Chương 
        II: Đệ Nhị Yếu 
        Niệm Phật Phải Phát Lòng Bồ Đề
        Khải Đề: 
        Ba cõi không an dường 
        hỏa trạch 
        Đâu miền chân lạc khỏi tang thương? 
        Người vô thường, 
        Cảnh vô thường! 
        Khuyên gọi cùng nhau tỉnh mộng 
        Quay về bể giác thanh lương. 
        Khởi lòng bi trí 
        Nguyện độ mười phương. 
        Ba tăng kỳ kiếp tu muôn hạnh. 
        Bền lòng không thối chuyển 
        Cầu ngôi vị Pháp Vương! 
        Mục 
        A. Luận Về Bồ Đề Tâm 
        Tiết 8 Ý Nghĩa 
        Của Bồ Đề Tâm 
        Đem công đức niệm 
        Phật để cầu phước lợi nhỏ nhen ở thế gian, tất không 
        hợp với bản hoài của Phật, cho nên hành giả phải vì 
        sự thoát ly khỏi vòng sống chết luân hồi mà niệm Phật. 
        Nhưng nếu vì giải thoát riêng cho mình mà tu niệm, cũng 
        chỉ hợp với bản hoài của Phật một ít phần mà thôi. 
        Vậy bản hoài của Phật, cứu cánh là như thế nào? - Bản 
        hoài đích thật của đức Thế Tôn, là muốn cho tất cả 
        chúng sanh đều thoát vòng sanh tử, đều được giác ngộ 
        như Ngài. Cho nên người niệm Phật cần phải phát Bồ Đề 
        tâm. 
        * Bồ Đề nghĩa là 
        Giác. Trong ấy có ba bậc: Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ 
        Đề, và Phật Bồ Đề. Đây là chỉ cho quả giác ngộ 
        của hàng Thanh Văn, quả giác ngộ của hàng Duyên Giác và 
        quả giác ngộ của Phật. Người niệm Phật phát Bồ Đề 
        tâm, chính là phát tâm cầu quả giác ngộ của Phật; quả 
        vị ấy cùng tột không chi hơn, siêu cả hàng Thanh Văn Duyên 
        Giác, nên gọi là Vô Thượng Bồ Đề. Tâm này gồm hai 
        chủng tử chính, là từ bi và trí huệ, hay phát xuất công 
        năng độ thoát mình và tất cả chúng sanh. 
        Xác nhận lại, Bồ 
        Đề tâm nói ở đây, chính là Vô Thượng Bồ Đề tâm 
        tức là chỉ cho Phật Bồ Đề, chớ không phải Thanh Văn 
        hoặc Duyên Giác Bồ Đề tâm. 
        * Kinh nói: "Bồ 
        Đề tâm làm nhân, đại bi làm căn bản, phương tiện làm 
        cứu cánh." Ví như người đi xa, trước tiên phải 
        nhận định mục tiêu sẽ đến, phải ý thức chủ đích 
        cuộc hành trình bởi lý do nào, và sau cùng dùng phương 
        tiện hoặc xe, thuyền, hay phi cơ mà khởi tiến. Người tu cũng 
        thế, trước tiên phải lấy quả Vô Thượng Bồ Đề làm 
        mục tiêu cứu cánh; lấy lòng đại bi lợi mình lợi sanh làm 
        chủ đích thật hành; và kế đó là tùy sở thích căn cơ 
        lựa chọn các pháp môn hoặc Thiền, hoặc Tịnh, hoặc Mật 
        làm phương tiện tu tập. Phương tiện với nghĩa rộng hơn, 
        còn là trí huệ quyền biến tùy cơ nghi, áp dụng tất cả 
        hạnh thuận nghịch trong khi hành đạo Bồ Tát. Cho nên Bồ 
        Đề tâm là mục tiêu cần phải nhận định của hành 
        giả, trước khi khởi công hạnh huân tu. Vì thế, chương trước 
        đã đề cập sự thiết yếu của môn Niệm Phật cùng chủ 
        đích cầu thoát sanh tử của môn này, chương tiếp đây 
        lại cần ghi nhận Bồ Đề tâm là tiêu điểm cuối cùng 
        phải đi đến. Đức Thế Tôn thuở xưa khi thuyết về Tứ 
        Đế, đáng lẽ trước tiên phải nói Tập Đế là nguyên 
        do, nhưng Ngài lại sắp Khổ Đế lên hàng đầu, là muốn 
        trình bày quả khổ cho chúng sanh dễ nhận thấy để sanh lòng 
        lưu ý kinh sợ, rồi sau mới tìm xét đến nguyên ủy cội 
        nguồn. Cũng thế, nơi đây bút giả tuân theo ý kiến tiên 
        đức, trước tiên nêu môn Niệm Phật cầu giải thoát làm 
        vấn đề cấp thiết, rồi sau mới luận đến Bồ Đề tâm. 
        Kinh Hoa Nghiêm bảo: 
        "Nếu quên mất tâm Bồ Đề mà tu các pháp lành, đó là 
        nghiệp ma." Lời này xét ra rất đúng. Ví như người 
        cất bước khởi hành mà chẳng biết mình sẽ đến đâu, và 
        đi với mục đích gì, thì cuộc hành trình chẳng thành 
        quanh quẩn, mỏi mệt, cùng vô ích lắm ư? Người tu cũng 
        thế, nếu dụng công khổ nhọc mà quên sót mục tiêu cầu 
        thành Phật để lợi mình lợi sanh, thì bao nhiêu hạnh lành 
        chỉ đem đến kết quả hưởng phước nhơn thiên, chung 
        cuộc vẫn bị chìm mê quanh quẩn trong nẻo luân hồi, chịu 
        vô biên nỗi khổ. Như vậy chẳng là nghiệp ma còn là gì? 
        Thế thì phát lòng Vô Thượng Bồ Đề để lợi ích mình và 
        chúng sanh, phải ghi nhận là điểm phát tâm rất cần yếu. 
        Tiết 9 Bồ Đề Tâm 
        Với Môn Tịnh Độ 
        * Phật pháp theo sự 
        tùy hóa, thông thường có hai cấp bậc là Tiểu Thừa và Đại 
        Thừa. Tiểu Thừa nói những pháp thấp nhỏ, trọng tâm hướng 
        về mục tiêu gấp cầu liễu sanh tử cho chính mình, và 
        chỉ đi đến quả vị A La Hán hoặc Duyên Giác. Đại Thừa 
        nói các pháp rộng lớn, hướng về hoằng nguyện độ thoát 
        tất cả chúng sanh, và đi đến quả vị Toàn Giác của Như 
        Lai. Pháp môn Niệm Phật thuộc về Đại Thừa, nên chẳng 
        những đi về chiều hướng tự độ mà còn kiêm cả độ 
        tha. 
        Đạo Phật du nhập 
        vào Trung Hoa, trải qua sự hoằng dương của chư vị Tổ Sư, 
        kết quả lập thành mười tông. Trong đó có hai tông thuộc 
        về Tiểu Thừa là Thành Thật Tông và Câu Xá Tông. Nhưng căn 
        tánh của người Trung Hoa không hợp với pháp Tiểu Thừa, nên 
        không bao lâu hai tông này đều bị tàn tạ. Còn tám tông 
        kia thì thuộc về Đại Thừa, gồm có Thiên Thai Tông, Hiền 
        Thủ Tông, Tam Luận Tông, Pháp Tướng Tông, Luật Tông, 
        Thiền Tông, Mật Tông và Tịnh Độ Tông. Môn hoằng dương 
        của Tịnh Độ Tông là pháp Niệm Phật. Nếu pháp môn này 
        chỉ giảng thuyết về sự tự độ, thì e cho đã bị tiêu 
        mòn như hai tông Tiểu Thừa kia từ lâu rồi. Nước Việt 
        Nam ta là một bán đảo thuộc miền duyên hải, dân tánh có 
        chiều hướng hoạt động suy tư rộng, nên phần lớn thích 
        hợp với Đại Thừa. Nên từ xưa đến nay, tại đất nước 
        này, Thiền Tông và Tịnh Độ đã chiếm phần ưu thắng. 
        * Luận về pháp, 
        những pháp nào đi đến Phật quả cứu cánh, giảng thuyết 
        rộng về giới ngoại và sự lợi tha, đó là pháp Đại 
        Thừa. Trái lại, chính là pháp Tiểu Thừa. Nhưng điểm 
        chủ yếu để phân định Tiểu Thừa hay Đại Thừa, là 
        thuộc về tâm chớ không phải pháp. Nếu dùng pháp Tiểu 
        Thừa hoằng hóa làm phương tiện để dẫn đến Phật quả 
        thì đó chính Đại Thừa. Chẳng thế, khi đức Như Lai 
        giảng dạy về Tiểu Thừa giáo, Ngài cũng là hạng Tiểu 
        Thừa hay sao? Vì lẽ ấy cho nên người niệm Phật cần 
        phải chú trọng về chỗ phát tâm, tức là phát Vô Thượng 
        Bồ Đề tâm. Môn Niệm Phật đã thuộc về pháp Đại 
        Thừa nếu hành giả tu theo môn này lại phát đại Bồ Đề 
        tâm nữa, thì tâm và pháp đều được toàn vẹn, sẽ đi đến 
        quả Viên Giác kiêm cả tự lợi lợi tha. Nếu phát tâm nhơn 
        thiên thừa mà niệm Phật, thì môn Niệm Phật thành pháp nhơn 
        thiên. Người niệm Phật mà phát tâm như thế, chỉ hưởng 
        được sự sang quí ở cõi người cõi trời, khi phước báo 
        hết, lại chịu luân hồi sa đọa. Nếu phát tâm Tiểu 
        Thừa mà niệm Phật, thì môn Niệm Phật thành pháp Tiểu 
        Thừa. Người niệm Phật mà phát tâm này, thì chỉ được 
        quả giác thấp kém không viên mãn của Thanh Văn Duyên Giác, 
        lại còn phạm lỗi nhỏ hẹp thiếu lòng từ bi, duy biết lo 
        giải thoát cho mình, không đoái đến bao nhiêu chúng sanh đau 
        khổ khác. Cho nên niệm Phật cần phải phát Vô Thượng 
        Bồ Đề tâm. Lời tục thường nói: "Sai một ly, đi ngàn 
        dặm." Người niệm Phật tu hành đối với điểm phát 
        tâm có chính xác cùng không, há chẳng phải là một điều 
        đáng chú ý lắm ư? 
        Mục 
        B. Những Công Hạnh Của Bồ Đề Tâm 
        Tiết 10 Làm Thế 
        Nào Để Phát Lòng Bồ Đề 
        Phát Bồ Đề tâm như 
        trên đã nói, có thể tóm tắt trong bốn điều hoằng thệ 
        là: 
        Chúng sanh vô biên 
        thề nguyện độ. 
        Phiền não vô tận thề nguyện dứt. 
        Pháp môn vô lượng thề nguyện học. 
        Phật đạo vô thượng thề nguyện thành. 
        Nhưng không phải 
        chỉ nói suông: "Tôi phát Bồ Đề tâm", là đã phát 
        tâm, hay mỗi ngày tuyên đọc bốn điều hoằng thệ, gọi là 
        đã phát Bồ Đề tâm. Muốn phát Bồ Đề tâm hành giả 
        cần phải quán sát để phát tâm một cách thiết thật, và 
        hành động đúng theo tâm nguyện ấy trong đời tu của mình. 
        Có những Phật tử xuất gia, tại gia, mỗi ngày sau khi 
        tụng kinh niệm Phật đều quì đọc bài hồi hướng: 
        "Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não...", nhưng 
        rồi trong hành động thì trái lại: nay tham lam, mai hờn 
        giận, mốt si mê biếng trễ, bữa kia nói xấu chê bai chỉ 
        trích người, để đến bữa khác lại có chuyện tranh cãi 
        gây gổ buồn ghét nhau. Như thế, tam chướng làm sao tiêu, 
        phiền não làm sao trừ được? Chúng ta phần nhiều chỉ tu 
        theo hình thức ít chú trọng đến chỗ khai tâm, thành thử 
        lửa tam độc vẫn cháy hừng, không hưởng được hương 
        vị thanh lương giải thoát của đức Phật đã chỉ dạy. 
        Cho nên ở đây lại cần đặt vấn đề "Làm thế nào 
        để phát Bồ Đề tâm?" Muốn cho lòng Bồ Đề phát 
        sanh một cách thiết thật, chúng ta nên suy tư quán sát để 
        phát tâm theo sáu yếu điểm như sau: 
        * Điểm thứ nhứt là 
        Giác Ngộ Tâm. Chúng sanh thường chấp sắc thân này là ta, 
        tâm thức có hiểu biết, có buồn giận thương vui là ta. Nhưng 
        thật ra, sắc thân này giả dối, ngày kia khi chết đi nó 
        sẽ tan về với đất bụi, nên thân tứ đại không phải là 
        ta. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là thể tổng hợp về cái 
        biết của sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, 
        như một người trước kia dốt, nay theo học chữ Việt, 
        tiếng Anh, khi học thành, có cái biết về chữ Việt, 
        tiếng Anh. Lại như một kẻ chưa biết Ba Lê, sau một dịp 
        sang Pháp du ngoạn, thu thập hình ảnh của thành phố ấy vào 
        tâm. Khi trở về bản xứ có ai nói đến Ba Lê, nơi tâm 
        thức liền hiện rõ quang cảnh của đô thị ấy. Cái biết 
        đó trước kia không, khi lịch cảnh thu nhận vào nên tạm có, 
        sau bỏ lãng không nghĩ đến, lần lần nó sẽ phai lạt đến 
        tan mất hẳn, trở về không. Cái biết của ta khi có khi không, 
        hình ảnh này tiêu, hình ảnh khác hiện, tùy theo trần 
        cảnh thay đổi luôn luôn, hư giả không thật, nên chẳng 
        phải là ta. Cổ đức đã bảo: "Thân như bọt tụ, tâm 
        như gió. Huyễn hiện vô căn, không tánh thật." Nếu giác 
        ngộ thân tâm như huyễn, không chấp trước, lần lần sẽ 
        đi vào cảnh giới "nhơn không" chẳng còn ngã tướng. 
        Cái ta của ta đã không, thì cái ta của người khác cũng không, 
        nên không có nhơn tướng. Cái ta của mình và người đã không, 
        tất cái ta của vô lượng chúng sanh cũng không, nên không có 
        chúng sanh tướng. Cái ta đã không, nên không có bản ngã 
        bền lâu, không thật có ai chứng đắc, cho đến cảnh 
        chứng thường trụ vĩnh cữu của Niết Bàn cũng không, nên 
        không có thọ giả tướng. Đây cần nên nhận rõ, chẳng 
        phải không có thật thể chân ngã của tánh Chân Như thường 
        trụ, nhưng vì thánh giả không chấp trước, nên thể ấy 
        thành không. 
        Nhơn đã không, thì 
        Pháp cũng không, vì sự cảnh luôn luôn đổi thay sanh diệt, 
        không có tự thể. Đây lại cần nên nhận rõ chẳng phải 
        các pháp khi hoại diệt mới thành không, mà vì nó hư 
        huyễn, nên đương thể chính là không, cả Nhơn cũng thế. 
        Cho nên cổ đức đã bảo: "Cần chi đợi hoa rụng. 
        Mới biết sắc là không." (Hà tu đải hoa lạc. Nhiên 
        hậu thỉ tri không). 
        Hành giả khi đã giác 
        ngộ Nhơn và Pháp đều không, thì giữ lòng thanh tịnh trong 
        sáng không chấp trước mà niệm Phật. Dùng lòng giác ngộ 
        như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm. 
        * Điểm thứ hai: là 
        Bình Đẳng Tâm. Trong Khế Kinh, đức Phật khuyên dạy: 
        "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, là cha mẹ đời 
        quá khứ và chư Phật đời vị lai." Chư Phật thấy chúng 
        sanh là Phật, nên dùng tâm bình đẳng đại bi mà tế độ. 
        Chúng sanh thấy chư Phật là chúng sanh, nên khởi lòng 
        phiền não phân biệt ghét khinh. Cũng đồng một cái nhìn, 
        nhưng lại khác nhau bởi mê và ngộ. Là đệ tử Phật, ta nên 
        tuân lời đức Thế Tôn chỉ dạy, đối với chúng sanh 
        phải có tâm bình đẳng và tôn trọng, bởi vì đó là chư 
        Phật vị lai, đồng một Phật tánh. Khi dùng lòng bình đẳng 
        tôn kính tu niệm, sẽ dứt được nghiệp chướng phân 
        biệt khinh mạn, nảy sanh các đức lành. Dùng lòng bình đẳng 
        như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ Đề tâm. 
        * Điểm thứ ba: là 
        Từ Bi Tâm. Ta cùng chúng sanh đều sẵn đủ đức hạnh, tướng 
        hảo trí huệ của Như Lai, mà vì mê chân tánh, khởi hoặc 
        nghiệp nên phải bị luân hồi, chịu vô biên sự thống 
        khổ. Nay đã rõ như thế, ta phải dứt tâm ghét thương phân 
        biệt, khởi lòng cảm hối từ bi tìm phương tiện độ mình 
        cứu người, để cùng nhau được an vui thoát khổ. Nên 
        nhận rõ từ bi khác với ái kiến. Ái kiến là lòng thương 
        yêu mà chấp luyến trên hình thức, nên kết quả bị sợi 
        giây tình ái buộc ràng. Từ bi là lòng xót thương cứu độ, 
        mà lìa tướng, không phân biệt chấp trước; tâm này thể 
        hiện dưới đủ mọi mặt, nên kết quả được an vui 
        giải thoát, phước huệ càng tăng. 
        Muốn cho tâm từ bi 
        được thêm rộng, ta nên từ nỗi khổ của mình, cảm thông 
        đến các nỗi khổ khó nhẫn thọ hơn của kẻ khác, tự 
        nhiên sanh lòng xót thương muốn cứu độ, niệm từ bi của 
        Bồ Đề tâm từ đó phát sanh. Đại khái như trong hoàn 
        cảnh chiến tranh hiện nay, trẻ thơ phải nhờ cha mẹ nuôi 
        dạy, mà cha mẹ lại bị tử nạn thành ra côi cúc bơ vơ. 
        Lại như người già phải nhờ con cái phụng dưỡng, mà con 
        cái đều bị yểu vong, nên phải buồn đau cô khổ. Thấy 
        những cảnh ấy, động lòng xót thương, muốn cứu độ, 
        niệm từ bi của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh. 
        Những thanh niên thông 
        minh khỏe mạnh, tương lai đầy hy vọng bỗng bị bom đạn 
        làm cho tàn phế. Nhiều thiếu nữ đang hồi xuân sắc, người 
        thân yêu nhờ cậy bỗng bị tử thần cướp mất, khiến 
        nỗi lạc bước sa đọa, hoặc thành cảnh mẹ góa con côi, 
        sanh kế sống còn của ngày mai mờ mịt. Thấy những cảnh 
        ấy, động lòng xót thương muốn cứu độ, niệm từ bi 
        của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh. 
        Có nhiều người đau 
        yếu, mà vì vật giá cao quý, không tiền thuốc thang, thành 
        ra kéo dài thân bịnh khổ qua năm tháng, đôi lúc lắm kẻ 
        phải quyên sinh. Có những người nghèo nàn thất nghiệp, 
        nay vợ đau, mai con bịnh, rách rưới lang thang, nợ nần đòi 
        hỏi, hằng chịu đói lạnh qua ngày tháng, sống cũng lỡ mà 
        chết chẳng xong. Lại có những kẻ mang nhiều tâm sự 
        buồn khổ không bạn lành khuyên lơn giải thích; những kẻ 
        mê tối tạo nghiệp không biết ngày mai mình sẽ khổ, không 
        gặp Phật pháp để tìm đường lối thoát ly. Thấy những 
        cảnh ấy, động lòng thương xót muốn cứu độ, niệm từ 
        bi của Bồ Đề tâm chưa phát bỗng tự phát sanh. 
        Nói rộng ra, như 
        trong kinh Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền đã khai thị: "Bồ Tát 
        quán sát chúng sanh không nơi nương tựa mà khởi đại bi. 
        Quán sát chúng sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi đại 
        bi, quán sát chúng sanh nghèo khổ không căn lành mà khởi đại 
        bi. Quán sát chúng sanh ngủ say trong đêm dài vô minh mà 
        khởi đại bi. Quán sát chúng sanh làm những điều ác mà 
        khởi đại bi. Quán sát chúng sanh đã bị ràng buộc, lại 
        thích lao mình vào chỗ ràng buộc mà khởi đại bi. Quán sát 
        chúng sanh bị chìm đắm trong biển sanh tử mà khởi đại 
        bi. Quán sát chúng sanh vương mang tật khổ lâu dài mà khởi 
        đại bi. Quán sát chúng sanh không ưa thích pháp lành mà 
        khởi đại bi. Quán sát chúng sanh xa mất Phật pháp mà 
        khởi đại bi..." 
        Đã phát đại bi tâm 
        tất phải phát đại Bồ Đề tâm thề nguyền cứu độ. 
        Thế thì lòng đại từ bi và lòng đại Bồ Đề dung thông 
        nhau. Cho nên phát từ bi tâm tức là phát Bồ Đề tâm. Dùng 
        lòng đại từ bi như thế mà hành đạo, mới gọi là phát 
        Bồ Đề tâm. 
        * Điểm thứ tư là 
        Hoan Hỷ Tâm. Đã có xót thương tất phải thể hiện lòng 
        ấy qua tâm hoan hỷ. Hoan hỷ đây có hai thứ: tùy hỷ và 
        hỷ xả. Tùy hỷ là khi thấy trên từ chư Phật, Thánh nhơn, 
        dưới cho đến các loại chúng sanh, có làm được công đức 
        gì, dù là nhỏ mọn cũng vui mừng theo. Và khi thấy ai được 
        sự phước lợi, hưng thạnh, thành công, an ổn, cũng sanh 
        niệm vui vẻ mừng giùm. Hỷ xả là dù có chúng sanh làm 
        những điều tội ác, vong ân, khinh hủy, hiểm độc, tổn 
        hại cho người hoặc cho mình, cũng an nhẫn vui vẻ mà bỏ 
        qua. Sự vui nhẫn này nếu xét nghĩ sâu, thành ra không thật 
        có nhẫn, vì tướng người, tướng ta và tướng não hại 
        đều không. Nên Kinh Kim Cang dạy: "Như Lai nói nhẫn 
        nhục Ba La Mật, tức chẳng phải nhẫn nhục Ba La Mật, đó 
        gọi là nhẫn nhục Ba La Mật." 
        Lòng tùy hỷ trừ 
        được chướng tật đố nhỏ nhen. Lòng hỷ xả giải được 
        chướng hận thù báo phục. Bởi tâm hoan hỷ không ngoài 
        sự giác ngộ mà thể hiện, nên đó chính là lòng Bồ Đề. 
        Dùng lòng hoan hỷ như thế mà hành đạo, mới gọi là phát 
        Bồ Đề tâm. 
        * Điểm thứ năm là 
        Sám Nguyện Tâm. Trong kiếp luân hồi, mọi loài hằng đổi 
        thay làm quyến thuộc lẫn nhau. Thế mà ta vì mê mờ lầm 
        lạc, từ kiếp vô thỉ đến nay, do tâm chấp ngã muốn 
        lợi mình nên làm tổn hại chúng sanh, tạo ra vô lượng vô 
        biên ác nghiệp. Thậm chí đến chư Phật, Thánh nhơn, vì tâm 
        đại bi ra đời thuyết pháp cứu độ loài hữu tình, trong 
        ấy có ta, mà đối với ngôi Tam Bảo ta lại sanh lòng vong 
        ân hủy phá. Ngày nay giác ngộ, ta phải hổ thẹn ăn năn, 
        đem ba nghiệp chí thành sám hối. Đức Di Lặc Bồ Tát đã 
        lên ngôi bất thối, vì muốn mau chứng quả Phật, mỗi ngày 
        còn lễ sám sáu thời. Vậy ta phải đem thân nghiệp kính 
        lễ Tam Bảo, khẩu nghiệp tỏ bày tội lỗi cầu được tiêu 
        trừ, ý nghiệp thành khẩn ăn năn thề không tái phạm. Đã 
        sám hối, phải dứt hẳn tâm hạnh ác không còn cho tiếp 
        tục nữa, đi đến chỗ tâm và cảnh đều không, mới là 
        chân sám hối. Lại phải phát nguyện, nguyện hưng long ngôi 
        Tam Bảo, nguyện độ khắp chúng sanh, để chuộc lại lỗi 
        xưa và đền đáp bốn ân nặng. Bốn ân đó là: ân Tam 
        Bảo, ân cha mẹ sư trưởng, ân thiện hữu tri thức, và ân 
        chúng sanh. 
        Có tâm sám nguyện 
        như vậy tội chướng mới tiêu trừ, công đức ngày thêm 
        lớn, và mới đi đến chỗ phước huệ lưỡng toàn. Dùng lòng 
        sám nguyện như thế mà hành đạo mới gọi là phát Bồ Đề 
        tâm. 
        * Điểm thứ sáu là 
        Bất Thối Tâm. Dù đã sám hối phát nguyện tu hành, nhưng 
        nghiệp hoặc ma chướng không dễ gì dứt trừ, sự lập công 
        bồi đức thể hiện sáu độ muôn hạnh không dễ gì thành 
        tựu. Mà con đường Bồ Đề đi đến quả viên giác lại 
        xa vời dẫy đầy gay go chướng nạn, phải trải qua hằng 
        sa kiếp, đâu phải chỉ một hai đời? Ngài Xá Lợi Phất 
        trong tiền kiếp chứng đến ngôi Lục Trụ, phát đại Bồ 
        Đề tâm tu hạnh bố thí. Nhưng khi chịu khổ khoét một con 
        mắt cho ngoại đạo, bị họ không dùng, liệng xuống đất 
        rồi nhổ nước dãi, lấy chân chà đạp lên trên, Ngài còn 
        thối thất Đại Thừa tâm. Thế thì ta thấy sự giữ vững 
        tâm nguyện là điều không phải dễ! Cho nên hành giả 
        muốn được đạo tâm không thối chuyển, phải lập thệ 
        nguyện kiên cố. Thề rằng: "Thân này dầu bị vô lượng 
        sự nhọc nhằn khổ nhục, hoặc bị đánh giết cho đến 
        thiêu đốt nát tan thành tro bụi, cũng không vì thế mà 
        phạm điều ác, thối thất trên bước tu hành." Dùng lòng 
        bất thối chuyển như thế mà hành đạo, mới gọi là phát 
        Bồ Đề tâm. 
        Sáu yếu điểm đã 
        dẫn đại lược như trên, là sự kiện phải có của người 
        phát Bồ Đề tâm. Nếu không y theo đây lập chí thiết 
        thật tu hành, thì dù nói phát tâm chỉ là phát tâm suông, 
        không thể nào đi đến Phật quả. Trước mặt chúng ta 
        chỉ có hai đường: luân hồi và giải thoát. Đường giải 
        thoát tuy có lắm nỗi gian nan, nhưng mỗi bước đi lần đến 
        chỗ sáng suốt tự tại an vui. Đường luân hồi dù được 
        tạm hưởng phước nhơn thiên, nhưng kết cuộc phải 
        chuyển đến cảnh tam đồ ác đạo, sự khổ vô biên không 
        biết kiếp nào ra khỏi. Vậy các vị đồng tu nên phát tâm 
        mãnh tiến, bước thẳng lên đường sáng đại Bồ Đề. 
        Cảnh muôn hoa đua nở nơi chân trời giải thoát sẽ đón chào 
        các vị! 
        Tiết 11 Những 
        Huấn Thị Về Bồ Đề Tâm 
        Về Bồ Đề tâm, 
        trong nội điển có thuyết minh rất nhiều, nay chỉ xin trích 
        lục ít đoạn nơi Kinh Hoa Nghiêm để chư vị đồng tu thể 
        nhận: 
        * Này thiện nam tử! 
        Bậc Bồ Tát phát lòng Vô Thượng Bồ Đề là: khởi lòng 
        đại bi cứu độ tất cả chúng sanh. Khởi lòng cúng dường 
        chư Phật, cứu cánh thừa sự. Khởi lòng khắp cầu chánh 
        pháp, tất cả không sẻn tiếc. Khởi lòng thú hướng rộng 
        lớn, cầu Nhứt Thiết Trí. Khởi lòng đại từ vô lượng, 
        khắp nhiếp tất cả chúng sanh. Khởi lòng không bỏ rơi các 
        loài hữu tình mặc áo giáp kiên thệ để cầu Bát Nhã Ba 
        La Mật. Khởi lòng không siễm dối, vì cầu được trí như 
        thật. Khởi lòng thật hành y như lời nói, để tu đạo 
        Bồ Tát. Khởi lòng không dối với chư Phật, vì gìn giữ 
        thệ nguyện lớn của tất cả Như Lai. Khởi lòng nguyện 
        cầu Nhứt Thiết Trí, cùng tận kiếp vị lai giáo hóa chúng 
        sanh không dừng nghỉ. Bồ Tát dùng những công đức Bồ Đề 
        tâm nhiều như số bụi nhỏ của cõi Phật như thế, nên 
        được sanh vào nhà Như Lai. 
        * Này thiện nam tử! 
        Như người học bắn, trước phải tập thế đứng, sau 
        mới học đến cách bắn. Cũng thế, Bồ Tát muốn học đạo 
        Nhứt Thiết Trí của Như Lai, trước phải an trụ nơi Bồ 
        Đề tâm, rồi sau mới tu hành tất cả Phật pháp. Thiện 
        nam tử! Ví như vương tử tuy hãy còn thơ ấu, song tất cả 
        đại thần đều phải kính lễ. Cũng thế, Bồ Tát tuy mới 
        phát Bồ Đề tâm tu Bồ Tát hạnh, song tất cả bậc kỳ 
        cựu hàng Nhị Thừa đều phải kính trọng nể vì. Thiện 
        nam tử! Như thái tử tuy đối với quần thần chưa được 
        tự tại, song đã đủ tướng trạng của vua, các bầy tôi 
        không thể sánh bằng, bởi nhờ chỗ xuất sanh tôn quý. Cũng 
        thế Bồ Tát tuy đối với tất cả nghiệp phiền não chưa 
        được tự tại, song đã đầy đủ tướng trạng Bồ Đề, 
        hàng Nhị Thừa không thể sánh bằng, bởi nhờ chủng tánh 
        đứng vào bậc nhứt. Thiện nam tử! Như người máy bằng 
        gỗ, nếu không có mấu chốt thì các thân phần rời rạc 
        chẳng thể hoạt động. Cũng thế, Bồ Tát nếu thiếu Bồ 
        Đề tâm, thì các hạnh đều phân tán, không thể thành 
        tựu tất cả Phật pháp. Thiện nam tử! Như chất kim cương 
        tất cả vật không thể phá hoại, trái lại có thể phá 
        hoại tất cả vật, song thể tánh của nó vẫn không tổn 
        giảm. Bồ Đề tâm của Bồ Tát cũng thế, khắp ba đời 
        trong vô số kiếp, giáo hóa chúng sanh, tu các khổ hạnh, 
        việc hàng Nhị Thừa không thể làm đều làm được, song 
        kết cuộc vẫn chẳng chán mỏi giảm hư... 
        * Phổ Hiền Bồ Tát 
        bảo: - Thiện nam tử! Bồ Tát vì điều phục giáo hóa tất 
        cả chúng sanh nên phát Bồ Đề tâm. Vì trừ diệt khổ tụ 
        cho tất cả chúng sanh, nên phát Bồ Đề tâm. Vì đem cho 
        tất cả chúng sanh sự an vui đầy đủ, nên phát Bồ Đề tâm. 
        Vì dứt trừ sự ngu tối cho tất cả chúng sanh, nên phát 
        Bồ Đề tâm. Vì đem lại Phật trí cho tất cả chúng sanh, 
        nên phát Bồ Đề tâm. Vì cung kính cúng dường tất cả chư 
        Phật, nên phát Bồ Đề tâm. Vì tùy thuận lời dạy Như 
        Lai khiến chư Phật hoan hỷ, nên phát Bồ Đề tâm. Vì 
        muốn thấy sắc thân tướng hảo của tất cả chư Phật, nên 
        phát Bồ Đề tâm. Vì muốn vào trí huệ rộng lớn của 
        tất cả chư Phật, nên phát Bồ Đề tâm. Vì muốn hiển 
        hiện các đức: lực, vô úy của chư Phật, nên phát Bồ Đề 
        tâm. 
        * Như thế, trong Kinh 
        Hoa Nghiêm đức Thế Tôn và chư Bồ Tát đã thuyết minh 
        rộng rãi về công đức của Bồ Đề tâm, trên đây chỉ lược 
        trích một vài yếu điểm. Kinh văn cũng có nói: "Cửa 
        yếu vào đạo, trước phải phát tâm. Việc yếu tu hành, trước 
        nên lập nguyện." 
        Nếu không phát tâm 
        rộng lớn, không lập nguyện bền chắc, thì dù trải qua vô 
        lượng kiếp, vẫn y nhiên ở trong nẻo luân hồi; dù có tu 
        hành cũng khó tinh tấn và chỉ luống công khổ nhọc. Do đó 
        nên biết: muốn học Phật đạo, quyết phải phát Bồ Đề 
        tâm không thể trì huởn. Bởi thế khi xưa Tỉnh Am đại sư 
        đã soạn ra Phát Bồ Đề Tâm Văn để khuyến khích tứ chúng. 
        Trong ấy, Ngài theo các tâm nguyện mà trình bày sự phát tâm 
        thành tám cách: tà, chánh, chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, 
        viên. Xin tóm đại lược như sau: 
        1. Có những người 
        tu không tham cứu tự tâm, chỉ biết theo bên ngoài, hoặc 
        cầu danh lợi, đắm cảnh vui hiện tại, hay mong quả phước 
        tương lai mà phát lòng Bồ Đề. Phát tâm như thế gọi là 
        Tà. 
        2. Như chẳng cầu 
        danh lợi, không tham cảnh vui cùng mong quả phước, chỉ vì 
        thoát vòng sanh tử, lợi mình lợi sanh mà cầu đạo Bồ Đề. 
        Phát tâm như thế gọi là Chánh. 
        3. Mỗi niệm trên vì 
        cầu Phật đạo, dưới vì độ chúng sanh, nhìn đường Bồ 
        Đề dài xa mà không khiếp, thấy loài hữu tình khó độ nhưng 
        chẳng sờn. Tâm bền vững như lên núi quyết đến đảnh, 
        như leo tháp quyết đến chót. Phát tâm như thế gọi là Chân 
        (thật). 
        4. Có tội lỗi không 
        sám hối chừa cải, ngoài dường trong sạch, trong thật 
        nhớp nhơ, trước tinh tấn sau biếng lười. Dù có tâm tốt 
        nhưng còn xen lẫn lợi danh, có pháp lành song bị tội lỗi 
        làm ô nhiễm. Phát tâm mà còn những điều này, gọi là 
        Ngụy (dối). 
        5. Cõi chúng sanh 
        hết, nguyện mới hết; đạo Bồ Đề thành, nguyện mới thành. 
        Phát tâm như thế gọi là Đại. 
        6. Xem tam giới như tù 
        ngục, sanh tử như oan gia; chỉ mong mình mau giải thoát, 
        chẳng muốn độ người. Phát tâm theo quan niệm này, gọi là 
        Tiểu. 
        7. Thấy chúng sanh và 
        Phật đạo ở ngoài tự tánh, rồi nguyện độ nguyện thành, 
        đường công hạnh chẳng quên, sự thấy hiểu không dứt. 
        Phát tâm như thế gọi là Thiên (lệch). 
        8. Biết chúng sanh và 
        Phật đạo đều là tự tánh, nên nguyện độ nguyện thành, 
        tu công đức không thấy mình có tu, độ chúng sanh không 
        thấy có chúng sanh được độ. Phát tâm như thế gọi là 
        Viên (tròn). 
        Trong tám cách như trên, 
        Tà, Ngụy, Thiên, Tiểu nên bỏ, Chân, Chánh, Viên, Đại, nên 
        theo. Được như thế mới gọi là phát Bồ Đề tâm đúng cách. 
        Trong văn, Tĩnh Am đại 
        sư lại khuyên đại chúng nên nghĩ đến mười nhân duyên 
        để phát tâm. Mười duyên ấy là: vì nghĩ đến ơn Phật, 
        vì công ơn cha mẹ, vì nhớ ơn sư trưởng, vì tưởng ơn tín 
        thí, vì biết ơn chúng sanh, vì lo khổ sanh tử, tôn trọng tánh 
        linh, vì sám trừ nghiệp chướng, vì hộ trì chánh pháp, vì 
        cầu sanh Tịnh Độ. Nơi điều cầu Tịnh Độ, Ngài dẫn 
        một lời Kinh A Di Đà và bảo: "Kinh Văn nói: Không thể 
        dùng chút ít căn lành phước đức nhân duyên được sanh 
        về nước kia. Thế thì biết, phải có nhiều căn lành phước 
        đức mới được vãng sanh Cực Lạc. Nhưng nhiều căn lành 
        không chi hơn phát Bồ Đề tâm, nhiều phước đức không 
        chi hơn trì danh hiệu. Nhiếp tâm niệm Phật giây phút hơn 
        bố thí nhiều năm, chân thật phát lòng Bồ Đề hơn tu hành 
        nhiều kiếp. Giữ chắc hai nhân duyên này, quyết định được 
        sanh Cực Lạc." 
        Qua những lời dạy 
        của Phật, Bồ Tát, Tổ Sư ở trên, ta thấy phát Bồ Đề 
        tâm là điều rất quan yếu trên đường hành đạo. 
        Mục 
        C. Ba Sự Kiện Thiết Yếu Đối Với Bồ Đề Tâm 
        Tiết 12 Đường 
        Sanh Tử Nhiều Nguy Hiểm 
        * Đường vào vườn 
        giác ngộ có nhiều cửa, hành giả trước tiên phải lấy tâm 
        đại Bồ Đề làm khởi điểm chánh chân, rồi tùy căn cơ 
        sở thích, muốn tu theo pháp môn nào cũng tốt. Trên đường 
        tu, nếu luận về "căn cơ" thì môn Tịnh Độ bao 
        gồm cả ba căn thượng, trung, hạ; chẳng những hạng phàm 
        thường, mà các bậc Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã 
        Minh, Long Thọ đều nguyện vãng sanh. Nếu luận về 
        "thời tiết" thì thời mạt pháp này chúng sanh 
        phần nhiều tâm tạp chướng nặng, môn Tịnh Độ dễ 
        thật hành, lại có thể trong một đời được vãng sanh 
        giải thoát. Nhưng, nếu luận về sở thích, thì riêng môn 
        Tịnh Độ không thể thỏa mãn được hết mọi người, vì 
        thế đức Như Lai mới nói nhiều pháp môn. Đại khái như 
        những vị có tâm hùng tráng, ưa sự giản dị trực thiệp 
        trong sáng, thì thích về Thiền Tông. Những vị ưa sự 
        thần thông linh ứng kỳ bí, thích tu về Mật Tông. Những 
        vị ưa lý luận, cần phân tích cho xác thật rành rẽ mới 
        chịu tin tưởng làm theo, thích tu về Duy Thức Tông... Trong 
        mỗi tông lại có nhiều chi tiết khác biệt, mà mỗi người 
        hành trì không giống nhau. 
        Tuy nhiên, trong đời 
        mạt pháp, hành giả đã phát đại Bồ Đề tâm thề độ mình 
        độ sanh, mà muốn bảo đảm cho tâm ấy thành tựu không 
        bị thối thất; dù tu các môn khác, cũng nên kiêm hành 
        Tịnh Độ để cầu vãng sanh. Tại sao thế? Trong đây có ba 
        sự kiện thiết yếu, xin tuần tự kể phần đại lược: 
        * Trong nẻo sống 
        chết luân hồi, có nhiều hiểm nguy chướng nạn cho đường 
        tu. Muốn thoát cảnh hiểm luân hồi để bảo đảm tâm Bồ 
        Đề không thối thất, phải cầu sanh Tịnh Độ. Đây là 
        sự kiện thiết yếu trước tiên, mà hành giả cần lưu ý. 
        * Tiên đức hằng răn 
        nhắc: "Nếu tu mà không chuyên cầu giải thoát, thì sự 
        tu nơi kiếp này là mối thù trong kiếp thứ ba." Sở dĩ 
        có việc ấy, bởi kiếp thứ nhứt lo kham khổ tu hành, nên 
        chuyển sanh qua kiếp thứ nhì được hưởng quả báo thông 
        minh giàu sang quyền thế. Trong kiếp thứ hai này, do giàu 
        sang nên dễ mê theo cảnh quyền quý, vợ đẹp con xinh, cùng 
        các thú vui vật chất nơi cõi trần. Đã nếm mùi dục lạc 
        tất dễ sanh đắm nhiễm, càng đắm nhiễm càng đi đến 
        chỗ sa đọa tối tăm, dám làm nhiều điều ác để củng 
        cố lợi quyền và thỏa lòng tham vọng. Kiếp thứ nhì đã 
        gieo nhân như thế, kiếp thứ ba làm sao khỏi bị đọa lạc 
        tam đồ? 
        Có kẻ gạn: 
        "Kiếp trước đã có công tu gieo nhân tốt, không lẽ 
        sang kiếp thứ nhì trí huệ căn lành đều mất, để đến 
        nỗi phải bị đọa hay sao?" - Xin đáp: "Căn lành 
        tuy có, nhưng nghiệp ác từ vô lượng kiếp chưa phải đã 
        tiêu trừ. Mà trong cảnh trần, việc lành rất khó làm như 
        leo lên cây cao, điều ác rất dễ phạm như tuộc xuống 
        dốc lở. Người xưa đã chẳng bảo: Trọn đời làm lành, 
        lành còn chẳng đủ; một ngày làm ác, ác tự có dư đó ư? 
        Như những người giàu sang quyền thế mà chúng ta hiện 
        thấy, kiếp trước họ đều có ít nhiều công đức bố thí 
        tu phước làm lành, nhưng kẻ hướng về nẻo thiện không 
        bao nhiêu, người say đắm danh lợi vinh hoa lại chiếm phần 
        đa số. Thử hỏi có mấy vị đỗ cao quyền quí chịu 
        xuất gia, sống một cuộc đời khắc khổ đạm bạc, hướng 
        về mục đích giải thoát thanh cao? Ngay như người xuất 
        gia, khi chưa có địa vị còn kham nhẫn tu hành, lúc đã được 
        quyền danh, nhiều kẻ lễ bái tôn trọng cúng dường, lại 
        dễ bị cảnh phù trần ràng buộc. Hiện tại ta thấy có 
        biết bao hàng tăng ni thiện tín, trước còn tinh tấn hành 
        trì, sau lần lần biếng trễ bỏ tu hoặc hoàn tục thối đạo, 
        nói chi đến kiếp sau?" 
        * — cõi người còn 
        như thế, nếu sanh lên cõi trời cảnh vui ngũ dục quá 
        nhiệm mầu, lại còn khó tu hơn nữa! Đó là nói những vị 
        có phước, còn những người ít phước sống một cuộc đời 
        nghèo khổ quá cũng khó tu. Hoặc tuy vào hạng trung lưu, nhưng 
        giữa đời này tà đạo dẫy đầy; trong chánh pháp bậc 
        thiện hữu tri thức khó gặp, nẻo đường giải thoát không 
        phải dễ tìm! Đến như chúng sanh trong ba ác đạo là địa 
        ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thì việc tu niệm thật là khó đến 
        muôn phần, vì các loài ấy ngu tối, thân tâm hằng ở trong 
        cảnh khổ. 
        Kiếp luân hồi có 
        nhiều hiểm nạn như thế, nếu không cầu sanh Tịnh Độ để 
        thoát ly, tất khó bảo đảm tâm Bồ Đề không bị thối 
        thất. 
        Tiết 13 Cần 
        Giải Thoát Ngay Trong Hiện Kiếp 
        * Trong thời mạt pháp, 
        nếu chỉ tu môn khác không kiêm cầu Tịnh Độ, tất khó 
        giải thoát ngay trong một đời. Nếu đời này không được 
        giải thoát bị mê trong nẻo luân hồi, thì tất cả tâm 
        nguyện sẽ thành hư tưởng. Đây là sự kiện thiết yếu 
        thứ hai, mà hành giả cần lưu ý. 
        Các hành giả tu theo 
        những pháp môn khác, duy trọng về tự lực, lập tâm trường 
        cữu, quan niệm mỗi đời cứ tiến tu, dù đời này không 
        được giải thoát, trong những kiếp sau cũng sẽ thành đạo. 
        Nhưng có một điều cần để ý, là liệu đời sau sẽ được 
        bảo đảm chắc chắn cho ta tiếp tục tu nữa chăng? Bởi 
        khi chưa là bậc đắc đạo, lúc chuyển sanh tất phải hôn 
        mê, dễ quên tâm nguyện tu hành kiếp trước. Nơi cảnh 
        trần duyên tiến đạo thì ít, duyên thối đạo lại 
        nhiều. Biết bao vị xuất gia lúc chuyển sanh không thể 
        tiến tu, như các sự tích đã lược trần trong chương thứ 
        nhứt. 
        Kinh nói: "Bồ Tát 
        còn mê khi cách ấm, Thanh Văn còn muội lúc ra thai." 
        "Cách ấm" là 
        trải cách từ ấm thân này sang ấm thân khác. Như thân 
        hiện tại là tiền ấm, chuyển sanh thân kiếp sau gọi là 
        hậu ấm; trải qua sự xen cách từ thân trước đến thân 
        sau như thế, bậc Bồ Tát chưa đắc đạo phải bị hôn mê. 
        Trong kinh, có nơi khác lại nói: "Hạng phàm thường khi 
        nhập thai, trụ thai và xuất thai đều hôn mê. Bậc Chuyển 
        Luân Thánh Vương do phước báo, lúc nhập thai thì biết, khi 
        trụ thai, xuất thai phải bị hôn mê. Hàng Thanh Văn lúc 
        nhập thai, trụ thai đều có thể tỉnh biết, song khi xuất 
        thai lại hôn mê. Duy có bậc Bồ Tát chứng Vô Sanh Nhẫn, lúc 
        nhập thai, trụ thai và xuất thai đều tỉnh giác." Đôi 
        khi hạng phàm phu do nghiệp duyên đặc biệt cũng nhớ được 
        kiếp trước, nhưng đây chỉ là trường hợp ít có trong muôn 
        một. Hoặc đó là Bồ Tát thị hiện để cho chúng sanh 
        biết có luân hồi, ngoài ra tất cả khi chuyển sanh đều 
        bị mê muội. Khi đã hôn mê, thì bao nhiêu sự hiểu biết 
        về đạo lý và những tâm nguyện nơi kiếp trước, đều vì 
        vô minh che lấp khiến cho lãng quên. 
        Duyệt qua chỗ kiến 
        văn, bút giả từng nghe có vị thuật lại, lúc trẻ tuổi 
        mỗi khi nằm mơ thấy mình bay tự do cao vút đi khắp mọi nơi; 
        tuổi càng lớn lại thấy bay thấp lần lần, sau không còn 
        bay được nữa. Trong quyển Phật Học Chỉ Nam, có kể 
        chuyện ông Viên Thủ Đồng, người ở đất Trường Sơn bên 
        Trung Hoa, lúc bốn năm tuổi, trong đêm tối thấy rõ rệt các 
        vật như ban ngày. Mấy năm kế, sự thấy mờ giảm lần. 
        Từ mười tuổi trở lên, ông không còn thấy nữa, chỉ đôi 
        khi nữa đêm thức dậy ngẫu nhiên thấy rõ được trong giây 
        lát. Khoảng mười bảy tuổi về sau, hai ba năm mới thấy 
        một lần, nhưng chỉ lóe sáng lên rồi liền tắt mất. 
        Những vị này kiếp trước đều có tu nhưng khi chuyển 
        thế bị mê đi, kế đó trần nhiễm càng sâu, thần minh càng 
        tiêu giảm. Có những vị như vị Thiên Đại Hạt Tử ở 
        Nhựt Bản, Ngụy Tịch Phủ ở Trung Hoa, ngồi một nơi 
        thấy rõ những vật xung quanh cách xa đến mấy mươi dặm. 
        Có nhiều người thấy được vật dưới đất, sự việc cách 
        tường vách, hoặc đồ để trong túi của quần chúng, mà 
        thế gian gọi là thiên nhãn, nhưng họ không chịu tu. Bởi 
        thế lần lần sự thấy suy giảm, kết cuộc cũng như thường 
        nhơn. Lại có những vị xem sách một lần rồi gấp lại đọc 
        thuộc lòng không sai một chữ, hoặc văn tài mau lẹ xuống 
        bút thành phú, mở miệng thành thi, nhưng không chịu tu hành, 
        đôi khi trở lại bài bác đạo Phật. Cổ đức bình luận 
        những người sau này, kiếp trước tu Thiền định đến trình 
        độ khá cao, đã có chỗ sở đắc. Nhưng bởi những vị hành 
        trì theo tông môn chỉ nhận ngay tự tâm, phá trừ Phật 
        kiến, Pháp kiến, nghĩa là để tâm rỗng không chẳng thấy 
        có Phật và Pháp; nên khi chưa chứng đạo phải chuyển sanh 
        trở lại, duy bằng cứ vào sự thông minh của mình, không 
        ưa thích đạo Phật. Các bậc xưa còn như thế, người tu 
        hiện tại sở đắc phỏng có là bao? 
        * Như lời Phật 
        huyền ký: "Đời mạt pháp người tu thì nhiều nhưng khó 
        có ai đắc đạo." Mà khi chưa chứng đạo, nếu còn 
        nghiệp lực nhỏ như sợi tơ cũng bị luân hồi. Dù có 
        một vài vị ngộ đạo, nhưng ngộ chưa phải là chứng, 
        chỉ do sức định chế phục nghiệp thức khiến cho lắng 
        động lại, nên tạm được khai tâm, lúc chuyển sanh vẫn còn 
        bị hôn mê không được tự tại. Đến kiếp sau, duyên 
        tiến đạo thì ít cảnh thối đạo lại nhiều, nguyện 
        giải thoát đã thấy khó bảo toàn chắc chắn. Về sự 
        ngộ đạo còn bị thối thất, cổ đức đã có ba điều thí 
        dụ: 
        Điều thứ nhất: như 
        dùng tảng đá đè lên cỏ dại, cỏ tuy không mọc được 
        nhưng củ nó chưa hư thúi, nếu gặp duyên khác tảng đá 
        bị lật lên, cỏ vẫn mọc lại như cũ. 
        Điều thứ hai: như 
        lóng nước trong chum, bùn tuy lắng xuống nằm yên tận đáy, 
        nhưng khi chưa gạn lọc ra được, gặp duyên khuấy động, 
        bùn lại nổi lên. 
        Điều thứ ba: như 
        đồ gốm tuy nắn thành hình, nhưng chưa trải qua một phen 
        nung lại cho chắc, gặp mưa xuống tất phải bị tan rã. 
        Trạng huống ngộ đạo khi chuyển sanh dễ bị thối thất, 
        cũng lại như thế. 
        Đời mạt pháp, người 
        tu có mấy ai ngộ đạo? Ngộ đạo không phải là dễ. Như 
        thuở xưa, Hương Lâm thiền sư dụng tử công phu trong bốn 
        mươi năm mới dung luyện thành một khối. Ngài Trường Khánh 
        Nhàn ngồi rách mười mấy chiếc bồ đoàn mới được 
        thấy tánh bản lai. Người đời nay, trừ một vài vị Thánh 
        nhơn ứng thân thị hiện để làm mô phạm cho quần chúng, 
        ngoài ra các vị khác tu thiền, chỉ tạm được thân tâm an 
        tỉnh hoặc thấy thiện cảnh giới là cùng! Dù đã ngộ đạo, 
        khi chuyển sanh vẫn còn có thể bị chướng nạn như những 
        điều đã kể trên. Đường sanh tử có nhiều nguy hiểm đáng 
        e ngại với kẻ chưa đắc đạo là thế. Cho nên nếu bảo 
        không sợ sanh tử, đó là chỉ lối suy tư của người 
        thiển cận mà thôi. 
        Hơn nữa, hiện tại 
        chánh pháp đã lần lần ẩn diệt, trên thế giới, nơi nào 
        ảnh hưởng duy vật tràn đến là đạo Phật không còn. Đã 
        có nhiều nơi chùa chiền bị hủy phá, kinh sách bị thiêu 
        đốt, tăng ni phải hoàn tục, hàng thiện tín không được 
        tu. Dù cho ngày kia có được phục hồi, cũng phải bị 
        biến thể và tiêu hao một phần lớn. Mong chuyển sanh để 
        tiếp tục tu hành với một nền đạo suy tàn, thiếu bậc 
        cao tăng dìu dắt, lấy đâu làm duyên tốt tiến đạo để 
        giải thoát trong tương lai? Cho nên muốn bảo đảm tâm Bồ 
        Đề không bị thối thất, phải tu Tịnh Độ. Dù tu các môn 
        khác cũng nên kiêm niệm Phật phát nguyện vãng sanh về 
        Cực Lạc. 
        Đây là lời khuyến 
        tấn chung của các bậc tiên đức, như các ngài: Liên Trì, 
        Ngẫu Ích, Kiên Mật, „n Quang. 
        Tiết 14 Làm Thế 
        Nào Để Thành Mãn Bồ Đề Tâm 
        * Đã phát Bồ Đề 
        tâm, suy tư kỹ đối với căn cảnh thời nay, phải dùng phương 
        tiện nào cho tâm ấy được thành tựu viên mãn? - Muốn cho 
        sự tự lợi lợi tha của nguyện Bồ Đề được toàn 
        vẹn, không chi hơn cầu sanh Tịnh Độ. Đây là sự kiện 
        thiết yếu thứ ba mà hành giả cần lưu ý. 
        Một vị cao đức 
        thời xưa, sau khi phát đại nguyện tu hành, đã thốt ra câu: 
        Thế gian, xuất thế 
        suy cùng khắp. 
        Chẳng niệm Di Đà lại niệm ai? 
        (Thế gian, xuất thế tư duy biến. 
        Bất niệm A Di cánh niệm thùy?). 
        Quả thật, khi xem 
        qua lời này, rồi suy lường so sánh từ pháp môn đến căn 
        cơ và hoàn cảnh thời nay, có lẽ tu Tịnh Độ là đường 
        an ổn vẹn toàn nhất. 
        Có người hỏi: - Đã 
        phát tâm độ sanh, thì nên trụ ở thế giới Ta Bà, vì nơi 
        đấy có nhiều chúng sanh khổ cần phải tế độ, tại sao 
        lại cầu sanh về Tây Phương? 
        - Xin thử hỏi lại: 
        Độ sanh cần có điều kiện chi để thực hiện? Phải chăng 
        là cần có: phước đức, trí huệ, biện tài, thần thông, 
        tướng hảo? (Mà trong những phương diện ấy, chúng ta đã 
        có một phần nào chưa?) Chỉ riêng về điểm phá phiền 
        hoặc để phát sanh trí huệ cho khỏi bị trần cảnh làm mê, 
        còn là điều không phải dễ! Cổ đức đã bảo: "Đoạn 
        kiến hoặc khó như ngăn dòng nước bốn mươi dặm!" Như 
        thế, nói chi đến đoạn tư hoặc, trần sa hoặc và vô 
        minh? Kiến hoặc, nói đơn giản, là những phiền não thấy 
        chấp về phần thô; tư hoặc là phiền não về phần tế. 
        Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta đã huân tập vào tâm 
        thức những ô nhiễm tham sân si, và không biết bao nhiêu là 
        sự thấy hiểu sai biệt, liệu trong một thời gian ngắn 
        của đời này, ta có thể tiêu diệt hết nó được chăng? 
        Người tu hiện nay, phần nhiều phước mỏng huệ cạn, 
        chỉ một câu A Di Đà Phật, niệm còn không dễ thuần 
        thục, đề cập chi đến sự tự tại độ sanh là việc xa 
        vời? Cho nên điều cần thiết trước mắt, là chúng ta nên 
        cầu sanh Tây Phương, trước tế độ mình cho khỏi bị đọa 
        luân hồi, nương thắng duyên ở cảnh giới ấy mà tinh 
        tấn tu hành. Chờ đến khi được chứng quả, đủ trí 
        huệ, biện tài, thần thông, tướng hảo, chừng ấy sẽ 
        trở lại Ta Bà độ sanh, mới có phần tự tại. Tuy nhiên, 
        đối với bổn phận và bi tâm của người tu, không phải bác 
        bỏ hẳn sự độ sanh trong hiện đời. Nhưng sự lợi người 
        nơi hiện tại của chúng ta, thật ra chỉ ở trong cảnh tùy 
        sức tùy duyên, như người rớt xuống dòng mê, vừa tự 
        lội vào bờ, vừa kêu gọi khuyên kẻ khác lội theo mà thôi. 
        * Luận rộng thêm, dù 
        chứng đến quả Vô Sanh, tuy muốn tu cho sáu độ được hoàn 
        mãn cần phải ở nơi cõi ác trược nhưng thật ra cũng không 
        thể xa lìa Tịnh Độ. Tại sao thế? - Như trong kinh nói, 
        bậc Sơ Địa Bồ Tát còn không thể biết chỗ dở chân lên 
        để chân xuống của hàng Nhị Địa, huống chi là biết 
        được cảnh giới của Như Lai? Vì lẽ ấy, nên trong hải 
        hội Hoa Nghiêm, sau khi giảng thuyết mười đại nguyện vương, 
        đức Phổ Hiền liền dùng lời kệ khuyến tấn chư Bồ Tát 
        khắp trong năm mươi mốt ngôi vị là: Thập Tín, Thập 
        Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Đẳng 
        Giác cầu sanh về Cực Lạc. Bởi nơi Tịnh Độ Phật thường 
        hiện thân, muốn vào cảnh giới thâm mật của Như Lai, Bồ 
        Tát phải năng gần gũi Phật. Cho nên những bậc đăng địa 
        Bồ Tát đều phải một mặt phân thân ở các Uế Độ 
        lập bồi công hạnh, mặt khác lại hiện thân nơi các 
        Tịnh Độ gần gũi học hỏi chư Phật để cầu bước 
        tiến tu. Sự vãng sanh Tịnh Độ rất cần cho từ hạnh bát 
        địa phàm phu đến bậc Đẳng Giác Bồ Tát là như thế. 
        Cứ như ba sự kiện 
        trên, nẻo luân hồi có nhiều chướng nạn, nếu chưa 
        chứng quả Vô Sanh, khi chuyển thế dễ bị hôn mê sa đọa. 
        Cho nên muốn bảo đảm tâm đại Bồ Đề không bị thối 
        thất và để thành mãn nguyện này, chẳng những hàng phàm 
        phu như chúng ta, vì gấp giải quyết vấn đề sanh tử luân 
        hồi trước mắt, cần phải cầu vãng sanh. Mà đến hàng siêu 
        địa Bồ Tát, nếu muốn vào cảnh giới thâm mật của Như 
        Lai cùng hoàn mãn đại nguyện ấy, cũng không thể xa lìa 
        Tịnh Độ. 
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | 01 
        | 02 | 03 | 04 | 05 
        | 06 | 07 | 08 
        | 09 | 10 | Mục 
        lục  |