nay, chính là lộ trình đích xác, nếu 
        y theo mà thật hành, tất sẽ đạt thành kết quả. Cho nên 
        có Sự mà thiếu phần lý giải chẳng đủ lo ngại. Đáng 
        lo là những kẻ hiểu lý nhưng không thật hành, chỉ ngồi 
        nói suông, dù có đàm huyền luận diệu thao thao, suốt đời 
        vẫn chẳng tiến được nửa bước. Cứ thật mà nói, người 
        thiếu Sự cũng quyết định không có Lý. Tại sao thế? Ví 
        như kẻ đã biết nhà cháy, mà không chịu chạy thoát vẫn 
        mãi ngồi yên, nào khác chi người không biết? Vì thế, 
        Phật pháp có thể độ hạng ngu dốt chẳng thông một 
        chữ, nhưng không phương độ kẻ thế trí thông biện, 
        thiếu sự hành trì. 
        * Thuở xưa, ngài Châu 
        Lợi Bàn Đà ngu tối, đức Phật chỉ đem hai chữ 
        "chổi" và "quét" bảo cố gắng tham chiếu. 
        Ông tối tăm đến đổi hễ nhớ chữ này lại quên chữ 
        kia, nhưng nhờ sức kiên trì không giây phút nào xao lãng, nên 
        kết cuộc chứng được quả A La Hán. Còn Đề Bà Đạt Ma 
        tuy thông minh đĩnh ngộ, thuộc sáu môn pháp tạng, luyện thành 
        năm phép thần thông, nhưng bởi tham danh lợi chẳng thiết 
        thật tu hành, nên kết quả bị đọa địa ngục. Xem đây 
        thì biết dù kẻ suốt thông tam tạng, song chẳng thật hành, 
        tất nghiệp hoặc từ vô thỉ vẫn còn nguyên không giảm 
        được tơ hào, sự tri giải trở thành vô dụng. Sao bằng 
        một bà lão dốt nát nơi nhà bếp, mặt mày lem lọ, nhưng 
        thường chuyên niệm Phật, ngày kia tâm yên không loạn, 
        ngồi ngự đài sen! Cho nên kẻ suốt đời chỉ cầu sự thông 
        hiểu trên danh tướng lý luận, để mong thành một vị bác 
        học về Phật pháp, không thiết thật tu hành; tất phải lâm 
        cảnh kể thức ăn ngon mà mình chịu đói, đếm tiền kẻ 
        khác mình vẫn nghèo nàn, kết cuộc hoàn toàn vô bổ. Nhà 
        Phật đã ví những vị ấy như người điếc khảy đàn cho 
        đại chúng nghe; kẻ quảy gánh đi khắp nơi rao bán đủ 
        thứ thuốc hay, song quên hẳn chính mình đang mang nhiều 
        chứng bịnh. 
        Bậc có chí học 
        Phật, nên lưu ý đến điểm này. 
        Tiết 47 Sự Trì, 
        Lý Trì 
        Niệm Phật có sự 
        Sự trì và Lý trì. Theo Ngẫu Ích đại sư: "Sự trì là 
        tin có cõi Cực Lạc và Phật A Di Đà, mà chưa đạt lý tâm 
        này làm Phật, tâm này là Phật, chỉ quyết định cầu 
        sanh, tha thiết thì niệm như con nhớ mẹ không lúc nào tạm 
        quên. Lý trì là tin hiểu Phật A Di Đà ở Tây Phương, do tâm 
        ta sẵn đủ, tâm ta tạo nên; đem câu hồng danh sẵn đủ và 
        tạo nên của tâm mình làm cảnh buộc niệm, chẳng giây phút 
        nào xao lãng." 
        Nói giản lược, 
        Sự trì là cách trì niệm của kẻ không biết chi về nghĩa 
        lý, chỉ tin có cõi Cực Lạc và Phật A Di Đà, rồi chí thành 
        tha thiết niệm Phật để cầu tiếp dẫn vãng sanh. Lý trì 
        là lối trì niệm của người cũng thật hành đồng như cách 
        Sự trì ở trên, nhưng giải ngộ cảnh Tịnh Độ cùng 
        Phật A Di Đà đều ở trong chân tâm, do công đức thanh 
        tịnh của chân tâm hiện thành. 
        Như thế, Sự trì 
        với Lý trì có gì sai biệt? - Tất nhiên là có. Bởi kẻ tu 
        theo Sự trì thấy Phật ở ngoài tâm, thành ra có tướng năng 
        sở đối đãi, chưa được dung thông. Người thật hành 
        theo Lý trì, do giải ngộ chân tâm, nên tuyệt được tướng 
        năng sở, tức niệm là Phật, tức niệm là tâm, dung hòa cùng 
        tâm cảnh. Xin thuật một câu chuyện: 
        Ông bạn xuất gia đồng 
        tu của bút giả một đêm nằm mơ, thấy vị sư áo vàng đến 
        hỏi: "Người niệm Phật, mà Phật là chi?" - Đáp: 
        "Phật là tâm". Vị sư hỏi tiếp: "Ngươi thử 
        giải thích thế nào Phật là tâm cho ta nghe?" Trong giấc 
        mơ ông bạn bèn ứng khẩu đọc: 
        Mỗi câu tràng hạt 
        Phật là tâm 
        Phật rõ là tâm, uổng chạy tìm! 
        Bể Phật dung hòa tâm với cảnh 
        Trời tâm bình đẳng Phật cùng sanh 
        Bỏ tâm theo Phật còn mơ mộng 
        Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành. 
        Tâm, Phật nguyên lai đều giả huyễn 
        Phật, tâm đồng diệt đến viên thành. 
        Ông bạn trên đây 
        đã hiểu cách Lý trì, dung hòa được câu niệm Phật vào tâm 
        cảnh. 
        * Có một lối nhận 
        định sai lầm, mà những kẻ thiên về huyền luận tự cho 
        là hành trì theo lý, cũng cần nên biện minh. Nhiều người 
        trọng lý khinh sự, thường chấp nê theo lý luận: "Tự 
        tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ," rồi phủ nhận cõi 
        Cực Lạc và sự tiếp dẫn vãng sanh. Những người này lý 
        thuyết hóa các kinh nói về Tịnh Độ và bảo: "Di Đà 
        tức là bản tánh Phật của mình; cõi Tịnh Độ là cảnh 
        tịnh ở trong tâm, sao lại tìm bên ngoài?" Đây là điểm 
        sai lầm rất lớn của thiên lý luận. Họ chấp lý bỏ 
        sự, chuộng tánh quên tướng, đem chân đế mà bác hiện tượng 
        của tục đế, chẳng biết rằng song phương không thể 
        rời nhau. 
        Theo Đại Thừa 
        Khởi Tín Luận, chân tâm có hai phần: tánh và tướng. 
        Phần tánh gọi là Chân Như môn, phần tướng là sanh diệt 
        môn; Chân Như không rời sanh diệt, sanh diệt tức là Chân 
        Như. Bởi thế Mã Minh Bồ Tát gọi phần Chân Như là Tạng 
        Như thật không, phần sanh diệt là Tạng Như thật bất không; 
        cả hai đồng chung một thể tánh như thật. Ví như mặt 
        biển to rộng, không thể chỉ chấp nhận phần nước mà 
        bỏ phần sóng bọt; vì chấp như thế tức đã sai lạc 
        với hiện tượng của biển, mà cũng chẳng biết biển là 
        gì? Cho nên, bỏ sự tức lý không thành, bác tướng thì tánh 
        không đứng vững. Rất nhiều kẻ có chút học thức thế 
        gian, khi nghiên cứu các kinh Đại Thừa nói về lý Bát Nhã, 
        bởi không hiểu thấu đáo, nên thường mang chứng bịnh 
        chấp "lý không" này. Do đó, họ đem các kinh nói 
        về sự tướng, như các kinh Tịnh Độ hoặc Kinh Địa 
        Tạng, mà lý thuyết hóa tất cả. Họ cho những kinh thuyết 
        về sự tướng này là phương tiện để dẫn dắt hạng ngu 
        thấp, những người tin có Tịnh Độ hoặc địa ngục, đều 
        mê tín; nhưng thật ra, chính họ mới là kẻ lạc lầm! Nhân 
        tiện, xin dẫn vài đoạn kinh ra biện minh, để phá lỗi 
        chấp không ấy. 
        Như Bát Nhã Tâm Kinh 
        nói: "... Không trí cũng không đắc, vì không sở đắc, 
        nên Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không quái 
        ngại. Chư Phật ba đời y Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên đắc 
        quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề." Trước y theo chân 
        đế nói "không đắc", tiếp đó y theo tục đế 
        lại nói "đắc". Thấy "đắc" là chấp có, 
        thấy "không đắc" lạc vào chấp không, nên người 
        học Phật phải khéo hiểu ý kinh để đi vào trung đạo. 
        Trong Kinh Kim Cang, đức 
        Phật bảo: "Kẻ nào dùng sắc tướng âm thanh thấy và 
        tìm cầu ta, là hành theo tà đạo." Nhưng tiếp đó Ngài 
        lại bảo: "Tu Bồ Đề! Ông đừng nghĩ rằng Như Lai không 
        dùng tướng Cụ Túc đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ 
        Đề. Tu Bồ Đề! Nếu ông suy nghĩ: phát tâm A Nậu Đa La 
        Tam Miệu Tam Bồ Đề là nói các pháp đoạn diệt. Đừng 
        nghĩ như thế! Tại sao? Vì phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu 
        Tam Bồ Đề, đối với các pháp không nói tướng đoạn 
        diệt." Trước tiên, Phật dạy đừng theo âm thanh sắc 
        tướng mà tìm đạo; nhưng kế tiếp Ngài lại nhắc nhở; cũng 
        như đừng rời bỏ âm thanh sắc tướng hoặc diệt hết các 
        pháp để phát tâm cầu đạo. Như thế, ta thấy "đạo" 
        chẳng phải thuộc về "sắc", cũng chẳng phải 
        thuộc về "không"; tìm chấp một bên đều sai 
        lầm. Ngài Thanh Nguyên Duy Tín thiền sư nói: "Ba mươi năm 
        trước, khi lão tăng chưa vào đạo, thì thấy sông là sông, 
        núi là núi. Đến khi gặp thiện tri thức chỉ dạy cho đường 
        lối tu hành, thấy sông không phải là sông, núi không phải 
        là núi. Ngày nay ngộ đạo, vào nơi tịch tĩnh, thấy sông 
        vẫn là sông, núi vẫn là núi." Một vị thiền sư khác 
        cũng diễn tả: 
        Tiếng gà tức tiếng 
        quảng trường thiệt. 
        Sắc núi nguyên là tịnh pháp thân! 
        Đây là ý chỉ: 
        sắc tướng âm thanh vốn thật đại đạo, ta nên đem tâm vô 
        phân biệt mà thể nhận, đừng chấp lấy cũng đừng bác 
        bỏ rồi tìm đạo nơi chỗ không không. Cho nên câu 
        "Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ," không phải 
        phủ nhận cõi Tịnh Độ và đức A Di Đà, mà chính là 
        lối nói: nhiếp tướng về tánh, đem dụng về thể, để 
        hiển bày lý Đệ nhất nghĩa không. Trong Đệ nhất nghĩa không, 
        Phật còn chẳng lập, huống chi là các pháp khác. 
        Tiên đức bảo: 
        "Lý tuy đốn ngộ, Sự phải lần lượt tu hành." 
        Cho nên Thiền Tông tuy nói là môn tu trực chỉ, nhưng khi còn 
        ngồi thiền, còn nhiếp tâm, còn tham thoại đầu, còn nhập 
        định xuất định, đều còn ở trong vòng phương tiện. Và 
        thật ra cảnh nội chứng còn bước những nấc thang từ 
        thấp đến cao. Chừng nào đến bậc vô tu, mới không còn dùng 
        phương tiện, mới có thể nói các pháp đều không. Nếu chưa 
        được như thế, thì một pháp nhỏ như mảy bụi cũng đều 
        có thật; vì gần lửa còn thấy nóng, ở giữa sương 
        tuyết còn thấy lạnh, một mũi gai nhỏ đâm vào thịt còn 
        biết đau, đâu có cái gì là không? Cho nên những kẻ thích 
        đề xướng cao diệu "Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ," 
        rồi bác bỏ hình thức niệm Phật cầu vãng sanh thuộc về 
        "Sự tu", sẽ lâm vào cảnh: "chưa bước lên 
        bờ đã vội phá bỏ chiếc bè," tất không khỏi bị 
        chết chìm dưới nước. Xưa nay những bậc hiểu sâu về Lý 
        lại còn chú trọng đến Sự, vì Sự tiêu biểu cho Lý. 
        Cổ đức đã bảo: 
        "Với môn Tịnh Độ, duy bậc trí huệ mới dung thông tánh 
        tướng hiểu đến chỗ tận cùng. Bằng không, thà chấp tướng 
        tu hành, càng chấp lại càng mầu nhiệm!" Bởi càng 
        chấp tướng, chí nguyện cầu sanh lại càng thiết tha, khi 
        đã sanh về Tây Phương lo gì không chứng ngộ được thật 
        tướng? Vấn đề sự lý tánh tướng, nói ra vẫn không cùng, 
        nhưng nếu hiểu được một sẽ hiểu tất cả. Mong các đồng 
        nhơn khéo suy nghĩ, để tránh khỏi sự sai lạc trên bước 
        đường tu. 
        Viết đến đây, có 
        một Phật tử nhân khi lại thăm chơi, hỏi: - "Thưa 
        thầy, con nghe vài vị tu thiền khá cao, bảo: Cõi Cực Lạc 
        là quyền thuyết, là một ảo tượng của Phật phương 
        tiện nói ra, để cho những kẻ thấp kém nương vào đó tin 
        tưởng hâm mộ, phát lòng chuyên nhứt niệm Phật đặng để 
        đi đến cảnh giới nhứt tâm. Ví như người cha có hai đứa 
        con, một đứa thông minh biết lo học không cần phải nhắc 
        nhở; một đứa tối tăm biếng trễ, nên cha phải dẫn 
        dụ, bảo nếu cố gắng siêng học khi thi đỗ sẽ cho một 
        chiếc xe đẹp. Chiếc xe đẹp là một ảo tượng hay phương 
        tiện, sự học giỏi thi đỗ mới là chân mục đích hay 
        cứu cánh. Bởi thế cho nên Tịnh Độ là lối tu của hạng 
        thường dân tối dốt, còn hạng trí thức đều ưa thích 
        về môn Thiền. Nếu hiểu được lẽ này thì người sáng 
        suốt chỉ nên nhiếp tâm tịnh niệm, không cần phải theo 
        ảo tượng niệm Phật làm chi cho lao hơi nhọc sức. Hãy để 
        chiếc xe trống không chạy đi mới nhẹ nhàng, không nên 
        chuyên chở thêm cho nặng! Con nghe như thế song chưa biết 
        trả lời làm sao, mong nhờ Thầy giải thích." 
        Bút giả đáp: - 
        Trong lối điều trần trên, có ba chủ điểm: 
        
          1. Cho Cực Lạc là 
          ảo tưởng, quyền thuyết. 
          2. Bảo Tịnh Độ 
          là lối tu thuộc hạng thấp kém thường dân. 
          3. Đưa ra mục đích 
          trừ vọng nhứt tâm, cho rằng phương tiện niệm Phật làm 
          tổn hơi nhọc sức như chiếc xe chở nặng, không được 
          nhẹ nhàng thanh thoát như lối tu Thiền. 
         
        Về điểm thứ 
        nhứt, Cực Lạc không phải là cảnh ảo tượng hay quyền 
        thuyết, mà là thế giới có thật như cõi Ta Bà này; vì 
        Phật không khi nào nói dối, và có rất nhiều người niệm 
        Phật được vãng sanh, hiện tiền hoặc lúc lâm chung đã 
        mục kích cảnh giới ấy, như trong Vãng Sanh Truyện và 
        Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đã có chép. Trong tập này nơi 
        đoạn trước đã dẫn minh về ba lượng để giải thích, 
        xem qua sẽ tự rõ, không cần phải biện luận thêm nhiều. 
        Về điểm thứ hai, 
        nếu cho rằng Tịnh Độ không phải lối tu của hàng trí 
        thức, chỉ sợ e trí "trí thức" của những vị 
        ấy chưa đủ sức thấu hiểu Tịnh Độ mà thôi. Như khi xưa 
        Phật nói Kinh Pháp Hoa, có đến năm ngàn bậc Đại Đức 
        Thanh Văn chứng từ Sơ Quả đến Tứ Quả, vì chưa tin 
        hiểu nổi nên lui ra khỏi pháp hội. Những vị ấy đã vào 
        hàng Thánh, đâu phải tầm thường, nhưng trước diệu lý 
        quá cao, họ đành thối bại. Nếu bảo rằng hàng trí thức 
        sáng suốt đều phải tu Thiền, niệm Phật để cho hạng 
        dốt nát tầm thường, tại sao vị Tổ thứ mười bốn bên 
        Thiền Tông là Long Thọ Bồ Tát sau khi chứng ngôi Sơ Hoan 
        Hỷ Địa rồi, lại niệm Phật "cầu sanh Cực 
        Lạc?" Và tại sao có rất nhiều bậc thạc đức bên 
        Thiền Tông, như các ngài Vĩnh Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì, 
        sau khi tham thiền ngộ đạo, lại chuyển hướng cầu về 
        Tịnh Độ? Phải biết Niệm Phật là pháp môn cao siêu mầu 
        nhiệm, gồm nhiếp ba căn, từ đức Thích Tôn cho đến các 
        bậc đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long 
        Thọ đều tuyên dương. Cho nên khi đức Thích Ca nói Kinh A 
        Di Đà, hằng hà sa chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng 
        lưỡi rộng dài mà khen ngợi. Và trong Kinh Hoa Nghiêm, sau khi 
        đức Phổ Hiền nói mười đại nguyện vương rồi, liền 
        khuyến tấn các bậc Bồ Tát ở những ngôi Thập Tín, 
        Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, 
        đều nên phát nguyện cầu sanh về Cực Lạc? Nếu cảnh 
        Cực Lạc là ảo tượng không phải thật có, và môn Tịnh 
        Độ là tầm thường, tại sao các vị ấy lại cầu sanh? 
        Cho nên „n Quang đại sư đã bảo: "Sự cao siêu mầu 
        nhiệm của pháp môn Niệm Phật, chư Tổ bảo là chỉ có 
        Phật với Phật mới hiểu biết hết được. Những kẻ 
        khinh chê Niệm Phật, không phải chỉ khinh chê hạng ông già 
        bà cả tu Tịnh Độ đâu, mà chính là khinh chê luôn cả chư 
        Phật và các bậc Đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã 
        Minh, Long Thọ đó!" 
        Về điểm thứ ba, 
        xin giải thích rõ hơn. Chỗ cứu cánh của Thiền là Chân Như 
        Tam Muội. Điểm cứu cánh của Tịnh Độ là Niệm Phật Tam 
        Muội. Chân Như Tam Muội như vàng khối, Niệm Phật Tam 
        Muội như vòng, xuyến và các món trang điểm chạm trổ xinh 
        đẹp, mà trong vòng xuyến nguyên đã có vàng. Cho nên khi 
        chứng Niệm Phật Tam Muội, tức đã bao gồm cả Chân Như 
        Tam Muội. Chân Như Tam Muội chỉ thuần về mặt trí huệ, 
        Niệm Phật Tam Muội đã có trí huệ còn gồm thêm phần phước 
        đức; bởi người tu Tịnh Độ cũng lấy nhứt tâm thanh 
        tịnh làm căn bản, trên chỗ nhứt tâm ấy lại có thêm công 
        đức niệm Phật. Nhưng Chân Như Tam Muội với Niệm Phật 
        Tam Muội không phải tu một đời mà chứng được, cần 
        phải liên tục tu trong nhiều kiếp; nhứt là chúng sanh 
        thời mạt pháp này khó mà hy vọng. Vì thế Niệm Phật Tam 
        Muội tuy là chỗ cứu cánh của môn Niệm Phật, nhưng chỉ 
        đứng về hàng thứ yếu, mà sự cầu vãng sanh Tịnh Độ 
        trong một đời để được bất thối chuyển, mới là tông 
        chỉ chánh yếu cần thiết của tông này. Do đó pháp môn 
        Niệm Phật mới có tên là tông Tịnh Độ. Cho nên sở dĩ các 
        bậc tu Thiền sau khi ngộ đạo, tự biết con đường chứng 
        đạo còn xa, sợ e kiếp người ngắn ngủi, khi luân hồi 
        sang đời khác phải bị mê lạc, nên mới chuyển hướng 
        Niệm Phật cầu vãng sanh là thế. Niệm Phật, lễ Phật dù 
        rằng nhọc, nhưng được thêm công đức phước báo do công 
        năng tu trì của hai nghiệp thân và khẩu. Như chiếc xe từ 
        Đà Lạt về Saigon, chạy xe không tất nhiên nhẹ nhàng, nhưng 
        nếu chuyên chở thêm bông hoa rau cải, thì đã về đến 
        Thủ Đô mà còn được có thêm phần hàng hóa. Đem công năng 
        siêng nhọc niệm Phật để được thêm nhiều phước báo, 
        đó chính là phần công và thưởng đương nhiên theo luật 
        nhân quả, đâu có chi phải thiệt thòi? Song mỏi nhọc nếu 
        có, chỉ là lúc mới tu. Khi niệm Phật thuần thục đến 
        chỗ vô tâm, nào có chi là mỏi nhọc! 
        Nghi vấn trên thấy 
        cũng cần thiết, nên dù không phải đoạn quyết nghi, cũng 
        xin ghi tiếp vào đây. Những điểm hiểu lầm chưa thấu 
        triệt về Tịnh Độ hãy còn nhiều, vì e tâm niệm phạm 
        lỗi đấu tranh, nên đối với các sự biện minh tạm xin 
        ngừng bút. 
        Tiết 48 Sự Nhứt 
        Tâm, Lý Nhứt Tâm 
        Người niệm Phật 
        phải thiết thật dụng công, trong tuyệt cả tướng thị 
        phi nhơn ngã không thấy thân tâm, ngoài dứt hết tướng không 
        sắc dục trần chẳng còn cảnh giới, duy có một câu Phật 
        hiệu rành rạnh hiện tiền. Sự dụng công chí cực này, như 
        người xưa đã nêu lên câu hỏi: "Trước mặt có cọp 
        dữ, sau lưng có bầy chó sói, bên trái là vách núi cao, bên 
        mặt là vực sâu thẳm; trong hoàn cảnh ấy hành nhơn phải 
        vượt đi ngả nào?" Bên Tịnh Tông cũng bảo: "Ao 
        sen bảy báu trước mặt, vạc dầu lò lửa phía sau, người 
        niệm Phật phải nhứt hướng đi tới." Khi tu hành chưa 
        thấy có điểm tiến bộ nào, là bởi chính mình còn yếu hèn 
        biếng trễ. Cũng trong tình trạng ấy, khi xưa ngài Đổng Sơn 
        đã nghiêm trách trong chúng: 
        Người nay học đạo 
        nghĩ mà than 
        Ngoài cửa phân vân biết mấy ngàn! 
        Tưởng đến ngọc kinh triều thánh chúa 
        Giữa đường dừng bước ải Đồng Quang! 
        Nếu dụng công đến 
        mức cùng cực, lâu ngày không gián đoạn, hành giả sẽ đi 
        đến cảnh giới nhứt tâm. Cảnh nhứt tâm bất loạn này có 
        hai mức cạn sâu, gọi là Sự nhứt tâm và Lý nhứt tâm. 
        * Sự nhứt tâm là 
        thế nào? - Khi hành giả chuyên tâm chú ý trên sáu chữ 
        hồng danh, lâu ngày tất cả tạp niệm đều dứt bặt, lúc 
        nằm ngồi đi đứng duy có một câu Phật hiệu hiện tiền, 
        gọi là cảnh giới Sự nhứt tâm. Đây là định cảnh của 
        người tu Tịnh Độ, cũng ngang hàng với sự nhập định 
        của bậc tu Thiền. 
        * Lý nhứt tâm là 
        thế nào? - Trên Sự nhứt tâm nếu tiến thêm một bước, 
        dụng công đến chỗ chí cực, ngày kia tâm địa rỗng 
        suốt, thoát hẳn căn trần ngộ vào thật tướng. Khi ấy 
        hiện tại tức là Tây Phương mà chẳng ngại gì riêng có cõi 
        Cực Lạc, tánh mình chính là Di Đà cũng chẳng ngại gì riêng 
        có đức A Di Đà. Đây là cảnh giới Lý nhứt tâm. Địa 
        vị này là cảnh "định huệ nhứt như" của người 
        niệm Phật, ngang hàng với trình độ khai ngộ bên Thiền Tông. 
        * Với thuyết Sự, Lý 
        nhứt tâm, Ngẫu Ích đại sư đã giản biệt tường tận. 
        Ngài bảo: "Không luận sự trì hay lý trì; niệm đến hàng 
        phục phiền não, kiến hoặc tư hoặc không khởi hiện, là 
        cảnh giới Sự nhứt tâm. Không luận sự trì hay lý trì, 
        niệm đến tâm khai, thấy rõ bản tánh Phật, là cảnh 
        giới Lý nhứt tâm. Sự nhứt tâm không bị kiến, tư hoặc 
        làm loạn. Lý nhứt tâm không bị nhị biên làm loạn." 
        (Nhị biên: có, không - đoạn, thường v.v...) 
        Như thế chẳng nói 
        chi Lý nhứt tâm, với Sự nhứt tâm người đời nay cũng 
        chẳng dễ gì đi đến. Tuy nhiên, với công đức của câu 
        niệm Phật cộng thêm sự chí thiết hành trì, trong mỗi 
        niệm sẽ diệt được một phần vô minh thêm một phần phước 
        huệ, lần lần tất sẽ đi đến cảnh giới tốt. Và hành 
        trì lâu ngày như thế, lo gì không tiến đến chỗ mỗi 
        niệm khai ngộ, được hảo cảnh gọi là "Nhứt phiên 
        đề khởi nhứt phiên tân" (Một phen đề khởi niệm, 
        một phen lộ bày cảnh mới). 
        Cho nên, dù là căn tánh 
        thời mạt, nếu thiết thật dụng công, trình độ Sự, Lý 
        nhứt tâm đối với chúng ta chẳng phải tuyệt phần hy 
        vọng... 
        Mục 
        C. Cảnh Giới Phát Hiện 
        Tiết 49 Nội 
        Cảnh Giới 
        Trên đường tu không 
        tinh tấn dụng công thì thôi, nếu tinh tấn dụng công, 
        nhứt định có cảnh giới. Cảnh giới này có trong và ngoài 
        khác nhau. Trước tiên xin nói về phần trong tức là Nội 
        cảnh giới. 
        Nội cảnh giới cũng 
        gọi là Tự tâm cảnh giới, vì cảnh giới này không phải 
        từ bên ngoài vào, mà chính do nơi công dụng trong tâm phát 
        hiện. Những người không hiểu rõ lý "muôn pháp do tâm" 
        cho rằng tất cả cảnh giới đều từ bên ngoài đến, là 
        lối nhận định sai lầm. Bởi khi hành giả dụng công đến 
        mức tương ưng, dứt tuyệt ngoại duyên, thì chủng tử 
        của các pháp tiềm tàng trong tạng thức liền phát sanh ra 
        hiện hạnh. Với người niệm Phật trì chú, thì công năng 
        của Phật hiệu và mật chú đi sâu vào nội tâm, tất gặp 
        sự phản ứng của hạt giống thiện ác trong tạng thức, 
        cảnh giới phát hiện rất là phức tạp. Các cảnh ấy thường 
        hiện ra trong giấc mơ, hoặc ngay khi tỉnh thức đang dụng công 
        niệm Phật. Nhà Phật gọi trạng thái này là "A lại da 
        biến tướng." 
        * Trong giấc mơ, 
        nếu do chủng tử ác phát hiện, hành giả hoặc thấy các 
        loài sâu trong mình bò ra, hoặc thấy nơi thân có loại 
        nhiều chân giống như bò cạp, rết, mỗi đêm mình gở ra năm 
        bảy con; hoặc thấy các loài thú ma quái, cảnh tượng rất 
        nhiều không tả xiết được! Đại khái người nhiều 
        nghiệp tham nhiễm, bỏn sẻn, hiểm độc, thường thấy tướng 
        nam nữ, rắn rết, hoặc dị loại sắc trắng. Người 
        nhiều nghiệp sân hận, thường thường thấy cọp beo, 
        hoặc dị loại sắc đỏ. Người nhiều nghiệp si mê, thường 
        thấy loài súc vật, sò ốc, hoặc dị loại sắc đen. Tuy 
        nhiên, đây chỉ nói với tánh cách ước lược, không phải 
        tất cả đều nhứt định như thế. 
        Nếu do chủng tử lành 
        phát hiện, hành giả thấy cây cao hoa lạ, thắng cảnh tươi 
        tốt trang nghiêm, mành lưới châu ngọc; hoặc thấy mình ăn 
        các thứ thơm ngon, mặc đồ trân phục, ở cung điện báu, 
        hay nhẹ nhàng bay vượt lên hư không. Tóm lại, trong tâm 
        của chúng sanh có đủ chủng tử mười pháp giới; chủng 
        tử lành hiện thì thấy cảnh Phật, Bồ Tát, Nhơn, Thiên; 
        chủng tử ác hiện, thấy cảnh tam đồ tội khổ. Như người 
        kiếp trước có tu theo ngoại đạo, thường thấy mình phóng 
        ra luồng điển, hoặc xuất hồn đi dạo chơi, tiếp xúc 
        với các phần âm nói về chuyện thạnh suy, quốc sự. 
        Hoặc có khi tâm thanh tịnh, trong giấc mơ thấy rõ việc 
        xảy ra đôi ba ngày sau, hay năm bảy tháng sẽ đến. Đại 
        khái người đời trước có tu, khi niệm Phật liền thấy 
        cảnh giới lành. Còn kẻ nghiệp nhiều kém phước đức, 
        khi mới niệm Phật thường thấy cảnh giới dữ; trì niệm 
        lâu ngày ác tướng mới tiêu tan, lần lượt sẽ thấy điềm 
        lành tốt. 
        * Về cảnh trong khi 
        thức, nếu hành giả dụng công đến mức thuần thục, có 
        lúc vọng tình thoạt nhiên tạm ngưng, thân ý tự tại. Có 
        lúc niệm Phật đến bốn năm giờ, nhưng tự thấy thời 
        gian rất ngắn chừng đôi ba phút. Có lúc đang trì niệm, các 
        tướng tốt lạ hiện ra. Có lúc trong vô ý, tinh thần bỗng 
        nhiên được đại khoái lạc. Có lúc trong một động một 
        tịnh, thấy tất cả tâm và cảnh đều không. Có lúc trong 
        một phen thấy nghe, liền cảm ngộ lý khổ, không vô thường, 
        vô ngã, dứt tuyệt tướng ta và người. Những tướng 
        trạng như thế nhiều không thể tả xiết! 
        Có một Phật tử đang 
        khi thức ngồi trong đêm tối niệm Phật, thoạt thấy dưới 
        đất khắp nền nhà mọc lên hai loại hoa đỏ trắng cao 
        tới thành giường, trên hư không hoa rơi xuống như mưa. Có 
        vị đang khi quì niệm Phật, bỗng thấy trước bàn Phật 
        hiện ra đóa hoa sen đỏ, từ búp lần lần nở tròn, độ mười 
        lăm phút sau liền tan biến. Có một Phật tử đang khi niệm 
        Phật, cảnh giới xung quanh bỗng ẩn mất, trước mắt 
        hiện ra biển nước mênh mang, êm tịnh không sóng gió, trên 
        mặt biển mọc lên vô số hoa sen nhiều màu đóa nào cũng 
        to lớn; kế đó tướng biển ẩn mất, hiện ra cảnh núi 
        non cỏ hoa tươi tốt, cổ thụ sum sê, có một ngôi chùa 
        nguy nga tráng lệ; tiếp theo tướng chùa núi lại ẩn mất, 
        hiện ra cảnh lưới châu, kết lại rồi đứt, đứt rồi 
        lại kết. Đại loại có rất nhiều cảnh tướng như thế, 
        do bút giả đã từng nghe những vị đồng tu trần thuật, 
        nay chỉ kể ra đây ít chuyện để hiển minh. 
        * Những cảnh tướng 
        như thế, gọi là Nội cảnh giới hay Tự tâm cảnh giới, 
        do một niệm khinh an hiện ra, hoặc do chủng tử lành của công 
        đức niệm Phật trì chú biến hiện. Những cảnh này 
        thoạt hiện liền mất, hành giả không nên chấp cho là 
        thật có mà để tâm lưu luyến. Nếu sanh niệm luyến 
        tiếc, nghĩ rằng cảnh giới ấy sao mà nhẹ nhàng an vui, sao 
        mà trang nghiêm tốt đẹp, rồi mơ tưởng khó quên, mong cho 
        lần sau lại được thấy nữa, đó là điểm sai lầm rất 
        lớn. Cổ nhơn đã chỉ trích tâm niệm này là "gãi trước 
        chờ ngứa." Bởi những cảnh tướng ấy do sự dụng công 
        đắc lực tạm hiện mà thôi, chớ không có thật. Nên 
        biết khi người tu dụng công đến trình độ nào, tự nhiên 
        cảnh giới ấy sẽ hiện ra. Ví như người lữ hành mỗi 
        khi đi qua một đoạn đường, tất lại có một đoạn 
        cảnh vật sai khác hiển lộ. Nếu như kẻ lữ hành chưa đến 
        nhà, mà tham luyến cảnh bên đường không chịu rời bước, 
        tất có ngại đến cuộc hành trình, và bị bơ vơ giữa 
        đường chẳng biết chừng nào mới về đến nhà an nghỉ. 
        Người tu cũng thế, nếu tham luyến cảnh giới tạm, thì không 
        làm sao chứng được cảnh giới thật. Thảng như mơ tưởng 
        đến độ cuồng vọng, tất sẽ bị ma phá, làm hư hại 
        cả một đời tu. 
        Kinh Kim Cang nói: 
        "Phàm có những tướng đều là hư vọng; nếu thấy các 
        tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai." (Phàm 
        sở hữu tướng giai thị hư vọng; nhược kiến chư tướng 
        phi tướng, tức kiến Như Lai). "Có những tướng" 
        không phải "những tướng có" thuộc về pháp hữu 
        vi sanh diệt, bởi các tướng ấy chẳng tự bảo rằng mình 
        có hay không, thật hay giả, chỉ do kẻ chưa ngộ đạo lý 
        động niệm phân biệt, chấp cho là có, không, thật, giả, 
        nên mới thành ra hư vọng. Đến như bậc tham thiền khi 
        nhập định thấy định cảnh mênh mang rỗng không trong 
        suốt, tự tại an nhàn, rồi sanh niệm ưa thích; hay khi tỏ 
        ngộ được một đạo lý cao siêu, rồi vui mừng chấp giữ 
        lấy, cũng đều thuộc về "có tướng." Và đã 
        "có tướng" tức là có hư vọng. "Thấy các tướng" 
        là thấy những tướng: lành, dữ, đẹp, xấu, dơ, sạch, có, 
        không, Phật, chúng sanh, cho đến cảnh năm ấm, sáu trần 
        v.v "Chẳng phải tướng", nghĩa là thấy mà đừng 
        chấp trước cũng đừng phủ nhận, cứ để cho nó tự nhiên. 
        Tại sao không nên phủ nhận? - Bởi các tướng tuy hư 
        huyễn, nhưng cũng chẳng phải là không; ví như bóng trăng 
        đáy nước tuy không phải thật có, nhưng chẳng phải không 
        có tướng hư huyễn của bóng trăng. Cho nên trong khi tu, 
        nếu thấy các tướng hiện, đừng lưu ý cứ tiếp tục 
        dụng công; ví như người lữ hành tuy thấy cảnh bên đường, 
        nhưng vẫn tiến bước để mau về đến nhà. "Tức 
        thấy Như Lai" là thấy bản tánh Phật, thấy được đạo 
        vậy. 
        * Kết yếu lại, 
        từ các tướng đã kể trên cho đến Sự nhứt tâm, Lý 
        nhứt tâm, đều là Nội cảnh giới. Cảnh giới này có hai 
        phương diện là: tương tợ và phần chứng. Cảnh tương 
        tợ là tạm thấy rồi biến mất. Cảnh phần chứng là 
        một khi được tất được vĩnh viễn, vì đã chứng ngộ 
        được một phần Chân Như. Không luận Nội cảnh hay Ngoại 
        cảnh, phàm tương tợ đều không phải Chân cảnh giới, mà 
        gọi Thấu Tiêu Tức, nghĩa là thông thấu được một phần 
        tin tức của chân tâm. Người thật phát lòng cầu giải thoát, 
        chớ nên đem tướng Thấu Tiêu Tức nhận làm Chân cảnh 
        giới. "Thấu Tiêu Tức" ví như cảnh trời âm u râm 
        tối, hốt nhiên có trận gió thổi làm mây đen tạm phân 
        khai, hé ra một chút ánh thái dương, kế đó mây đen lại 
        che khuất. Lại như người xưa cọ cây lấy lửa, trước 
        khi lửa bật lên, tất có tướng khói phát hiện. "Chân 
        cảnh giới" ví như ánh thái dương sáng suốt giữa 
        trời trong tạnh và như cọ cây đã lấy được lửa. Tuy 
        nhiên, cũng đừng xem thường Thấu Tiêu Tức, vì được tướng 
        này, mới chứng minh xác thật có Chân cảnh giới. Nên từ 
        mức đó gia công tinh tấn, thì Chân cảnh giới cũng không 
        xa. 
        Tiết 50 Ngoại 
        Cảnh Giới 
        Ngoại cảnh giới là 
        cảnh không phải do nội tâm hiện ra, mà từ bên ngoài đến. 
        Hoặc có hành giả thấy Phật, Bồ Tát hiện thân thuyết pháp, 
        khuyến tấn khen ngợi. Hoặc có hành giả đang khi niệm 
        Phật, thoạt nhiên tâm khai, thấy ngay cõi Cực Lạc. Hoặc có 
        hành giả đang tịnh niệm thấy chư thần tiên đến, chắp 
        tay vi nhiễu xung quanh tỏ ý kính trọng, hoặc mời đi dạo 
        chơi. Hoặc có hành giả thấy các vong đến cầu xin quy y. 
        Hoặc có hành giả khi mức tu cao, bị ngoại ma đến thử thách 
        khuấy nhiễu... 
        * Như khi xưa có 
        một Phật tử căn tánh ngu tối, song thường kính niệm đức 
        Quán Thế Âm. Một đêm nằm mơ thấy Bồ Tát đến bảo nên 
        thường tham cứu bài kệ sau đây, lâu ngày sẽ được khai 
        ngộ: 
        Đại trí phát nơi tâm 
        Nơi tâm chỗ nào tìm? 
        Thành tựu tất cả nghĩa 
        Không cổ cũng không kim! 
        * Như thời Trung Hoa 
        Dân Quốc gần đây, có cư sĩ Giang Am Nam, vào tháng ba năm 
        Nhâm Thân (1932), nhân khi bị bịnh được thấy cảnh Cực 
        Lạc. Ông gượng đau viết thư cho anh là cư sĩ Giang Diệt 
        Viên, đại khái như sau: "Em đau nặng. Vào khoảng ba 
        giờ sáng ngày hai mươi lăm tháng ba, sau một cơn sấm sét mưa 
        to, trời lại trong tạnh tỏ suốt như ban ngày. Nơi phương 
        Tây, bỗng hiện ra chân cảnh thế giới Cực Lạc sáng mênh 
        mang không ngằn mé. Em thấy bảy báu trang nghiêm, bảo thọ, 
        bảo tháp, và vô số tướng trân kỳ. Phật ngồi giữa hư 
        không, bảo em lên bái kiến. Nhưng khi em đến được trước 
        Phật, kim tướng đức Di Đà Thế Tôn lần lần xa, tiếng nói 
        vọng lại rất nhỏ, kế cảnh giới đều tan biến. Chắc là 
        do định lực của em còn kém, nhưng từ đây em tin chắc 
        cảnh Tây Phương Cực Lạc là xác thật..." 
        * Cũng trong thời Dân 
        Quốc, có cư sĩ Lưu Khai Nan, biệt hiệu là Tây Tiều tiên 
        sinh. Trước khi ông vãng sanh, chư thần mời đến cảnh U 
        Minh xin nhậm quan chức; kế lại thấy chư thiên thỉnh lên 
        cõi trời, cư sĩ đều nghiêm sắc khước từ, bảo: "Làm 
        quan dễ tạo nghiệp, phước trời có lúc hết. Tôi chỉ 
        nguyện sanh về Cực Lạc." Ít ngày sau cư sĩ vãng sanh. 
        * Một sư cô quen 
        với bút giả tu ở gần vùng Đà Lạt. Sau thời trì chú cô 
        đang ngồi tịnh, bỗng thấy có hai sứ giả phong thái và cách 
        trang phục như thần tiên, đến cung kính mời lên non viếng 
        cảnh. Trong cơn định, sư cô hỏi: "Non cao, sức yếu, làm 
        sao đi được" Một sứ giả đáp: "Không ngại, tôi 
        đã có cách." Liền lấy cành cây tợ nhánh dương 
        liễu, đập nhẹ vào mình sư cô và bảo đi theo. Cô bỗng 
        thấy thân thể mình lâng lâng bay lướt trên đầu ngọn 
        cỏ, giây phút sau cùng tiến lên non. Đến đây thấy cảnh 
        tòng bá thanh u, công xòe hạt múa, xa xa có một cung điện 
        lầu các. Vừa khi ấy, cô thị giả ở nhà sau làm rớt đồ 
        vật có tiếng động mạnh. Sư cô liền chợt giác tỉnh, 
        cảnh giới tan mất, cảm thấy hai bắp đùi còn mỏi đau. 
        Những tướng trạng 
        lược kể như trên, đều gọi là Ngoại cảnh giới. Có người 
        hỏi: "Thấy Phật thấy hoa sen, có phải là cảnh ma chăng?" 
        Xin đáp: "Nếu nhân quả phù hợp, không phải là cảnh 
        ma. Bởi tông Tịnh Độ thuộc về "hữu môn", người 
        niệm Phật khi mới phát tâm từ nơi tướng có mà đi vào, 
        cầu được thấy thánh cảnh ở Tây Phương. Đến khi thấy 
        hảo tướng đó là quả đến đáp nhân, nhân và quả hợp 
        nhau, đâu phải cảnh ma? Trái lại, như Thiền Tông từ nơi 
        "không môn" đi vào, khi phát tâm tu liền quét sạch 
        tất cả tướng, cho đến tướng Phật tướng Pháp cũng đều 
        bị phá trừ. Bậc Thiền Sĩ không cầu thấy Phật hoặc hoa 
        sen, mà tướng Phật và hoa sen hiện ra, đó là nhân quả không 
        phù hợp. Quả không có nhân mà phát hiện, đó mới chính 
        thật là cảnh ma. Cho nên người tu thiền luôn luôn đưa cao 
        gươm huệ, ma đến giết ma, Phật đến giết Phật, đi vào 
        cảnh chân không, chẳng dung nạp một tướng nào cả." 
        Tuy nhiên, đó là 
        chỉ nói những hành giả mới tu, riêng bậc tu thiền cao, có 
        khi thấy các tướng song không phải là ma cảnh. Bởi những 
        vị đã tu thiền nhiều kiếp, khi tâm địa khai thông, có 
        thể thấy được cảnh ác đạo cùng thiên đường cho đến 
        mười phương Tịnh Độ và Uế Độ; vì mười phương thế 
        giới đều ở trong ánh sáng của chân tâm. Và người tu 
        Tịnh Độ có khi thấy các tướng, nhưng lại là cảnh ma, mà 
        đoạn Biện Ma Cảnh sau đây sẽ nói rõ. 
        Kết lại, Nội 
        cảnh giới và Ngoại cảnh giới, là nói ước theo trình độ 
        người còn đi trên bước đường tu tập. Đến như bậc đã 
        chứng đạo quả, thì tâm tức cảnh, cảnh tức tâm, vạn 
        vật cùng ta đồng một thể không có trong ngoài chi cả. 
        Tiết 51 Biện Ma 
        Cảnh 
        Như trên đã nói, người 
        niệm Phật có khi thấy các tướng song lại là ma cảnh; điều 
        này chỉ cho trường hợp nhân quả không tương ứng. Chẳng 
        hạn như người đang quán tướng Phật, hốt nhiên thấy tướng 
        mỹ nữ. Kẻ tinh tấn niệm Phật mong thấy thắng cảnh ở 
        Tây Phương, song chợt thấy một vùng nhà cửa ô tạp, nam 
        nữ cùng loài súc vật đi qua chạy lại lăn xăn. Người 
        mong thấy hoa sen báu, nhưng bỗng thấy một cổ xe nhỏ. Do 
        nhân quả không hợp nhau như thế, nên biết là cảnh ma. Có 
        năm trường hợp để phân biệt là cảnh ma hay cảnh thật 
        như sau: 
        1. Các cảnh nhân 
        quả không phù hợp, quán tướng này song thấy tướng khác, 
        cầu cảnh nọ mà lại hiện cảnh kia, như trên đã vừa nói. 
        Và lại, cảnh hiện ra không giống như trong kinh diễn tả, 
        đều là cảnh ma. 
        2. Chư Phật, Bồ Tát 
        tâm từ bi trong sạch, cho nên dù hiện tướng quỉ thần đến 
        thử thách, ta vẫn cảm thấy an nhiên thanh tịnh. Trái lại, 
        bản nghiệp các loài ma là phiền não hiểm ác, nên dù 
        hiện tướng Phật đến khuyên dạy, ta tự cảm thấy xao động 
        nóng nảy không yên. 
        3. Ánh sáng của 
        Phật làm cho ta cảm thấy êm dịu mát mẻ, lại không có bóng, 
        không chói mắt. Ánh sáng của ma làm cho ta chói xót đôi 
        mắt, bứt rứt không yên, và có bóng. Cho nên Kinh Lăng Già 
        nói: 
        Phật địa là tối 
        thắng 
        Trong sạch mầu trang nghiêm 
        Chiếu hiệu như lửa hừng 
        Ánh sáng đến khắp nơi 
        Rực rỡ không tổn mắt 
        Xoay vần độ ba cõi. 
        4. Lời thuyết pháp 
        của Phật, Bồ Tát hợp với kinh điển, thuận theo chân lý. 
        Lời của ma trái lẽ phải, không đúng với kinh Phật đã 
        chỉ dạy. 
        5. Khi thắng tướng 
        hiện ra, muốn khảo nghiệm, hành giả chỉ chánh ý tụng Bát 
        Nhã Tâm Kinh, hoặc nhiếp tâm trì chú niệm Phật. Nếu là 
        thánh cảnh, càng niệm lại càng rõ ràng, vì vàng thật không 
        sợ lửa. Nếu là ma cảnh, trì niệm một hồi nó liền ẩn 
        mất, bởi tà không thể lấn chánh. 
        * Phải lấy cả năm 
        điều như trên để xét nghiệm, chớ không thể chỉ một 
        hai điều. Vì có những thiên ma hoặc thần tiên theo ngoại 
        phái, muốn dắt dẫn ta hướng về đường lối của họ, nên 
        giả hiện tướng Phật Bồ Tát để thuyết pháp. Tuy môn tu 
        của họ không phải là con đường cứu cánh giải thoát, 
        song họ có nghiệp lành, hoặc sức thiền định khá cao, nên 
        hào quang phát ra cũng làm cho ta được mát mẻ êm dịu. 
        Lại lối thuyết pháp của họ đôi khi cũng khuyên làm lành 
        giữ giới, ăn chay niệm Phật, song có một vài điểm sai khác 
        không hợp với kinh Phật, phải nhận định kỹ và phải 
        hiểu giáo lý mới biết được. Chẳng hạn như họ cũng 
        khuyên ăn chay niệm Phật, nhưng lại dạy phải vận hành câu 
        niệm Phật khắp châu thân gọi là "chuyển pháp luân" 
        để khai thông mạch Nhâm, Đốc, và mở Nê Hoàn Cung. Đây là 
        lối thuyết pháp của hàng ma ngoại đạo. Hoặc có loài ma 
        hiện ra tướng cao tăng bảo: "Phật đồng, Phật xi măng 
        không độ được nước, vì xuống nước phải chìm; Phật 
        tượng, Phật gỗ không độ được lửa, vì gặp lửa 
        phải bị cháy; chỉ có Phật tâm mới không bị vật chi làm 
        hoại. Tu được Phật tâm thanh tịnh thì không cần tu thân 
        và khẩu; cho nên dù ăn thịt uống rượu, có vợ con cũng vô 
        hại. Lối tu thân và khẩu như giữ giới, ăn chay, tụng 
        kinh, trì chú, niệm Phật, là những cách khổ hạnh bó 
        buộc vô ích." Đây là lời thuyết pháp của hạng tinh 
        mị lâu năm, hoặc loài ma ái dục. Có những hạng ma ngoại 
        đạo công năng tu khá cao, có thể dùng sức thiền định 
        gia bị, khiến cho hành giả thân tâm được an định trong vòng 
        bảy ngày, hoặc hai mươi mốt ngày. Nhưng lối thuyết pháp 
        của họ không siêu thoát, kết cuộc chỉ trong vòng ngã 
        chấp. 
        * Cổ đức đã 
        bảo: "Thấy ma không ma, ma liền tự hoại; thấy quái không 
        quái, quái liền tự bại." Câu này có nghĩa: nếu thấy 
        ma quái mà lòng không xao động sợ hãi, giữ chánh niệm 
        được vững vàng, hoặc chí tâm niệm Phật, loài ma quái 
        ấy không làm chi được, sẽ tự bỏ đi. Chẳng những khi 
        thấy ma quái phải như thế, mà dù cho lúc tu hành được 
        một phần kết quả, hay thấy thắng tướng, cũng đừng nên 
        quá bi cảm, kinh ngạc hoặc vui mừng. Ví như ta có hạt châu 
        làm rớt dưới đáy hồ, vì nước đục nên dò kiếm mãi 
        vẫn mất tích. Nay nước lắng trong lại tìm thấy được, 
        hạt châu ấy nguyên là của đã có, việc chi đến đổi 
        phải kinh ngạc, vui mừng? Người tu nếu tâm không bình 
        tỉnh, quá bi thương, tất bị loài bi ma ám nhập làm cho thương 
        khóc mãi chẳng thôi. Như quá vui mừng, cũng bị loài ma hoan 
        hỷ ám nhập, làm cho cười mãi như điên cuồng. Lại, hành 
        giả niệm Phật tuy cũng mong được thấy thánh cảnh, nhưng 
        đừng quá mơ tưởng ước ao, bởi niệm tức là đã cầu 
        rồi. Nên giữ tâm trạng điềm tỉnh, "cầu mà không 
        cầu, không cầu mà cầu", mới không bị sự cầu mong làm 
        xao động. Cứ chí tâm niệm Phật, lâu ngày niệm lực thanh 
        tịnh đạo cảm ứng giao thông, tất thấy được thánh 
        cảnh. Nếu mãi để lòng mong ước, đó tức là vọng tưởng, 
        ma sẽ thừa cơ len lỏi vào để phá hoại. 
        * Vào khoảng Thanh 
        mạt bước sang thời Dân Quốc, ở Trung Hoa có ông Ngụy 
        Tịch Phủ vốn là thiền hữu của cư sĩ Dương Nhân Sơn, 
        Ngụy Tịch Phủ tu tập thiền định gần ba mươi năm, một 
        hôm bỗng được Thiên Nhãn Thông. Ban sơ ông thấy những 
        vật ngoài tường vách, kế lại thấy rõ những việc xung 
        quanh vài ngoài mươi dặm như ở trước mắt. Biết mình đã 
        đắc Thiên Nhãn, ông rất kinh ngạc vui mừng! Ban đầu chỉ 
        thấy thôi, sau lại nghe rõ cả tiếng người và cầm thú 
        ở ngoài xa. Đó là Thiên Nhĩ Thông tùy theo phát hiện. Lần 
        hồi những sự vật ngoài mấy ngàn dặm, cũng đều thấy 
        nghe được. Sau đó những việc chưa phát hiện, ông vẫn 
        thấy nghe và hiểu biết rõ ràng. Đây là cảnh chứng của 
        Túc Mạng Thông. Bấy giờ phe đảng của Hồng Tú Toàn 
        thuộc nhóm Thái Bình Thiên Quốc chưa khởi sự đánh Thanh 
        triều, nhưng Ngụy Tịch Phủ đã thấy trước chiến cuộc 
        xảy ra ở Quảng Tây lần hồi đến Tô Châu, nhơn dân 
        chết vô số. Bởi mục kích nhiều trạng thái chết chóc 
        rất thê thảm, ông quá xúc động, gặp ai cũng thương khóc 
        bảo: "Đại loạn sắp đến nơi rồi, dân chúng sẽ 
        bị tàn lục khổ sở đáng thương xót, biết làm sao?" 
        Lúc đó mọi người nghe ông nói thế, ai cũng cho là điên. 
        Cư sĩ Dương Nhân Sơn bấy giờ ở kinh sư thường gần gũi 
        ông, nên biết rõ việc ấy. Kế đó giặc xảy ra thật. Đến 
        khi loạn bình rồi, Dương Nhân Sơn cư sĩ gặp Ngụy Tịch 
        Phủ ở Dương Châu mấy lần, thấy ông vẫn còn khóc lóc. 
        Sau Nhân Sơn gặp cư sĩ Đinh Phước Bảo, trần thuật lại 
        sự việc và nói: "Đó là cảnh bi ma ám nhập. Phàm người 
        tu đến lúc đắc lực, Thiên Nhãn Thông ngẫu nhiên phát 
        hiện, nên soi về tự tánh, đừng để cho sắc trần làm 
        lay chuyển. Nên biết các thần thông ta vẫn sẵn có, không 
        nên quá mừng rỡ kinh ngạc cho là sự lạ kỳ." 
        * Trong Trúc Song Tùy 
        Bút Lục, Liên Trì đại sư có thuật lại câu chuyện: 
        - Một thiền sư 
        cất am tu gần khe suối. Đêm nọ đang lúc tĩnh tọa, sư 
        nghe thấy hai con quỉ ngồi bên bờ suối nói với nhau 
        rằng: "Ngày mai vào lúc xế chiều, có người đội mão 
        sắt đi qua cầu suối này, tôi sẽ dìm cho chết đắm để 
        thay thế." Con quỉ kia bảo: "Mừng giùm anh sẽ được 
        thoát ly, tôi còn phải chịu lạnh lẽo chờ đến hai năm 
        sau mới có người thế mạng." Thiền sư nghe xong lưu ý. 
        Trưa hôm sau, một trận mưa to đổ xuống, nước dâng ngập 
        cả suối cầu. Xế lại mưa còn lâm râm, quả nhiên có người 
        đầu đội cái chảo gang, lần dò muốn vượt qua cầu 
        suối về nhà. Sư liền đón lại thuật rõ sự việc nghe 
        thấy. Người này cả kinh quay trở lại. Tối hôm đó, 
        thiền giả nghe con quỉ nói: "Sắp được thoát ly mà 
        bị ông thầy tu này phá hoại, đêm nay tôi phải báo thù 
        mới được!" Sư nghe xong, liền nhiếp tâm nhập chánh 
        định, thấy quỉ ra vào và đi xung quanh am mấy lượt như có 
        ý tìm kiếm. Do sức chánh định, quỉ tìm mãi không thấy 
        được thiền sư, sau cùng chán nản bỏ đi. 
        Trên đây là hai câu 
        chuyện "bi ma" và "khước ma". Xin ghi lại 
        cho chư liên hữu thêm phần ý thức trên đường tu niệm. 
        Tiết 52 Các Loại 
        Ma 
        Ba tiết Nội cảnh 
        giới, Ngoại cảnh giới, Biện ma cảnh vừa viết xong, có 
        một liên hữu đến thăm thấy bút giả đang duyệt xem 
        lại, liền xin đọc cho nghe. Sau khi nghe qua, vị này yêu 
        cầu nói rõ thêm về các loại ma để những bạn đồng tu 
        biết mà phòng ngừa. Thật ra, trong ba tiết trên đã nói khái 
        quát về các cảnh giới, trong ấy có ma cảnh; nếu hành 
        giả nắm được cương yếu, tự có thể giữ vững tâm và 
        đối trị với mọi cảnh duyên phá hoại. Nhưng thể theo 
        lời yêu cầu đó, nhân tiện cũng xin trình bày tổng quát 
        về các loại ma như sau: 
        "Ma" tiếng 
        Phạn gọi Ma La, Trung Hoa dịch là Sát, bởi nó hay cướp 
        của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người 
        tu. "Ma" cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành 
        giả thối đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc 
        sanh tà kiến làm điều ác rồi kết cuộc bị sa đọa. 
        Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình 
        đến Niết Bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn 
        lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong vòng sống 
        chết luân hồi, là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng 
        cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Ma 
        tuy nhiều, nhưng kết yếu chỉ có ba loại là: Phiền Não 
        Ma, Ngoại Ma và Thiên Ma. 
        * Phiền Não Ma chỉ 
        cho các phiền não tham nhiễm, hờn giận, si, mê, khinh mạn, 
        nghi ngờ, ác kiến; cho đến các thứ ma: năm ấm, sáu 
        nhập, mười hai xứ, mười tám giới. Loại ma này cũng 
        gọi là Nội ma, do lòng mê muội điên đảo sanh ra, nên 
        phải dùng tâm chân chánh sáng suốt giác ngộ mà giải 
        trừ. Phàm phu tự mình đã có những nghiệp riêng, lại do công 
        nghiệp sống chung trong khung cảnh, mà người xung quanh phần 
        nhiều tánh tình hiểm ác, nghiệp chướng lẫy lừng, nên 
        dễ động sanh phiền não. Có kẻ không chịu đựng nổi 
        sự lôi cuốn của ngũ trần, nên bị sa ngã. Có người vì 
        nghịch cảnh, khiến cho bi thương sầu não, chí tiến thủ 
        tiêu tan. Những sự việc này xui khiến người tu nhẹ thì 
        ưu sầu, uất ức sanh đau bịnh; nặng thì chán nản bỏ đạo, 
        hoặc phẫn chí tự tận; nguy hại hơn nữa, tất đến chỗ 
        đối với hàng xuất gia tại gia đều mất hết mỹ cảm, 
        tránh xa chán ghét, sanh việc khinh rẽ chê bai, không tin nhân 
        quả, làm điều ác rồi phải đọa tam đồ. 
        Muốn đối trị 
        thứ ma này, hành giả phải quán xét phiền não là hư 
        huyễn, xao động, nóng bức, trói buộc, tối tăm, chỉ làm 
        khổ cho người và mình. Dứt phiền não, ta sẽ trở về chân 
        tâm tự tại giải thoát, mát lặng sáng trong, an vui mầu 
        nhiệm. Đối với sự mê chấp từ năm ấm cho đến mười 
        tám giới cũng nên quán như thế. Trong Kinh Pháp Hoa, đức 
        Phật bảo: "Các ngươi chớ nên tham đắm sắc, thanh, hương, 
        vị, xúc, pháp thô tệ. Nếu mê đắm tham trước, tất bị 
        nó thiêu đốt." Khi xưa đức Văn Thù hỏi một vị thiên 
        nữ: "Ngươi xem mười tám giới như thế nào?" Thiên 
        nữ đáp: "Như thấy kiếp lửa đốt thế gian!" Đây 
        là những lời cảnh giác để phá trừ loại ma phiền não. 
        Phiền não ma hay 
        Nội ma, nếu không chế phục được, tất sẽ chiêu cảm đến 
        Ngoại ma ở ngoài đến phá. Lời xưa nói: "Trong cửa có 
        tiểu nhơn, ngoài cửa tiểu nhơn đến. Trong cửa có quân 
        tử, ngoài cửa quân tử đến." Lại như khi ăn trộm đào 
        ngách muốn vào nhà, gia chủ hay được tỏ ra bình tỉnh răn 
        trách, tất nó phải sợ hãi bỏ đi. Nếu chủ nhà kinh sợ 
        rối rít năn nỉ, đó chính là thái độ khuyên rước trộm 
        vào nhà vậy. 
        * Ngoại Ma là những 
        loài quỉ thần yêu mị bên ngoài. Người tu khi có đôi chút 
        công phu, liền bị nó đến thử thách phá khuấy. Loài này 
        có thể chia thành ba hạng là: Bố Ma, Ái Ma và Não Ma. 
        1. Bố Ma là loài ma 
        ưa khủng bố làm cho người kinh sợ. Thứ ma này thường hóa 
        hình cọp, sói, rắn, rít, hoặc các loài thú hung dữ kỳ 
        lạ, hay hình ác quỉ ghê rợn để dọa nhát người tu. 
        Những hình tướng này biến huyễn vô cùng, hoặc không đầu, 
        nhiều đầu, nhiều tay, nhiều mắt; hoặc mình người đầu 
        thú, mình thú đầu người, hoặc cầm khí giới, hoặc phung 
        lửa đỏ. Nếu hành giả kinh hãi, liền bị nó phá làm 
        mất chánh niệm, lắm khi sanh điên cuồng. Gặp cảnh này, nên 
        nghĩ các tướng đều giả dối, ma chỉ có thể hủy diệt 
        huyễn thân chớ không thể phá hoại được chân tâm. Suy xét 
        như thế rồi liền bình tĩnh không sợ chết, an nhiên chuyên 
        tâm niệm Phật hoặc trì chú, nó sẽ tự rút lui. 
        2. Ái Ma là loài ma 
        khích động lòng ái dục cho đến tâm tham nhiễm cảnh ngũ 
        trần. Chúng hóa hình nam, nữ lõa lồ xinh đẹp; hoặc hình 
        cha mẹ anh em, kẻ thân mến; cho đến thân Phật, Bồ Tát tướng 
        tốt trang nghiêm để khuyến dụ. Nếu người thích ăn ngon, 
        chúng hóa sơn hào hải vị hương thơm ngào ngạt đem dâng; 
        người ưa bảo vật, chúng hiện hình thú lạ ngậm châu 
        ngọc đến hiến tặng. Tùy tâm niệm hành giả ưa thích điều 
        chi, nó liền hiện ra thứ ấy. Chúng có thể dùng ma lực 
        khiến cho người tu được tà định, tà trí, tài biện 
        thuyết, phép thần thông biết quá khứ, vị lai. Những kẻ 
        không hiểu cho là đã chứng đạo quả, thảy đều tin 
        phục; song kỳ thật người kia trong tâm điên đảo, chuyên 
        làm phép quỉ mê hoặc thế gian. 
        Có một nhà sư 
        Việt Nam tu tại chùa Bàng Long bên Lào, trong khi thiền định 
        thấy một nhóm mỹ nữ lõa lồ, nắm tay nhau nhảy múa. Sư 
        trấn định tâm không nổi, liền thành khẩn niệm Phật, tướng 
        ấy mới tan. 
        Khi xưa, ở chùa núi 
        Chung Nam tại Trung Hoa, có một vị sư đang tham thiền, nhân 
        khi trời lạnh bụng đói, động niệm tưởng ăn; bỗng 
        thấy một thiếu phụ bưng thức ăn đến cúng dường. 
        Thiếu phụ quì sớt đồ ăn vào bát, thỉnh sư nên dùng 
        liền kẻo nguội lạnh, mất ngon. Sư vì đói muốn thọ 
        dụng ngay, nhưng nghĩ chưa đến giờ thọ trai, nên nhẫn 
        nại bảo hãy tạm để một bên, chờ đúng giờ rồi sẽ 
        ăn. Thiếu phụ nghe nói, có vẻ hờn giận bỏ đi. Giây lâu 
        sau đúng ngọ, sư giở bát ra thấy trong ấy toàn là dòi bò 
        lúc nhúc. Chừng ấy ông mới tỉnh ngộ, biết vừa động 
        sanh vọng niệm, liền rước lấy cảnh ma; may nhờ có chút 
        định lực mới khỏi ăn đồ dơ và phạm giới sát. 
        Lại một vị sư cũng 
        tu thiền trong non, thấy mình lẻ loi cô quạnh, nên sanh 
        vọng tưởng muốn được một ít người cùng ở cho vui. 
        Vừa đâu có bà lão dẫn hai cô gái trẻ đẹp, bảo nhà ở 
        dưới làng chân núi, tìm đến am tranh cầu xin dạy đạo. 
        Vị tăng ban sơ không nghi ngờ, liền thuyết pháp khai thị. 
        Tới lui như thế lâu ngày, một hôm bà lão thưa bạch xin 
        cho hai cô gái làm thị giả lo việc giặc giũ cơm nước để 
        sư đỡ nhọc. Sư nghe nói thoáng sanh lòng ngờ lạ, liền 
        nghiêm trách từ chối. Ba người đó có vẻ hờn thẹn bỏ 
        đi. Sư lén theo dõi qua một khúc quanh bỗng chợt mất bóng, 
        đến xem thì đã cùn đường, lại không có nhà cửa chi 
        cả, chỉ thấy ba gốc cổ thụ, một to hai nhỏ. Ông suy nghĩ 
        biết đây là yêu tinh cổ thụ làm quái; muốn đem búa 
        chặt đốn hoặc nổi lửa thiêu đốt để dứt trừ hậu 
        hoạn. Vừa nghĩ đến đó bỗng thấy ba người hiện ra 
        cầu sám hối và xin tha mạng. 
        Thế nên biết, tâm 
        yên cảnh lặng, vọng khởi ma sanh, người tu phải ghi nhớ 
        điều này. 
        3. Não Ma là loại ma 
        chuyên phá rối, làm não loạn người tu. Có giống tinh mị 
        mỗi loài đến theo giờ của nó, đại khái mỗi giờ có ba 
        loài, mười hai giờ thành ba mươi sáu loại tinh thú. Như 
        giờ Dần đến, tất là loài cọp, beo, gấu; giờ Mẽo đến 
        là loài mèo, thỏ, cáo; giờ Thìn đến là loài rồng, cá, 
        thuồng luồng... Theo trong Tọa Thiền Chỉ Quán có thứ quỉ 
        Du Lạp Kiết Chi, Trung Hoa gọi là Đôi Dịch, đầu mặt như 
        cây đàn tỳ bà, bốn mắt, hai miệng, thường ưa khuấy động 
        phá rối người tu. Chúng chờ khi người đang tụng niệm, hóa 
        ra loài sâu trùng, hoặc bò lên khắp đầu mặt; hoặc chun vào 
        miệng, lỗ mũi, mắt, lỗ tai; hoặc chui vào nách, bụng 
        của hành giả mà cắn, chích. Đôi khi chúng kêu vang vào 
        lỗ tai, làm thành tiếng ồn náo, nhức óc; hoặc chợt ôm 
        giữ người, quơ tìm thì không đụng thấy. Chúng còn hóa 
        ra cảnh ngũ trần hoặc thuận, hoặc nghịch, hoặc không 
        thuận nghịch, biến huyễn khôn lường, làm cho hành giả 
        loạn động chẳng biết đâu mà nhận thức, dễ mất định 
        tâm. Muốn đối trị với ba mươi sáu loài tinh thú, cứ 
        theo giờ kêu tên của nó mà quở trách; với ma Đôi Dịch, 
        nên tụng tam quy ngũ giới hoặc giới bổn, bởi chúng là 
        thứ quỉ phạm tội phá giới. Làm như thế chúng liền ẩn 
        mất. Hoặc cách đối trị tổng quát là nên nhiếp tâm vào 
        chánh định, hay chuyên chí trì chú niệm Phật, chúng sẽ 
        biến tan. 
        Gặp cảnh ma chướng 
        quá nhiều, người xưa còn có phương pháp là sắm hai mặt 
        gương soi, rồi nhập thất bốn mươi chín ngày, chuyên 
        tụng chú Đại Bi hoặc chú Chuẩn Đề gia trì vào trong gương. 
        Xong, treo hai tấm gương trên cao chiếu nghiêng xuống nơi 
        chỗ thường ngồi trì niệm, một để trước mặt, một 
        ở sau lưng. Nếu loài ma đến liền bị thâu bắt hiện hình 
        vào gương, chừng ấy hành giả muốn đuổi đi hay hành 
        phạt gì tùy ý. Gương phép này lâu lâu phải dùng vải 
        sạch lau chùi và gia trì thần chú một lần. Làm như thế nó 
        chẳng những nhắc nhở cho sự trong sáng của tâm linh, mà còn 
        tăng thêm phần ứng nghiệm. Đây là cách dùng gương để 
        đối trị nội ma và ngoại ma theo kinh nghiệm của tiền nhơn. 
        Để nói rộng thêm, 
        Ngoại ma còn là những ma về bàng môn ngoại đạo. Theo 
        chỗ nhận thấy của bút giả cùng nhiều đồng bạn, 
        những vị kiếp trước hoặc kiếp này đã tu theo ngoại đạo, 
        sau trở lại quy đầu Phật pháp; hoặc những vị tuy chỉ nương 
        về Tam Bảo, nhưng xưa kia ông bà cha mẹ đều theo bàng môn, 
        thường hay bị ngoại ma phá rối. Bởi lối tu của ngoại 
        đạo đều không rời phiền não hữu lậu, còn trong vòng 
        tự cao chấp ngã, tham đắm quyền danh, nên hàng ngoại đạo 
        hay quy tụ bè phái, không muốn cho người có ít nhiều liên 
        hệ với phe mình tu theo đạo khác. Bút giả có người bạn 
        xuất gia, tánh nhu hòa hiền hậu, nhưng khi tu hành bị 
        ngoại ma theo phá mãi. Tiếc vì ông bạn này còn vương hạt 
        giống ngoại đạo không chí tâm dùng Phật pháp đối trị 
        với tà pháp. Trong lúc cùng quẩn vì ma phá, thầy đi nhiều 
        nơi tìm sự cứu độ với các người tu theo ngoại phái. 
        Kết cuộc thầy lạc hẳn về ngoại đạo, bề ngoài là hình 
        thức tăng già, nhưng bên trong lại chuyên tu về luyện điển, 
        bác phá sự lễ Phật tụng kinh, cho là chấp tướng. 
        Lại có một nữ 
        Phật tử, tánh tình rất tốt, song thường lâm cảnh ngoại 
        ma quấy nhiễu. Một độ nọ, trong lúc đang tu, cô bị ma 
        ngoại đạo vây khổn, và nghe tiếng nói: "Ông cha mi đều 
        là người tu theo phái Ngũ Hành của chúng ta, sao mi không 
        trở về gốc cũ, lại đi theo đạo Phật?" Cô kinh hãi 
        chí tâm niệm Phật, mỗi câu niệm Phật thấy có một làn 
        ánh sáng phát ra che phủ thân mình, bọn ma không làm chi được. 
        Chúng tức giận bảo: "Mi đừng cậy có phép Phật mà 
        tự đắc tự kiêu, sẽ có người trưởng thượng của chúng 
        ta đến đây cho mi biết thủ đoạn!" Nói xong, chúng 
        liền rút lui. Khi ấy cô bỗng nghe tiếng một vị thiện 
        thần bảo: "Bọn chúng ganh hờn vì cô quy y Tam Bảo, không 
        theo đạo ông cha mà thờ cúng chúng nó. Ngay bây giờ cả 
        hai tay cô nên kiết ấn Kim Cang quyền, bấm ngón tay cái vào 
        lóng gốc ngón áp út và nắm chặt lại. Cứ giữ y như 
        thế rồi thành tâm trì chú hoặc niệm Phật mãi, vì giây lát 
        sẽ có người lớn của bọn chúng đến đây, dùng phép ngũ 
        lôi đánh và bắt hồn cô. Vây cánh chúng rất đông, tôi 
        chỉ giúp đỡ phần nào thôi, bởi cô thế không làm sao xua 
        đuổi bọn nó nổi. Sức của cô cũng chỉ có hạn, sợ e lâu 
        ngày chẳng kham chống trả, tốt hơn nên vào chùa tu mới tránh 
        khỏi nạn." Cô liền y theo lời dặn, nắm tay lại 
        kiết ấn và trì chú Đại Bi. Giây lát bỗng nghe tiếng ồn 
        ào đông đảo, rồi có một làn chớp từ trên đánh xuống 
        nặng nề như búa bổ, nóng rát rêm nhứt cả đầu. Cô 
        liền buông bỏ tất cả ý niệm, liều mạng chí tâm trì chú, 
        không còn biết cảnh giới bên ngoài ra sao, giây lâu nghe 
        xung quanh lặng lẽ, thân tâm trở lại trong trạng thái yên 
        ổn bình thường. 
        Sau đó, cô nương vào 
        chùa, nhưng vì còn bà thân già hay đau yếu không ai săn sóc, 
        nên bắt buộc phải về nhà lo phần sanh kế để phụng dưỡng. 
        Một khoảng thời gian cách xa không gặp lại, bút giả nghe 
        tin cô hay nói chuyện hư huyền, và xướng ra làm bịnh, 
        biết cô chống không nỗi nên đã bị ma ám nhập, chỉ riêng 
        thầm thương xót thở than! Cho nên những vị trước kia có 
        liên hệ với ngoại phái sau trở về tu Phật, nên nhìn gương 
        trên mà lưu tâm cẩn thận. 
        * Thiên Ma là loại 
        ma ở cõi Tha Hóa Tự Tại, thuộc tầng thứ sáu của trời 
        Lục Dục. Loại ma này có phước báo, hưởng sự vui mầu 
        nhiệm cao tột của ngũ trần, cho đó là cảnh khoái lạc 
        tuyệt đối, nắm quyền hạn về dục nhiễm, không muốn ai 
        thoát khỏi phạm vi ấy. Khi hành giả đạt đến mức tu khá 
        cao, tâm quang phát lộ, ánh sáng chiếu thấu lên cõi trời 
        Tha Hóa làm cho cung điện ma rung động, chúng liền phát giác 
        và vì sợ e cho có người giải thoát, quyến thuộc mình 
        sẽ bị giảm bớt đi, nên tìm cách phá hoại. Chúng hiện 
        ra nhiều cảnh, hoặc hăm dọa, hoặc khuyến dụ, hoặc giúp 
        cho sức tà định tà trí cùng thần thông cốt để gạt 
        gẩm; lại thay phiên nhau rình rập không giây phút nào xa 
        rời để chờ cơ hội thuận tiện. Nếu hành giả có một 
        niệm sơ hở, liền bị chúng ám nhập, xúi giục làm những 
        điều trái đạo đức, đời tu kể như đã hư tàn. Trong 
        Luận Khởi Tín, Mã Minh Đại Sĩ từng khuyên dạy: 
        "Trong khi hành 
        giả tịnh tu, thường bị các thiên ma, ngoại đạo, hoặc 
        quỉ thần làm não loạn. Chúng hiện các hình tướng ghê 
        rợn để khủng bố, hoặc tướng nam nữ xinh đẹp mong 
        quyến rũ. Có khi chúng hiện thân Phật, Bồ Tát hay chư Thiên 
        đủ các tướng tốt trang nghiêm; hoặc nói các môn Đà Ra 
        Ni; hoặc nói pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, 
        thiền định, trí huệ; hoặc nói các pháp bình đẳng, không, 
        vô tướng, vô nguyện, khen ngợi cảnh không oán không thân, 
        không nhân không quả, cứu cánh rỗng không vắng lặng, 
        bảo đó là chân Niết Bàn... Hoặc chúng làm cho hành giả 
        biết đời trước của mình, suốt việc quá khứ vị lai (túc 
        mạng thông), thấu rõ tâm niệm mọi người (tha tâm thông), 
        cho đến được biện tài vô ngại. Chúng khiến người tu 
        tham luyến danh lợi thế gian, tánh tình thất thường, hay 
        giận, hay cười, ưa ngủ, nhiều bịnh, dễ xót thương xúc 
        cảm, có khi rất tinh tấn, lắm lúc lại trễ nãi biếng lười. 
        Hoặc chúng xui hành giả sanh tâm nghi ngờ không tin, nhiều 
        lo nghĩ, bỏ pháp tu căn bản trở lại tu các tạp hạnh, đắm 
        nhiễm những việc triền phược ở thế gian. Hoặc chúng làm 
        cho hành giả được một ít phần tương tợ như Tam Muội, 
        có thể ở trong định từ một ngày cho đến bảy ngày, thân 
        tâm an vui không biết đói khát; song đó là do sức tà 
        chứng của ngoại đạo gia bị, không phải thật Tam Muội. 
        Hoặc lại khiến cho hành giả ăn uống không chừng độ, 
        khi nhiều khi ít, sắc mặt biến đổi luôn. Khi gặp những 
        cảnh như trên, người tu phải dùng trí huệ quán sát, 
        gắng giữ chánh niệm, đừng sanh tâm chấp trước mà lạc 
        vào lưới tà. Phải kiên trì như thế mới xa lìa được ma 
        chướng." 
        * Kết lại, nếu nói 
        ước lược hơn, chỉ có Nội ma và Ngoại ma; Thiên ma cũng 
        nhiếp thuộc về loài Ngoại ma. Nhưng sở dĩ lập Thiên ma 
        thành một loại riêng, là vì muốn cho hành giả lưu ý đến 
        sự phá hoại nguy hiểm tinh vi của nó. Ngoài Phiền não ma, 
        Ngoại ma, Thiên ma như trên, trong kinh còn có nói Bịnh ma và 
        Tử ma. Bởi cơn đau bịnh thường làm cho hành giả tiêu 
        giảm công phu, lại tu chưa đến đâu rồi chết có thể 
        khiến người thối thất đạo quả, nên mới gọi là 
        "ma". Nhưng Bịnh ma và Tử ma, đại ý chỉ cho sự 
        chướng ngại của bịnh và chết thuộc thân tứ đại trên 
        đường tu, không có tính cách phá hoại khuấy rối để 
        giết hại đạo tâm theo nghĩa "ma" chân thật. Vì 
        thế nên đây lược qua không đề cập đến. 
        Sức tu của người 
        thời nay, phần nhiều bị Phiền não ma hoặc Ngoại ma phá 
        hoại, chưa đủ để cho Thiên ma phải ra tay. Loại ma này 
        chỉ đến với những vị tu cao. Nếu Thiên ma quyết phá, 
        những vị sức tu tầm thường khó có hy vọng thoát khỏi. 
        Trong Kinh Lăng Nghiêm, vì thương đường tu nhiều hiểm 
        nạn, đức Phật khuyên các hành giả tham thiền nên kiêm trì 
        mật chú, để được nhờ thần lực gia hộ, thoát khỏi 
        nạn ma thành tựu chánh định. „n Quang đại sư đã bảo: 
        "Mới xem qua, dường như Kinh Lăng Nghiêm khác quan điểm 
        với Tịnh Độ, nhưng xét nghĩ sâu mới thấy kinh này trong 
        vô hình đã khen ngợi tuyên dương Tịnh Độ. Tại sao thế? 
        Bởi bậc đã chứng đệ tam thánh quả A Na Hàm, còn có 
        thể bị ma cảnh làm cho thối đọa; thì sự niệm Phật 
        cầu sanh Tịnh Độ càng nổi bật thêm tánh cách trọng 
        yếu, trong ánh sáng nhiếp hộ của đức A Di Đà không còn 
        nạn ma." 
        Cho nên xét luận trên 
        đường hành đạo, khi chưa được sanh về Cực Lạc, thì 
        tu Tịnh Độ cũng có thể bị ma chướng. Song phần nhiều 
        đó là do hành giả không hiểu giáo lý, chẳng khéo trị tâm, 
        để Nội ma phát khởi khiến chiêu cảm Ngoại ma đến phá 
        hoại. Nếu giữ được tâm bình tỉnh, thì với oai lực công 
        đức của câu hồng danh, ngoại ma không làm chi được, và 
        phiền não cũng lần lần tiêu trừ. Vì thế người tu Tịnh 
        Độ, ma cảnh nếu có cũng là phần ít. Trái lại, người 
        tu thiền ma cảnh hiện nhiều, bởi chỉ nương vào tự 
        lực. Bậc Thiền Sĩ phải đủ năm điều kiện sau đây, 
        mới mong đường tu được thành tựu: Một, là giới hạnh 
        tinh nghiêm; hai, căn tánh lẹ làng suốt sáng; thứ ba, phải 
        hiểu rõ đạo lý, khéo phân biệt tướng chánh, tà, chân, 
        vọng; bốn, ý chí mạnh mẽ vững bền, và năm, là phải nương 
        bậc thiện tri thức thông kinh điển, đã có kinh nghiệm tu 
        thiền nhiều năm, để nhờ sự hướng dẫn. Nếu thiếu năm 
        điều kiện đó tất dễ bị ma nạn. Tiên đức đã bảo: 
        "Khô mộc đường tiền thác lộ đa!" Câu này ý nói: 
        trong cơ thiền có rất nhiều duyên lạc lối. Vì thế tu 
        thiền muốn được thành tựu, phải là bậc lợi trí thượng 
        căn. Bậc tôn túc tông Thiền khi xưa, lúc truyền pháp cũng 
        căn dặn: "Phi bậc thượng thượng căn. Đừng dễ dàng 
        hứa nhận." (Phi thượng thượng căn. Thận vật khinh 
        hứa). Lời nói này đủ chứng minh cho điều nhận xét trên. 
        Trong Luận Khởi Tín, 
        sau khi kết hợp tổng quát về tinh yếu của pháp Đại 
        Thừa, và trình bày xong đường lối tu tập, Mã Minh Bồ Tát 
        lại bảo: "Cõi Ta Bà phiền não cang cường, chánh tín 
        khó vững, không thường được gặp Phật nghe pháp, đường 
        tu nhiều hiểm nạn chướng duyên. Nên biết Như Lai có phương 
        tiện thù thắng, dạy cầu sanh về cõi Tịnh Độ ở tha phương. 
        Như trong khế kinh nói: nếu chuyên tâm niệm Phật A Di Đà 
        đem công đức tu hồi hướng cầu sanh Tây Phương, thì sẽ 
        được về thế giới Cực Lạc, thường thấy Phật nghe pháp, 
        không còn thối chuyển. Nếu hành giả y theo đường lối này 
        tu tập, quyết định sẽ được vào chánh định tụ." 
        Như trên, ta thấy 
        chuyên tâm niệm Phật là phương tiện mầu nhiệm để thoát 
        khỏi nạn ma, mau thành tựu chánh định. 
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | 01 
        | 02 | 03 | 04 
        | 05 | 06 | 07 | 08 
        | 09 | 10 | Mục 
        lục  |