BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Kinh Hoa Sen Chánh
Pháp
(Diệu Pháp Liên Hoa Kinh)
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
Phần Phụ Lục Có 6 phụ lục tất cả, không đủ lắm nhưng vẫn hơn cả số mà lời tựa của Tùy dịch (Chính 9/134) nói chính văn đã thiếu. Nhưng muốn cứu xét những phụ lục này, và những gì còn và cần nữa, đều phải đối chiếu các bản dịch của Pháp hoa, nhất là phải đối quán luận Pháp hoa mà làm chuẩn - Luận ấy phải được coi là uy quyền nhất. Đừng nghĩ chính văn không có là thiếu, các bản khác có là đủ.
Hơn nữa, Đại ca diếp, đối với chúng sinh, Như lai thuần hóa cho một cách đồng đều. Ví như ánh sáng mặt trời mặt trăng chiếu khắp thế giới, kẻ hiền người dữ, chỗ cao chỗ thấp, vật thơm đồ thối, tất cả đều được chiếu soi đồng đều chứ không thiên vị. Cũng y như vậy, Đạica diếp, ánh sáng tuệ giác Biết tất cả của bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, thì tiến hành đồng đều trong việc thuyết pháp cho tất cả năm loại chúng sinh, đúng như sự tin hiểu của họ đối với cỗ xe vĩ đại, cỗ xe duyên giác và cỗ xe thanh văn. Nhưng tuệ giác của Như lai không vì vậy mà tăng lên hay giảm bớt, chỉ phát lộ đúng với phước đức và trí tuệ của họ đã tu tập. Do vậy, Đại ca diếp, không có ba cỗ xe, chỉ vì việc làm khác nhau của chúng sinh mà giả thiết ra ba cỗ xe ấy. Đại ca diếp, vị tôn giả lấy tuệ giác làm sinh mạng, thưa rằng, bạch đức Thế tôn, nếu không có ba cỗ xe thì vì lý do gì mà hiện tại vẫn gọi thanh văn, duyên giác và bồ tát? Đức Thế tôn bảo vị tôn giả lấy tuệ giác làm sinh mạng: Đại ca diếp, ví như người làm đồ gốm, trộn đất sét đồng đều mà làm. Đồ ấy có cái đựng đường cát, có cái đựng sữa đặc, có cái đựng sữa lỏng, có cái đựng đồ dơ. Đất sét không khác biệt, nhưng tùy vật đựng ở trong mà đồ được gọi khác nhau. Cũng y như vậy, Đại ca diếp, ở đây chỉ có cỗ xe duy nhất là cỗ xe vĩ đại, không có cỗ xe thứ hai hay cỗ xe thứ ba. Đại ca diếp, vị tôn giả lấy tuệ giác làm sinh mạng, lại thưa, bạch đức Thế tôn, chúng sinh tin hiểu khác nhau, nhưng khi giải thoát ba cõi thì sự niết bàn của họ là một hay hai, ba? Đức Thế tôn dạy vị tôn giả lấy tuệ giác làm sinh mạng: Đại ca diếp, nếu biết niết bàn là thực thể bình đẳng của các pháp thì niết bàn ấy cũng một chứ không hai ba. Đại ca diếp, vì ý niệm này, Như lai sẽ giả thiết ví dụ cho tôn giả. Người có trí sẽ hiểu được ý nghĩa Như lai nói đến qua sự ví dụ. Đại ca diếp, ví như người mù bẩm sinh nói rằng không có sắc đẹp sắc xấu và không có người thấy được sắc đẹp sắc xấu, không có nhật nguyệt tinh tú và không có người thấy được nhật nguyệt tinh tú. Có người khác, hiện diện trước người mù bẩm sinh, bảo có sắc đẹp sắc xấu và có người thấy sắc đẹp sắc xấu, có nhật nguyệt tinh tú và có người thấy nhật nguyệt tinh tú. Người mù bẩm sinh dẫu nghe nói như vậy cũng không tin tưởng chấp nhận. Bấy giờ có vị lương y biết rành mọi bịnh, gặp người mù bẩm sinh, ông nghĩ như vầy: Người này vì hành vi tội ác đời trước mà đời này sinh bịnh. Bịnh sinh thì có bốn loại: đau nhức, nóng nảy, uể oải và ba loại đồng đều. Vị lương y muốn trị bịnh cho người mù bẩm sinh, lại nghĩ đến phương tiện: Bao nhiêu dược liệu thông thường hiện hành không thể trị lành bịnh này. Chỉ núi chúa Tuyết sơn có dược liệu đủ cả bốn tên: dược liệu thích ứng mọi màu sắc tính vị và trường hợp, dược liệu chữa lành mọi bịnh, dược liệu chữa khỏi mọi độc, dược liệu đem lại yên vui cho bất cứ ở đâu. Đó là bốn tên của dược liệu. Vị lương y thương xót người mù bẩm sinh, nghĩ như vậy rồi lại tìm cách đến núi chúa Tuyết sơn. Đến rồi, ông trèo lên trên đỉnh, đảo xuống dưới chân, và đi ngang quanh thân, tìm kiếm khắp cả. Tìm khắp cả rồi, ông được dược liệu có đủ bốn tên. Đem về nhai bằng răng mà cho dùng, giã bằng cối đá mà cho dùng, hoặc trộn với dược liệu khác nấu chín mà cho dùng, hoặc trộn với dược liệu sống khác mà cho dùng, hoặc châm chích thân mình có lỗ huyệt mà cho vào, hoặc nướng với lửa hay trộn với dược liệu khác nữa thành đồ ăn thức uống mà cho dùng. Người mù bẩm sinh nhờ phương tiện thích hợp như vậy nên phục hồi thị giác. Phục hồi thị giác rồi thấy hết trong ngoài, xa gần, ánh sáng trời trăng tinh tú, thấy hết vật sắc, và kêu lên như vầy: ôi chao, sao tôi ngu vậy, trước đây tôi nghe nói mà không tin. Nay, giờ này, tôi thấy được hết cả. Tôi hết đui mù rồi. Tôi đã được thị giác. Không ai hơn tôi nữa! Ngay lúc ấy có vị tiên nhân đủ cả năm thần thông: thị giác thần kỳ, thính giác thần kỳ, biết tâm lý người, tự nhớ đời trước và biến hóa thần kỳ, bảo người ấy, chàng trai, anh chỉ có thị giác bình thường, ngoài ra không biết gì cả, vì sao anh kiêu căng trong khi chưa có trí tuệ và tài giỏi? Vị tiên nhân lại bảo, anh vào ngồi trong phòng thì bên ngoài có vật sắc gì anh đã không thấy không biết. Anh cũng không biết được tư tưởng lương thiện hay tư tưởng độc ác của ai. Giới hạn cách anh năm do tuần thì âm thanh của nói năng, của trống, của ốc, của gì nữa anh cũng không nghe không biết. Chỗ nào cách anh chỉ một lô xá, anh không cất đôi chân thì không thể đến được. Mới sinh và mới lớn mà bụng mẹ anh và những gì anh làm, anh cũng không biết không nhớ. Anh có tài giỏi trí tuệ gì đâu, sao anh bảo anh thấy biết hết? Chàng trai, anh đang lấy tối làm sáng, như trước đây anh đã lấy sáng làm tối! Chàng trai liền hỏi vị tiên nhân: bằng phương tiện nào, và con phải làm việc làm trong sáng nào để được những sự thấy biết ấy? để, với sự tin cậy vào ngài, con cũng sẽ được những khả năng đặc biệt như ngài? Vị tiên nhân bảo: muốn như vậy thì anh phải đến ở trong hang núi trống vắng, ngồi yên mà tư duy chánh pháp, hủy diệt phiền não. Thì anh sẽ đạt được khả năng đầy đủ của thần thông. Người ấy tiếp nhận ý nghĩa của vị tiên nhân nói, tức thì xuất gia, ở chỗ trống vắng, chuyên giữ tâm ý duy nhất, cắt đứt ái dục khao khát, và được năm thần thông. Được năm thần thông rồi, nghĩ rằng trước đây ta làm những việc khác với việc ta làm bây giờ, do vậy mà ta đã không có một khả năng tốt đẹp nào khả dĩ tự biết. Nay thì ta nghĩ chỗ nào là đến chỗ ấy. Trước đây ta thật ít trí ít tuệ, sống thật đui mù! Đại ca diếp, giả thiết ví dụ này là Như lai muốn chư vị hiểu biết ý nghĩa của Như lai nói. Trong ý nghĩa ấy, chư vị nên biết người mù bẩm sinh là tất cả chúng sinh lưu chuyển trong sáu loài, chưa biết chánh pháp nên phiền não làm tối tăm thêm lên cho vô minh mù lòa, vô minh mù lòa nên hạnh nghiệp tập hợp, hạnh nghiệp tập hợp nên danh sắc cho đến cả khối đau khổ lớn lao được tích lũy, sinh thêm vô minh mù lòa, và chúng sinh lưu chuyển mà sống trong đó. Duy có Như lai siêu thoát ba cõi, thương xót chúng sinh ba cõi như người cha hiền từ thương đứa con một. Thương xót như vậy nên Như lai bước xuống, vào trong ba cõi, thấy chúng sinh sống trong lưu chuyển, không biết chính xác phương cách thoát khỏi sự lưu chuyển ấy. Như lai đem mắt Phật mà nhìn thì thấy như vậy. Thấy rồi, biết chúng sinh ấy, theo đức hạnh đã làm đời trước, có người sân hận ít dầu dục vọng nhiều, có người dục vọng ít dầu sân hận nhiều, có người có một ít trí, có người có tuệ khéo léo, có người thuần thục trong sáng, có người kiến thức sai lầm. Chính vì đối với tất cả những người như vậy mà Như lai phương tiện nói ra ba cỗ xe. Vị tiên nhân đủ cả năm thần thông là bồ tát, phát bồ đề tâm, được vô sinh nhẫn, tự tỉnh và thức tỉnh chúng sinh về tuệ giác vô thượng. Vị lương y vĩ đại là Như lai : nên thấy như vậy. Người mù bẩm sinh là chúng sinh ngu tối: nên thấy như vậy. Các bịnh đau nhức, nóng nảy, uể oải và đồng đều là dục vọng, sân hận, ngu si và sáu mươi hai kiến thức sai lầm : nên thấy như vậy. Dược liệu đủ bốn đặc tính là các cửa ngõ không, không sắc tướng, không ưa thích và niết bàn: nên thấy như vậy. Dùng thuốc bịnh dứt là không, không sắc tướng, không ưa thích và niết bàn mà được tu niệm chính xác thì vô minh diệt, vô minh diệt thì hành diệt, cho đến cả khối đau khổ lớn lao cũng diệt. Tư duy tu tập như vậy thì tâm trí không còn đặt mình vào trong điều tốt hay điều xấu. Người đui mù phục hồi thị giác là các vị thanh văn duyên giác: nên thấy như vậy. Các vị này cắt đứt sự ràng buộc của phiền não đã tạo ra lưu chuyển nên giải thoát phiền não, giải thoát sự lưu chuyển trong sáu loài ba cõi. Chính vì thành quả này mà các vị thanh văn duyên giác nghĩ rằng không có pháp nào khác cần phải tu chứng thêm nữa, nghĩ rằng ta đã đạt đến niết bàn. Như lai, lúc ấy, lại giảng giải cho họ: đối với các pháp mà chưa thấu triệt tất cả thì làm sao có niết bàn cứu cánh? Các vị này, Như lai đem tuệ giác vô thượng mà hoán cải, làm cho họ phát tâm tuệ giác vô thượng, không ở sinh tử, không đến niết bàn. Họ tỏ ngộ ba cõi và mười phương đều Không: đều như ảo thuật, như cảnh mộng, như sóng nắng, như tiếng vang. Họ xét thấy các pháp không sinh không diệt, không buộc không mở, không tối không sáng. Thấy pháp rất sâu như vậy nên sự thấy ấy không thấy gì mà vẫn thường thấy những sự tin hiểu khác nhau của chúng sinh đầy trong ba cõi. Khi ấy đức Thế tôn muốn lặp lại ý nghiệa đã nói, nên nói nhưng lời chỉnh cú sau đây.
Ghi chú (a): Chính văn bất tri, chữ bất rõ ràng chép sai.
Đức Thế tôn dạy: Tốt lắm, đúng như tôn giả nói. Như lai nhìn thấy một cách thấu suốt bản tính của chúng sinh, nhận thức hành vi đạo đức của họ sâu cạn thế nào rồi mới thuyết pháp cho. Như dạy cho thanh văn thì bằng cỗ xe thấp nhỏ. Khi làm cho những sự dơ bẩn như dục vọng và hận thù được loại bỏ, mới dắt họ đến tuệ giác vô thượng mà các vị bồ tát theo đuổi. Sự thể như một người hướng dẫn hiền từ, thương người nghèo khốn, cơm áo không có, xin cũng không ra, bần cùng đến nỗi không có chút gì để sống. Ông gióng trống tuyên cáo cả nước: ai muốn đi ra biển cả lấy ngọc? Khi ai cũng đến, ông huấn dụ: ai không tiếc thân mình, không lo cha mẹ, không bị vợ con, thì ra biển cả kiếm ngọc với ta! Nghe vậy, nhiều người lui về. Ai nghèo quá, muốn đi kiếm ngọc mà không tự liệu được cái mặc cái ăn nên phân vân bất quyết, thì ông biết, gọi bảo: nếu đi thì ta cho quần áo lương thực, không để đói lạnh đâu. Họ mừng lắm, tuân lệnh của ông, cùng nhau lên thuyền, ngó gió căng buồm, đi ra biển khơi. Họ không bị cá mập, không vấp núi ngầm, quái vật cũng không tác quái. Họ đến được gần cung điện đức vua biển cả. Người hướng dẫn vào tâu xin đức vua ban cho ngọc như ý. Ông nói: người phàm chúng con nghèo quá, không sống nổi, cầu xin đức ngài ban cho để cứu lấy người xa kẻ gần của đức ngài! Đức vua biển cả tức khắc chuẩn y thỉnh nguyện của ông: ai muốn gì thì cứ bảo đến lấy. Người hướng dẫn quay lại, nói rõ, và bảo cả đoàn đi lấy. Nhưng người đi lấy thì ít, kẻ không chịu đi lấy thì nhiều. Họ sợ đến đức vua biển cả thì e chết chìm mà không trở về được. Người hướng dẫn bảo những người chịu theo: cứ lấy tùy thích! Họ lấy bạc, vàng, lưu ly, thủy tinh, hổ phách, xa cừ, mã não, và ai cũng lấy đầy thuyền của mình. Người hướng dẫn ra lệnh trở về. Họ tuân lệnh, và về đến nước mình thì bà con làng xóm cùng mang thực phẩm, âm nhạc và ngựa xe đến đón, vui chơi với nhau đến 7 ngày đêm rồi mới về nhà ở. Bấy giờ mới hỏi nhau lấy được ngọc gì. Thì biết kẻ khờ dại chỉ lấy toàn ngọc tạp, người khôn ngoan chỉ lấy ngọc như ý. Người hướng dẫn liền lên lầu cao, tay nâng ngọc như ý, nhìn khắp mọi phương hướng mà nói: ngọc này hãy mưa xuống đủ hết 7 thứ quí báu! Lời nói ứng nghiệm tức thì, 7 thứ quí báu xuất hiện khắp nước. Những người khôn ngoan khác được bảo chia nhau mà đi các nước, họ cũng làm và cũng được như vậy. Những người khờ dại bấy giờ mới than: chúng ta cũng ra biển mà ức không được ngọc ấy! Người hướng dẫn bảo, ta đã nói rõ mà anh không lấy, bây giờ oán thán nỗi gì? Nghe thế, họ bỏ hết ngọc tạp, cùng nhau trở lại biển cả, đến xin đức vua cho ngọc như ý. Họ được cho cả, và trở về cũng được mưa xuống 7 thứ quí báu. Đức Thế tôn nói: phát ý nguyện tuệ giác vô thượng thì như người hướng dẫn đi ra biển cả. Thương người nghèo mà bảo họ cùng đi là người ấy giảng dạy kinh pháp cho mọi người. Ngó gió căng buồm là học tập tuệ giác phương tiện. Ba tai nạn cá mập, núi ngầm và quái vật là 3 sự không, không sắc tướng và không ưa thích (a). Biển cả là biển cả sống chết. Được ngọc như ý là được pháp thân vô thượng của Phật. Những người trở ra biển cả lấy ngọc như ý là các thanh văn nghe thấy đường đi bồ tát mà phát tâm ý quảng đại, được tuệ giác Không sinh. Trước đó họ chỉ lấy 7 thứ ngọc tạp đầy thuyền của mình là các thanh văn ấy, ngày trước, chỉ được 7 thành phần tuệ giác. Về nước bà con làng xóm đến đón là ai cũng đến nghe kinh pháp. Lên lầu cao cầm ngọc như ý nhìn khắp phương hướng là được tuệ giác Phật đà, hóa độ mười phương. Bảo những người khôn ngoan đi các nước khác mưa xuống 7 thứ quí báu là mỗi vị bồ tát đi đến một thế giới mà thành tựu tuệ giác tối chính xác. Những người khờ dại hối hận, bảo nhau trở ra biển cả là các thanh văn nghe thấy cỗ xe duy nhất, không có hai đường, bấy giờ mới quay lại phát tâm tuệ giác vô thượng, và sau đó cũng trở thành Phật đà với những danh hiệu tôn quí. Lúc ấy đức Thế tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.
Ghi Chú (a) Ba giải thoát môn, ở đây, thành "tai nạn" cho bồ đề tâm; ở phụ lục ba lại thành cơ bản.
Đoạn này kinh Duy ma cũng có (Chính 14/556) Đức Thế tôn dạy, chư vị tỷ kheo, pháp thì chỉ có cỗ xe duy nhất, không có hai cỗ xe. Pháp ấy là tuệ giác vô thượng. Quá khứ, vị lai, cũng như hiện tại, không có pháp nào khác. Ví như mọi dòng nước đều đổ về biển cả và hợp lại thành một vị, lại như mặt trời chiếu soi khắp cả mà bản thân không hề thêm lên hay bớt đi. Thiện nam hay thiện nữ nào muốn đạt đến tuệ giác vô thượng, thì nên biết xưa nay hay sau này, không có đường nào khác hơn là tu học kính giữ Pháp hoa, thấu triệt tuệ giác về Không, đến nỗi không chấp trước cả sáu ba la mật. Không lấy sự hiến cúng hương hoa âm nhạc làm sự hiến cúng, mà thấu đáo ba giải thoát, thực hiện ba minh đạt, tuệ giác tối thượng ấy mới thật là cúng phẩm. Xa xưa, cách nay những thời kỳ khó mà xác định giới hạn, bấy giờ có đức Phật danh hiệu Dược vương như lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độ của ngài tên là Đại tịnh, thời kỳ của ngài tên là Tịnh trừ. Ngài sống hai mươi thời kỳ bậc giữa. Đệ tử thì chúng thanh văn có ba mươi sáu ức vị, chúng bồ tát có mười hai ức vị. Vị luân vương của thời kỳ ấy tên là Bảo cái, ngự trị tất cả thành trì bốn phương. Luân vương cũng có ngàn vương tử, đẹp và mạnh. Lại có bảy người vật quí báu, trong đó có ba vị đại thần rất thần thánh, nên làm cho những kẻ thù địch hàng phục tất cả. Vị luân vương này hiến cúng đức Dược vương như lai trọn năm thời kỳ bậc giữa. Cùng với thân quyến, ông dâng hiến ngài mọi thứ cần thiết. Hết năm thời kỳ bậc giữa rồi, luân vương bảo ngàn vương tử, ta đã phụng sự đức Thế tôn, các con phải tuân theo truyền thống ấy của ta. Ngàn vương tử nghe vương phụ dạy như vậy thì cùng nhau hiến cúng đức Dược vương như lai năm thời kỳ bậc giữa nữa, dâng lên ngài mọi thứ thượng hạng, không trái với điều gì cần thiết. Trong số ngàn vương tử ấy có một người tên Thiện cái. Lúc yên tĩnh một mình, vương tử Thiện cái nghĩ, chúng ta hiến cúng đức Thế tôn như vậy mà có cách nào hơn nữa chăng? Vâng theo uy thần của đức Dược vương như lai, một thiên nhân ở trong không gian bảo vương tử Thiện cái, thiện nam tử, ông muốn biết chăng? Có cách hiến cúng chánh pháp mới thật tối tôn tối thượng. Vương tử Thiện cái hỏi, hiến cúng chánh pháp là thế nào? Thiên nhân bảo, ông hãy đến xin hỏi đức Dược vương như lai, ngài sẽ giải thích phong phú cho ông. Vương tử Thiện cái liền đứng dậy, đi đến chỗ đức Dược vương như lai, đầu lạy sát đất, thưa rằng bạch đức Thế tôn, những người muốn phụng hành cách hiến cúng chánh pháp thì phải làm thế nào? Đức Dược vương như lai dạy, hiến cúng chánh pháp là thuận với ý nghĩa sâu xa của kinh điển Như lai huấn dụ mà khai hóa hết thảy tầng lớp thế giới, bằng cách làm cái việc khó làm là xả bỏ thế lợi mà xuất gia, cầu cho được kho tàng của bồ tát. Rồi ở nơi thanh vắng, đem trí nhớ bao quát mà nhớ hết. Đem sức mạnh tinh tiến mà đi tới, theo bánh xe chánh pháp không thoái chuyển. Thực hiện sáu pháp ba la mật của tuệ giác vô cực. Chân thành nắm lấy một cách chắc chắn tất cả thành phần tuệ giác mà Như lai đã huấn thị. Với tuệ giác Không sinh, hãy mở ra và bước vào kinh điển chính yếu. Đối với chúng sinh thì thực thi lòng thương rộng lớn. Đối với ma quân thì chiến thắng bằng cách hủy diệt những sự chấp trước các pháp. Thấu rõ mười hai duyên khởi, không thấy bản ngã, linh hồn, sinh thể, tồn tại. Chánh niệm về không, không sắc tướng và không ưa thích, chứ không bị lôi kéo bởi mọi sự diễn biến. Ngồi nơi bồ đề tràng mà chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Khuyến hóa tám bộ thiên long, làm cho ai cũng ưa thích, ngưỡng vọng. Mở cửa kho tàng chánh pháp mà hướng dẫn thánh hiền. Tuyên dương quảng bá các hạnh bồ tát. Tuyệt diệt đau khổ bằng ý thức không bản ngã, không bản thân. Chúng sinh vi phạm giới pháp thì xây dựng cho họ bằng giáo pháp thích hợp. Ma quân ngoại đạo, những kẻ rơi vào kiến thức thác loạn, bám vào lạc thú hư ảo, lòng thường khiếp sợ hoang mang, thì tán dương cho họ biết oai đức Phật đà để họ thoát sống chết, trừ hệ lụy, nhìn thấy sự yên ổn bất biến. Tuân hành những gì chư Phật xưa nay và sau này ca tụng. Tước bỏ hình dáng hoa myծ Được tổng trì, chứng pháp nhẫn. Mở mắt, dắt đường, giáo huấn cho tất cả tầm cỡ khác nhau. Vận dụng phương tiện ý nghĩa mà bồi dưỡng cho chánh pháp. Tất cả những điều trên đây gọi là hiến cúng chánh pháp. Đối với kinh pháp thì chú trọng pháp nhẫn. Diễn giảng kinh pháp mà thỏa mãn mọi sự chất vấn. Diễn tả những điểm chính yếu của kinh pháp mà bài trừ mọi sự thấy biết sai lạc. Với tuệ giác Không sinh mà biết không bản ngã, không linh hồn, vào sâu nguyên lý duyên khởi, không còn giận cãi, tranh chấp. Không bản ngã, không tồn tại, không nắm lấy lời này ý nọ, nên tâm không vướng mắc, trí không phóng túng: điều khiển tâm trí đứng vững vào sự không đứng lại. Nhận thức ý nghĩa mà Như lai muốn chỉ thị, nên hướng dẫn được cho những kẻ lầm lẫn ý nghĩa ấy. Loại bỏ mọi sự nương dựa thông thường, kẻ không có kiến chấp chỉ dựa vào chân lý, sống đúng khuynh hướng của chân lý chứ không vướng mắc, không hội nhập, hủy diệt dục vọng, loại trừ si mê, và vì vậy mà già bịnh sống chết tan rã tất cả. (Nói cách khác), nhìn rõ mười hai duyên khởi nên kiến thức không còn thác loạn. Thiện nam tử, đó là cách hiến cúng chánh pháp. Vương tử Thiện cái từ đức Dược vương như lai nghe cách hiến cúng chánh pháp ấy thì được liền sự nhận định thuận với chánh pháp, nên cởi dải lụa choàng trên mình mà hiến lên ngài, thưa rằng, bạch đức Thế tôn, xin đức Thế tôn ban cho con một ân huệ thánh thiện, ấy là chứng minh cho chí nguyện của con: Sau khi đức Thế tôn nhập niết bàn, con nguyện hộ trì chánh pháp bằng cách thực hiện sự hiến cúng chánh pháp ấy mà chiến thắng ma quân, tiếp dẫn hậu hiền. Đức Dược vương như lai nhận thức thành tâm của vương tử Thiện cái nên đã chuẩn nhận cho vương tử cái nguyện làm thành trì cho chánh pháp trong tương lai. Đức Thế tôn bảo, chư vị tỷ kheo, vương tử Thiện cái nhân cơ hội đức Dược vương như lai còn tại thế mà thoát ly gia đình, sống không gia đình để tu học chánh pháp. Với sự tinh tiến thường xuyên, tỷ kheo Thiện cái gieo trồng đủ hết gốc rễ công đức, nên không bao lâu mà được năm thần thông, được pháp tổng trì, được tài hùng biện, không ai thắng nổi. Sau khi đức Dược vương như lai nhập niết bàn, tỷ kheo Thiện cái lại hoàn thiện đủ cả về thần thông, tổng trì, các đại năng lực, các sự không sợ ; trong mười thời kỳ bậc giữa, tỷ kheo Thiện cái tiếp tục đẩy tới bánh xe chánh pháp mà đức Dược vương như lai đã chuyển đẩy. Tỷ kheo Thiện cái hộ trì chánh pháp như vậy nên trong một đời sống ấy mà hóa độ được một ngàn ức người phát tâm tuệ giác vô thượng, làm cho họ không còn thoái chuyển đối với tuệ giác ấy ; làm cho mười bốn tải người đứng vào vị trí thanh văn duyên giác; lại làm cho không biết bao nhiêu người được sinh chư thiên. Chư vị tỷ kheo, chư vị muốn biết luân vương Bảo cái lúc ấy thì nay là Bảo diệm như lai, ngàn vương tử của luân vương Bảo cái lúc ấy là ngàn đức Phật trong Hiền kiếp mà khởi đầu là Câu lưu tôn như lai, chấm hết là Hân lạc như lai. Trong số ấy, vương tử Thiện cái chính là bản thân Như lai. Bởi sự thể này mà chư vị phải biết mọi sự hiến cúng không gì bằng hiến cúng chánh pháp. Xưa nay và sau này, chư Phật đều do hiến cúng chánh pháp mà ra. Và thiện nam hay thiện nữ nào muốn hiến cúng chánh pháp đối với chư Phật khắp các khu vức vũ trụ thì hãy tiếp nhận kính giữ Pháp hoa, đọc tụng, diễn giảng, phân tích cho ai cũng thấy chỉ có cỗ xe duy nhất, không có ba cỗ xe. Vào lúc ấy, đức Thế tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.
Đức Thế tôn bảo bồ tát Đại biện (Đại lạc thuyết): Ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu này ở khu vức chính đông mà nằm ở dưới, cách đây vô số hằng sa cõi Phật, thường ở trong hư không mà chưa xuất hiện bao giờ. Nay, đức Đa bảo phật đà ở trong bảo tháp ấy, vốn thấy ta, Thích ca như lai, khi làm bồ tát thì vì chúng sinh mà không tiếc thân mạng, siêng năng không nhác trong việc thực hành những sự toàn hảo, ấy là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhất tâm, trí tuệ; là cần đầu cho đầu, cần mắt cho mắt, cần mũi cho mũi, cần tai cho tai; và tay chân, mọi bộ phận khác của bản thân; và hoàng hậu, vương tử, quần thần; và bảy thứ quí báu, xe thuyền, voi ngựa, quần áo, áo lông; và đô thành, quận huyện; tất cả mọi thứ, ai cần gì thì tùy thích, Như lai cho hết mà không tiếc, tự đưa mình đến chỗ được thành Phật đà - vốn thấy như vậy nên đức Đa bảo phật đà xuất hiện để trọng kính Như lai, muốn mời Như lai cùng ngồi trên pháp tòa sư tử của ngài mà giảng nói Pháp hoa, khai hóa tất cả, cho ai nấy cùng hưởng ân huệ. Rồi đây Như lai sẽ làm theo lời mời ấy: sẽ cùng ngồi pháp tòa của ngài mà phô diễn Pháp hoa. Đức Thế tôn nói lại việc này bằng chỉnh cú sau đây.
(27) Ngài, thương xót thế gian như vậy, sẽ thành Phật, diệt trừ tất cả hiểm nguy và đau buồn. Con xin khiêm tốn cúi mình trước ngài, đức Avalokitesvara. (28) Đức thế tôn này của thế giới, vị thủ lãnh này của các vua, là nguồn đức độ tu hành phong phú, ngài, được thế giới tôn thờ, đã đạt đến tuệ giác thuần khiết, tối thượng, sau khi gắng sức theo con đường của mình trong hàng trăm niên kỷ. (29) Lúc thì đứng bên phải, lúc thì đứng bên trái đức bổn sư Amitabha của ngài, và quạt hầu vị ấy, nhưng do định lực, ngài vẫn hiện đến vinh danh các đức Gina ở mọi phương hướng. (30) Về phía tây, nơi mà thế giới Sukhakara thanh khiết tọa lạc, và đức bổn sư Amitabha của ngài, đấng thuần hóa mọi người, cư trú cố định ở đấy. (31) Ở đấy không có phụ nữ, sự giao hoan thì hoàn toàn không được biết đến ở đấy; ở đấy các con trai của đức Gina, khi xuất hiện trong cõi sống thì bằng cách hóa sinh; ở đấy ngài đang ngồi ở trong đài sen không ô uế. (32) Và chính đức bổn sư Amitabha của ngài thì ngồi trên ngai trong một đài sen tinh khiết, xinh đẹp, và chiếu sáng như Sala-ma. (33) Vị lãnh đạo thế giới mà kho tàng công đức của ngài được ca ngợi, thì không có sự tương tự nào trong thế giới ba cõi. Ôi vị tối cao của con người, xin hãy cho chúng con sớm được như ngài! Ghi chú: Avalokitesvara: Quan tự tại (Quan thế âm). Amitabha: A di đà. Sukha-kara: Cực lạc. Gina: Tối thắng. Sala-ma?
(1) Phạn văn minh chú của bồ tát Dược vương: Anye manye mane mamane citte carite same samita visante mukte muktatame same avisame samasame (jaye) ksaye aksaye aksine sante samite dharani alokabhase pratyaveksani nidhiru abhyantaraniviste abhyantaraparisudhi mutkule mutkule arade parade sukanksi asamasame budhavilokite dharmapariksite samghanirghosani (nirghoni) bhayabhayavisodhani mantre mantraksayate rute rutakausalye aksaye aksayavanataye (vakkule) valoda amanyanataye svaha. (2) Phạn văn minh chú của bồ tát Dũng thí: Jvale mahajvale ukkle (tukke) mukke ade adavati nrtye nrtyavati ittini vittini cittini nrtyani nrtyavati svaha. (3) Phạn văn minh chú của Tỳ sa môn thiên vương: Atte (tatte) natte vanatte anade nadi kumadi svaha. (4) Phạn văn minh chú của Trì quốc thiên vương: Agane gane gauri gandhari candali matangi pukkasi samkule vrusali sisi svaha. (5) Phạn văn minh chú của các La sát nữ: Iti me iti me iti me iti me iti me nime nime nime nime nime ruhe ruhe ruhe ruhe ruhe stuhe stuhe stuhe stuhe stuhe svaha. Phạn văn minh chú của bồ tát Phổ hiền: Adande dandapati dandavartani dandakusale dandasudhari sudhari sudharapati budhapasyanê sarvadharani avartani sarvabhasyavartane suavartane samghapariksani samghanirghatani (saddharmasupariksite) asamge samgapagate tradhvasam- gatulya (prante) sarvasamgasamatikrante sarvadharmasupariksite sarvasattvarutakausalyanugate simhavikridite anuvarte vartani vartali svaha. -ooOoo- Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 |
Source: Buddhism Today, http://www.buddhism.today
[Trở
về trang Thư Mục]
updated: 06-09-2002