Viết Tắt
[^]
Chính: Đại tạng kinh bản Đại chính;
thí dụ Chính 9/1t10 là Chính, tập 9, trang 1, khoảng trên (giữa: g, dưới:
d), dòng 10.
Vạn: Tục tạng kinh bản chữ Vạn;
thí dụ Vạn 42/10A là Vạn, tập 42, tờ 10, mặt trước (sau: B).
Chính văn: Diệu pháp liên hoa, cũng
gọi là Tần dịch, của ngài La thập; bản này là chính văn của bản dịch
của tôi.
Tấn dịch: Chánh pháp hoa.
Tùy dịch: Thiêm phẩm pháp hoa.
Anh dịch: của Kern.
Luận: luận Pháp hoa.
Ghi Chú
[^]
- Ghi Chú (1)
- Xét bản chữ Phạn của các kinh đều gọi đức
Bổn sư là Thế tôn. Dịch là Phật, chỉ là dịch chủ muốn vắn tắt. Thế
tôn ở đây là hóa thân mà cũng là báo thân (Vạn 52/301A). Tôi dùng chữ
Thế tôn để hầu hết gọi đức Bổn sư, và ngài tự xưng thì hầu hết
dùng chữ Như lai.
-
- Ghi Chú (2)
- Nhưng có vị sẽ là A la hán, như chính ngài A
nan.
-
- Ghi Chú (3)
- Sự sơ hở, chính văn là lậu, dịch sát là sự
rỉ lọt. Chỗ nào lậu chỉ cho phiền não thì dịch bằng chữ này. Nhưng
vô lậu thì tùy chỗ mà dịch là không sơ hở, không sai sót, thuần khiết,
hoàn thiện.
-
- Ghi Chú (4)
- Hiện hữu, chính văn là hữu, tức 3 cõi, có sống
chết, có nghiệp báo.
-
- Ghi Chú (5)
- Tên các vị này phần nhiều gọi tắt theo thông
thường mà vẫn dễ tra cứu.
-
- Ghi Chú (6)
- Tu học tiếp tục và tu học hoàn tất, chính văn
là học vô học (hữu học, vô học), cũng có chỗ sẽ dịch tắt là còn học,
học xong.
-
- Ghi Chú (7)
- Tuệ giác vô thượng là dịch nghĩa và tắt
chính văn A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Tuệ giác vô thượng còn là dịch
các chữ vô thượng đạo, vô thượng trí, vô thượng tuệ.
-
- Ghi Chú (8)
- Tổng trì, chính văn có chỗ còn dịch âm là đà
la ni. Tổng trì là nắm giữ ghi nhớ một cách bao quát. Nguyên tổng trì
có 4: pháp, nghĩa, chú, nhẫn; 3 thứ thực chất là niệm với tuệ, riêng
chú thực chất là định, lại thường hay gọi bằng tên chung là đà la ni
(tổng trì). Nhưng kinh Pháp hoa này nói tổng trì thì có: nghe nhớ, xoay chuyển
vô số (phẩm 17), biết hết tiếng nói của chúng sinh (phẩm 23), minh chú
(phẩm 26), xoay chuyển, xoay chuyển vô số và nghệ thuật thuyết pháp (phẩm
28). Gồm lại thì có 5, thực chất chỉ có 4: Một, Nghe nhớ (văn trì) là
nghe và nhớ hết các pháp được nghe. Hai, Xoay chuyển (triền, cũng có thể
dịch là Vòng xoay) là xoay chuyển sâu vào nội dung của mỗi pháp được
nghe nhớ. Phụ thuộc tổng trì này là tổng trì Xoay chuyển vô số (bách
thiên vô lượng triền, dịch rõ là tổng trì Xoay chuyển trăm ngàn vô số)
là xoay chuyển sâu rộng vào mọi sự tương quan của mỗi pháp được nghe
nhớ. Ba, Nghệ thuật thuyết pháp (pháp âm phương tiện, dịch rõ là tổng
trì Phương tiện trong tiếng nói thuyết pháp) là biết ngữ văn và biết
cách sử dụng thích hợp về ngữ văn ấy để thuyết pháp đã được
nghe nhớ. Phụ thuộc tổng trì này là tổng trì Biết hết tiếng nói của
chúng sinh (giải nhất thế chúng sinh ngữ ngôn). Bốn, Minh chú (đà la ni: tổng
trì, thêm để dễ đọc dễ hiểu là Tổng trì minh chú) là do định mà
phát ra những chữ gồm nhiều ý nghĩa và thần dụng. Cứu xét 4 tổng trì
của Pháp hoa trên đây thì thấy chỉ là 3 trong 4 tổng trì (là pháp, nghĩa
và chú, trừ nhẫn), lại thấy trừ minh chú, 3 tổng trì còn lại rất ăn
khớp với 4 tài hùng biện.
-
- Ghi Chú (9)
- Tài hùng biện (biện tài) có 4: thông suốt giáo
pháp (pháp) thông suốt ý nghĩa của giáo pháp (nghĩa) thông suốt ngữ văn
của giáo pháp (từ) thông suốt biện thuyết về giáo pháp (biện, chính văn
gọi là lạc thuyết: biện thuyết hoan hỷ). Trong 4 thứ, 3 thứ đầu là yếu
tố hùng biện, thứ 4 mới là hùng biện, và 4 tài hùng biện này chính văn
có chỗ còn gọi là vô ngại hay vô ngại trí, dịch là 4 trí thông suốt.
-
- Ghi Chú (10)
- Dịch sát là chuyển đẩy bánh xe chánh pháp
không thoái chuyển. Không thoái chuyển là không đi lui, đi lệch hay ngừng
lại. Pháp không thoái chuyển là để dạy cho bồ tát đệ bát địa sắp
lên (Vạn 52/486B).
-
- Ghi Chú (11)
- Nhưng kinh Đại bát nhã (cuốn 570) nói chủ thế
giới hệ Kham nhẫn chính là Phạn vương Trì kế, Trì kế là Thi khí (Vạn
52/313A). Theo đó thì câu này phải dịch: Phạn vương chủ thế giới hệ
Kham nhẫn là Phạn vương Thi khí, cùng các Phạn vương đại loại như Phạn
vương Quang minh...
-
- Ghi Chú (12)
- Các tên dịch nghĩa trong đoạn này còn lấy của
Tấn dịch và Vạn 52/313A.
-
- Ghi Chú (13)
- Cũng có nghĩa "bản kinh dạy cho bồ tát và
nói về vấn đề của Phật".
-
- Ghi Chú (14)
- Một cõi Phật (Phật quốc, Phật độ, Phật thế
giới) là một hay nhiều đại thiên thế giới.
-
- Ghi Chú (15)
- Cũng có thể dịch: Đức Thế tôn đang nhập định,
cảnh tượng hiếm có này, được biểu hiện bởi sự thể ngoài tầm nghĩ
bàn ấy... Dịch như vậy là coi sự nhập định của Phật là sự bất khả
tư nghị, sự ấy hiện ra thần biến (tham chiếu Vạn 52/320B).
-
- Ghi Chú (16)
- Chỉnh cú, chính văn là kệ, là chữ dịch âm và
gọi tắt. Chữ này được dịch nghĩa là tụng, và là thể thơ. Nhưng dịch
ra Hoa văn rồi dịch lại Việt văn, thì chỉ là lối văn câu và chữ
không so le, nên tôi gọi là chỉnh cú. Số thứ tự của văn chỉnh cú
Pháp hoa thì dò Anh dịch mà ghi.
-
- Ghi Chú (17)
- Con Phật, chính văn là Phật tử, dịch rõ là con
trai của Phật, đích tử của Phật. Nhưng chữ Phật là chính văn dùng cho
vắn tắt. Thật ra có chỗ là con Phật, có chỗ là con đức Tối thắng, có
chỗ là con đức Thiện thệ, có chỗ là con đức An trú (tham chiếu Tấn dịch),
và kinh này phần nhiều dùng để chỉ cho bồ tát.
-
- Ghi Chú (18)
- Tuệ giác Phật, hay tuệ giác Phật đà, trí Phật,
Phật tuệ, chính văn là Phật đạo (hay Phật trí, Phật tuệ). Phật đạo
có nghĩa là trí của Phật, đường của Phật, thành quả của Phật, giáo
pháp của Phật. Nhưng nghĩa chính là trí của Phật. Được biết ngài La
thập cũng dịch bồ đề là giác, như chữ vô thượng giác trong Phạn
võng (Chính 24/100g). Nhưng phần nhiều ngài hay dịch là đạo, với cái nghĩa
triết lý của chữ ấy, để hình dung trí Phật biết là ví như cảnh vật
hiện trong thể chất trong suốt, hơn là ví như ngọn đèn chiếu soi cảnh
vật. Dùng chữ tuệ giác là để dễ hiểu mà thôi. Chỗ nào chữ đạo
được dùng với nghĩa đường đi (pháp tu) hay nghĩa khác thì sẽ dịch rõ
như vậy, ít nhất là so với Anh dịch.
-
- Ghi Chú (19)
- Xe liễn là xe do người đẩy, xe dư là xe do người
khiêng (nên cũng có thể dịch là cỗ kiệu). Cả 2 nguyên là xe vua dùng.
-
- Ghi Chú (20)
- Giáo pháp của Phật ví dụ như xe, với ý nghĩa
chở người đến chỗ muốn đến. Xe ấy có 3 (tam thừa): cỗ xe thanh văn
(thanh văn thừa) cỗ xe duyên giác (duyên giác thừa) cỗ xe Phật đà (Phật
thừa). Cỗ xe sau còn gọi là cỗ xe duy nhất (nhất thừa) cỗ xe Phật đà
duy nhất (nhất phật thừa) cỗ xe vĩ đại (đại thừa).
-
- Ghi Chú (21)
- Mui trần hoa myլ chính văn là hoa cái. Cái là che,
đậy; là cái nắp, cái vung, mui xe, lọng dù. Dụng cụ thờ phụng và nghi
vệ của Phật giáo thì cái là bảo cái, là lọng dù. Riêng chữ kép lọng
dù thì ta lọng khác dù khác, còn chữ cái thì lọng cũng cái, dù cũng cái,
và nhiều xứ nghi vệ lọng là dù, nên tôi dùng chữ kép lọng dù. Ở đây,
hoa cái có thể dịch là hoa và lọng dù, lại có thể dịch là lọng dù
hoa myջ nhưng dịch mui trần hoa myՠthì hơn. Sau này chữ cái còn có ở nhiều
chỗ, và tùy chỗ mà dịch.
-
- Ghi Chú (22)
- Kinh hành, cũng gọi là hành đạo, vốn chưa phải
nhiễu Phật, cũng không phải tản bộ. Kinh hành là đi trên đường đất
nhất định, nếu đất thấp ướt thì lát gạch đá, nếu đi không thẳng
thì vạch đất hay dăng dây, và chỗ đi là chỗ trống vắng trong núi rừng,
trước cửa tăng xá, trước nhà giảng, trên nền tháp, trên nền tăng xá
(nay là tự viện). Đi thì đi tới đi lui, không mau chậm, không lắc mình,
không cúi thấp hay ngước cao, và quan trọng là thu nhiếp giác quan, chỉ
nghĩ đến đề tài thiền quán hay pháp đang tu. Nay, thay vào có thể niệm
Phật. Kinh hành làm khi ngồi thiền mà buồn ngủ, khi mới ăn xong, khi cần
vận động: kinh hành để được linh hoạt, có sức, không bịnh, tiêu thực
và kiên định.
-
- Ghi Chú (23)
- Kẻ thượng mạn (hay tăng thượng mạn: kiêu ngạo
với cái chưa có mà chỉ tự thêm lên cho là có) ở đây chỉ cho những người
chủ trương La hán đã hoàn toàn, đã là Phật đà, đã đủ rồi. Họ chống
đối Pháp hoa vì kinh này tuyên bố La hán chưa hoàn toàn, chưa phải là Phật
đà; Phật đà mới hoàn toàn, và ai cũng có thể trở thành Phật đà, kể
cả các vị La hán.
-
- Ghi Chú (24)
- Nguyên lý tuyệt đối vắng lặng, chính văn là tịch
diệt pháp.
-
- Ghi Chú (25)
- Bản thể tất cả vạn hữu, chính văn là chư pháp
tánh. Khái niệm đối kháng lẫn nhau, chính văn là nhị tướng. Tâm không
vướng mắc, chính văn là tâm vô sở trước, tức là sự bất quan tâm:
tâm trí không bị cảnh vật chi phối mê hoặc, không vướng mắc các phạm
trù tư tưởng phản ảnh khái niệm đối kháng lẫn nhau.
-
- Ghi Chú (26)
- Màn được kết ngọc, chính văn là châu giao lộ
man (hay bảo giao lộ man, bảo man), dịch rõ là màn được đính kết các
thứ ngọc một cách giao xen với nhau và lộ bủa cả ra. Dịch như vậy vì
tra cứu thấy từ ngữ châu giao lộ man lấy của Tấn dịch. Tấn dịch ở
đây không dùng từ ngữ này, nhưng chỗ khác, nhất là phẩm 11 thấy không
ít, phẩm 4 cũng thấy có. Những chỗ này cho thấy đừng đọc lộ man là
chữ kép, mà chữ kép là giao lộ. Ngay từ ngữ tắt là bảo man cũng đã
chứng tỏ như vậy. Vậy giao là giao tạp (giao xen với nhau) lộ là lộ bố
(lộ bủa cả ra). Châu giao lộ man là màn (man) được đính kết các thứ
ngọc (châu, anh, bảo) một cách giao lộ. Nhưng Tấn dịch cho thấy lộ man
còn nói về trướng màn lầu đài đẹp, nhất là đẹp vì kết ngọc hay
trang hoàng bằng ngọc, mà được sắp đặt một cách giao lộ: giao lộ
châu anh vi đại bảo trướng, Chính 9/80g13; trùng các giao lộ, Chính
9/87t28; giao lộ trướng, Chính 9/103g18; thất bảo giao lộ chi trướng, Chính
9/132g22.
-
- Ghi Chú (27)
- Kịch nhạc, chính văn là kyՠnhạc, là kịch nghệ
và âm nhạc. Nhưng lắm chỗ kyՠnhạc chỉ là diễn tấu nhạc khí, là âm
nhạc.
-
- Ghi Chú (28)
- Một, chữ thọ ký (thụ ký) là 1 âm mà có 2 nghĩa
với 2 cách viết. Nếu chủ từ là Phật thì thọ ký nghĩa là trao cho lời
ghi nhận, chữ thọ có bộ thủ. Nếu chủ từ là người được trao cho lời
ghi nhận thì thọ ký nghĩa là tiếp nhận lời ghi nhận ấy, và chữ thọ
không có bộ thủ. Nghĩa trước thường nói. Nghĩa sau trong Pháp hoa vẫn
có không ít. Nghĩa trước có lúc để nguyên, có lúc dịch là trao cho lời
ghi. Nghĩa sau dịch là tiếp nhận lời ghi, cũng có khi dịch là tiếp nhận
sự thọ ký. Hai, thọ ký trong Pháp hoa có 6 chỗ, 5 của Phật, 1 của bồ
tát. Năm chỗ của Phật là 1, như các ngài Xá lợi phất, Đại ca diếp,
v/v, ai cũng biết và danh hiệu bất đồng, nên thọ ký riêng biệt; 2, 500
và 1200 vị, như ngài Phú lâu na, v/v, vì danh hiệu đồng nhất, nên thọ
ký cùng lúc; 3, các vị hữu học vô học cùng một danh hiệu, lại không
phải vị nào ai cũng biết, nên thọ ký như nhau; 4, thọ ký riêng cho Đề
bà đạt đa là biểu thị Như lai không hề oán ghét; 5, thọ ký cho tỷ
kheo ni và thiên nữ (?) là biểu thị nữ nhân tại gia xuất gia mà tu bồ
tát hạnh thì cũng đều chứng được Phật quả. Một chỗ của bồ tát
là phẩm Thường bất khinh nói vị bồ tát này gặp ai cũng khen tặng, thi
lễ, và nói tôi không dám khinh các người, vì các người đều sẽ làm Phật.
Thọ ký như vậy biểu thị chúng sinh ai cũng có Phật tánh (Luận, Chính
26/9).
-
- Ghi Chú (29)
- Thời kỳ, chính văn là kiếp, là dịch âm và gọi
tắt chữ kiếp ba, ý nghĩa là thì gian dài. Như vậy thời kỳ (kiếp) là
nói về thì gian. Thì gian này có 2 căn cứ. Một, căn cứ sự sống lâu
thêm lên hay bớt xuống của con người, và sự kết thành, tồn tại, hư rã
và tan biến của vũ trụ. Hai, căn cứ ngày đêm năm tháng. Nói thời kỳ
như ở đây, và nói thời kỳ có 3 bậc nhỏ, giữa và lớn (tiểu kiếp,
trung kiếp, đại kiếp) là nói theo căn cứ một, và khi chỉ nói thời kỳ
thì hay chỉ cho thời kỳ bậc lớn hay bậc nhỏ. Cũng nên biết thời kỳ
bậc nhỏ của ngài La thập dịch là thời kỳ bậc giữa của ngài Huyền
tráng dịch.
-
- Ghi Chú (30)
- Là dịch 10 đức hiệu của Phật. Tựu trung, Như
lai cũng dịch là như khứ, như tri, như thuyết, có nghĩa đức Phật này cũng
như các đức Phật khác, nương như thật đạo (an ổn đạo) mà đến nơi
thế giới này, mà đi khỏi thế giới này, mà biết và nói. Theo một ý kiến,
Thế tôn là đức hiệu chung của 10 đức hiệu. Mười đức hiệu biểu thị
10 đức tính, và gọi là 1 đức Phật là phải có 10 đức hiệu như vậy.
-
- Ghi Chú (31)
- Phạn hạnh là sự không dâm dục, là từ bi hỷ
xả, là hạnh niết bàn. Ở đây là hạnh niết bàn.
-
- Ghi Chú (32)
- Tuệ giác của Phật có 3. Một, tuệ giác biết
toàn thể (nhất thế trí), biết về bản thể; tuệ giác thanh văn có phần
tương tự tuệ giác này. Hai, tuệ giác biết đạo pháp (đạo chủng trí),
biết về đạo pháp; tuệ giác bồ tát có phần tương tự tuệ giác này.
Ba, tuệ giác biết tất cả (nhất thế chủng trí), biết bản thể, hiện
tượng, đạo pháp. Riêng nhất thế trí, nhiều chỗ chỉ chung cho tất cả
tuệ giác của Phật, thì được dịch là tuệ giác của đấng toàn giác,
tuệ giác hoàn toàn.
-
- Ghi Chú (33)
- Bốn đại lục: 4 thiên hạ.
-
- Ghi Chú (34)
- Thời kỳ bậc nhỏ: coi lại ghi chú số 29 .
-
- Ghi Chú (35)
- Niết bàn có 2: diệt sạch phiền não và ác nghiệp
mà thân sống chết đang còn thì gọi là niết bàn chưa toàn (hữu dư hay hữu
dư y niết bàn); thân sống chết cũng không còn thì gọi là niết bàn hoàn
toàn (vô dư hay vô dư y niết bàn).
-
- Ghi Chú (36)
- Là 3 trong 10 đức hiệu mà thường được nói đến
như là thay cho 10 đức hiệu ấy.
-
- Ghi Chú (37)
- Có 1 thuyết vững vàng nói đáng lẽ đức Di lạc
thành Phật trước đức Thích ca (Đại tỳ ba sa, Chính 27/890). Đức Di lạc
không những là Phật đương lai, mà đức Bổn sư đã nói tất cả đệ tử
hiện nay của ngài, sau này đều gặp đức Di lạc và được độ thoát
cho (Chính 2/789 và 14/422). Đối với Pháp hoa, đức Di lạc là vị phát khởi
ở đầu và tiếp dẫn ở cuối. Đoạn này nói về nguyên ủy của Pháp
hoa thì chỉ là đối với ngài Văn thù, chứ chưa phải như các phẩm 7 và
20 nói. Còn câu chuyện Cầu danh thì chỉ để tỏ ra ngài Văn thù biết việc
quá khứ mà thôi (Luận, Chính 26/4).
-
- Ghi Chú (38)
- Theo văn (có đến 3 chỗ ở trước) và theo việc,
thì câu này không thể nói là tất cả cõi Phật (nhất thế chư Phật độ).
-
- Ghi Chú (39)
- Thật tướng: trạng thái thật, bản chất thật.
Thật tướng vắng lặng, chính văn là tịch diệt tướng.
-
- Ghi Chú (40)
- Thật tướng thuần khiết, chính văn là vô lậu
thật tướng.
-
- Ghi Chú (41)
- Cũng có nghĩa là con đường thông thường, nghĩa
là con đường của chư Phật thì như nhau, đồng nghĩa với con đường vĩ
đại.
-
- Ghi Chú (42)
- Coi ghi chú số 39 .
-
- Ghi Chú (43)
- Phương tiện là phương cách tiện lợi, thích
nghi, hàm ý là tài khéo léo, nghệ thuật huấn dụ. Phương tiện là biểu
hiện của Bát nhã mà kinh này gọi là sự thấy biết của Phật (Phật tri
kiến). Phương tiện không phải chỉ là cách huấn dụ bằng ngôn ngữ. Chỉnh
cú số 98 của phẩm 1 cho thấy sự phóng ánh sáng của Phật đã là phương
tiện huấn dụ, nói cách khác, đó là thuyết pháp bằng sắc trần. Rồi
cách dịch của ngài La thập trong chỉnh cú số 19 của phẩm 3 ngụ ý cho
thấy giáng sinh, xuất gia, thành đạo và chuyển pháp luân, những sự ấy
của Phật, đặc biệt phẩm 16 cho thấy sự nhập niết bàn của ngài,
toàn là phương tiện không những để huấn dụ mà đã là huấn dụ. Còn
ở đây, phẩm phương tiện này chủ ý nói về tam thừa: Phật phương tiện
thiết lập tam thừa, và nay qui về nhất thừa, tuyên ngôn ai cũng làm Phật.
-
- Ghi Chú (44)
- Các pháp đạt đến tuệ giác vô thượng, chính
văn là đạo pháp, chính văn của luận Pháp hoa trích dẫn nói rõ là a nậu
đa la tam miệu tam bồ đề pháp (Chính 26/4). Vậy đạo là dịch nghĩa chữ
bồ đề và dịch tắt cả chữ a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
-
- Ghi Chú (45)
- Ấy là căn cứ Vạn 52/338A-341B mà dịch. Theo thứ
lớp, chính văn như sau: vô lượng, vô ngại, lực, vô sở úy, thiền, định,
giải thoát, tam muội. Nhưng sự liệt kê này còn thiếu, quan trọng nhất
là thiếu 18 sự đặc biệt (thập bát bất cọng pháp) (tham chiếu Luận,
Chính 26/4).
-
- Ghi Chú (46)
- Đây là chính văn mà luận Pháp hoa trích giải:
Xá lợi phất, chỉ Như lai với Như lai mới thuyết được pháp, vì chỉ
Như lai với Như lai mới biết được thật tướng cứu cánh của pháp ấy.
Xá lợi phất, chỉ Như lai mới biết được pháp, Xá lợi phất, chỉ Như
lai mới thuyết được pháp: pháp ấy là gì, pháp ấy vì gì, pháp ấy như
gì, pháp ấy tướng gì, pháp ấy tánh gì. Là gì, vì gì, như gì, tướng gì,
tánh gì, tất cả những gì về pháp như vậy, Như lai thấy như hiện có
trước mắt chứ không phải không thấy như hiện có trước mắt (Luận,
Chính 26/4 và 14). Do đó mà biết 10 như vậy được liệt kê trong chính văn
ở đây, là triển chuyển huấn thích 5 gì (Vạn 52/342B).
-
- Ghi Chú (47)
- Trong mười như vậy (hay 5 gì) tướng (biểu hiện)
và tánh (thực chất) là tổng quát nên nêu lên. Còn các như vậy khác là
những nghĩa lý của tướng và tánh.
-
- Ghi Chú (48)
- Chữ ngài tự nói (tự thuyết) ăn xuống đến 2
chỗ trong bài chỉnh cú số 23 ở dưới. Hai chỗ này vốn có và lẽ đáng
phải nói tự thuyết đạo tràng sở đắc pháp..., tự thuyết ngã ý nan khả
liễu... Nhưng chính văn đã dịch lược đi, nay phải bổ túc (tham chiếu Tấn
dịch, Chính 9/68d20-23).
-
- Ghi Chú (49)
- Dịch như vậy là để cho sát với kinh này; kinh
này nói tuệ giác La hán chưa hoàn toàn, các vị La hán phải đi tới tuệ
giác Phật đà mới là hoàn toàn. Sát thì phải dịch: đã là thành quả rốt
ráo? hay là con đường đang đi?
-
- Ghi Chú (50)
- Các căn ở đây là tín (tin tưởng) tiến (nỗ lực)
niệm (ký ức) định (chuyên chú) tuệ (minh sát). Đó là 5 căn bản quan trọng,
mở đầu cho các bồ đề phần pháp.
-
- Ghi Chú (51)
- Trấu lép, chính văn ở đây, và sau đây trong chỉnh
cú số 40, là chi diệp. Chi diệp là nhánh lá, vụn vặt. Vụn vặt ở đây
là trấu lép, rác rưới. Như vậy mới chỉnh đối với hạt chắc (trinh
thật).
-
- Ghi Chú (52)
- Chính văn ở đây còn 4 chữ nữa: sử đắc thanh
tịnh (cho được trong suốt), nhưng rõ ràng hoặc ở đây thừa, hoặc 3
câu dưới thiếu, nên tôi lược đi.
-
- Ghi Chú (53)
- Có 4 điều cần nói. Một, 4 chữ khai thị ngộ
nhập, mà tôi thêm mỗi chữ 1 chữ nữa thành chữ kép khai mở, chỉ thị,
tỉnh ngộ, nhập vào, là muốn giữ nguyên chữ và ý của chính văn. Chữ
và ý ấy khá đơn giản: Phật xuất thế là để khai thị Phật tri kiến
cho chúng sinh ngộ nhập. Hai, về thứ tự thì 4 sự này rất đúng với luận
Pháp hoa (Chính 26/7 và 16). Ba, do 2 chỗ sau này nữa mà biết 4 chữ khai thị
ngộ nhập cũng có nghĩa đều là của Phật: khai là mở mắt cho chúng sinh
thấy Phật tri kiến, thị là chỉ cho chúng sinh thấy Phật tri kiến, ngộ
là thức tỉnh cho chúng sinh thấy Phật tri kiến, nhập là dẫn chúng sinh
vào con đường Phật tri kiến. Bốn, nhưng 4 sự cũng có nghĩa đều là của
chúng sinh: đối với Phật tri kiến, khai là phát giác, thị là phát kiến,
ngộ là phát hiện, nhập là hội nhập. Ngữ khí đoạn này cũng có nghĩa
như vậy.
-
- Ghi Chú (54)
- Anh dịch có câu này.
-
- Ghi Chú (54B)
- Chỗ này đáng lẽ phải có một câu nữa, như
sau "muốn đem sự thấy biết của Phật khai mở cho chúng sinh".
-
- Ghi Chú (55)
- Có bản chép sót chữ đạo, Tùy dịch cho thấy
như vậy (Chính 9/140g9). Đạo ở đây là bát chánh đạo (bát chánh do lộ),
Tấn dịch cho thấy như vậy (Chính 9/69d4).
-
- Ghi Chú (56)
- Lời này nên được chú thích bằng lời Anh dịch:
... đến việc họ được Như lai thực sự kêu gọi bước đến cỗ xe Phật
đà...
-
- Ghi Chú (57)
- Pháp hạnh đối với Pháp hoa có 4 điều cần nói.
Điều một, xét toàn kinh này thì thấy ngoài 2 pháp số 5, còn mấy tiết mục
quan trọng nữa. Gồm lại thì pháp hạnh Pháp hoa có 10: tiếp nhận ghi nhớ
(thọ trì) đọc xét văn nghĩa (độc) tụng được thuộc lòng (tụng) giảng
nói cho người (thuyết, giải thuyết, vị tha nhân thuyết) sao chép ấn
hành (thư, thư tả) nhớ nghĩ chính xác (chánh ức niệm) lý giải ý nghĩa
(giải kỳ nghĩa thú) làm đúng kinh dạy (như thuyết tu hành), tùy hỷ và
hiến cúng. Điều hai, tất cả 10 pháp hạnh này khi thì nói 5 thứ trước,
khi nói xen lẫn, khi nói đại khái. Điều ba, tựu trung có 5 thứ cần cắt
nghĩa: (1) Sao chép ấn hành. Xưa, qua thời kỳ truyền khẩu thì đến thời
kỳ sao chép, chưa có sự ấn hành, mọi phương tiện đọc tụng, truyền bá
và bảo tồn đều nhờ sao chép, nên sự ấy rất quí và có phước. Nhưng
nay, sự ấy chính là sự ấn hành. (2) Đọc xét văn nghĩa. Chữ độc trong
chính văn là học, nghiên cứu, không phải chỉ đọc như thường hiểu. Do
đó phải dịch là đọc xét văn nghĩa, có chỗ dịch rõ là nghiên cứu.
(3) Giảng nói cho người thì ngoài sự giảng dạy, trước hết còn có cái
nghĩa loan báo loan truyền cho người biết đến kinh Pháp hoa. (4) Lý giải
ý nghĩa, sát và rõ thì phải dịch là lý giải ý nghĩa đi về đâu, tức
là hiểu thấu ý hướng của Phật nói. (5) Đặc biệt nói về chữ thọ
trì. Thọ trì nghĩa đen là chịu nắm, tùy trường hợp mà có 3 cách dịch:
cách một, dịch tiếp nhận ghi nhớ thì có nghĩa nghe và nhớ về Pháp hoa,
sự nghe do đức tin và sự nhớ do ký ức; cách hai, dịch tiếp nhận kính
giữ (hay nhận giữ) thì có nghĩa tiếp nhận sự ủy thác của Phật mà bảo
tồn Pháp hoa; cách ba, trường hợp có cả 2 nghĩa trên thì tùy nghĩa nào nặng
hơn mà dịch theo nghĩa ấy. Điều bốn, riêng cách dịch tiếp nhận kính
giữ, chính văn có khi còn dùng chữ phụng trì hay chữ trì, thì dịch tắt
là kính giữ, và sự kính giữ (hay tiếp nhận kính giữ) này phải hiểu
là giữ bằng tất cả 10 pháp hạnh. Do vậy mà có chỗ nói kính giữ
(trì) là đủ cả 10 pháp hạnh ấy.
-
- Ghi Chú (58)
- Ấy là dịch tên 9 thể loại trong 12 thể loại
khế kinh (thập nhị bộ kinh):
- 1. Tản văn (tu đa la: khế kinh)
- 2. Chỉnh cú độc lập (dà đà: phúng tụng)
- 3. Việc cũ (bản sự)
- 4. Đời trước (bản sinh)
- 5. Việc hiếm (vị tằng hữu)
- 6. Nguyên do (nhân duyên)
- 7. Ví dụ (thí dụ)
- 8. Chỉnh cú thích ứng (kỳ dạ: ứng tụng)
- 9. Thảo luận (ưu ba đề xá: luận nghị)
- 10. Tự nói (tự thuyết)
- 11. Cực kỳ cao rộng (phương quảng)
- 12. Thọ ký thành Phật (thọ ký).
- Dầu lược đi, nhưng 3 thể loại sau lại chính
là sở trường của Pháp hoa. Kinh pháp Phật dạy, tức thánh điển Phật
giáo, gồm có 12 thể loại như vậy: 3 thể loại thứ 1, 2 và 8 là chia theo
văn chương; 9 thể loại còn lại là chia theo sự lý. Nhưng tuồng như 12 thể
loại cũng có nghĩa 12 bộ kinh.
-
- Ghi Chú (59)
- Ấn tín thật tướng, chính văn là thật tướng
ấn: dấu hiệu không thể lầm lẫn về bản chất thật của các pháp.
-
- Ghi Chú (60)
- "Vì vậy Như lai khai thị nguyên lý" là lấy
Tấn dịch mà bổ túc (Chính 9/70d23).
-
- Ghi Chú (61)
- Thường tự vắng lặng: thường tự niết bàn.
Đi trọn đường đi: thực hành trọn vẹn nguyên lý các pháp xưa nay thường
tự vắng lặng.
-
- Ghi Chú (62)
- Chân lý bậc nhất: đệ nhất nghĩa.
-
- Ghi Chú (63)
- Có bản không chép phước tuệ mà chép phước đức.
Tấn dịch cũng chỉ có đức (Chính 9/71t17).
-
- Ghi Chú (64)
- Coi các ghi chú số 66 và 67 .
-
- Ghi Chú (65)
- Chính văn chỗ nói tháp, chỗ nói miếu, chỗ nói
tháp miếu, tất cả tuy nghĩa là tháp thờ Phật, nhưng cũng có nghĩa như
ngày nay nói chùa tháp thờ Phật.
-
- Ghi Chú (66)
- Do 2 đoạn này nói mà biết các đoạn trước và
sau nói đã thành Phật tuệ là nói tắt.
-
- Ghi Chú (67)
- Do 2 đoạn này nói mà biết các đoạn trước và
sau nói đã thành Phật tuệ là nói tắt.
-
- Ghi Chú (68)
- Nghe danh (không phải chỉ có nghe) là so với Tấn
dịch (Chính 9/71d18).
-
- Ghi Chú (69)
- Chư Phật ở đây là nói chung chư Phật, không phải
chỉ nói chư Phật vị lai. Cả 2 bài chỉnh cú số 101 và 102 này dịch theo
sự giải thích của Vạn 52/367B. Các pháp thường không cố định (chư pháp
thường vô tánh) là tánh biến kế không thật. Giống Phật cũng phát từ
các yếu tố (Phật chủng tùng duyên khởi) là tánh y tha duyên sinh (mà là
phần thanh tịnh). Bản thể an trú (pháp trú) và bản thể nguyên vị (pháp
vị) là 2 trong 5 hay 12 tên của chân như, và là tánh viên thành chân thật.
Nói giản dị, vì cái xấu có thể dứt bỏ, cái tốt có thể làm thành,
và vì như thế là do bản thể chúng sinh vốn nguyên vẹn trong suốt (thật
tướng của chính thế gian cũng vẫn thường trú), 2 cái vì này chính là
nhất thừa mà Phật dạy cho chúng sinh bỏ xấu, làm tốt, phục hồi thanh
tịnh.
-
- Ghi Chú (70)
- Có bản chép hỷ xưng nam mô Phật, chép như vậy
đúng hơn chép xưng nam mô chư Phật (tham chiếu Tấn dịch, Chính 9/72g29).
-
- Ghi Chú (71)
- Tham chiếu Tấn dịch (Chính 9/72d17).
-
- Ghi Chú (72)
- Pháp không có khác nhau, chính văn là vô phân biệt
pháp, cũng có thể dịch là pháp ngoài tầm nghĩ bàn.
-
- Ghi Chú (73)
- Câu này có nghĩa như vầy: Con là La hán (đã hết
phiền não), lo buồn vì hoài nghi mình không được như Phật; nay nghe Phật
nói thì hết cả nỗi lo buồn ấy.
-
- Ghi Chú (74)
- La hán tự cho mình hoàn toàn, nghĩ mình không thể
được như Phật: như vậy là mình tự dối gạt mình.
-
- Ghi Chú (75)
- Đến ngồi nơi bồ đề tràng: một cách nói về
sự thành Phật.
-
- Ghi Chú (76)
- Niết bàn ở đây, chính văn là diệt độ (hay diệt,
độ). Diệt là dứt bặt, độ là vượt qua, 2 chữ cùng nghĩa, và có nhiều
chỗ, như ở đây, ghép thành chữ kép. Những chỗ khác dùng chữ đơn là
diệt hay độ, nhưng chữ độ được dùng nhiều hơn. Diệt độ như vậy
là dị danh của niết bàn, giải thoát, nên có chỗ, như ở đây, tôi đổi
ra niết bàn cho ăn với văn trên.
-
- Ghi Chú (77)
- Thế tôn nói rõ, những chữ này ăn xuống đến
2 bài chỉnh cú ở dưới.
-
- Ghi Chú (78)
- Dịch như vầy là coi lại sự tự thuật của Phật
trong văn chỉnh cú của phẩm 2 (các số 54-69 và 107-134). Dịch sát chính văn
thì hơi chuyển ý: Như nay đức Thế tôn từ giáng sinh, xuất gia, đắc đạo
(đến) chuyển pháp luân, cũng đem (bao) phương tiện (ấy) mà thuyết (pháp
này).
-
- Ghi Chú (79)
- Coi lại ghi chú số 76 .
-
- Ghi Chú (80)
- Đường ngã tám, chính văn là bát giao đạo (hay
bát đạo), tôi suy luận mà dịch như vậy, và có nghĩa những con đường
(chứ không phải chỉ có 8 con đường) có 8 nẻo giao mối với nhau.
-
- Ghi Chú (81)
- Vải, chính văn là y. Y ở đây không phải chỉ
là áo, mà là vải choàng, khăn choàng, và thường là đồ tốt, đẹp, và
cũng gọi là y. Chữ y trong Luật tạng chỉ cho tất cả đồ mặc và đồ
dùng về vải, chỉ cho vải. Kinh này có chỗ chữ y chỉ nói về vải.
-
- Ghi Chú (82)
- Năm hợp thể: ngũ chúng (hay ấm, uẩn).
-
- Ghi Chú (83)
- Tham chiếu Tấn dịch (Chính 9/75t19).
-
- Ghi Chú (84)
- Ngưu là bò. Thủy ngưu mới là trâu.
-
- Ghi Chú (85)
- Theo thứ tự, chính văn như sau: căn, lực, giác,
đạo, thiền, định, giải thoát, tam muội.
-
- Ghi Chú (86)
- Theo thứ tự, chính văn là nhất thế trí, Phật
trí, tự nhiên trí và vô sư trí.
-
- Ghi Chú (87)
- Người vĩ đại: ma ha tát.
-
- Ghi Chú (88)
- Chính văn có bản chép năng tận thọ (có khả năng
tiếp nhận được hết), nhưng chép tận năng thọ (hết cả mọi người
đều có khả năng tiếp nhận) mới đúng. Tham chiếu Tùy dịch (Chính
9/146g27).
-
- Ghi Chú (89)
- Câu này nên hiểu rõ thêm bằng câu sau đây: ...
do phương tiện lực mà Như lai chỉ nói cỗ xe Phật đà (Tấn dịch, Chính
9/76g13).
-
- Ghi Chú (90)
- Nói chung mái lợp đúng hơn nói tranh lợp (phú
chiêm).
-
- Ghi Chú (91)
- Ghi chú này từ đầu bài chỉnh cú 39-40 cho đến
đây, và các tên khoa học đều lấy của Từ hải. Cú mèo (si): Scops
semitorques. Chim cắt (điêu): tự điển nói là biệt danh của chim thứu, nhưng
chính văn kinh này, ở đây và sau đây, đều có thể là loại riêng. Chim
kiêu (kiêu): Strix uralensis. Chim thứu (thứu): Aquila chrysactus (kên kên?). Hổ
mang (nguyên: hủy). Rắn độc (xà): các thứ rắn độc khác. Rắn phúc
(phúc): Trigonocephalus blomhoffii. Bò cạp (hiết): Buthussp. Rít (ngô công):
Scolopendra. Du diên: Thereuonema tuberculata. Cọp vách (thủ cung): Gecko japonicus,
thuộc loại cắc kè, gọi là thủ cung (giữ cung) hay bích hổ (cọp vách)
đều là hỗn danh, nhưng chữ thủ cung thì tục. Sâu chiếu (bách túc):
Julus. Chồn dứu (dứu): Mustela itatis. Chồn cầy (li): Nyctereutus procynoides.
Cáo (hồ): Vulpesvulpes japonicus. Dã can: linh cẩu? Bầy chó: Anh dịch là chó,
chó rừng. Bò sát độc địa (độc trùng chi thuộc): Anh dịch là rết, rắn
khổng lồ, rắn viper. Sinh sản ấp nuôi (phu nhủ sản sinh): phu là chim ấp
trứng, nhũ là thú nuôi con (Vạn 52/400A).
-
- Ghi Chú (92)
- Chuyển một chút thì câu này nên dịch: Nghe có
tiếng người, ông biết con ông ...
-
- Ghi Chú (93)
- Người có cái oai chúa tể như cái oai sư tử thì
người ấy ngồi đâu, chỗ ấy cũng gọi là chỗ ngồi sư tử.
-
- Ghi Chú (94)
- Chính văn là thuyết đạo, chữ đạo này không
phải đi với chữ thuyết như chữ thuyết đạo trong truyện Tàu. Anh dịch,
dầu không tự chắc chắn, "ta đã giải thích theo phương cách này: Tỉnh
ngộ trong ý thức trọn vẹn lòng ham muốn mạnh mẽ là nguyên lai của đau
khổ".
-
- Ghi Chú (95)
- Không còn chỗ dựa, phải hiểu là không còn vướng
mắc (Tấn dịch, Chính 9/78g16). Chân lý diệt khổ, dịch sát: chân lý thứ
ba. Vì chân lý ấy, dịch sát: vì chân lý diệt khổ. Tu chân lý về đường
diệt khổ, Tấn dịch: tu 8 đường chánh (Chính 9/78g18).
-
- Ghi Chú (96)
- Nên thêm: tuyên bố rằng niết bàn mà chưa được
tuệ giác vô thượng là chưa thật niết bàn.
-
- Ghi Chú (97)
- Nên thêm: chứ không muốn đem lại niết bàn như
vậy.
-
- Ghi Chú (98)
- Và "chung kết" (Tấn dịch, Chính 9/78g24).
-
- Ghi Chú (99)
- Tham chiếu Anh dịch.
-
- Ghi Chú (100)
- Là thời kỳ bậc giữa của ngài Huyền tráng dịch,
tức thời kỳ bậc nhỏ của ngài La thập dịch. Tham chiếu Vạn 52/411B.
-
- Ghi Chú (101)
- Cũng có thể có nghĩa: có được cái gì thì liền
mất ngay.
-
- Ghi Chú (102)
- Chính văn là vĩnh. Vĩnh là vĩnh viễn, là thì
gian dài. Ở đây là nghĩa sau.
-
- Ghi Chú (103)
- Ấy là 3 pháp tam muội, chính văn là không, vô tướng
là vô tác (vô nguyện).
-
- Ghi Chú (104)
- Chính văn là bản quốc. Bản quốc ở đây không
phải là nước mình, xứ cũ, mà là chỗ cha đang ở. Toàn bộ sự lý của
ngụ ngôn này cho thấy như vậy.
-
- Ghi Chú (105)
- Chính văn là nhất thành, nghĩa là một đô thành
(nào đó). Dịch đô thành ấy để khỏi lặp lại chữ vừa dịch (coi ghi
chú 104 trên) và khỏi bị hiểu lầm.
-
- Ghi Chú (106)
- Chính văn là phẩn, nhưng không phải chỉ là
phân, mà là rác rưới dơ bẩn, có phân và nước tiểu.
-
- Ghi Chú (107)
- Khổ vì sự khổ thành tựu (khổ khổ) khổ vì sự
vui hư mất (hoại khổ) và khổ vì vạn hữu diễn biến (hành khổ).
-
- Ghi Chú (108)
- Điển hình như trường hợp ngài Tu bồ đề nói
về Bát nhã.
-
- Ghi Chú (109)
- Sát và thêm cho rõ thì phải dịch: ta cần gì? cần
áo hay cơm? (chỉ cần có thế) mà đến nhằm chỗ này (để bị như vầy).
Cũng có thể chuyển văn mà dịch: vị gì cơm áo mà đến nỗi này.
-
- Ghi Chú (110)
- Câu này nên hiểu rõ hơn bằng câu Anh dịch sau
đây: ... đã không tuyên bố với chúng con rằng các người sẽ thành Phật,
nhưng nói chắc chắn các người là đệ tử của ta, là con trai của ta.
-
- Ghi Chú (111)
- Sát và rõ thì dịch: ở trong trạng thái thân thể
sống chết cuối cùng, nghĩa là được niết bàn chưa toàn. Niết bàn chưa
toàn: coi lại ghi chú 35 .
- Ghi Chú (112)
- Câu này chính văn đặt dưới hết của đoạn này.
Tôi dời lên đây cho dễ hiểu.
-
- Ghi Chú (113)
- Tất cả bản dịch khác tiếp đây còn có 1 phần
nữa. Coi phụ lục 1.
-
- Ghi Chú (114)
- Trăm triệu, chính văn là na do tha, dịch nghĩa là
cai: 100 triệu (Vạn 52/447B).
-
- Ghi Chú (115)
- Vòng hoa, chính văn là anh lạc. Anh lạc là chuỗi
ngọc, nhưng cũng có chỗ chỉ là vòng hoa, có chỗ lại là vòng hoa ngọc
(ngọc được chạm trổ hình hoa, và cũng gọi là chuỗi ngọc). Các hương
liệu, dịch đủ là hương xoa (cũng là dầu thơm, sáp thơm) hương bột
(cũng là phấn thơm) và hương đốt; nhưng đủ mà không đủ bằng chữ
hương liệu. Lọng dù, chính văn là tăng cái. Cái: coi lại ghi chú số 21.
Tăng là lụa dày. Ở chỗ khác, tăng cái có thể dịch là lụa vải và lọng
dù, nhưng ở đây tăng cái là lọng dù làm bằng lụa dày, và dịch lọng
dù là dịch tắt. Tràng phan là cờ và phan; phan là cờ bằng dải vải, gấm
hay lụa rủ xuống.
-
- Ghi Chú (116)
- Hai câu này chính văn là trường biểu kim sát. Trường
biểu (tiêu biểu lâu dài) chứ không phải cao biểu (tiêu biểu cao lên)
(tham chiếu Tùy dịch, Chính 9/156). Kim sát nghĩa là cõi vàng, nguyên để gọi
cõi Phật, sau cũng để tôn xưng tháp Phật (tôn xưng chùa Phật thì gọi
là Phạn sát). Nhưng kim sát ở đây không phải chỉ cho tháp, mà chỉ cho vật
tiêu biểu tháp. Vật ấy cũng gọi là kim sát. Vật ấy không phải duy nhất,
nhưng quan trọng là sát trụ. Trên tháp, làm trụ cao vọt lên, có khoanh (khấc);
8 khoanh sắp lên là tháp Phật. Chóp trụ là hình viên ngọc vọt sáng. Có
khi trụ này dựng riêng trước tháp, tức như ta gọi là trụ biểu. Có khi
không có tháp mà chỉ có trụ, và trụ này chính là tháp. Chóp tất cả loại
trụ nói trên đây đều làm bằng vàng, có khi còn mắc phan, gài hoa, và cũng
làm bằng vàng, nên gọi là kim sát. Trong chóp tất cả loại trụ, nhất
là loại sau hết, đều tôn trí xá lợi của Phật. Và dĩ nhiên đây là
nói về tháp và trụ tháp thời cổ của Ấn độ.
-
- Ghi Chú (117)
- Tương quan xa xưa là dịch từ ngữ túc thế nhân
duyên của ngài La thập ở cuối phẩm 6, và từ ngữ vãng cổ của ngài
Pháp hộ (Tấn dịch). Tuồng như đó mới là nguyên đề, và ăn mạch hơn
với các phẩm 6 ở trước và 8 ở sau. Nội dung phẩm này nói đến tương
quan thầy trò từ xưa giữa Phật và các vị đệ tử thanh văn, từ đó
cho thấy niết bàn của thanh văn chỉ là cái thành biến hóa để tạm nghỉ
mà thôi, và có lẽ do vậy mà có tên là Ví dụ thành biến hóa (Hóa thành
dụ). Mặt khác, trong phạm vi tương đối, phẩm này và phẩm 20 (Bồ tát
Thường bất khinh) mới nói về nguyên ủy kinh Pháp hoa của đức Bổn sư.
-
- Ghi Chú (118)
- Pháp của tuệ giác chư Phật, chính văn là Phật
pháp, gồm có (1) nội dung của tuệ giác ấy, tức các phẩm chất siêu việt,
như tam minh, lục thông ..., như thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cọng
pháp ...; (2) đối tượng của tuệ giác ấy, tức như các bài chỉnh cú số
3,4 và 5 của phẩm 2 nói. Hiện ra như ở trước mắt (hiện tại tiền, hiện
tiền) là hiện rõ trong trí như thể ở ngay trước mắt.
-
- Ghi Chú (119)
- Rõ thì phải nói tự trang hoàng mình bằng 32 tướng
đại trượng phu mà mỗi tướng được tạo ra bởi cả trăm phước đức.
-
- Ghi Chú (120)
- Bất tử, chính văn là cam lộ: dị danh của thuốc
bất tử.
-
- Ghi Chú (121)
- Tập hợp được, chính văn phải chép tập là tập
hợp mới đúng, chép tập là luyện tập là sai. Tham chiếu Tùy dịch
(Chính 9/159g26).
-
- Ghi Chú (122)
- Chuyển đẩy bánh xe chánh pháp (chuyển pháp
luân), chuyển đẩy mà dịch thật rõ thì phải là lăn đẩy thẳng tới phía
trước: lăn đẩy thẳng thì không đi lệch, tới phía trước thì không ngừng,
không đi lui. Còn bánh xe chánh pháp ở đây là 4 đế và 12 duyên khởi. Trước
hết nói về 4 đế, thì có 3 chuyển 12 hành (3 lần chuyển đẩy với 12
phương thức): đối với mỗi đế, Phật thị (chỉ rõ ) khuyến (khuyến
cáo) và chứng (làm chứng); 4 đế đều 3 chuyển, thành 12 hành, kê rõ như
sau. Một là khổ đế: thị (đây là khổ) khuyến (đây là khổ, chư vị cần
biết) chứng (đây là khổ, Như lai đã biết). Hai là tập đế: thị (đây
là khổ tập) khuyến (đây là khổ tập, chư vị cần đoạn) chứng (đây
là khổ tập, Như lai đã đoạn). Ba là diệt đế: thị (đây là khổ diệt)
khuyến (đây là khổ diệt, chư vị cần chứng) chứng (đây là khổ diệt,
Như lai đã chứng). Bốn là đạo đế: thị (đây là khổ diệt đạo) khuyến
(đây là khổ diệt đạo, chư vị cần tu) chứng (đây là khổ diệt đạo,
Như lai đã tu). Như vậy gọi là 3 chuyển 12 hành của chung 4 đế, và nói
theo gốc. Nhưng 12 hành mà Phật chuyển như vậy mỗi hành làm cho người
nghe (mà đầu tiên là 5 vị tỷ kheo do ngài Kiều trần như đứng đầu) phát
sinh vô lậu tuệ với 4 hành nữa là nhãn: nhãn kiến, trí: quyết đoán,
minh: chiếu liễu và giác: cảnh giác (chữ của Đại tỳ bà sa) thành ra 48
hành; 48 hành này cũng gọi là 3 chuyển 12 hành, và đó gọi là 3 chuyển 12
hành của riêng mỗi đế, và nói theo ngọn. Do 48 hành này, nghĩa là do
nhãn trí minh giác của vô lậu tuệ, mà người nghe đầu tiên là ngài Kiều
trần như đã được gọi là A nhã (Hiểu), và chuyển pháp luân có một
cách giải thích: chánh pháp tứ đế như bánh xe được Phật lăn từ tuệ
giác của ngài vào tâm trí của người nghe. Đó là nói về tứ đế. Còn
12 duyên khởi thì Phật có 2 cách chuyển: một, nói theo chiều lưu chuyển
(vô minh sinh thì hành sinh ...); hai, nói theo chiều hoàn diệt (vô minh diệt
thì hành diệt ...). Lưu chuyển là khổ đế và tập đế được nói rộng
ra, hoàn diệt là diệt đế và đạo đế được nói rộng ra. Và như vậy
cũng có thể gọi là một cách chuyển pháp luân về tứ đế.
-
- Ghi Chú (123)
- Không tham đắm các pháp, chính văn là bất thọ
nhất thế pháp, dịch sát là không tiếp nhận các pháp. Các pháp ở đây
là vạn hữu, là sắc thanh hương vị xúc, chứ không phải là Phật pháp.
Các pháp như vậy dẫu tương quan nhau mà thực chất tách rời nhau (nhân
duyên tánh ly), sự tách rời ấy gọi là các pháp không tiếp nhận nhau; thể
hiện sự không tiếp nhận này gọi là không tiếp nhận các pháp. Không tiếp
nhận các pháp có 2 cách: cách đốn ngộ là sự rơi rụng (thoát lạc) của
Thiền tông nói; còn cách bình thường là sự không tham đắm mà Vạn
52/442B huấn thích, sự ấy chính là không ái và thủ trong 12 duyên khởi.
-
- Ghi Chú (124)
- Sơ hở, chính văn là lậu, coi lại ghi chú số 3
.
-
- Ghi Chú (125)
- Trình bày, thuyết phục, khuyến khích và tán thưởng,
chính văn là thị giáo lợi hỷ, nghĩa đen là chỉ dạy lợi mừng. Đại
trí độ luận (dịch chủ cũng là ngài La thập) cuốn 54 nói, thị là
trình bày cho người nghe rõ về thiện ác, tốt(niết bàn) xấu (sinh tử)
..., giáo là thuyết phục cho người nghe bỏ ác làm lành, rời xấu theo tốt
..., lợi là chỉ ích lợi trong sự thực hành ấy màkhuyến khích cho người
nghe ..., hỷ là tán thưởng sự thực hành ấy cho người nghe vui mừng ...
Lối thuyết pháp của Phật đà và Bồ tát được trang nghiêm bằng 4 sự
như vậy.
-
- Ghi Chú (126)
- Phát tâm tuệ giác vô thượng, chính văn là phát
a nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, gọi tắt là phát bồ đề tâm.
Phát bồ đề tâm có ít ra là 4 giai đoạn thành 4 ý nghĩa. Đầu tiên,
phát bồ đề tâm là phát giác bản tánh tuệ giác vô thượng của tâm. Kế
đó, phát bồ đề tâmlà lập chí nguyện mong cầu phát lộ tuệ giác vô
thượng ấy. Kế đó nữa, phát bồ đề tâm là phát triển tuệ giác vô
thượng ấy bằng cách đoạn trừ dần dần mọi sự vô minh phiền não.
Sau hết, phát bồ đề tâm là phát lộ hoàn toàn tuệ giác vô thượng ấy.
-
- Ghi Chú (127)
- Tấn dịch khá rõ như vậy (Chính 9/92d26). Anh dịch
cũng rõ.
-
- Ghi Chú (128)
- Tham chiếu Tấn dịch (Chính 9/92g16) và Anh dịch.
-
- Ghi Chú (129)
- Toàn là do sinh, chính văn là giai tùng sinh duyên hữu,
dịch rõ là: toàn là do sinh duyên mà có. Tham chiếu Tấn dịch (Chính
9/93g12) và Anh dịch, biết sinh là sinh trong 12 duyên khởi, nhưng hữu thì
không phải hữu trong 12 duyên khởi, nên sinh duyên là chữ kép (có nghĩa:
sinh, 1 trong 12 duyên khởi nên gọi là sinh duyên; chứ không phải sinh duyên
là các duyên phát sinh).
-
- Ghi Chú (130)
- Kệ đây không phải là văn chỉnh cú, mà chỉ
là lối tính tổng số chữ của kinh luật luận. Tổng số chữ ấy gồm tất
cả thể loại, kể cả loại chỉnh cú. Kệ ấy gọi là thú lô ca (sloka),
mỗi bài có 32 chữ (nghĩa là mỗi bài có 4 câu, mỗi câu có 8 chữ) và mấy
bài là tổng số. Thí dụ nói Pháp hoa có 1 vạn bài kệ (hay tụng) có nghĩa
10.000 x 32 = 320.000 chữ. Nay nói những bài kệ nhiều bằng hằng sa là tổng
số không thể tính được nữa, lại có nghĩa tất cả vạn hữu toàn là
biểu thị Pháp hoa, toàn nói lên đạo lý kinh này.
-
- Ghi Chú (131)
- Tham chiếu Tấn dịch (Chính 9/94g17).
- Ghi Chú (132)
- Thiếu 1 câu đáng ghi, "đối với chánh pháp
vĩ đại thì mừng mừng tủi tủi" (Anh dịch: lòng đầy kính trọng)
(Tấn dịch, Chính 9/94d2).
-
- Ghi Chú (133)
- Tiếp đây Tấn dịch có 1 đoạn nữa. Coi phụ lục
2.
-
- Ghi Chú (134)
- Bốn trí thông suốt, coi lại ghi chú số 9 .
-
- Ghi Chú (135)
- Xác tín, chính văn là thẩm đế, có nghĩa xác thực,
xác tín, nhưng ở đây là xác tín, (Anh dịch: tin tưởng mạnh mẽ). Trong sạch:
không vụ danh lợi.
- Ghi Chú (136)
- Thật quá rõ ràng để thấy Pháp hoa đề cao sự
thuyết pháp, nên thọ ký cho ngài Phú lâu na đã đặc biệt, mà nói về
pháp sư sau đây (phẩm 10) càng đặc biệt.
-
- Ghi Chú (137)
- Anh dịch ghi bài chỉnh cú này là số 32 và vị
trí sau bài chỉnh cú số 31.
-
- Ghi Chú (138)
- Áo trong, dịch đúng là trong áo (y lý). Nhưng đối
chiếu với bài chỉnh cú số 37 ở dưới, thấy áo đây là áo trong (nội
y) và dịch sát và đủ là trong áo trong (nội y lý).
-
- Ghi Chú (139)
- Gieo vào chúng con chí nguyện tối thượng, chính
văn là linh chủng vô thượng nguyện, dịch sát là làm cho chúng con gieo trồng
chí nguyện tối thượng. Nhưng phải chuyển mà dịch như trên cho sát ý
và việc.
-
- Ghi Chú (140)
- Giữ ở đây vừa là giữ trong trí (đa văn, ghi
nhớ) vừa là giữ cho còn (trông coi, duy trì) và ngài A nan làm việc sau bằng
chính việc trước.
-
- Ghi Chú (141)
- Một, người diễn giảng Pháp hoa, chính văn là
pháp sư; pháp ở đây là Pháp hoa. Hai, Tấn dịch (Chính 9/99-100) đề phẩm
này là Dược vương như lai, và trước hết có 1 đoạn khá dài; coi phụ lục
3.
-
- Ghi Chú (142)
- Lời này rõ ràng là thọ ký. Sự thọ ký này
nên được thêm vào trong 5 chỗ thọ ký của Phật (coi lại phần Hai của
ghi chú 28).
-
- Ghi Chú (143)
- Coi lại ghi chú số 57 . Không nên thấy ở đây
đưa ra 5 pháp hạnh mà cho pháp sư Pháp hoa chỉ làm 5 pháp hạnh này, lại
càng không thể cho Pháp hoa chỉ có 5 pháp hạnh này.
-
- Ghi Chú (144)
- Coi lại ghi chú số 115 .
-
- Ghi Chú (145)
- Chính văn là y phục. Y phục ở đây là vải lụa
gấm vóc dùng làm khăn, đãy, bao, hộp mà che phủ bọc đựng cuốn kinh.
-
- Ghi Chú (146)
- Câu này nên được hiểu rõ hơn bằng câu Anh dịch
sau đây: phải được coi là sẽ được hoàn myՠtrong tuệ giác tối thượng.
-
- Ghi Chú (147)
- Hiến cúng đủ cả là hiến cúng đủ hết những
gì có thể hiến cúng, lại hiến cúng cho cả người và chỗ diễn giảng
Pháp hoa, không phải chỉ hiến cúng cuốn kinh và chỉ hiến cúng những gì
ở trên mới nói.
-
- Ghi Chú (148)
- Trang phục của Như lai là pháp y của ngài và phước
tuệ của ngài. Ở đây vẫn có cả 2 nghĩa, nhưng nghĩa trước là chính.
-
- Ghi Chú (149)
- Anh dịch: người ấy mang vác Như lai trên vai.
-
- Ghi Chú (150)
- Mau được, chính văn là tức đắc, tức ở đây
nghĩa là mau (Anh dịch là sớm).
-
- Ghi Chú (151)
- Tuệ giác tự nhiên: tự nhiên trí.
-
- Ghi Chú (152)
- Tuệ Biết tất cả: coi lại ghi chú số 32 .
-
- Ghi Chú (153)
- Bản kinh xác quyết cho các thanh văn, chính văn là
quyết liễu thanh văn pháp, có nghĩa Pháp hoa là kinh có uy lực xác quyết mọi
vấn đề quan trọng (pháp) của chư vị thanh văn. Nói cách khác, nguyên thỉ
và tiểu thừa được chung quyết ở đây, trong kinh Pháp hoa.
-
- Ghi Chú (154)
- Bài chỉnh cú này Anh dịch ghi số 33 và vị trí
đặt theo thứ tự ấy.
-
- Ghi Chú (155)
- Hộ trì (hộ niệm): truyền cảm hứng, ban phước
cho.
-
- Ghi Chú (156)
- Các phía ở các tầng của tháp, dĩ nhiên là
tháp rất lớn, phía nào cũng có một hay nhiều chỗ rỗng và lớn như phòng,
cửa cuốn theo hình khám thờ, gọi là khám thất, nên Tấn dịch là cửa
có mái hiên, Anh dịch là cửa cuốn.
-
-
- Ghi Chú (157)
- Chính văn là kỳ chư phan cái (các lọng dù có mắc
phan phướn; chứ không phải là cờ phan và lọng dù, vì cờ phan đã nói rồi).
Anh cũng dịch là hàng dù. Nhưng xét Tấn dịch đúng hơn; ở đó, Chính
9/102dl, dịch rõ là bảo cái (bảo cái bằng ngọc). Bảo cái này phải là
trên tháp mới cao đến Tứ thiên vương thiên.
-
- Ghi Chú (158)
- Tôi dịch lại, và chấm câu thật sát, như sau,
cho rõ thêm: Ngài có thể đem kinh Pháp hoa, (pháp dạy bồ tát và pháp Phật
hộ niệm) của tuệ giác bình đẳng vĩ đại mà nói cho đại chúng. Ý nghĩa
là Phật đem kinh Pháp hoa của tuệ giác Phật mà nói cho các chúng chúng
sinh, vậy mà nói thật cả: đó mới là điều đức Đa bảo tán dương.
-
- Ghi Chú (159)
- Đọc lạc hơn nhạo: nói một cách vui vẻ chứ
không phải ưa nói.
-
- Ghi Chú (160)
- So với phẩm 12 (thực là phần sau của phẩm
này) thì biết chép hướng đông không đúng, hoặc phải như Tấn dịch (Chính
9/102d26) nói hướng đông mà ở dưới.
-
- Ghi Chú (161)
- Tấn dịch tiếp đây có 1 đoạn nữa. Coi phụ lục
4.
-
- Ghi Chú (162)
- Coi lại ghi chú số 57 .
-
- Ghi Chú (163)
- Ở đây là Sắc cứu cánh thiên, tột đỉnh của
thế giới có hình sắc. Nếu nói tột đỉnh của thế giới có sống chết
thì gồm cả Phi phi tưởng thiên trên nữa.
-
- Ghi Chú (164)
- Hoại kiếp là thời kỳ hư rã, 1 trong 4 thời kỳ
là kết thành, tồn tại, hư rã và tan biến (thành trú hoại không) của đại
thiên thế giới. Một trong 3 cái gọi là đại tam tai của hoại kiếp là hỏa
hoạn, nên gọi là lửa hoại kiếp (tựa như nói lửa tận thế, dầu lửa
hoại kiếp khác hẳn lửa tận thế).
-
- Ghi Chú (165)
- Coi lại ghi chú số 58 .
-
- Ghi Chú (166)
- Một, các bản dịch khác không để phẩm này
riêng ra, mà chỉ là phần kế tiếp của phẩm 11. Do đó mà Anh dịch văn
chỉnh cú vẫn đánh số liên tiếp theo phẩm ấy. Hai, Pháp hoa sớ của
ngài Trúc đạo sinh (Vạn 150/396B) và Pháp hoa nghĩa ký của ngài Pháp vân
(Vạn 42/80A) không có cả trường hàng và kệ của phẩm này, cũng không
có trong phẩm 11. Nhưng điều này phải tồn nghi, vì lời tựa của Tùy dịch
(Chính 9/134) nói chính văn chỉ thiếu kệ. Ba, nhưng nói thiếu kệ cũng phải
tồn nghi, vì nói kệ của phẩm này do tiên hiền (?) tục xuất, mà xuất từ
đâu thì không thấy nói. Dĩ nhiên Tùy dịch chỉ sao lại sự tục xuất
ấy. Thêm nữa, lời tựa của Tùy dịch nói phẩm này và phẩm Phổ môn,
chính văn thiếu kệ; nhưng, thí dụ trong Pháp hoa nghĩa sớ, phẩm Phổ môn
không có kệ (Vạn 42/494B), còn phẩm Đề bà lại có (Vạn 42/455A).
-
- Ghi Chú (167)
- Cả 2 bài chỉnh cú ở dưới và lời này, tham
chiếu Tấn dịch (Chính 9/105), Anh dịch, lại xét câu trả lời của ngài Văn
thù, thì thấy là thể hỏi, nên phải bổ túc 2 chữ vào lời này và chuyển
văn mà dịch 2 bài chỉnh cú ở dưới.
-
- Ghi Chú (168)
- Chính văn là vô bất tông phụng giả, có thể dịch
ai cũng thờ phụng. Nhưng xét ra, thấy dịch như đã dịch thì hơn: tôn thờ
(phụng) như bậc đồng tông (tông) là kính mà thân.
-
- Ghi Chú (169)
- Chính văn có bản chép hựu văn: lại nghe (ngài Văn
thù nói). Nhưng Tùy dịch chép hữu văn: có người nghe (ngài Văn thù nói).
Như vậy hữu hơn hựu, nhưng bỏ cả 2 chữ cũng không hại gì.
-
- Ghi Chú (170)
- Chính văn là trì. Nói vắn tắt, trì là nắm giữ
không mất: nắm giữ cho còn trong trí (ghi nhớ) là trì, mà nắm giữ cho
còn trong đời (duy trì) cũng là trì. Ở đây là nghĩa thứ hai, và giữ đây
là nhận nơi Phật mà giữ, nên dịch bằng chữ kép kính giữ. Kính giữ bằng
mọi pháp hạnh, trong đó có sự diễn giảng, nên chỉ nói trì là đủ cả.
Coi lại ghi chú số 57.
-
- Ghi Chú (171)
- Thiện quốc, dịch đúng là quốc độ tên Thiện
(Tấn dịch là Nhân hiền).
-
- Ghi Chú (172)
- Bài này dịch như thế, thật ra là: chúng con
không tiếc tính mạng; chúng con nguyẹẤn tương lai giữ pháp Phật ký
thác là vì tuệ giác vô thượng.
-
- Ghi Chú (173)
- Cổ đức mệnh danh 4 cách sống yên vui này là
thân, miệng, ý, và nguyện, nghĩa là toàn bộ thân tâm sống đúng cách sống
mang đầy tính cách giới luật, sống đúng tâm nguyện Pháp hoa. Nhưng riêng
cách thứ nhất mà chỉ nói là thân thì rõ ràng không đủ; với chỗ đi và
chỗ thân được nói, chứng tỏ cách này là căn bản. Thêm nữa, cũng nên
xét để thấy 4 cách này là quảng diễn 3 pháp của phẩm 10.
-
- Ghi Chú (174)
- Chính văn là diệc bất hành bất phân biệt, tham
chiếu Anh dịch, thấy câu này nghĩa là không tìm tòi, không thảo luận. Nhưng
tôi muốn xuôi với văn khí ở trên (không đi theo pháp nào ...) nên dịch cũng
không đi theo sự không nhận thức các pháp.
-
- Ghi Chú (175)
- Đâm nhau, vật nhau: đấu kiếm, đô vật. Hóa
trang, chính văn là na la, nhiều chú thích nói là vẽ mình, kể cả vẽ mày
mặt, có chú thích nói là lực sĩ đấu sức. Tôi chọn chú thích trước.
Chiên đà la: thợ thịt, đao phủ. Ác luật nghi: thề làm ác, sống bằng
nghề ác.
-
- Ghi Chú (176)
- Nhưng đây chỉ là nói sự tế nhị vì hạnh nguyện
bất đồng, chứ không phải bảo kỳ thị, vô lễ, phạm luật tỷ kheo.
-
- Ghi Chu (177)
- Tục gọi là lại cái.
-
- Ghi Chú (178)
- Toàn thể chính văn này nói cho tỷ kheo để làm
điển hình, nên đối tượng hay nói về nữ. Như vậy chói qua tỷ kheo ni
thì đối tượng hay nói về nam. Nhưng răn không thân gần là cốt để giáo
hóa, không phải không thân gần là không giáo hóa, là kỳ thị.
-
- Ghi Chú (179)
- Câu này chính văn là vô sở hữu tánh, nhất thế
ngữ ngôn đạo đoạn. Vô sở hữu tánh là không thật có (hay rõ hơn: không
phải mọi tánh cách có). Nhưng rõ ràng câu nhất thế ngữ ngôn đạo đoạn
(nói giản dị: tất cả ngôn ngữ đều không thấu) đi một mạch với câu
trên (vô sở hữu tánh), nên câu này cũng như nói nhất thế tâm hành xứ
diệt (nói giản dị: tất cả tư duy đều không đạt), và tôi dịch như
đã dịch. Dịch như đã dịch (không phải những sự sở hữu của tư duy)
thì mọi phạm trù có không v/v của tư duy sở hữu đều không phải, chứ
không phải chỉ phạm trù có mới không phải.
-
- Ghi Chú (180)
- Ba tạng tiểu thừa, chính văn là 3 tạng. Từ ngữ
này là để gọi 3 tạng của Thượng tọa bộ do ngài Ca diếp chủ trì.
Và ai thuộc cả 3 tạng này thì gọi là tam tạng học giả: học giả thuộc
cả 3 tạng (Công đức luận, Chính 25/34). Nhưng từ ngữ này chứa đầy tính
cách độc quyền: để những gì không có trong đó thì dám cho là phi Phật
thuyết cả. Độc quyền như vậy cốt loại đại sĩ tạng và tạp tạng (đại
thừa và bản sinh) mà3 tạng của Thượng tọa bộ đã lựa bỏ, nhưng 3 tạng
của Đại chúng bộ, do ngài Ba sư ba, 1 trong 5 vị tỷ kheo đầu tiên chủ
trì thì lấy cả, và gọi là 5 tạng. Cuối bách kỷ 1 hay đầu bách kỷ 2
sau Phật nhập diệt, ngài Đại thiên nhập đại sĩ tạng và tạp tạng
vào 3 tạng chứ không để riêng ra nữa, nghĩa là hủy bỏ tính cách độc
quyền nói trên. Nay, ở đây chính văn nói 3 tạng là chỉ 3 tạng của Thượng
tọa bộ như đã nói trên, nhưng chỗ khác gọi rõ 3 tạng ấy là 3 tạng
tiểu thừa. Tôi dùng từ ngữ này, vì từ ngữ này mới đúng với chính
ý ở đây.
-
- Ghi Chú (181)
- Cả 2 bài chỉnh cú 5-6 này chính văn là cập tỷ
kheo ni háo hý tiếu giả, thâm trước ngũ dục, cầu hiện diệt độ, chư
ưu bà di, giai vật thân cận. Tôi ngờ chép sai thứ tự; đáng lẽ nên
chép cập tỷ kheo ni háo hý tiếu giả, thâm trước ngũ dục chư ưu bà di,
cầu hiện diệt độ, giai vật thân cận. Dịch thì có 2 cách. Một, dịch
như đã dịch là tham chiếu Tấn dịch (Chính 9/107d29 và 108t1) và Anh dịch.
Hai, tham chiếu văn trường hàng "không thân gần bốn chúng cầu niết
bàn của thanh văn" thì nên dịch: những tỷ kheo ni ưa thích cười giỡn,
những nữ tín đồ quá ham ngũ dục, những người tìm kiếm niết bàn hiện
tại, với những người ấy đều chớ thân gần.
-
- Ghi Chú (182)
- Ghi hết chính văn là thọ trì đọc tụng. Ghi hết
như vậy thì vì thừa mà hóa quá thiếu: làm cho chữ thọ trì chỉ có nghĩa
tiếp nhận ghi nhớ mà mất cái nghĩa tiếp nhận kính giữ; còn nói tiếp
nhận kính giữ bằng cách đọc tụng, thì làm sao giữ được và khó gì lắm
đâu. Nên đoạn dưới chính văn chỉ có chữ trì, và ở đây cũng phải
như vậy.
-
- Ghi Chú (183)
- Thường thấy lắm người hay vi phạm huấn dụ này.
-
- Ghi Chú (184)
- Hay nơi vương miện.
-
- Ghi Chú (185)
- Căn bản và năng lực thuần khiết: ngũ căn và
ngũ lực vô lậu.
-
- Ghi Chú (186)
- Ma nghĩa là sát hại thiện pháp, tuệ mạng và
tính mạng. Ma có 4: hợp thể (ấm ma), phiền não, chết chóc và ma vương.
Ở đây không nói ma vương, vì ma vương đã nói ở trên. Nhưng ma vương mới
thật là ma, khêu gợi và lợi dụng 3 loại ma kia.
-
- Ghi Chú (187)
- Nhiều vị hơn nữa, tất cả từ ngữ này đều
lấy chữ của văn chỉnh cú ở dưới. Dịch sát thì phải nói huống chi
các vị: huống chi các vị chỉ dẫn theo ít hơn, tức là đệ tử được
dẫn theo càng ít thì thầy dẫn theo càng nhiều.
-
- Ghi Chú (188)
- Chỉ 1 câu này cũng đủ thấy đức Di lạc nói
không biết gì về các bồ tát dũng xuất từ đất, chỉ là một cách
nói.
-
- Ghi Chú (189)
- Sát thì phải dịch: Như lai nay muốn phát lộ
tuyên thị về trí tuệ của chư Phật, về sức mạnh thần thông tự tại
của chư Phật, về sức mạnh sư tử vung mình của chư Phật, về sức mạnh
thế lớn uy mãnh của chư Phật.
-
- Ghi Chú (190)
- Chữ thật của chính văn vừa có nghĩa thành thực
mà không dối, vừa có nghĩa xác thực mà không lầm. Nay dịch không có lời
nói không thật thì thật ra chỉ được nghĩa thành thực nhiều hơn.
-
- Ghi Chú (191)
- Phân tích (phân biệt) ở đây là lý luận và
tranh luận.
-
- Ghi Chú (192)
- Chính văn là phân biệt, ở đây có nghĩa là
phân biệt và nói.
-
- Ghi Chú (193)
- Dịch sát chính văn: hoặc nói thân mình hoặc
nói thân người, hoặc chỉ thân mình hoặc chỉ thân người, hoặc chỉ việc
mình hoặc chỉ việc người. Chỉ, chính văn là thị, vừa có nghĩa là chỉ,
vừa có nghĩa là thị hiện.
-
- Ghi Chú (194)
- Rõ ràng phẩm này nói Phật thường trú bất diệt
có nghĩa là vĩnh viễn tồn tại mà không có nhập diệt. Tức là nói đến
sự sống lâu bất tận. Và lý do được đưa ra như câu này thì thật ít
thấy. Câu bổ túc là tham chiếu Tấn dịch (Chính 9/113d25).
-
- Ghi Chú (195)
- Tham chiếu Tấn dịch (Chính 9/114d6). Ở đó nói bồ
tát và chúng sinh. Bồ tát là số bồ tát dũng xuất.
-
- Ghi Chú (196)
- Tham chiếu Tấn dịch (Chính 9/114d12) thì thấy
câu này, và lý do này, chỉ là thêm cho rõ.
-
- Ghi Chú (197)
- Do câu này mà có thành ngữ Linh sơn tịnh độ.
Nhưng thật ra vì khi Phật nói câu này (và kinh này) thì ở Linh sơn nên
nói xuất hiện tại đó, mà thôi, không phải Phật chỉ ở đó và chỉ xuất
hiện ở đó, nói cách khác, không phải chỉ có Linh sơn mới là tịnh độ
của Phật. Phật ở ngay nơi chỗ mỗi người chúng ta, không bao giờ mất
đi. Khi không còn ảo giác sinh diệt mất còn thì thấy Phật, thấy tịnh
độ của ngài.
-
- Ghi Chú (198)
- Thành quả, ở đây và ở 2 phẩm sau, chính văn là
công đức. Công đức (punyâbhi-samskâra?) phần chính chỉ cho thiện pháp
(thiện nghiệp). Thiện pháp vừa là việc tốt, vừa là đức tính của việc
tốt ấy, nên gọi là công đức. Như vậy công là đức, và công đức là
chữ gọi mọi thành tích do bản thân công tích thành thục, bao gồm mọi
đức tính hay phẩm chất tốt, mọi ích lợi tốt; trong mọi ích lợi tốt
không những bao gồm cả phước đức và tuệ giác (là đức tính hay phẩm
chất tốt) mà còn gồm cả chủ thể và khách thể (là thân thể và quốc
độ trang nghiêm). Nhưng để y chữ công đức thì quen quá hóa ra gần như
không hiểu gì cả, nên tùy chỗ mà để nguyên, hoặc đổi ra thành quả,
ích lợi, đức tính, phẩm chất, và có khi là phước đức.
-
- Ghi Chú (199)
- Tuệ giác Không sinh (vô sinh pháp nhẫn), có thể
thêm: tuệ giác Không phát sinh, và dịch sát: sự thể nhận Pháp không
phát sinh. Nhẫn ở đây là nhẫn chịu, chấp nhận, thể nhận; nó là nhân
của trí, có chỗ cũng tức là trí. Vô sinh pháp nhẫn cũng gọi là Bất khởi
pháp nhẫn: tuệ giác Không nổi dậy. Không phát sinh (hay không nổi dậy)
là không phát sinh phiền não ác nghiệp. Pháp không phát sinh là thật tướng
(bản thể) vốn không phải phiền não, không sinh phiền não; thể nhận
Pháp không phát sinh ấy gọi là tuệ giác Không sinh. Được tuệ giác này
là được đến vị trí Không thoái chuyển (Bất thoái: a bệ bạt trí).
-
- Ghi Chú (200)
- Coi lại ghi chú số 8 .
-
- Ghi Chú (201)
- Chính văn chép: nhị thiên trung quốc độ (2 ngàn
trung thiên thế giới). So với trên dưới, so với chỉnh cú (trung thiên giới),
tham chiếu Tấn dịch (Chính 9/115g20) biết phải chép trung thiên quốc độ
mới đúng.
-
- Ghi Chú (202)
- Trừ Bát nhã là vì chính Bát nhã là Phật tri kiến:
là chủ thể của Pháp hoa.
-
- Ghi Chú (203)
- Chính văn là chư hữu đắc pháp giả. Đắc pháp
là chữ trước đây tăng giới hay dùng, nhưng không thấy có trong từ điển,
và ý được nói cũng không phải nghĩa ở đây. Ở đây có lẽ đắc pháp
không phải là chữ kép. Tôi lượng định ý nghĩa mà dịch như đã dịch,
và có nghĩa là sự tự cho đã được cái mà thực sự chưa được.
-
- Ghi Chú (204)
- Lời này của Phật rất là quan trọng. Nên xưa
đã có 4 ý thú và 4 tất đàn để hiểu ý hướng của lời Phật. Những
kẻ lợi dụng lời Phật để tự đề cao, cố ý hiểu những lời đề
cao của Phật thành những lời phán quyết của ngài, những kẻ ấy phải
nhớ lấy lời răn dạy này.
-
- Ghi Chú (205)
- Tăng xá, chính văn là tăng phường (khu vức của
chư tăng cư trú, tức như chữ tự viện ngày nay). Tôi đổi ra tăng xá cho
dễ hiểu (cũng với nghĩa đã nói).
-
- Ghi Chú (206)
- và.
-
- Ghi Chú (207)
- Tham chiếu Anh dịch.
-
- Ghi Chú (208)
- Coi lại ghi chú số 116 .
-
- Ghi Chú (209)
- Những tên hoa này là Trung hoa dịch nghĩa những tên
hoa được dịch âm sau đây, kê theo thứ tự của chính văn: tu man na, chiêm
bặc và a đề mục đa dà.
-
- Ghi Chú (210)
- Tùy hỷ: tán thành, tán trợ, tán thưởng, tán đồng,
vui vẻ chấp nhận, nhưng vẫn không bằng nghĩa đen là mừng theo.
-
- Ghi Chú (211)
- Pháp hóa: sự giáo hóa, hóa cải, giáo dục của
Pháp, nói cách khác, Pháp có cái năng lực ấy, nên gọi là Pháp hóa.
-
- Ghi Chú (212)
- Chư thiên có cái quả báo cung điện tùy thân, mọi
sự di chuyển là cung điện ấy di chuyển theo ý muốn. Do đó mà có người
dịch là xe trời.
-
- Ghi Chú (213)
- Chính văn là diệm (hay dương diệm), là giữa đồng
nội mênh mông, ánh nắng với gió cuốn bụi lộng lên, xa trông như nước
cuộn, hoặc nắng bốc hơi, xa trông như sóng gợn. Loài hươu khi khát hoa mắt
hay thấy như vậy và chạy đến, nhưng đến thì dĩ nhiên không phải là nước:
cái gọi là giá trị cuộc đời chỉ là ảo ảnh của chính cái gọi là
khát ái.
-
- Ghi Chú (214)
- Câu này, ở đây cũng như ở 5 đoạn sau, hãy coi
lại các ghi chú số 57 và 143 . Với các ghi chú ấy, câu này có thể nói
như thế này là đủ và mới đủ: ... đối với Pháp hoa mà biết kính giữ
bằng mọi pháp hạnh ... Nên dưới đây nhiều chỗ chỉ dùng chữ kính giữ
(trì) ấy.
-
- Ghi Chú (215)
- Căn đây có thể hiểu là giác quan, mặc dầu khi
nói về lưỡi và thân thì không hoàn toàn chỉ là nghĩa ấy.
-
- Ghi Chú (216)
- Chính văn là thanh tịnh, có nghĩa trong sạch,
trong sáng, hoàn hảo, xuất sắc ...
-
- Ghi Chú (217)
- Không hỏng (bất hoại) là không bị rối loạn,
không bị chế ngự, không bị suy yếu, bực bội, không bị cản trở.
-
- Ghi Chú (218)
- Hơi, chính văn hương. Hương có khi là thơm (phản
nghĩa xú là thối), nhưng ở đây là hơi: hơi thơm hơi thối hay hơi gì cũng
là hương.
-
- Ghi Chú (219)
- Chính văn chỉ là vô căn cập phi nhân. Vô căn:
không đủ bộ phận (khuyết tật). Phi nhân: không phải nhân loại (quái
thai). Nhưng so với câu chưa phân nam nữ thì phải dịch như đã dịch.
-
- Ghi Chú (220)
- Chính văn: chúng bảo hoa trang nghiêm, cũng có thể
dịch: những vật thể rực rỡ khác.
-
- Ghi Chú (221)
- Những người trong 7 người vật quí báu (thất bảo)
của luân vương thì có 4: bảo nữ (ngọc nữ) bảo trí (thủ tướng) bảo
binh (tổng chỉ huy quân đội) và bảo tạng (tổng trưởng tài chính).
-
- Ghi Chú (222)
- Luân vương có vị cũng có cái phước như chư
thiên, đi đâu thì cung điện tùy thân, và cung điện ấy được coi như xe
(nên có người dịch là xe). Đó là 1 ý kiến. Ý kiến khác nói xe luân vương
đi vừa lớn vừa đẹp như cung điện vậy. Tôi dịch theo ý kiến sau cho dễ
hiểu.
-
- Ghi Chú (223)
- Dạ xoa: quỉ ăn thịt người. La sát: quỉ bạo
ác. Tỳ xá xà: quỉ điên cuồng (hay quỉ ăn tinh khí).
-
- Ghi Chú (224)
- Là thanh văn, duyên giác, bồ tát.
-
- Ghi Chú (225)
- Tuy dịch như vậy mà tôi không yên tâm. Chính văn
là tục gian kinh thư, trị thế ngữ ngôn, tư sinh (sự) nghiệp. Tra cứu Tấn
dịch và Anh dịch thấy không rõ ràng, theo đó tuồng như chỉ có nghĩa
đơn giản: châm ngôn phổ biến, cách ngôn răn đời, nghề nghiệp mưu
sinh. Nghĩa đơn giản này quả thật quá nhẹ đối với chính văn. Nhưng dịch
như đã dịch (học thuyết thế gian, lý thuyết chính trị, công nghiệp
dân sinh) lại nặng thêm đối với chính văn ẩ Không những nặng thêm mà
đã và sẽ còn bị lợi dụng bởi những kẻ đại ngôn loạn ngữ, sính
nói những điều mà ít nhất phẩm 14 đã cấm k﮼/dt>
-
- Ghi Chú (226)
- Những chữ bổ túc là tham cứu Anh dịch. Những
chữ này loại bỏ sự nói ngẫu nhiên mà hợp Phật pháp, nhất là loại bỏ
sự nói phóng túng hoặc suy diễn theo tư ý mà tự cho là "theo Pháp hoa
thì nói gì cũng hợp Phật pháp".
-
- Ghi Chú (227)
- Chính văn là tứ nguyệt (4 tháng), thực sự là
nói 1 mùa của Ấn độ. Xứ này mỗi năm có 3 mùa, mỗi mùa có 4 tháng.
-
- Ghi Chú (228)
- Chính văn: tùy nghĩa thức thự đệ, dịch rõ là
biết theo ý nghĩa nhất quán của các chi tiết khác nhau mà nhận thức sự
thứ tự (không mâu thuẫn) của các chi tiết ấy.
-
- Ghi Chú (229)
- Coi lại ghi chú số 130 .
-
- Ghi Chú (229B)
- Ngài Văn thù chỉ biết nguyên ủy Pháp hoa ngang
đây.
-
- Ghi Chú (230)
- Đoạn này tham chiếu Anh dịch mà chấm câu và dịch.
Anh dịch cũng thấy đoạn này bất thường: không giống lắm với chỉnh
cú số 9 lặp lại dưới đây, không nói ưu bà di mà chỉ nói ưu bà tắc,
nhưng quan trọng nhất là chỉ nói tỷ kheo ni mà không nói tỷ kheo. Cũng nên
biết Tư Phật (Sugataketana?) là tên một ưu bà tắc có tiếng đã nói đến
trong kinh Thiên Phật nhân duyên (cũng do ngài La thập dịch, Vạn 49/183B dẫn).
Tấn dịch có lẽ có bổ túc, như sau: 500 bồ tát đứng đầu bởi Hiền hộ,
500 tỷ kheo tỷ kheo ni đứng đầu bởi Sư tử nguyệt, 500 ưu bà tắc và
500 ưu bà di, vân vân (Chính 9/123g21).
-
- Ghi Chú (231)
- Vướng mắc các pháp (kế trước ư pháp, trước
pháp), Tấn dịch sở đổ điên đảo: nhìn thác loạn (Chính 9/123d6). Như vậy
vướng mắc các pháp là chỉ tin những khái niệm do nhận thức thác loạn.
-
- Ghi Chú (232)
- Tội tình, chính văn là tội, có lẽ có nghĩa tôểi
báo. Nhưng ở đây nghĩa này không thích hợp lắm. Sự chịu đựng của ngài
Bất khinh là hạnh nguyện, không phải là tội báo. Tội tình là chữ
thông tục, tôi mượn chữ ấy mà dịch là giữ chính văn nhưng làm nhẹ bớt
đi.
-
- Ghi Chú (233)
- Chính văn là nhân phi nhân, có 2 nghĩa với 2 cách
dịch. Một, dịch là người và không phải người thì bao gồm loài người
(là 4 chúng) và những loài không phải loài người (là 8 bộ). Hai, dịch
là người mà không phải người thì chỉ cho 8 bộ: 8 bộ là những loài
không phải loài người, nhưng khi đến nghe pháp thì hiện ra thân loài người.
Ở đây là nghĩa thứ hai (loài người là 4 chúng thì đã nói ở trên).
-
- Ghi Chú (234)
- Đàn chỉ thường được dịch là gãymóng tay.
Xét chữ và việc thì không đúng. Đàn chỉ nói 2 ý. Ý tốc độ (mau như
đàn chỉ) thì dịch sao cũng được. Nhưng ý tiếng động nhỏ thì phải
xét. Xét chỉ là ngón tay, không phải móng tay. Đàn chỉ là bật ngón tay,
búng ngón tay, hay gõ ngón tay (vào vật khác): như vậy mới đúng chữ và
việc, nhất là việc trong Luật, và có thể là việc ở đây. Thấy có người
đập vào nhau cả 4 ngón tay của 2 bàn tay, gần như vỗ tay, cách ấy cũng
đáng chú ý trong vài trường hợp làm theo Luật.
-
- Ghi Chú (235)
- Bảo cái bằng hoa, chính văn là bảo trướng.
Trướng là che ở trên, nên cũng là bảo cái. Tấn dịch là bảo hoa cái
(Chính 9/124g11), Anh dịch cũng tương tự.
-
- Ghi Chú (236)
- Chữ của Anh dịch.
-
- Ghi Chú (237)
- Cũng nên bổ túc mà dịch như vầy: phải coi những
chỗ ấy như là bồ đề tràng mà chư Phật ở đó thành tựu tuệ giác
vô thượng, (như là vườn Lộc uyển) mà chư Phật ở đó chuyển đẩy bánh
xe chánh pháp, (như là rừng Sa la) mà chư Phật ở đó nhập vào niết bàn
hoàn toàn.
-
- Ghi Chú (238)
- Các bản khác để phẩm này ở vị trí cuối
cùng.
-
- Ghi Chú (239)
- Tùy dịch chép tập là tập hợp, không chép tập
là luyện tập.
-
- Ghi Chú (240)
- Câu này chứng tỏ, và sự thật là như vậy, Pháp
hoa là 1 trong những kinh pháp sâu xa. Ngoài kinh ấy còn có những kinh khác cũng
là kinh pháp sâu xa. Pháp hoa sâu xa, nhưng không phải chỉ Pháp hoa mới là
sâu xa, mặc dầu kinh ấy có nhiều sự khá độc đáo.
-
- Ghi Chú (240B)
- Tôi suy đoán kinh Pháp hoa đến đây đã hoàn tất.
Các phẩm sau đây có lẽ thuộc bộ Pháp hoa, hơn là kinh Pháp hoa. Suy đoán
này có 1 lý do có thể cho là sai, ấy là luận Pháp hoa có các phẩm ấy.
-
- Ghi Chú (241)
- Không có 8 nạn (Tấn dịch, Chính 9/125t23).
-
- Ghi Chú (242)
- Một lần nữa nên ghi chú thêm về bảo cái. Cho
đến đây thì thấy rõ vật che trên đầu, chính văn có chỗ dịch cái, chỗ
dịch trướng; Tấn dịch cũng vậy; như ở đây chính văn là trướng, Tấn
dịch là cái (Chính 9/125t25). Chưa kể trong đoạn đầu phẩm 4, chính văn và
Tấn dịch là trướng. Anh dịch là mái hiên. Vậy cái là lọng dù, mui xe,
mái hiên, trướng (là vật che trên, che bao quanh mà rủ xuống là màn) và bảo
cái trong tượng tranh và các chùa hiện nay; tất cả đều là cái với trướng,
và theo chỗ mà có thể dịch là bảo cái. Đến đây cũng thấy phan là
phan phướn, dải lụa hay vải.
-
- Ghi Chú (243)
- Cách (khứ) ở đây đáng lý phải dịch là cao hơn.
Nhưng câu bồ tát thanh văn ngồi dưới cây ngọc cho thấy đài ngọc không
phải dưới cây ngọc. Vậy cách có nghĩa vừa cao vừa xa.
-
- Ghi Chú (244)
- Dịch theo Vạn 50/156A. Chính văn thì thứ tự như
sau: chiên đàn, huân lục, đâu lâu bà, tất lực ca, trầm thủy, giao hương.
-
- Ghi Chú (245)
- Tham chiếu Tấn dịch: thệ nguyện lấy thân làm
đèn, vì tất cả chúng sinh mà tự đốt thân mình (Chính 9/125g16).
-
- Ghi Chú (246)
- Đây là 1 cách nói đem cho cả ngôi vua.
-
- Ghi Chú (247)
- Chính văn là kinh hành bỉ xứ. Chữ kinh hành ở
đây, tham cứu các bản dịch khác thấy không phải lặp lại sự kinh hành
trong trường hàng, không phải là sự kinh hành, và nếu có cho là như thế
thì cũng không được, vì sự kinh hành chưa đủ để được định Hiện
các sắc thân. Nên kinh hành ở đây chỉ là đã làm, đã đi. Còn bỉ xứ
(chỗ kia, chỗ ấy) có thể chỉ đức Tịnh minh đức, cũng có thể chỉ
con đường khổ hạnh, thành ra có nghĩa đã tu hành nơi đức Tịnh minh đức,
hay đã tu hành theo con đường khổ hạnh (nơi đức Tịnh minh đức). Nếu
phải chọn thì nên chọn nghĩa sau.
-
- Ghi Chú (248)
- Chính văn: Thế tôn do cố tại thế. Nghĩa là
"như vậy là đức Thế tôn vẫn còn có thể ở đời thêm nữa".
Nếu và nên chuyển thành câu hỏi mà dịch thì như đã dịch. Lại muốn
sát lời và ý thì phải dịch theo lối đối thoại thông tục: ngài còn sống
nữa chứ? Nhưng đừng dùng chữ ư hay chữ à kẻo phản ý hoàn toàn. Đây
là Tấn dịch: xin đức Thế tôn thi ân, thương xót mười phương mà vẫn
lại ở đời (vẫn ở đời thêm nữa) giáo huấn tất cả, độ thoát
chúng sinh cho ai cũng được nhờ (Chính 9/125d19).
-
- Ghi Chú (249)
- Ở đây ám chỉ Pháp hoa.
-
- Ghi Chú (250)
- Chính văn là tam thế giới, Tấn dịch là Phạn
thiên (Chính 9/126t1).
-
- Ghi Chú (251)
- Không phải một cánh tay, so với đoạn dưới thì
rõ.
-
- Ghi Chú (252)
- Pháp hoa hay kể chư thiên, nhân loại và tu la. Tại
sao kể tu la thì chưa thấy giải thích. Ở đây chính văn cũng kể tu la,
nhưng không để được vì trên đã nói quốc độ đức Tịnh minh đức không
có loài này.
-
- Ghi Chú (253)
- Ấy là nói theo cách phổ thông của dân tộc Ấn
độ, không phải nói như vậy là công nhận tư tưởng này.
-
- Ghi Chú (254)
- Dịch đủ: như hồ nước trong mát có thể thỏa
mãn tất cả người khát. Dịch tắt chỉ để cho chỉnh với những ví dụ
tiếp theo mà thôi.
-
- Ghi Chú (255)
- Xưa hay đi buôn đường biển, và rất nguy hiểm.
Phải có người rành đường, và ứng phó giỏi, cầm đầu mới đi được.
Đi buôn đường bộ cũng vậy.
- Ghi Chú (256)
- Năm trăm năm sau, chính văn là hậu ngũ bách tuế,
có 2 nghĩa. Nghĩa một, là 500 năm thứ 5 trong 2.500 năm sau Phật nhập diệt
(2500 năm ấy chia đều 5 thời kỳ: được giải thoát, tu thiền định, nhiều
học vấn, làm chùa tháp, thích tranh cãi). Nghĩa hai, là nửa sau của thiên
kỷ sau Phật nhập diệt (tức 500 năm thứ 2 trong nghĩa một; cũng tức là
thời kỳ tượng pháp, sau thời kỳ chánh pháp). Theo nghĩa một, có thể dịch
rõ: 500 năm sau hết; theo nghĩa hai, có thể dịch rõ: 500 năm phần sau (lại
có thể dịch rõ hơn: sau 500 năm phần trước sắp đi; dịch rõ hơn như vậy
là nói tất cả thời kỳ sau thời kỳ chánh pháp). Ở đây, câu năm trăm
năm sau, căn cứ văn tự thì chỉ cho nghĩa hai, nhưng Phật học đại từ
điển nói chỉ cho nghĩa một. Nghĩa hai có phần hơn, vì quả thật những
việc nói ở phẩm này, và nhất là ở phẩm 28, thì khó có trong 500 năm thứ
5 sau Phật nhập diệt. Nhưng nghĩa một cũng có ý: thời đại càng xa Phật
thì tu hành càng khó, khó mà tu được mới là đặc biệt, mới là do năng
lực hộ trì đặc biệt. Như vậy, nếu chuyển văn mà dịch rõ hơn như đã
nói: "sau 500 năm sắp đi", thì được cả 2 nghĩa mà lại còn hơn
cả 2 nghĩa nữa (vì bao gồm tất cả thời kỳ sau thời kỳ chánh pháp).
-
- Ghi Chú (257)
- Chính văn và Tấn dịch đều là bằng (đẳng).
Nhưng có lẽ chỉ thẳng đà mà nói. Nói bằng thì phản ý hoàn toàn: định
tuệ các vị khác không hơn nhưng có thể bằng định tuệ vị này; nếu
các vị khác không bằng thì vị này chỉ Phật bằng mà thôi!
-
- Ghi Chú (258)
- Chỉ đoạn này cũng đã cho thấy nếu tôn Pháp
hoa mà hạ Tịnh độ là kẻ chưa đạt.
-
- Ghi Chú (259)
- Chữ của Anh dịch. Chính văn chỉ nói không chết.
-
- Ghi Chú (260)
- Được biết nói rõ là tỷ kheo. Nhưng nói ai (giả)
được cái bao quát cả 4 chúng.
-
- Ghi Chú (261)
- Dịch sát: vào lầu cao. Chính văn là đài : lầu
cao hay đài cao. Tôi dịch theo vật sau.
-
- Ghi Chú (262)
- Chính văn là khởi cư: ăn uống thức ngủ hằng
ngày.
-
- Ghi Chú (263)
- Coi lại ghi chú số 186 .
-
- Ghi Chú (264)
- Nói nôm na là vợ và con gái của những người này.
-
- Ghi Chú (265)
- Anh dịch: đã làm cho chính mình được biết đến
ở thế giới Saha này.
-
- Ghi Chú (266)
- Độ thoát (hay độ, hóa độ, giáo hóa) có nghĩa
là huấn luyện, giáo dục, cải hoán, lại có nghĩa đưa đi (qua bờ bến bên
kia) loại bỏ (mọi sự xấu) di chuyển (khỏi vị trí cũ).
-
- Ghi Chú (267)
- Toàn diện, chính văn là phổ môn. Quan thế âm bồ
tát phổ môn phẩm, cũng có thể dịch: phẩm nói về sự toàn diện của
Quan âm đại sĩ. Về danh hiệu của đại sĩ, ngài Huyền tráng dịch Quan tự
tại (nên đọc Quan), nghĩa là chúa tể của sự nhìn. Nhưng trước đó,
ngài Pháp hộ dịch Quang thế âm, ngài La thập dịch Quan thế âm (sau này
còn có ngài dịch Quan thế âm tự tại), và cách dịch này bị nói là sai
ngoa. Thiết nghĩ không thể đồng ý liền là sai ngoa. Hoa nghiêm sớ sao của
ngài Trừng quán nói: Bà lô chỉ đế dịch Quan, thấp phạt ra dịch Tự tại,
nhiếp phạt ra dịch Âm ; Phạn bản tự có 2 tiếng nên dịch ra khác nhau
(Vạn 11/291B). Như vậy nếu thấy đây là 1 vấn đề thì nên nêu lên và cứu
xét cho kyծ
-
- Ghi Chú (268)
- Chỉ có Anh dịch nói là đức Phật.Nói như vậy
thật đáng ngờ, nhất là đáng ngờ bản Phạn văn mà Anh dịch đã lấy
làm chính văn.
-
- Ghi Chú (269)
- Trong kinh Địa tạng còn nói: Hoặc hiện núi rừng,
dòng nước, đồng bằng, sông ngòi, ao hồ, suối giếng, lợi ích khắp cả
mọi người, ai cũng được độ thoát.
-
- Ghi Chú (270)
- Theo lời tựa của Tùy dịch (Chính 9/134) thì
chính văn và Tấn dịch đều không có văn chỉnh cú này. Văn chỉnh cú
này do tiên hiền tục xuất. Tùy dịch thì dĩ nhiên chỉ sao lại sự tục
xuất ấy.
-
- Ghi Chú (271)
- Bốn câu này đúng ra không phải văn chỉnh cú.
-
- Ghi Chú (272)
- Dịch sát: hố lửa thành ao hồ. Câu này có nghĩa
như đã chuyển dịch, nếu không thì không chết lửa lại chết nước.
-
- Ghi Chú (273)
- Đá cứng, dịch sát: đá kim cương.
-
- Ghi Chú (274)
- Dịch rõ hơn: Ngài rực sáng như ánh lửa, xua tan
mọi sự tai nạn. Cũng có thể dịch: Ngài có thể chế ngự mọi tai nạn
trong đó có tai nạn gió và lửa.
-
- Ghi Chú (275)
- Anh dịch còn 7 bài chỉnh cú nữa, mang số 27-33.
Coi phụ lục 5.
-
- Ghi Chú (276)
- Tuyệt bậc mà đồng bậc, chính văn là vô đẳng
đẳng. Từ ngữ này tôn xưng Phật và pháp của Phật (như tâm tuệ giác
vô thượng ở đây), và thường được dịch: không bậc nào (vô đẳng) sánh
bằng (đẳng); hoặc sánh bằng (đẳng) với bậc không thể sánh bằng (vô
đẳng), nói cách khác là đồng bậc với tuyệt bậc. Nhưng nói gì đi nữa,
vô đẳng đẳng mà cắt nghĩa như vậy thì chỉ là nghĩa vô thượng, không
có gì đặc thù cả. Bồ tát Thế thân, trong Thập địa kinh luận, cắt
nghĩa như sau: Vô đẳng là Phật sánh với chúng sinh thì chúng sinh không đồng
đẳng với Phật, còn Đẳng là Phật với chúng sinh thì pháp thân đồng
đẳng. Tại sao không chỉ nói vô đẳng (mà còn nói đẳng)? Là vì biểu
thị đồng đẳng chánh giác (pháp thân) (Chính 26/131). Như vậy tâm tuệ
giác vô thượng (bồ đề tâm) cũng vừa là tuyệt bậc vì tâm khác không
thể sánh bằng, vừa là đồng bậc vì ai cũng có tâm ấy và có thể phát
tâm ấy.
-
-
- Ghi Chú (277)
- Có 4 điều cần ghi. Một, coi kyՠlại ghi chú số
8 ; ở đó đã nói minh chú là 1 trong các pháp tổng trì, nhưng thường được
gọi bằng cái tên chung ấy (vì minh chú nắm nhiều nghĩa và nhiều thần dụng).
Hai, Phạn văn 5 bài minh chú thì coi phụ lục 6. Ba, dịch nghĩa của 5 bài
ấy thì coi Tấn dịch (Chính 9/130), lại coi Vạn 42/495B-496A, ở đó phối hợp
dịch âm và dịch nghĩa rất rõ. Bốn, tôi ngờ rằng, lấy bài 5 mà nói, tự
dạng Phạn văn hoàn toàn như nhau, nhưng dịch âm với dịch nghĩa thì hơi
khác cho đến khác (coi Vạn 42/496A, khoảng trên, dòng 4, thì biết), mặc dầu
theo Tùy dịch (Chính 9/187g17) thì dịch âm không khác.
-
- Ghi Chú (277B)
- Pháp hoa có 6 minh chú tất cả. Phạn văn của 6
minh chú ấy thì coi phụ lục 6. Còn dịch âm từ Phạn văn là nhờ hòa thượng
Thích Minh Châu, được in ngay sau dịch âm từ Hoa văn của mỗi minh chú, để
ai thích thì tụng theo.
-
- Ghi Chú (278)
- Tên dịch âm của 6 loại này thứ tự như sau: dạ
xoa, la sát, phú đan na, cát dá, cưu bà trà, ngạ quỉ.
-
- Ghi Chu (279)
- Dịch nghĩa này phần nhiều theo chính văn, 3 tên
Kết buộc, Không kết buộc và Chỗ nào (Hà sở) thì theo Tấn dịch (Chính
9/130).
-
- Ghi Chú (280)
- Tên dịch âm 11 loại này thứ tự như sau: dạ
xoa, la sát, ngạ quỉ, phú đan na, cát dá, tì đà ra, kiền đà, ô ma lặc
dà, a bạt ma ra, dạ xoa cát dá, nhân cát dá.
-
- Ghi Chú (281)
- Dịch như vầy là theo sát chính văn và Tấn dịch
(Chính 9/130d4). Anh dịch hơi khác nhưng cũng có ý: Ngay như trong mộng, người
ấy có thấy đàn bà đàn ông con trai con gái thì họ cũng không thể xúc
phạm.
-
- Ghi Chú (281B)
- Là tên của la sát nữ thứ 9.
-
- Ghi Chú (282)
- Dịch đủ: cơ hội thoát được mọi sự khó khăn.
-
- Ghi Chú (283)
- Câu nói này, Tấn dịch (Chính 9/131g24) và Anh dịch
đều là văn chỉnh cú.
- Ghi Chú (284)
- Ví dụ này nguyên nói thân người (lỗ tấm ván
cây) khó được, nay chuyển ra Phật (lỗ tấm ván cây) khó gặp.
-
- Ghi Chú (285)
- Trăng sáng với màu sắc bạch mã não, chính văn
là kha nguyệt. Phật học đại từ điển nói là kha (ngọc trắng) với
nguyệt (mặt trăng). Nhưng tôi nghĩ kha là ngọc trắng (bạch mã não) và tự
điển nói xe cẩn ngọc này gọi là kha xa, gọi lịch sự quê hương của
người là kha lý ; vậy kha nguyệt là mặt trăng như ngọc kha, nên Anh dịch
như sắc trắng của mặt trăng.
-
- Ghi Chú (286)
- Nói rõ hơn nữa: ở trong nhóm người cố định
theo chánh pháp (chánh định tụ) mà thuộc về khuynh hướng bồ tát (bồ
tát chủng tánh).
-
- Ghi Chú (287)
- Tên dịch âm của các loại này thứ tự như sau:
dạ xoa, la sát, cưu bàn trà, tì xá xà, cát dá, phú đan na, vi đà ra.
-
- Ghi Chú (288)
- Coi lại ghi chú số 8 .
-
- Ghi Chú (289)
- Phạn văn minh chú này coi phụ lục 6, dịch nghĩa
coi Tấn dịch (Chính 9/133g6), phối hợp dịch âm dịch nghĩa coi Vạn 42/498B
khoảng trên, dòng 1.
-ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục | 01 |
02 | 03 |
04 | 05 |
06 | 07 | 08 | 09 |