Chương 
        V: Đệ Ngũ Yếu 
        Niệm Phật Phải Hành Trì Cho Thiết Thật
        Khải Đề: 
        Lặng ngồi chốn tĩnh 
        lâu 
        Trăng sáng, gió canh thâu! 
        Bát nhã hương lòng nhẹ. 
        Lăng Già niệm ý sâu 
        Phật, Tâm chung một vẻ 
        Thiền, Tịnh chẳng hai mầu 
        Ngưng chuỗi, thầm riêng hỏi 
        Hoa đêm điểm điểm đầu... 
        Mục 
        A. Môn Niệm Phật Với Tứ Đoạt Và Tứ Hạnh 
        Tiết 26 Hạnh Tinh 
        Chuyên Cũng Là Điểm Không Thể Thiếu 
        Như trên đã nói, điểm 
        thiết yếu của môn Niệm Phật là phải phát nguyện vãng 
        sanh. Nếu nghĩ rằng: "Ta chỉ cầu niệm hồng danh muôn 
        đức của Phật A Di Đà cho thật nhiều, tự nhiên sẽ có vô 
        lượng công đức; dù không vãng sanh, công đức ấy cũng 
        chẳng mất." Nghĩ như thế là sai lầm nguy hiểm và 
        thiếu trí huệ. Bởi có hạnh mà không nguyện thì công đức 
        ấy sẽ biến thành phước báo ở đời sau. Đời thứ hai 
        đã hưởng si phước tất dễ tạo nghiệp, sang đời thứ 
        ba nhất định phải bị đọa lạc tam đồ, đó là điều 
        sai lầm, nguy hiểm! Vì thế, ở trên mới gọi tín nguyện là 
        "huệ hạnh". 
        * Đã có đủ Tín 
        Nguyện mà thiếu phần Hạnh, ví như chiếc thuyền có lái 
        không chèo, cũng không thể vãng sanh. Có kẻ nghe nói: 
        "Chỉ cần tín nguyện chân thiết, khi lâm chung mười 
        niệm hay một niệm cũng quyết được sanh Tây Phương", 
        thì liền nghĩ rằng: "Nếu như thế cần chi phải vội 
        gấp, để lúc sắp chết niệm Phật cũng được!" Ý 
        niệm này cũng sai lầm, bởi vì quá xem thường hành môn 
        Niệm Phật. Phải biết, điểm quan yếu để vãng sanh, theo 
        trong kinh văn là: "Người ấy khi lâm chung lòng không điên 
        đảo". (Thị nhơn chung thời tâm bất điên đảo, tức 
        đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ - Kinh 
        Phật Thuyết A Di Đà). Như quả lúc lâm chung lòng không điên 
        đảo, thì niệm mười niệm hay một niệm cũng được vãng 
        sanh. Nhưng ai dám bảo rằng: mình khi lâm chung lòng không điên 
        đảo? Nếu lúc bình thời không tinh chuyên dụng công, đến 
        khi mạng chung bốn đại phân ly, sức nghiệp dồn dập, thân 
        tâm bị sự khổ làm cho kinh hoàng mê loạn, sợ e một 
        niệm cũng không thể thật hành huống chi mười niệm? Như 
        muốn cho khi lâm chung có phần bảo đảm, lúc bình thời hành 
        giả phải tinh chuyên niệm Phật cho nhiều, và gắng tu tập 
        trình độ "nhứt tâm bất loạn". Bằng chỉ đợi 
        khi sắp chết mới niệm, trên đạo lý nói ra thì cố nhiên 
        suốt thông, nhưng lại e trên sự thật chẳng phải là đơn 
        giản. Cho nên các hành giả niệm Phật phải gắng dụng công, 
        đừng lơ là khinh thường sự hành trì, mà rước lấy nỗi 
        thất bại. 
        Tiết 27 Niệm 
        Phật Với Tứ Đoạt 
        Môn Niệm Phật vãng 
        sanh là giáo pháp viên đốn Đại Thừa, bởi người tu lấy 
        sự giác ngộ nơi quả địa làm điểm phát tâm ở nhân địa. 
        Từ một phàm phu trong tứ sanh lục đạo, nhờ Phật tiếp 
        dẫn mà lên ngôi Bất Thối, đồng hàng với bậc thượng 
        vị Bồ Tát; nếu chẳng phải chính miệng Phật nói ra, ai có 
        thể tin được? Bởi muốn vào vị Sơ Trụ lên ngôi Tín 
        bất thối người tu các giáo môn khác phải trải qua một 
        muôn kiếp, mà mỗi đời đều phải liên tục tinh tấn tu hành. 
        Nếu nói đến Vị bất thối, Hạnh bất thối, Niệm bất 
        thối lại còn xa nữa! Về môn Tịnh Độ, hành giả đã tin 
        tha lực lại dùng hết tự lực, tất muôn tu muôn người vãng 
        sanh, siêu thoát luân hồi không còn thối chuyển. 
        Nếu dùng hạnh 
        Niệm Phật để phát minh tâm địa, ngộ tánh bản lai, thì 
        tông Tịnh Độ không khác với các tông kia. Còn dùng Niệm 
        Phật để vãng sanh cõi Phật, thì tông này lại có phần đặc 
        biệt. 
        Cổ đức bảo: 
        1. Sanh tất quyết định 
        sanh, về thật không có về: là đoạt cảnh chẳng đoạt người. 
        2. Về tất quyết định về, sanh không thật có sanh: là đoạt 
        người chẳng đoạt cảnh. 
        3. Về thật chẳng có về, sanh cũng thật không sanh: là 
        cảnh và người đều đoạt. 
        4. Về tất quyết định về, sanh cũng quyết định sanh: là 
        cảnh và người đều không đoạt. 
        Trên đây là bốn câu 
        giản trạch và Tứ Đoạt cuả môn Tịnh Độ. Chữ "đoạt" 
        có nghĩa là: thông suốt lý thể. Bởi toàn thể pháp giới 
        là nhứt tâm, người và cảnh đều như huyễn, nếu thấy có 
        người vãng sanh, có cảnh để sanh về, là còn chấp nhơn 
        chấp pháp, phân biệt kia đây, nên gọi là không đoạt, 
        tức không thông suốt lý thể. Và trái lại, tức là đoạt. 
        Tiên đức nói: "Có niệm đồng không niệm. Không sanh 
        tức là sanh. Chẳng phiền dời nửa bước. Thân đến Giác 
        vương thành", tức là ý này. 
        Người và cảnh đều 
        đoạt, là mức cao tuyệt của hành giả niệm Phật. Nhưng y 
        theo ba kinh Tịnh Độ và Thiên Thân Luận (Kinh Phật Thuyết 
        A Di Đà, Vô Lượng Thọ, và Quán Vô Lượng Thọ - Thiên Thân 
        Luận tức Vãng Sanh Luận hay Vô Lượng Thọ Kinh Luận) thì 
        nên lấy "người và cảnh đều không đoạt" làm tông, 
        mới hợp với ý nghĩa hai chữ "vãng sanh". Bởi đức 
        Như Lai biết hàng phàm phu ở cõi ngũ trược, nhứt là 
        thời mạt pháp này, nghiệp chướng sâu nặng, lập cảnh tướng 
        để cho y theo đó trụ tâm tu hành, còn khó có kết quả nói 
        chi đến việc lìa tướng ư? Phàm phu đời mạt pháp trụ tướng 
        mà tu tất hạnh nguyện dễ khẩn thiết, kết quả vãng sanh 
        cũng dễ đoạt thành. Khi về Tây Phương, chừng ấy lo gì 
        không được chứng vào thể vô sanh vô tướng? Nếu chưa 
        phải là bậc thượng căn lợi trí, vội muốn cầu cao thích 
        lìa tướng tu hành tất tâm không nương vào đâu để sanh 
        niệm khẩn thiết, nguyện đã không thiết làm sao được vãng 
        sanh. Không vãng sanh chi khỏi cảnh luân hồi khổ lụy? „y 
        là muốn mau trở thành chậm, muốn cao trái lại thấp, 
        muốn khéo hóa ra vụng đó! Nhiều kẻ ưa nói huyền lý, thường 
        bác rằng: "Niệm Phật cầu sanh là chấp tướng ngoài tâm 
        tìm pháp, chẳng rõ các pháp đều duy tâm." Những người 
        này ý muốn diệu huyền, nhưng kỳ thật lại thành thiển 
        cận! Bởi họ không rõ Ta Bà đã duy tâm thì Cực Lạc cũng 
        duy tâm, tất cả đâu ngoài chân tâm mà có? Vậy thì niệm 
        Phật A Di Đà là niệm đức Phật trong tâm tánh mình, về 
        Cực Lạc tức về nơi cảnh giới của tự tâm, chớ đâu 
        phải ở ngoài? Ta Bà và Cực Lạc đều không ngoài tâm, thì 
        ở Ta Bà để chịu sự điên đảo luân hồi, bị ngọn 
        lửa ngũ trược đốt thiêu, sao bằng về Cực Lạc an vui, hưởng 
        cảnh thanh lương tự tại? Nên biết, đúng tư cảnh để tôn 
        sùng, duy tâm Tịnh Độ, phải là bậc đã chứng pháp tánh 
        thân, mới có thể tự tại trong mọi hoàn cảnh. Chừng đó 
        dù trụ Ta Bà hay Cực Lạc cũng đều là Tịnh Độ, là duy 
        tâm, là giải thoát cả. Bằng chẳng thế thì dù có nói 
        huyền nói diệu vẫn không khỏi sự hôn mê khi cách ấm, 
        rồi tùy nghiệp luân hồi chịu khổ mà thôi! 
        Tiết 28 Niệm 
        Phật Với Tứ Hạnh 
        Sở thích và túc căn 
        của chúng sanh vẫn thường sai biệt cho nên tuy đồng tu 
        hạnh Niệm Phật, sự hành trì chẳng khỏi có điểm không 
        giống nhau. Vì thế, trên đường Tịnh Độ, cổ nhơn đã 
        khái ước chia thành bốn hạnh là: Thiền Tịnh, Giáo Tịnh, 
        Mật Tịnh và Thuần Tịnh. 
        1. Những vị lấy 
        niệm Phật làm chánh, tham thiền làm phụ, thuộc về hạnh 
        Thiền Tịnh. Đây cũng là lối Thiền Tịnh song tu, nhưng 
        lại lấy sự vãng sanh Tịnh Độ làm yếu điểm chung 
        cuộc, còn việc thấy tánh ngộ đạo chỉ thuộc phần tùy 
        duyên. 
        2. Những vị lấy 
        niệm Phật làm chánh, tụng kinh làm phụ, gọi là tu hạnh 
        Giáo Tịnh. Về phần kinh giáo, có người thích tụng Kinh 
        Kim Cang hay Di Đà; có vị thích tụng Hoa Nghiêm hay Pháp Hoa, 
        hoặc phẩm Phổ Môn hay Phổ Hiền Hạnh Nguyện chẳng hạn. 
        3. Những vị lấy 
        niệm Phật làm chánh, trì chú làm phụ, đó là tu về hạnh 
        Mật Tịnh. Trong sự trì chú, mỗi người lại ưa thích riêng 
        mỗi môn Đà Ra Ni, như: Đại Bi, Chuẩn Đề, Vãng Sanh, Công 
        Đức Bảo Sơn, Văn Thù Ngũ Thanh thần chú, Lục Tự Đại 
        Minh chân ngôn, hoặc các Đà Ra Ni khác. 
        4. Những vị chỉ 
        chuyên niệm Phật, không xen tạp môn nào khác, thuộc về các 
        hành giả tu hạnh Thuần Tịnh. 
        Trong đây các vị căn 
        cơ cao thì theo Thập Lục Quán, còn đại đa số chỉ chuyên 
        về hạnh Trì Danh. 
        * Thiện Đạo hòa thượng 
        và Vĩnh Minh thiền sư bên Trung Hoa, tương truyền đều là hóa 
        thân của Phật A Di Đà. Nhưng Thiện Đạo hòa thượng chỉ 
        dạy chuyên niệm Phật; Vĩnh Minh thiền sư thị hiện mỗi 
        ngày ngoài việc niệm mười muôn câu Phật hiệu, còn tu các 
        hạnh khác, tất cả gồm 108 môn. „n Quang pháp sư đã phê 
        phán: "Đồng dạy về Tịnh Độ, nhưng lối khai thị 
        của ngài Thiện Đạo là để tiếp dẫn hàng trung, hạ căn 
        thuộc về chuyên tu. Còn lối khai thị của ngài Vĩnh Minh để 
        riêng khuyến tấn bậc thượng thượng căn, thuộc về viên 
        tu." Người đời mạt pháp phần nhiều là bậc trung, 
        hạ căn. Vì thế, với bốn hạnh trên, nếu muốn chắc 
        chắn được vãng sanh, có lẽ nên tu theo đường lối 
        Thuần Tịnh. Nhưng đã nói sở thích và túc căn của mỗi 
        người đều sai biệt, không thể ép buộc được, thì mặc 
        dù có kiêm tu hạnh khác, hành giả Tịnh Độ cũng cần lưu 
        ý đến hai phần chánh và trợ cho phân minh. Mà phần chánh 
        phải luôn luôn lấn nhiều hơn phần trợ. Như thế đường 
        tu mới không mất mục tiêu và sự vãng sanh cũng không bị 
        chướng ngại. 
        Mục 
        B. Khái Luận Về Các Phương Pháp Niệm Phật 
        Tiết 29 Bốn Môn 
        Niệm Phật 
        Niệm Phật không 
        phải chuyên chỉ về miệng niệm, mà dùng tâm để tưởng 
        niệm, cũng là niệm Phật. Cho nên trong môn Niệm Phật ngoài 
        phương pháp Trì Danh, còn có ba pháp khác nhau nữa là: Thật 
        Tướng, Quán Tưởng và Quán Tượng. 
        1. Thật Tướng 
        Niệm Phật, tức là nhập vào đệ nhất nghĩa tâm, là 
        niệm tánh Phật bản lai của chính mình. Đây là quán pháp 
        thân thật tướng của Phật, kết quả sẽ chứng được Chân 
        Như Tam Muội. Phương pháp này vẫn thuộc về Thiền, nhưng 
        cảnh giới do tâm Thiền hiển lộ lại là Tịnh Độ, nên cũng 
        nhiếp về Tịnh Độ. Pháp này không gồm thâu bậc trung, 
        hạ căn, và nếu không phải là bậc thượng thượng căn, 
        tất không thể ngộ nhập. Vì thế trong tông Tịnh Độ ít 
        có người đề xướng, mà phần hoằng hóa lại thuộc về 
        các vị bên Thiền Tông. Nhưng theo thiển ý: khi còn đi trên 
        đoạn đường hành trì chưa đạt đến địa vị viên giác, 
        thì tất cả pháp môn đều thuộc về phương tiện, niệm 
        Phật cũng là phương tiện mà tham thiền cũng là phương 
        tiện. Theo ba kinh Tịnh Độ, đức Thích Tôn mở phương 
        tiện chỉ bày cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, khuyên chúng 
        hữu tình nên niệm Phật cầu sanh về thế giới ấy để 
        không còn bị luân hồi, mượn cảnh duyên thắng diệu 
        tiếp tục tu hành mau tiến lên Phật quả. Niệm Phật tinh 
        chuyên cũng tỏ ngộ như bên Thiền Tông, nhưng điểm chánh 
        yếu của môn Niệm Phật là cầu vãng sanh, còn tỏ ngộ 
        được bao nhiêu cũng thuộc về phần thứ yếu. Cho nên pháp 
        Thật tướng niệm Phật, luận về chỗ cứu cánh, vẫn 
        nhiếp thuộc Tịnh Độ. Nhưng nếu nói đến phương tiện vãng 
        sanh nó vẫn chưa chính thức thuộc về Tịnh Độ, như ý 
        nghĩa ba kinh Tịnh Độ mà đức Thích Tôn đã đề xướng. 
        Có lẽ do điểm này nên chư Tổ bên Tịnh Tông chỉ đề 
        cập để cho rộng thêm về nghĩa lý Tịnh Độ, mà không 
        rộng tuyên hóa để khuyên người tu chăng? 
        2. Quán Tưởng 
        Niệm Phật, là chiếu theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ, 
        để quán tưởng y báo chánh báo nơi cõi Cực Lạc. Trong 
        kinh này có dạy mười sáu phép quán, nếu quán hạnh được 
        thuần thục, thì lúc mở mắt hay nhắm mắt hành giả đều 
        thấy cảnh Cực Lạc hiện tiền tâm thần dạo chơi nơi cõi 
        tịnh, khi mạng chung quyết định sẽ vãng sanh. Công đức 
        của pháp này lớn lao không thể nghĩ bàn, nhưng vì cảnh quán 
        quá vi tế sâu mầu, nên ít người hành trì được thành 
        tựu. Bởi đại để trong ấy có năm điều khó. Điều 
        thứ nhứt, nếu căn độn tất khó thành tựu. Điều thứ 
        hai, nếu tâm thô tất khó thành tựu. Điều thứ ba, nếu không 
        biết khéo dùng phương tiện xoay chuyển trong khi tu, tất khó 
        thành tựu. Điều thứ tư, nếu ghi nhận ấn tượng không sâu, 
        tất khó thành tựu. Điều thứ năm, nếu tinh lực yếu kém, 
        tất khó thành tựu. Trong năm điều kiện này, ít có người 
        được đầy đủ, nên phép Quán tưởng xét lại cũng 
        thuộc về môn khó hành trì. 
        3. Quán Tượng 
        Niệm Phật, là phương thức đem một bức tượng 
        Phật A Di Đà để trước mặt, ghi nhận mọi nét của bức 
        tượng ấy, rồi quán tưởng cho đến khi dù không có tượng, 
        lúc mở mắt nhắm mắt đều thấy hình tượng Phật hiện 
        rõ nơi trước. Phương pháp này cũng khó, vì cần phải có 
        tinh lực mạnh, ký ức sâu, và trí phương tiện khéo. Đã có 
        người áp dụng cách thức này, nhưng vì không khéo dùng phương 
        tiện thay đổi, bị hư hỏa xông lên, mang chứng bịnh 
        nhức đầu khó trị. Nhưng xét lại dùng pháp Quán tượng 
        để vãng sanh, trong kinh không thấy nói. Đây chỉ là cách 
        thức phụ giúp cho sự trì danh hiệu Phật, để hành giả tâm 
        không tán loạn, dễ được chánh niệm mà thôi. Nếu người 
        tu, với lòng tinh thành, cũng có thể được cảm ứng, tiêu 
        tội nghiệp sanh phước huệ, từ nơi hình tượng giả mà 
        thấy được Phật tướng thật và được vãng sanh. 
        4. Trì Danh 
        Niệm Phật, là phương pháp niệm ra tiếng hay niệm 
        thầm bốn chữ hoặc sáu chữ hồng danh "Nam Mô A Di Đà 
        Phật." Trì bốn chữ "A Di Đà Phật" được điểm 
        lợi dễ nhiếp tâm; trì đủ sáu chữ được điểm lợi 
        dễ phát khởi sự kính thành cơ cảm. Phương pháp này trong 
        kinh Phật Thuyết A Di Đà, đức Thích Tôn đã đề xướng, 
        hiện đang được thông dụng nhứt. 
        * Xét qua bốn phương 
        pháp niệm Phật, pháp Thật Tướng và Quán Tượng trong ba 
        kinh Tịnh Độ không thấy nói, chỉ có Kinh Niệm Phật Tam 
        Muội, quyển Phổ Hiền Quán Hạnh Ký và một vài kinh luận 
        khác đề cập đến mà thôi. Nhưng cả hai cũng chỉ là phương 
        tiện thứ yếu, để nói rộng thêm về giáo nghĩa niệm 
        Phật, không phải đường lối chánh thức của môn Tịnh Độ 
        mà chư Tổ bên Liên Tông hằng tuyên dương. Pháp Thật Tướng 
        duy có tác dụng suy diễn sâu rộng về ý nghĩa niệm Phật, 
        lại quá cao thâm, không trùm khắp ba căn, đi lạc về bên 
        Thiền. Pháp Quán Tượng chỉ là cách thức phụ trợ, lại 
        cũng không dễ thật hành. Đối với người tu Tịnh Độ, 
        hai môn ấy không được thích nghi. Phương pháp Quán Tưởng 
        tuy do Phật tuyên dương, công đức vô lượng nhưng chỉ để 
        dành cho bậc thượng căn, người thời mạt pháp ít ai hành 
        trì được. Kết yếu, duy môn Trì Danh Niệm Phật đã gồm 
        khắp ba căn, lại đắc hiệu mau lẹ, ai cũng có thể thật 
        hành. Trì Danh nếu tinh thành sẽ có cảm cách, hiện tiền 
        thấy ngay chánh báo y báo cõi Cực Lạc, tỏ ngộ bản tâm, 
        đời nay dù chưa chứng thật tướng, sau khi vãng sanh cũng 
        quyết được chứng. Vì thế „n Quang đại sư, vị Tổ 
        thứ mười ba của Liên Tông, đã khen: 
        Chỉ duy trì danh mà 
        chứng thật tướng, 
        Không cần quán tưởng cũng thấy Tây Phương! 
        Cổ đức cũng phê 
        luận: "Môn Tịnh Độ là con đường tắt để chứng đạo 
        trong các pháp môn, mà pháp Trì Danh lại là con đường tắt 
        trong môn Tịnh Độ." Hiện nay phương pháp này là đường 
        lối thông hành nhứt trong môn Niệm Phật. 
        Tiết 30 Mười Phương 
        Thức Trì Danh 
        Như đã nói, môn Trì 
        Danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Nhưng Trì 
        Danh cũng được áp dụng với nhiều cách thức khác nhau tùy 
        theo căn tánh của mỗi người, mà bút giả xin gạn lọc 
        lại qua mấy phương pháp như sau: 
        1. Phản Văn Trì 
        Danh: - Phương pháp này, miệng vừa niệm, tai vừa nghe vào 
        trong, kiểm soát từng chữ từng câu cho rành rẽ rõ ràng 
        hết câu này đến câu khác. Nghe có hai cách, hoặc dùng tai 
        nghe, hoặc dùng tâm để nghe. Tuy nghe vào trong nhưng không 
        trụ nơi đâu, lần lần quên hết trong ngoài, cho đến quên 
        cả thân tâm cảnh giới, thời gian không gian, chỉ còn một 
        câu Phật hiệu. Cách thức phản văn, khiến cho hành giả 
        dễ gạn trừ vọng tưởng, mau được nhứt tâm. Kinh Lăng 
        Nghiêm nói: "Chân giáo thể phương này, thanh tịnh do 
        nghe tiếng. Muốn chứng vào Tam Muội, nên như thế tu hành"; 
        chính là ý trên đây. 
        2. Sổ Châu Trì Danh: 
        - Đây là cách thức miệng vừa niệm tay vừa lần chuỗi, 
        ban đầu ý niệm còn ràng buộc nơi tràng hạt, sau lần buông 
        bỏ đi đến cảnh nhứt tâm. Phương pháp sổ châu khiến 
        cho niệm lực mạnh mẽ, ví như người yếu chân đi núi, 
        nhờ nương cây gậy mà tiến bước lên cao mãi. Niệm cách 
        này lại cần phải ghi số mỗi thời hoặc mỗi ngày là bao 
        nhiêu câu. Ghi số có điểm lợi là bắt buộc người tu 
        phải giữ định số, trừ được bịnh biếng trễ; nhưng 
        cần chú ý đừng quá tham mau tham nhiều mà niệm không được 
        rành rẽ rõ ràng. Người xưa tuy niệm nhiều nhưng cũng ở 
        trong sự rành rõ, do nhờ hai điểm là: thuần thục và định 
        tâm. Ngẫu Ích đại sư vị Tổ thứ chín của Liên Tông, 
        từng khai thị: "Muốn đi đến cảnh giới Nhất tâm 
        bất loạn, không có cách chi kỳ diệu khác. Trước tiên hành 
        giả cần phải lần chuỗi ghi số, niệm niệm rành rẽ rõ 
        ràng, mỗi ngày hoặc ba muôn, năm muôn, cho đến mười muôn 
        câu, giữ khóa trình quyết định chẳng thiếu, thề một đời 
        không thay đổi. Niệm như thế lâu ngày lần lần thuần 
        thục, không niệm vẫn tự niệm, chừng ấy ghi số hay không 
        ghi số cũng được. Và niệm như thế kèm thêm tín nguyện 
        tha thiết, mà không được vãng sanh, thì chư Phật ba đời 
        đều mang lỗi nói dối. Khi đã vãng sanh, tất cả pháp môn 
        đều được hiện tiền. Nếu ban sơ vì cầu cao tự ỷ, 
        muốn tỏ ra không trước tướng, muốn học theo lối viên 
        dung tự tại, đó là tín nguyện chẳng bền sâu, hành trì 
        không hết sức; dù có giảng suốt mười hai phần giáo, 
        giải ngộ một ngàn bảy trăm công án, cũng là việc ở bên 
        bờ sanh tử mà thôi." 
        Lời khuyên dạy này 
        thật là cây kim chỉ nam cho người niệm Phật. 
        3. Tùy Tức Trì Danh: 
        - Niệm Phật thầm hay niệm se sẽ tiếng, nương theo hơi 
        thở, mỗi hơi thở ra vào đều một câu Phật hiệu; đó là 
        ý nghĩa của Tùy tức Trì Danh. Bởi mạng sống con người 
        liên quan với hơi thở, nếu biết nương theo đây mà niệm, 
        thì khi sống hằng không rời Phật, lúc lâm chung tất hơi 
        vừa tắt, liền về cảnh giới Liên Bang. Nhưng nên chú ý là 
        phương thức này khi tập đã thuần thục, cần niệm ra 
        tiếng, chớ không nên chỉ niệm thầm. Như thế niệm lực 
        mới mạnh, ý nguyện cầu sanh dễ được phát khởi. Bằng 
        không, ý niệm vãng sanh sẽ khó tha thiết và sợ e lại 
        lạc vào công dụng Ngũ Đình Tâm Quán của Tiểu Thừa. 
        4. Truy Đảnh Trì 
        Danh: - Khi dùng cách này, nên niệm nho nhỏ tiếng, mỗi chữ 
        mỗi câu đều kế tiếp nhau liên tỏa chặt chẽ, thành hình 
        thế chữ sau đuổi theo chữ trước, câu nọ gối đầu câu 
        kia nên gọi là Truy Đảnh. Áp dụng phương thức như thế, 
        nhờ sự kín đáo bền chặt, trung gian không xen hở, nên 
        tạp niệm không có chỗ len vào. Dùng đến pháp này, thì tình 
        ý khẩn trương, tâm miệng dũng tiến, oai lực của chánh 
        niệm bao trùm tất cả, khiến cho nghiệp tưởng vô minh 
        tạm thời chìm lắng, ánh mầu Tam Muội bộc phát chiếu xa. 
        Từ xưa người tu tịnh nghiệp trong lúc tình tưởng mênh 
        mang rối loạn, thường dùng cách thức này. 
        5. Giác Chiếu Trì 
        Danh: - Niệm theo Giác Chiếu là một mặt niệm Phật, một 
        mặt hồi quang soi trở lại chân tánh của mình. Do niệm như 
        thế, hành giả sẽ đi vào cảnh giới hư linh siêu tuyệt, 
        chỉ còn cảm giác thân tâm của mình cùng chân tâm Phật ngưng 
        đọng thành một khối, sáng tròn rỡ rỡ, đầy rộng mênh 
        mang. Khi đó phòng nhà vật dùng thảy đều ẩn mất, cho đến 
        thân giả tứ đại của ta cũng không biết rơi lạc vào 
        chỗ nào. Niệm theo đây thì báo thân chưa mãn đã chứng 
        tịch quang, Phật hiệu vừa tuyên liền vào Tam Muội. Đem thân 
        phàm phu mà dự vào cảnh thánh, thật không chi mau lẹ hơn 
        phương pháp trên đây. Song chỉ tiếc, nếu chẳng phải 
        bậc thượng thượng căn tất không thể lãnh hội thật hành, 
        nên phần độ cơ của cách thức này vẫn còn sơ hẹp. 
        6. Lễ Bái Trì Danh: 
        - Phương thức này là vừa lạy vừa niệm Phật. Hoặc 
        niệm một câu lạy một lạy, hoặc một mặt niệm một 
        mặt lạy, không luận câu Phật nhiều hay ít. Cách lễ 
        Phật lại phải hết sức nhẹ nhàng chậm rãi, lễ niệm 
        song hành, thân miệng hợp nhứt. Nếu thêm vào đó ý thành 
        khẩn tha thiết, thì thành ra ba nghiệp đều tập trung, ngoài 
        câu Phật hiệu không còn một tơ hào vọng niệm. Phương pháp 
        này có sở năng phá trừ hôn trầm, công đức và hiệu 
        lực rất to lớn, vì hành giả vận dụng cả ba nghiệp để 
        trì niệm. Cư sĩ Vương Nhật Hựu khi xưa từng áp dụng cách 
        trên đây, mỗi ngày đêm ông lễ niệm trung bình là một ngàn 
        lạy. Nhưng dường như đây là lối niệm đặc biệt của 
        hạng người tâm lực tinh tấn, thiếu khả năng ấy tất khó 
        vững bền, bởi lạy lâu thân thể mỏi nhọc dễ sanh chán 
        nản. Cho nên thông thường, cách thức này chỉ hợp kiêm 
        dụng, khó bề chuyên dụng. 
        7. Ký Thập Trì Danh: 
        - Đây là cách niệm ký số, cứ lấy mỗi mười câu làm 
        một đơn vị. Người hơi ngắn có thể niệm thành hai lượt, 
        mỗi đoạn năm câu; hoặc chia ra ba lượt, hai đoạn ba câu 
        một đoạn bốn câu. Sau khi niệm đủ mười câu, đều 
        lần qua một hạt chuỗi. Niệm theo lối này, tâm đã niệm 
        Phật, lại còn phải ghi nhớ số. Như thế dù không chuyên 
        cũng bắt buộc phải chuyên, nếu không chuyên thì số mục 
        liền sai lạc. Cho nên pháp này đại để là một phương 
        tiện cưỡng bức cho hành giả chuyên tâm, rất có công 
        hiệu với những kẻ nhiều tạp niệm. „n Quang đại sư thường 
        khuyên các liên hữu áp dụng cách thức trên đây. 
        8. Liên Hoa Trì Danh: 
        - Lấy bốn sắc hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, vừa niệm 
        vừa tưởng, luân lưu chuyển tiếp, là danh nghĩa của lối 
        niệm trên đây. Hành giả khi niệm câu Phật hiệu thứ 
        nhứt, tưởng trước mặt mình hiện ra một đóa sen xanh to 
        lớn phóng ánh sáng xanh. Câu thứ hai, tưởng hoa sen vàng phóng 
        ánh sáng vàng. Cho đến câu thứ ba thứ tư, là hoa sen đỏ, 
        trắng, màu nào phóng ánh sáng ấy. Kế tiếp tục tưởng 
        lại hoa sen màu xanh, cứ như thế luân lưu mãi. Đồng thời 
        khi hoa hiện, lại tưởng có hương sen thanh nhẹ phưởng 
        phất xung quanh. Bởi có nhiều hành giả trong Liên Hoa Tông dùng 
        mọi pháp thức vẫn khó ngăn được tạp niệm, nên cổ nhơn 
        mới phát minh ra lối niệm này. Đây là cách dùng hình sắc 
        thay đổi để buộc tâm tưởng cho chuyên nhất, và hình 
        sắc này lại lấy tướng hoa sen nơi ao thất bảo ở cõi 
        Cực Lạc "Một câu Di Đà, một đóa bảo liên", 
        bởi hoa sen Tịnh Độ hiện thành không rời hoa sen công đức 
        của tâm niệm Phật. Và khi mạng chung, thần thức của hành 
        giả sẽ nương hoa sen báu ấy mà sanh về Cực Lạc. Chư liên 
        hữu nếu thấy có duyên với phương thức trên đây, nên áp 
        dụng để mau đi vào Niệm Phật Diệu Liên Hoa Tam Muội. 
        9. Quang Trung Trì 
        Danh: - Vì có hành giả khi nhắm mắt niệm Phật, thường 
        bất chợt thấy những hình tướng ô uế, hoặc màu sắc đen 
        tối xao động nổi lên, nên cổ đức mới truyền dạy cho 
        cách thức này. Đây phương pháp vừa niệm Phật, vừa tưởng 
        mình đang ngồi giữa vùng ánh sáng trong suốt to rộng. Khi tâm 
        đã an định trong vùng quang minh ấy, hành giả cảm thấy 
        thần trí sáng suốt mát mẻ, không những tạp tưởng trừ 
        dứt, mà các tướng uế ác cũng tiêu tan. Rồi chánh niệm 
        do đó được bền lâu, và Tam Muội cũng do đó lần lần thành 
        tựu. Đây tuy là phương tiện đặc biệt chuyên trừ tướng 
        uế ác nhưng dù không có nghiệp bịnh ấy, nếu muốn tinh 
        thần thơ thới để đi sâu vào Niệm Phật Tam Muội, hành 
        giả cũng nên áp dụng cách thức này. 
        10. Quán Phật Trì 
        Danh: - Pháp quán tưởng trong Quán Kinh rất trọng yếu, công 
        đức cực to rộng, nhưng chưa phải là phương tiện phổ thông 
        cho chúng sanh thời mạt pháp hành trì. Nhưng vì không muốn 
        bỏ công đức đặc biệt của quán pháp, nên cổ nhơn đã 
        thể dụng trong mười sáu phép quán, lựa cách thức dễ tu 
        tập nhứt, lấy trì danh làm chánh, quán Phật làm phụ, 
        gọi là Quán Phật Trì Danh. Hành giả mỗi ngày sau khi niệm 
        Phật, lại để riêng một thời tịnh tâm quán tưởng sắc 
        tướng quanh minh của Phật A Di Đà. Cách quán Phật này rút 
        lựa phép quán thứ mười ba trong Quán Kinh, tưởng đức A 
        Di Đà thân cao một trượng sáu, sắc vàng ròng, đứng bên 
        bờ ao thất bảo. Nếu chưa quán tưởng được ao thất 
        bảo, hành giả có thể tưởng đức Phật đứng trong vùng 
        ánh sáng giữa hư không trước mắt mình, tay trái đưa ngang 
        ngực bắt ấn kiết tường, tay mặt buông sè xuống theo 
        thế tiếp dẫn. Muốn quán Phật cho thành tựu, trước tiên 
        nên quán đại khái toàn thân, kế chỉ chuyên tâm quán tướng 
        lông trắng giữa đôi mày. Tướng bạch hào này rỗng không 
        trong suốt như bạch ngọc, có tám cạnh, xoay về bên hữu 
        cao thành năm vòng. Bạch hào là tướng căn bản trong ba mươi 
        hai tướng, khi tướng này quán thành, do sự cơ cảm, các tướng 
        kia đều lần lượt hiện rõ. Tuy nhiên, muốn được phần 
        chắc chắn hành giả cũng nên duyệt xem trong kinh, để ghi 
        nhớ rõ ba mươi hai tướng tốt của Phật trước khi dụng 
        công. Phương pháp trên đây sở dĩ để Trì Danh vào phần 
        chánh, vì nếu quán tưởng không thành vẫn còn phần Trì 
        Danh để bảo đảm cho sự vãng sanh. Nhưng thật ra, Trì Danh 
        cũng giúp quán tưởng, quán tưởng lại phụ dực cho Trì 
        Danh, hai phần này hổ tương đưa hành giả đến chỗ song 
        song thành tựu. Pháp thức này tuy có phần khó hơn các lối 
        trên, song nếu thành tựu thì công đức to rộng vô biên, nên 
        xin đưa ra sau cùng để làm duyên khuyến tấn. 
        * Như trên đã lược 
        trình mười lối Trì Danh, cũng là mười phương pháp cốt 
        yếu để đối trị tâm bịnh của người niệm Phật. Trong 
        các sách Tịnh Độ, có đưa ra đến mấy mươi cách như: 
        Cao Thanh Trì Danh, Đê Thanh Trì Danh, Mang Trung Trì Danh, Nhàn 
        Trung Trì Danh, v.v..., nhưng đó chỉ là những lối niệm cao 
        tiếng, thấp tiếng, khi gấp, khi huởn, chưa có thể gọi là 
        một phương pháp niệm Phật. Vì thế, bút giả đã chọn 
        lọc lại rút ra mười cách thức căn bản, khả dĩ gọi là 
        "phương pháp", để đối trị mối chướng hôn 
        trầm tán loạn, và có thể thông dụng cho một phần lớn căn 
        tánh hiện thời. Trong mười pháp thức trên, các liên hữu 
        có thể thí nghiệm qua, và sau cùng áp dụng một lối niệm 
        nào mà mình thích hợp nhứt... 
        Mục 
        C. Đi Vào Đường Lối Thật Hành 
        Tiết 31 Bốn Môn 
        Tam Muội 
        Người niệm Phật 
        khi đi đến chỗ tuyệt đỉnh tận cùng duy có một định 
        thể là Niệm Phật Tam Muội. Đây là cảnh hư linh sáng 
        lặng, vọng giác tiêu tan, hành giả duy còn trụ tâm nơi tướng 
        hảo hoặc hồng danh của Phật. Nhưng tuy nói trụ mà thật 
        ra vô trụ, vì âm thanh sắc tướng đương thể như huyễn, 
        chính đó là không. Tướng Tam Muội ấy như thế nào? - Theo 
        Liễu Dư đại sư thì khi hành giả chuyên nhất niệm Phật, 
        quên hết thân tâm ngoại cảnh, tuyệt cả thời gian không 
        gian, đến lúc sức cực công thuần, ngay nơi đương niệm 
        trần vọng bỗng thoạt tiêu tan, tâm thể bừng sáng, chứng 
        vào cảnh giới vô niệm vô bất niệm. Cảnh ấy như hư không 
        mây tan, trời xanh một vẻ, niệm mà không niệm, không 
        niệm mà niệm, không thấy biết mới là sự thấy biết chân 
        thật, có thấy biết tức lạc theo trần. Đến đây thì nước 
        bạc non xanh đều là chân đế, suối reo chim hót toàn diễn 
        diệu thừa, tâm quang bao hàm muôn tượng mà không trụ một 
        pháp, tịch mà chiếu, chiếu mà tịch, đều còn đều mất, 
        tuyệt đãi viên dung... 
        Cảnh giới Tam Muội 
        đại để là như thế, khó tả nên lời, duy chứng mới 
        thể nghiệm được. Niệm Phật Tam Muội vẫn là một thể, 
        nhưng để đi vào định cảnh ấy, người xưa đã căn cứ 
        theo kinh, y nơi ý nghĩa và oai nghi hành trì mà chia thành 
        bốn môn như sau: 
        1. Bát Chu Tam Muội: 
        - Bát Chu có nghĩa là Phật Lập. Hành trì môn Tam Muội này, 
        có ba oai lực phù trợ: oai lực của Phật, oai lực của pháp 
        Tam Muội, và oai lực công đức của người tu. Khi thật hành 
        Bát Chu Tam Muội, phải lấy chín mươi ngày làm một định 
        kỳ. Trong thời gian ấy, ngày đêm hành giả chỉ đứng 
        hoặc đi, tưởng đức Phật A Di Đà hiện thân đứng trên 
        đảnh mình đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp; 
        hay miệng thường niệm danh hiệu Phật, tâm thường tưởng 
        Phật không xen hở. Khi công thành, trong Tam Muội hành giả 
        thấy đức A Di Đà và chư Phật mười phương hiện ra đứng 
        trước mình khuyến tấn khen ngợi. 
        Bát Chu cũng gọi là 
        Thường Hành Đạo. Người tu khi đi, mỗi bước mỗi tiếng 
        đều không rời danh hiệu Phật, ba nghiệp hành trì không gián 
        đoạn như dòng nước chảy. Pháp này công đức rất cao, 
        song chỉ bậc thượng căn mới kham tu trì, hạng người 
        trung hạ và tinh lực yếu kém không thể thật hành nổi. 
        2. Nhất Hạnh Tam 
        Muội: - Nhất hạnh có nghĩa là chuyên nhất về một hạnh. 
        Khi tu môn Tam Muội này, hành giả thường ngồi và chỉ chuyên 
        nhất quán tưởng, hoặc niệm danh hiệu đức A Di Đà. Lại 
        tuy chỉ tu một hạnh mà được dung thông tròn đủ tất 
        cả hạnh, nên Nhất Hạnh cũng gọi là Viên Hạnh. Từ pháp 
        Tam Muội này cho đến hai môn sau, ba hạng căn cơ đều có 
        thể tu tập. 
        3. Pháp Hoa Tam Muội: 
        - Đây là một môn Tam Muội trong mười sáu Tam Muội như 
        Kinh Pháp Hoa phẩm Diệu Âm Bồ Tát đã trần thuật. Theo ý 
        chỉ của Thiên Thai Tông, thì ba đế viên dung là Pháp, 
        quyền thật không hai là Hoa. Ví như hoa sen khi cánh hoa 
        (quyền) chưa nở, mà gương sen (thật) đã thành, gương 
        với cánh đồng thời; nơi một đóa hoa mà gồm đủ ý nghĩa 
        quyền và thật vậy. 
        Nói theo tông Tịnh 
        Độ thì tức niệm là Phật, tức sắc là tâm; một câu 
        niệm Phật gồm cả ba đế, nhiếp cả thật quyền. Nếu 
        tỏ ngộ lý này mà niệm Phật, gọi là tu hạnh Pháp Hoa Tam 
        Muội. Khi tu môn Tam Muội này, hành giả dùng hai oai nghi 
        ngồi và đi mà thay đổi để quán Phật hoặc niệm Phật, 
        kỳ cho đến khi nào chứng nhập vào chánh định. Pháp nghi 
        tu tập này lại có phần dễ hơn Nhất Hạnh Tam Muội ở trên. 
        4. Tùy Tự Ý Tam 
        Muội: - Pháp thức này có nghĩa là tùy tâm hoặc đi đứng, 
        hoặc nằm ngồi, đều nhiếp niệm không rời danh hiệu đức 
        A Di Đà để tu chứng vào Tam Muội. Hành nghi đây lại còn 
        có tên là "Lưu Thủy Niệm Phật". Ví như ngọn nước 
        nơi dòng sông cứ liên tục chảy mãi, dù gặp cây đá ngăn 
        cản nó chỉ dội lại rồi cũng tìm lối chảy đi. Thông thường 
        người tu theo môn này, cứ mỗi buổi khuya lễ Phật A Di Đà 
        bốn mươi tám lạy, Quán Âm, Thế Chí và Hải Chúng mỗi 
        danh hiệu đều bảy lạy, kế quỳ xuống sám hối. Rồi 
        từ đó cho đến tối, lúc đi đứng nằm ngồi đều niệm 
        Phật, hoặc lần chuỗi ghi số, hoặc niệm suông, đến trước 
        khi đi ngủ, lại lễ Phật một lần nữa và đem công đức 
        tu trong ngày, mà phát nguyện hồi hướng vãng sanh. Trong khi 
        hành trì nếu có tiếp xúc với các duyên, khi qua rồi vẫn 
        trở lại niệm Phật. Pháp tu này tuy tùy tiện dễ dàng, nhưng 
        phải khéo tránh bớt duyên và có tâm bền bĩ mới mong thành 
        tựu. 
        Tiết 32 Ba Phần Hành 
        Trì 
        Về pháp nghi Tịnh 
        Độ, nếu kể cho đủ phải có năm phần hay năm môn, cũng 
        gọi là Ngũ niệm môn. Đó là: Lễ Bái, Tán Thán, Quản 
        Niệm, Phát Nguyện, và Hồi Hướng. Để cho giản tiện, xin 
        ước kết lại thành ba phần là: Tán Lễ Môn, Trì Niệm Môn, 
        và Phát Nguyện Hồi Hướng Môn. Môn Trì Niệm thì hành 
        giả có thể lựa trong mười pháp Trì Danh đã kể, tùy 
        chỗ thích hợp mà tu. Nếu có trì chú hoặc tụng kinh, nên 
        trì tụng trước khi niệm Phật. Về môn Phát Nguyện Hồi Hướng, 
        các liên hữu cũng tùy ý lựa một trong mấy bài nguyện văn 
        ở trước. Riêng về môn Tán Lễ, các sách Tịnh Độ có 
        đưa ra những nghi thức lạy ít hoặc nhiều, tùy theo sở thích 
        của mỗi căn tánh. 
        Theo thứ tự của 
        Tịnh Độ pháp nghi, khởi đầu là môn Tán Lễ. Trước khi 
        lễ bái, hành giả nên xướng đọc lời văn khen ngợi công 
        đức của Phật, xong mới đến phần lạy. Đây gọi là Tán 
        Lễ Môn. Kế đó tiếp tục trì chú hoặc tụng kinh rồi 
        niệm Phật, hoặc chỉ chuyên niệm Phật. Giai đoạn này 
        gọi là Trì Niệm Môn. Và sau rốt khi niệm Phật xong, hành 
        giả quỳ xuống đọc bài nguyện văn hồi hướng, kế lễ 
        ba lạy lui ra. Phần này gọi là Phát Nguyện Hồi Hướng Môn. 
        Phần lễ bái cũng có 
        thể tùy tiện đổi thay đôi chút. Có vị trước tiên lạy 
        nhiều một lần, sau cùng chỉ lễ ba lạy Tam Tự Quy Y hoặc 
        Tây Phương Tam Thánh. Có vị ngại trước tiên lạy nhiều 
        thân thể nhọc mệt, niệm Phật không được thanh tịnh, nên 
        chỉ lễ ba lạy thông thường, đợi đến sau khi niệm 
        Phật xong mới lạy nhiều cầu gia bị, rồi quì xuống đọc 
        nguyên văn, sau rốt lễ ba lạy kết thúc. 
        Tịnh Độ pháp nghi 
        có ba bậc: thượng, trung, hạ để thích hợp với các căn 
        cơ. Nơi đây chỉ xin nêu ra môn Tán Lễ của ba bậc, còn 
        hai môn sau hành giả tùy phần mà tăng thêm hoặc tiết 
        giảm theo ba bậc ấy. 
        * Thượng Pháp Nghi: 
        - Nơi môn Tán Lễ về bậc thượng, trước tiên hành giả tùy 
        ý thích tuyên đọc một bài kệ khen ngợi Phật rồi mới 
        đảnh lễ. Kệ văn tán thán có nhiều, xin đưa ra đây một 
        bài để suy lệ, và kế sau đó là phần hành lễ: 
        Quang, thọ khó suy lường 
        Sáng lặng khắp mười phương! 
        Thế Tôn Vô Lượng Quang 
        Cha lành cõi Liên Bang. 
        Thần lực chẳng tư nghì 
        Sống lâu A tăng kỳ, 
        A Di Đà Như Lai 
        Tiến dẫn lên liên đài. 
        Cực Lạc cõi thuần tịnh 
        Công đức lạ trang nghiêm 
        Nơi tất cả quần sanh 
        Vượt lên ngôi Bất Thối 
        Mười phương hằng sa Phật 
        Đều ngợi khen Vô Lượng 
        Cho nên nay chúng con 
        Nguyện sanh về An Dưỡng. 
        Nhứt tâm đảnh 
        lễ: (Bốn chữ này thông dụng cho mỗi đầu câu, mỗi câu 
        một lạy). 
        
          1. Tận hư không, 
          biến pháp giới, thập phương tam thế, thường trú Tam 
          Bảo. 
          2. Ta Bà Giáo Chủ, 
          đại từ bi nguyện, thị hóa ngũ trược, Bổn Sư Thích Ca 
          Mâu Ni Phật. 
          3. Đông Phương 
          Thế Giới A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di 
          Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, như thị đẳng 
          hằng hà sa số chư Phật. 
          4. Nam Phương Thế 
          Giới Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại 
          Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn 
          Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật. 
          5. Tây Phương Thế 
          Giới Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng 
          Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng 
          Phật, Tịnh Quang Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư 
          Phật. 
          6. Bắc Phương 
          Thế Giới Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở 
          Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật, như thị đẳng 
          hằng hà sa số chư Phật. 
          7. Hạ Phương Thế 
          Giới Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt 
          Mạ Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, như thị đẳng 
          hằng hà sa số chư Phật. 
          8. Thượng Phương 
          Thế Giới Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng 
          Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc 
          Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Ta La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa 
          Đức Phật, Kiến Nhứt Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn 
          Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật. 
          9. Cực Lạc Thế 
          Giới Vô Lượng Quang, Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang, Vô Đối 
          Quang A Di Đà Phật. 
          10. Cực Lạc Thế 
          Giới Diệm Vương Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ Quang, Trí 
          Huệ Quang A Di Đà Phật. 
          11. Cực Lạc Thế 
          Giới Nan Tư Quang, Bất Đoạn Quang, Vô Xứng Quang, Siêu 
          Nhật Nguyệt Quang A Di Đà Phật. 
          12. Cực Lạc Thế 
          Giới, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, tướng hảo nan 
          luân, đại từ đại bi A Di Đà Phật. 
          13. Cực Lạc Thế 
          Giới, thọ mạng vô biên, quang minh vô lượng, phổ ứng 
          thập phương, lâm chung tiếp dẫn A Di Đà Phật. 
          14. Cực Lạc Thế 
          Giới, chánh báo Phật Bồ Tát đẳng sở thuyết diệu pháp, 
          cập y báo thủy điểu thọ hoa đẳng sở diễn pháp âm, 
          nhứt thiết thanh tịnh nghĩa kinh. 
          15. Phật Thuyết A 
          Di Đà Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh, 
          Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhứt Thiết Chư 
          Phật Sở Hộ Niệm Kinh, cập thập phương tam thế nhứt 
          thiết tôn pháp. 
          16. Cực Lạc Thế 
          Giới, diệu tướng trang nghiêm, đồng Phật tiếp dẫn, Quán 
          Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát. 
          17. Cực Lạc Thế 
          Giới, Mạn Thù Thất Lỵ Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Di 
          Lặc Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, chư Nhất Sanh 
          Bổ Xứ Bồ Tát Ma Ha Tát. 
          18. Cực Lạc Thế 
          Giới, A Bệ Bạt Trí, đồng Phật thọ lượng, chư Thanh 
          Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. 
         
        Trên đây tất cả 
        gồm mười tám lạy, tạm gọi là thượng pháp nghi về Tán 
        Lễ Môn. Thật ra, đó chỉ là giản ước tùy căn cơ hiện 
        thời, môn Tán Lễ về bậc thượng không phải chỉ có như 
        thế. Theo cách lễ bậc thượng, có vị xưng lễ đức A Di 
        Đà 48 lạy, Quán Âm Thế Chí, Thanh Tịnh đại hải chúng, 
        đều 7 lạy. Có vị lạy xưng lễ đức A Di Đà 108 lạy, ba 
        danh hiệu sau đều 21 lạy. 
        * Trung Pháp Nghi: - Môn 
        Tán Lễ bậc trung của Tịnh Tông vừa chừng, rất thích 
        hợp với sức khỏe và khả năng của phần đông. Cách 
        thức xưng lễ này, mọi người đều có thể hành trì, xin 
        diễn dịch ra như sau: 
        Từ bi thệ độ 
        khắp quần sanh 
        Hỷ xả cứu an chúng hữu tình 
        Tướng tốt trang nghiêm thân rực rỡ 
        Nay con đảnh lễ chí tâm thành. 
        Chí tâm đảnh lễ: 
        (câu này thông cả 12 câu dưới đều xướng ở đầu câu, 
        mỗi câu một lạy). 
        
          1. Hoằng Dương 
          Tịnh Lạc Độ, Thích Ca Văn Như Lai, ngàn trăm ức hóa thân, 
          khắp pháp giới chư Phật. 
          2. Thường Tịch 
          Quang Tịnh Độ A Di Đà Như Lai, pháp thân mầu thanh tịnh, 
          khắp pháp giới chư Phật. 
          3. Thật Báo Trang 
          Nghiêm Độ, A Di Đà Như Lai, thân tướng hải vi trần, 
          khắp pháp giới chư Phật. 
          4. Phương Tiện Thánh 
          Cư Độ, A Di Đà Như Lai, thân trang nghiêm giải thoát, 
          khắp pháp giới chư Phật. 
          5. Cõi Cực Lạc Phương 
          Tây, A Di Đà Như Lai, thân căn giới Đại Thừa, khắp pháp 
          giới chư Phật. 
          6. Cõi Cực Lạc Phương 
          Tây, A Di Đà Như Lai, thân hóa đến mười phương, khắp 
          pháp giới chư Phật. 
          7. Cõi Cực Lạc Phương 
          Tây, giáo hạnh lý ba kinh, cực y chánh tuyên dương, khắp 
          pháp giới tôn pháp. 
          8. Cõi Cực Lạc Phương 
          Tây, Quán Thế Âm Bồ Tát, thân tử kim muôn ức, khắp pháp 
          giới Bồ Tát. 
          9. Cõi Cực Lạc Phương 
          Tây, Đại Thế Chí Bồ Tát, thân trí sáng vô biên, khắp 
          pháp giới Bồ Tát. 
          10. Cõi Cực Lạc 
          Phương Tây, Văn Thù Đại Bồ Tát, thân thị hiện trí 
          mầu, khắp pháp giới Bồ Tát. 
          11. Cõi Cực Lạc 
          Phương Tây, Phổ Hiền Đại Bồ Tát, thân hạnh nguyện sát 
          trần, khắp pháp giới Bồ Tát. 
          12. Cõi Cực Lạc 
          Phương Tây, Thanh Tịnh đại hải chúng, thân phước trí 
          trang nghiêm, khắp pháp giới thánh chúng. 
         
        * Hạ Pháp Nghi: - Phép 
        Tán Lễ bậc hạ, chỉ lễ A Di Đà ba lạy, Quán Âm, Thế Chí, 
        Thanh Tịnh hải chúng, mỗi hồng danh đều một lạy. Đây là 
        nghi thức để cho những vị sức yếu và người bận 
        nhiều công việc. Ngoài ra có vị căn tánh tối không thể 
        ghi nhớ nhiều, chỉ thành tâm lễ ba lạy lúc khởi đầu và 
        ba lạy trước khi lui ra cũng được. Về môn phát nguyện, 
        những người này chỉ đọc câu nguyện vắn tắt gồm ngày, 
        tháng, năm, như chương trước đã nói. 
        Tiết 33 Cách Đối 
        Trị Hôn Trầm Tán Loạn 
        Người tu có lúc tâm 
        tư lạc vào trạng thái mê mờ, nặng nề muốn ngủ; đó là 
        vọng chướng hôn trầm. Hoặc có lúc miệng tuy niệm Phật, 
        song tâm lại vẩn vơ tưởng chuyện đâu đâu; đó là vọng 
        duyên tán loạn. Hôn trầm và tán loạn hai chướng duyên này 
        rất nguy hại, vì nó phá hoại người tu, khiến cho không 
        thể vào chánh định. 
        Nhiều vị trong lúc 
        đang hành trì, vọng tưởng thoạt nhiên chìm lặng, câu 
        niệm Phật vẫn nghe đều đều, tâm tư êm dịu quên cả nóng 
        bức, hoặc sự cắn đốt của muỗi mòng. Trạng thái này 
        thường thường kéo dài từ nửa giờ đến một giờ đồng 
        hồ, có khi ra mồ hôi ướt cả áo mà không hay; đến lúc 
        chợt giác tỉnh mới cảm biết trong người nóng bức khó 
        chịu. Hành giả thấy thế đừng vội mừng cho rằng tâm mình 
        được an định, công phu đã có đôi phần thành tích. 
        Thật ra đó chỉ là trạng thái hôn trầm thuộc phần vi 
        tế nhẹ nhàng. Cổ nhơn đã bảo: "Nhè nhẹ hôn trầm 
        khôn phát giác. Trọn ngày hạng quỉ mãi sinh nhai!" Trong 
        trường hợp này hành giả phải đề khởi tinh thần, dụng 
        công chặt chẻ, vừa niệm vừa soi vào bên trong mới phá 
        trị nó được. Theo chỗ kinh nghiệm, đại khái khi hôn 
        trầm sắp kéo đến, tất trước tiên có vọng niệm tán 
        loạn nổi lên. Cũng có lúc hôn trầm và vọng tưởng đồng 
        thời sanh khởi. Nhưng đây là hiện tượng thô, rất dễ phát 
        giác. Đến khi hôn trầm vi tế sắp hiện, trước tiên một 
        loại tạp tưởng vi tế nổi sanh, hành giả cảm biết có 
        một điểm mê mờ từ sau ót kéo lên đỉnh đầu, kế 
        xuống đôi mắt và sau rốt vào tâm tạng. Hôn trầm đi đến 
        đâu tất nơi đó bị ảnh hưởng, như đến đầu thì hơi 
        gục xuống, đến mắt, đôi mắt nhắm lại; đến tâm 
        tạng, tâm liền mê mờ. Về loại hôn trầm nhẹ, phải có 
        trí tinh tế mới nhận xét được. 
        * Vọng tưởng cũng 
        có hai phần: thô và tế. Vọng tưởng thô ai cũng biết, 
        bởi hành tưởng nó rất rõ ràng. Người xưa bảo: 
        "Mới tu sợ vọng tưởng, tu lâu sợ hôn trầm." 
        Lời này duy đúng một phần, không được cứu cánh lắm, vì 
        đó chỉ nói về phần tán loạn thuộc vọng tưởng thô. Đến 
        như về phần vọng tưởng vi tế, người tu già dặn cũng 
        phải e ngại. Bởi khi niệm Phật dụng công chặt chẻ kín 
        đáo, tạp tưởng thô phù cố nhiên phải lặng chìm, song 
        rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng 
        vi tế. Ví như một ao nước đục, khi bọt nổi lên mặt ao 
        ta mới nhận thấy. Còn phần khí thể nhỏ nhẹ từ dưới 
        đáy ao được cổ động lên, hoặc sôi tim nhỏ trên mặt nước, 
        hoặc đến nửa chừng rồi không lên được, muốn thấy rõ 
        nó, cần phải có một ao nước thật trong. Người niệm 
        Phật lâu, đến trình độ nước tâm trong lặng, mới thấy 
        biết được vọng tưởng vi tế. Bạch Thánh pháp sư, một 
        buổi sáng từ nơi giường bước lại ghế ngồi, trong 
        khoảng chừng ba giây đồng hồ, đã phát giác trong tâm mình 
        nổi lên đến vài mươi vọng niệm sai biệt. Chừng ấy Ngài 
        mới chứng minh được lời nói trong kinh Phật: "Một 
        niệm có chín mươi sát na, một sát na có chín trăm sanh 
        diệt." Đây là vọng tưởng thuộc loại vi tế. 
        * Nhân tiện xin 
        nhắc lại một câu chuyện về vọng tưởng vi tế, cho các 
        bạn đồng tu thêm phần nhận thức: Quang Huệ và Giới 
        Diễn là hai vị thiền sư đều ngộ đạo. Một hôm trong 
        khi đồng ngồi thiền, nơi tiềm thức của ngài Giới Diễn 
        thoạt nổi lên một niệm sắc ái, Ngài liền diệt trừ; 
        song bên kia Quang Huệ thiền sư đã hay biết. Sau khi xuất định, 
        ngài Quang Huệ làm bài kệ có ý trêu cợt ngài Giới Diễn. 
        Giới Diễn thiền sư buồn thẹn, liền thâu thần nhập 
        diệt. Ngài Quang Huệ hối hận, gọi đệ tử đến phó chúc 
        rằng: "Bạn ta trong khi thiền định có một niệm sắc 
        ái, sau tất lụy về sắc; vì phiền ta mà thị tịch, sau 
        sẽ phá hoại Tăng Bảo. Lỗi ấy một phần do ở nơi ta, 
        nếu ta không theo hóa độ, tất sẽ mang lấy hậu 
        quả." Dặn dò xong, Ngài cũng viên tịch theo luôn. Sau 
        Quang Huệ chuyển thân làm thiền sư Phật „n; Giới Diễn 
        chuyển kiếp làm Tô Đông Pha. Đông Pha do kiếp trước có 
        tu nên làm quan, thông minh trí huệ mà cũng đa tài đa tình. 
        Ông có đến bảy người thiếp, và thường đem sự thông 
        minh bác lảm của mình mà vấn nạn các vị thiền sư. Về 
        sau bị ngài Phật „n chiết phục, ông mới quay lại đường 
        lối tu Phật. Cho nên vọng tưởng vi tế, người tu lâu cũng 
        phải e ngại là thế. Tiên đức có câu: 
        Công phu không thiếu 
        cũng không dư. 
        Muôn kiếp tham si chữa dễ trừ! 
        Vậy người tu khi có 
        chút cảnh giới tốt chớ vội khoe khoang tự đắc, phải nhìn 
        gương ngài Giới Diễn. Và cũng đừng vội tự thị chê bai 
        kẻ khác, mà phải xem gương Quang Huệ thiền sư. 
        * Hôn trầm và vọng 
        tưởng vi tế, người tu lâu tự biết lối giải trừ. Nơi 
        đây, chỉ lược bàn qua cách đối trị về phần thô. Thông 
        thường, khi loạn tưởng nhiều, hành giả nên ngồi yên 
        nhiếp tâm niệm Phật. Lúc hôn trầm đến, nên đứng lên 
        vừa niệm vừa kinh hành. Cứ dùng hai oai nghi này thay đổi 
        mãi, lâu ngày hai chướng duyên ấy sẽ tiêu trừ. Theo chỗ 
        kinh nghiệm, lắng tai ghi nhận rành rõ từ tiếng từ câu 
        niệm Phật theo lối Phản Văn Trì Danh, có lẽ là phương pháp 
        kiến hiệu nhứt để đối trị tán loạn. Và, Lễ Bái Trì 
        Danh, là phương thức tối thượng để đối trị với mối 
        chướng hôn trầm nặng nề. 
        Nhưng, mỗi hành 
        giả đều có chỗ kinh nghiệm và thích hợp riêng. Trên đây 
        chỉ lược đưa ra vài quan điểm để góp phần khuyến ích. 
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | 01 
        | 02 | 03 | 04 
        | 05 | 06 | 07 | 08 
        | 09 | 10 | Mục 
        lục  |