Cuốn 2
Phẩm 3: Ví Dụ
Lúc ấy tôn giả Xá lợi phất hoan
hỷ phấn chấn, tức thì đứng dậy, chắp tay, chiêm ngưỡng dung nhan đức
Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, ngày nay, từ đức Thế tôn, con
nghe được tiếng nói của pháp này, trong lòng phấn chấn, được sự
chưa từng có. Tại sao, vì ngày trước, cũng từ đức Thế tôn, con nghe
pháp này, thấy chư vị bồ tát tiếp nhận lời ghi làm Phật mà chúng con
không được dự vào việc ấy, nên rất cảm thương cho mình bị loại khỏi
sự thấy biết không có giới hạn của đức Thế tôn. Bạch đức Thế tôn,
con thường ngồi hay đi một mình dưới cây trong rừng, nghĩ rằng chúng
con đồng nhập pháp tánh, tại sao đức Thế tôn cứu độ cho bằng giáo
pháp cỗ xe thấp nhỏ? Nhưng đó là lỗi tại chúng con, không phải tại đức
Thế tôn. Bởi lẽ nếu chúng con biết mong đợi đức Thế tôn nói cho về
nhân tố thành tựu tuệ giác vô thượng, thì chắc chắn đã được cứu
độ bằng giáo pháp cỗ xe vĩ đại. Nhưng chúng con không nhận thức được
sự phương tiện tùy nghi thuyết pháp của đức Thế tôn ; mới nghe đức
Thế tôn thuyết pháp, gặp giáo pháp thấp nhỏ là chúng con tin tưởng, tiếp
nhận, tư duy và chứng lấy. Do đó, bạch đức Thế tôn, hồi nào đến giờ,
con thường tự trách suốt ngày suốt đêm. Nhưng ngày nay, từ đức Thế tôn,
con được nghe cái pháp chưa từng có mà trước đây con chưa nghe, nên hết
sạch hoài nghi, thân tâm thư thái, hoàn toàn ổn định. Ngày nay con mới biết
mình thật con Phật, sinh ra từ sự giáo huấn của Phật, sinh ra từ sự
hóa cải của Pháp, hưởng được tài sản về Pháp của Phật. Tôn giả
Xá lợi phất muốn lặp lại ý nghĩa đã thưa, nên nói những lời chỉnh
cú sau đây.
- (1) Nay nghe tiếng nói
- của pháp như vầy,
- con cảm nhận được
- sự chưa từng có,
- trong lòng phát sinh
- nỗi mừng to lớn,
- vì đã phá hết
- mạng lưới hoài nghi.
- Xưa nay con nhờ
- Thế tôn giáo hóa,
- ngày nay không mất
- cỗ xe vĩ đại.
- (2) Tiếng nói Thế tôn
- thật là hiếm có,
- trừ được lo buồn
- cho bao chúng sinh.
- Con là một người
- đã hết phiền não,
- mà nghe tiếng ấy
- cũng hết lo buồn (73) .
- (3) Ở trong hang núi
- hay dưới cây rừng,
- con ngồi trầm tư
- hoặc đi kinh hành,
- lòng thường nghĩ đến
- sự thể sau đây.
- (4) - Sự thể mà con
- rất tự thống trách:
- tại sao chính mình
- tự lừa gạt mình (74) !
- - Rằng cũng toàn là
- đệ tử Thế tôn,
- cũng đồng nhập được
- pháp tánh thuần khiết,
- vậy mà chúng con
- trong thì vị lai
- không thể tuyên thuyết
- về pháp vô thượng!
- (5) Bâm hai tướng quí
- toàn màu hoàng kim,
- mười đại năng lực
- tám sự giải thoát,
- chúng con cùng chung
- pháp tánh đồng nhất,
- vậy mà không được
- những thành quả ấy!
- (6) Cho đến tám mươi
- vẻ đẹp tinh túy,
- cùng với mười tám
- những sự đặc biệt,
- thành quả như vậy
- chúng con mất cả !
- (7) Mỗi khi con đi
- kinh hành một mình,
- hồi tưởng Thế tôn
- ở giữa các chúng,
- rõ ràng danh ngài
- vang động mười phương,
- ích lợi rộng lớn
- cho bao chúng sinh.
- Hồi tưởng như vậy,
- con nghĩ phận mình
- mất hết thành quả
- cao cả đến thế -
- Thì ra chính con
- đã dối gạt mình!
- (8) Con thường ngày đêm
- nghĩ sự thể này,
- và muốn đem ra
- xin hỏi Thế tôn
- như thế thật sự
- con mất, không mất?
- (9) Mỗi khi được thấy
- Thế tôn ca tụng
- chư vị bồ tát,
- thì cả ngày đêm
- con suy ngẫm mãi
- về sự kiện ấy.
- (10) Nay con được nghe
- tiếng nói Thế tôn,
- biết ngài tùy nghi
- phương tiện thuyết pháp,
- cuối cùng thuyết thẳng
- về pháp hoàn hảo
- ngoài tầm nghĩ bàn,
- làm cho các chúng
- đều được đến ngồi
- nơi bồ đề tràng (75) .
- (11) Phần con thì vốn
- vướng mắc tà kiến,
- làm thầy các vị
- phạn chí ngoại đạo.
- Thế tôn biết rõ
- tâm tính của con,
- nhổ cho tà kiến
- chỉ cho niết bàn.
- (12) Con loại trừ hết
- tư tưởng tà kiến,
- nơi nguyên lý Không
- con được chứng lấy,
- bấy giờ lòng con
- tự cho là mình
- đã được niết bàn (76) .
- Nhưng mà ngày nay
- con mới tự biết
- chưa thật niết bàn.
- (13) Phải đến lúc nào
- con được làm Phật
- có đủ tất cả
- bâm hai tướng quí,
- chư thiên, nhân loại,
- tám bộ long thần
- ai cũng tôn kính,
- bấy giờ mới được
- tự xưng đã chứng
- niết bàn hoàn toàn.
- (14) Ở giữa đại hội
- các chúng như vầy,
- đức Thế tôn nói
- con sẽ làm Phật,
- con nghe tiếng pháp
- ngài nói như vậy
- thì sạch hết cả
- hoài nghi hối tiếc.
- (15) Khi con mới nghe
- đức Thế tôn nói,
- trong lòng cả sợ
- ngờ vực hết sức:
- phải chăng đây là
- ma vương làm Phật
- để gây rối loạn
- tâm trí của con?
- (16) Nhưng rồi Thế tôn
- thiện dụng các thứ
- yếu tố, ví dụ,
- lời chữ tuyệt hảo,
- làm cho lòng con
- yên như biển cả:
- nghe rồi lòng con
- sạch hết ngờ vực.
- (17) Thế tôn nói rõ (77)
- vô lượng Phật đà
- đã nhập niết bàn
- trong thì quá khứ,
- với sự xác lập
- trong cách phương tiện,
- ngài nào cũng nói
- về pháp như vầy.
- (18) Ngài nói Phật đà
- hiện tại vị lai
- số lượng nhiều đến
- không thể tính kể,
- ngài nào cũng dùng
- cách thức phương tiện
- mà tuyên thuyết đến
- pháp như thế này.
- (19) Ngài nhắc nay ngài
- làm như thế nào
- trong sự xuất thế
- và sự xuất gia,
- trong sự thành tựu
- tuệ giác vô thượng,
- trong sự chuyển đẩy
- bánh xe chánh pháp,
- cho thấy chính ngài
- cũng là vận dụng
- cách thức phương tiện
- mà nói pháp này (78) .
- (20) Thế tôn công bố
- con đường đích thực,
- việc ấy ma vương
- không thể làm được.
- Vì vậy mà con
- biết chắc chắn rằng
- không phải ma vương
- làm ra đức Phật,
- chỉ vì con sa
- vào lưới ngờ vực
- nên bảo đó là
- ma vương làm ra.
- (21) Tiếng nói dịu ngọt
- của đức Thế tôn
- cực kỳ thâm thúy,
- diễn đạt về pháp
- cực kỳ trong suốt.
- Nghe tiếng nói ấy
- lòng con sinh ra
- vui mừng hết sức,
- vì nó hết hẳn
- ngờ vực hối tiếc,
- đứng vững ở trong
- trí tuệ chắc thật.
- (22) Là con biết chắc
- mình sẽ làm Phật,
- chư thiên nhân loại
- ai cũng tôn kính,
- chuyển đẩy bánh xe
- chánh pháp vô thượng,
- giáo hóa khai thị
- chư vị bồ tát.
Khi ấy đức Thế tôn bảo tôn giả
Xá lợi phất, ngày nay, ở giữa đại hội chư thiên, nhân loại, sa môn,
bà la môn, đại loại các chúng như thế này, Như lai nói rõ cho tôn giả
biết, xưa kia, nơi hai vạn ức đức Phật, Như lai vì tuệ giác vô thượng
mà luôn luôn giáo hóa cho tôn giả, tôn giả cũng mãi mãi theo học Như lai.
Như lai đem phương tiện mà dắt dẫn tôn giả, nên đời này tôn giả vẫn
được tái sinh trong giáo pháp Như lai. Xá lợi phất, xưa kia Như lai dạy
cho tôn giả phát ra chí nguyện mong cầu tuệ giác Phật đà, vậy mà ngày
nay tôn giả quên hết, tự cho mình đã thực hiện niết bàn (79) . Ngày nay
Như lai muốn làm cho tôn giả nhớ lại chí nguyện ban đầu, và đường
đi của chí nguyện ấy, nên sẽ nói cho chư vị thanh văn mà tôn giả là
người đứng đầu, về bản kinh đại thừa này, mang tên Pháp hoa, bản
kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn.
Xá lợi phất, trong thì vị lai,
tôn giả trải qua thời kỳ nhiều đến vô lượng vô biên, không thể nghĩ
bàn, hiến cúng mấy ngàn vạn ức đức Phật, kính giữ chánh pháp của
các ngài, đi hết đường đi của bồ tát rồi, sẽ được thành Phật với
danh hiệu Hoa quang, đủ mười đức hiệu: bậc Đến như chư Phật, bậc
Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc
Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần
hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc
Tôn cao nhất đời. Quốc độ của đức Hoa quang tên là Ly cấu, bằng thẳng,
sạch sẽ, đẹp đẽ, yên vui, sung túc, trời người đông đảo. Đất bằng
lưu ly, những đường ngã tám (80) được chạy dây vàng mà phân chia lề
đường. Lề đường nào cũng có những hàng cây bằng bảy chất liệu
quí báu, hoa trái có luôn.
Đức Hoa quang cũng đem giáo pháp của
ba cỗ xe mà giáo hóa chúng sinh. Xá lợi phất, khi đức Hoa quang xuất thế
dẫu không phải thời kỳ dữ dội, nhưng vì chí nguyện ban đầu nên ngài
cũng tuyên thuyết đủ hết giáo pháp của ba cỗ xe. Thời kỳ của đức
Hoa quang tên là Đại bảo trang nghiêm. Tại sao được gọi như vậy? Vì
trong quốc độ của đức Hoa quang lấy chư vị bồ tát làm châu ngọc lớn
nhất. Chư vị bồ tát ấy vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, toán số
ví dụ không thể xác định, phi trí lực của Phật thì không ai biết hết.
Chư vị bồ tát ấy muốn đi thì hoa ngọc nâng chân. Chư vị bồ tát ấy
không phải mới phát tâm, mà toàn là lâu đời gieo trồng gốc rễ công đức,
và tu hành phạn hạnh một cách trong sáng ở nơi chư Phật nhiều đến vô
số trăm ngàn vạn ức, thường được chư Phật tán dương, thường xuyên
tu tập tuệ giác chư Phật, có đủ thần thông quảng đại, khéo biết hết
thảy cửa ngõ chánh pháp, ngay thẳng chứ không dối trá, trí nhớ rất vững.
Bồ tát như vậy đầy cả quốc độ.
Xá lợi phất, đức Hoa quang sống
lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, trừ thì gian làm vương tử, chưa thành
Phật đà. Người trong quốc độ của ngài sống lâu tám thời kỳ bậc nhỏ.
Đức Hoa quang, sau mười hai thời kỳ bậc nhỏ, trao cho bồ tát Kiên mãn lời
ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, bằng cách bảo chư vị tỷ kheo, rằng
vị bồ tát Kiên mãn này sẽ kế tiếp làm Phật với danh hiệu Hoa túc an
hành, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng
và khắp. Quốc độ của vị này cũng y như đã nói ở trên. Xá lợi phất,
đức Hoa quang nhập diệt rồi, giáo pháp nguyên chất tồn tại ba mươi hai
thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự tồn tại cũng ba mươi hai thời kỳ
bậc nhỏ.
Khi ấy đức Thế tôn muốn lặp lại
ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (23) Này Xá lợi phất,
- trong thì vị lai
- tôn giả thành đấng
- Tuệ giác khắp cả,
- danh hiệu của ngài
- tên là Hoa quang,
- sẽ cứu độ cho
- vô lượng các chúng.
- (24) Tôn giả hiến cúng
- vô số Phật đà,
- thực hành đầy đủ
- việc làm bồ tát,
- thành tựu bao nhiêu
- phẩm chất Phật đà,
- trong đó gồm có
- mười đại năng lực,
- thì thực hiện được
- tuệ giác vô thượng.
- (25) Vô số thời kỳ
- qua rồi thì đến
- thời kỳ có tên
- Đại bảo trang nghiêm,
- quốc độ có tên
- Ly cấu thế giới:
- thế giới trong suốt
- không một vết dơ.
- (26) Đất bằng lưu ly,
- dây vàng chia đường,
- cây bằng bảy báu
- màu sắc xen nhau
- mà lại thường xuyên
- hoa có trái có.
- (27) Chư vị bồ tát
- của cõi Ly cấu
- thì có trí nhớ
- luôn luôn vững chắc;
- thần thông quảng đại,
- ba la mật đa,
- các pháp như vậy
- có đủ tất cả;
- khéo học khéo tu
- đường đi bồ tát
- ở nơi chư Phật
- nhiều đến vô số.
- Bồ tát đại sĩ
- đến như thế này
- được sự giáo hóa
- của đức Hoa quang.
- (28) Đức Phật Hoa quang
- khi làm vương tử
- bỏ ngôi quốc chúa
- bỏ cuộc vinh hoa,
- cái thân cuối cùng
- được đem xuất gia
- và thành tựu được
- tuệ giác Phật đà.
- (29) Đức Phật Hoa quang
- sống đến mười hai
- thời kỳ bậc nhỏ,
- người quốc độ ngài
- sống cũng đến số
- tám thời kỳ ấy.
- (30- 31) Đức Phật Hoa quang
- nhập niết bàn rồi,
- giáo pháp nguyên chất
- tồn tại bâm hai
- thời kỳ bậc nhỏ,
- hóa độ chúng sinh
- một cách rộng rãi.
- Giáo pháp nguyên chất
- kết thúc xong rồi,
- giáo pháp tương tự
- tồn tại cũng đến
- số bâm hai ấy.
- Xá lợi của ngài
- phân bủa rộng ra,
- nhân loại chư thiên
- cùng nhau hiến cúng.
- (32) Việc đức Hoa quang
- là như thế đó.
- Bậc thánh hoàn hảo
- phước đức tuệ giác
- cực kỳ siêu việt
- tuyệt đối như vậy,
- chính là hậu thân
- của Xá lợi phất,
- do đó tôn giả
- hãy vui mừng lên!
Lúc ấy bốn chúng tám bộ và các
chúng khác, nghe thấy tôn giả Xá lợi phất đối trước đức Thế tôn tiếp
nhận lời ghi được thành tuệ giác vô thượng, thì lòng rất hoan hỷ, phấn
chấn vô cùng, người nào cũng cởi những tấm vải (81) thượng thặng
đang khoác trên mình mà hiến cúng đức Thế tôn. Đế thích, Phạn vương,
cùng vô số thiên nhân, cũng đem vải tuyệt diệu của chư thiên, lại đem
hoa quí báu của chư thiên, đại loại như hoa mạn đà và hoa mạn đà lớn,
tung rải mà hiến cúng đức Thế tôn. Vải tuyệt diệu của chư thiên được
tung rải thì tự đứng lại mà xoay chuyển trong không gian. Ở trong không
gian còn có trăm ngàn vạn thứ nhạc khí của chư thiên đồng thời hòa tấu,
còn có mưa xuống các loại hoa khác nữa cũng của chư thiên. Chư thiên hiến
cúng như vậy và thưa, bạch đức Thế tôn, xưa kia ở Lộc uyển, lần đầu
tiên đức Thế tôn đã chuyển đẩy bánh xe chánh pháp, ngày nay đức Thế
tôn lại chuyển đẩy bánh xe chánh pháp cực đại và tối thượng. Chư
thiên muốn lặp lại ý nghĩa đã thưa, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (33) Xưa đức Thế tôn
- ở nơi Lộc uyển
- chuyển đẩy bánh xe
- pháp bốn chân lý,
- phân tích trạng thái
- sinh ra diệt đi
- ở nơi tất cả
- năm phần hợp thể (82) .
- (34) Nay đức Thế tôn
- lại còn chuyển đẩy
- bánh xe chánh pháp
- cực đại tối thượng.
- Chánh pháp như vậy
- cực kỳ sâu xa,
- thế gian ít có
- người nào tin nổi.
- (35) Từ xưa đến nay
- chúng con thường nghe
- Thế tôn tuyên thuyết
- bao nhiêu chánh pháp,
- nhưng chưa bao giờ
- được nghe chánh pháp
- tối thượng, tinh túy,
- sâu xa như vầy.
- (36- 37) Thế tôn tuyên thuyết
- chánh pháp như vầy,
- tất cả chúng con
- xin kính tùy hỷ.
- Ngài Xá lợi phất
- bậc đại trí tuệ,
- ngày nay tiếp nhận
- Thế tôn thọ ký,
- chúng con rồi đây
- cũng được như vậy:
- cũng sẽ chắc chắn
- được làm Phật đà,
- bậc tối vô thượng
- trong cả thế gian.
- (38) Tuệ giác Thế tôn
- trên tầm nghĩ bàn,
- Thế tôn tùy nghi
- phương tiện tuyên thuyết.
- Bao nhiêu phước đức
- chúng con có được
- ở trong đời này
- hay trong đời trước,
- cùng với phước đức
- phụng sự Thế tôn,
- chúng con xoay cả
- về nơi tuệ giác
- của đức Thế tôn,
- nguyện được tuệ ấy (83) .
Lúc ấy tôn giả Xá lợi phất thưa,
bạch đức Thế tôn, ngày nay con không còn hoài nghi hối tiếc gì nữa, khi
con đích thân đối trước đức Thế tôn được tiếp nhận lời ngài thọ
ký cho con thành tựu tuệ giác vô thượng. Nhưng một ngàn hai trăm vị tâm
trí tự tại giải thoát này, mà xưa kia khi ở trong địa vị tu học tiếp
tục, đức Thế tôn thường dạy rằng chánh pháp Như lai có năng lực thoát
ly sinh già bịnh chết, cứu cánh niết bàn; những vị ấy, và những vị
tu học tiếp tục hay tu học hoàn tất, ai cũng đem cái việc thoát ly chấp
bản ngã và chấp có không mà cho rằng mình được niết bàn. Ngày nay, đối
trước đức Thế tôn, các vị nghe đến điều chưa từng nghe, rơi cả vào
sự nghi hoặc. Lành thay đức Thế tôn, xin ngài giải thích cho cả bốn
chúng về nguyên ủy của điều ấy, để cho các vị thoát khỏi mọi sự
hoài nghi hối tiếc. Đức Thế tôn bảo tôn giả Xá lợi phất, Như lai đã
chẳng mới nói trước đây hay sao, rằng chư Phật như lai đem các thứ yếu
tố, ví dụ và lời chữ mà phương tiện thuyết pháp, pháp ấy toàn là
vì tuệ giác vô thượng, bởi lẽ pháp ấy toàn là để giáo hóa bồ tát.
Nhưng, Xá lợi phất, bây giờ Như lai lấy một sự ví dụ để nói rõ
thêm về ý nghĩa ấy. Những người có trí thì do sự ví dụ mà được lý
giải.
Xá lợi phất, ví như tại một khu
dân cư của một thủ phủ, có một đại trưởng giả, tuổi già, lắm của,
nhiều nhà đất và tôi tớ. Ngôi nhà của ông rộng lớn nhưng chỉ có một
cửa. Nhiều người, một trăm hai trăm cho đến năm trăm, cùng ở trong đó.
Nhưng ngôi nhà ấy, lầu gác nhà chính mà cũng đã hư cũ, tường vách lở
rã, chân cột hư mục, rường nhà và đòn nóc đã xiêu nghiêng cả. Và đột
nhiên bốn phía cùng lúc dậy lửa, đốt cháy nhà cửa.
Con của đại trưởng giả có đến
mười người, hai mươi người, hoặc đến ba mươi người, vẫn ở trong
ngôi nhà ấy. Đại trưởng giả thấy lửa dữ bốn phía dậy lên thì hết
sức kinh sợ, nghĩ rằng dầu ta có thể do nơi cái cửa của ngôi nhà đang
cháy này mà thoát ra một cách an toàn, nhưng các con ta thì ở trong nhà lửa
như vầy mà vẫn ham chơi giỡn, không hay không biết, không kinh không sợ.
Hơi lửa đã xáp đến nơi mình, nóng rát như cắt mà lòng vẫn không chán
không lo, không có ý gì thoát chạy. Đại trưởng giả lại nghĩ, thân
mình và cánh tay của ta rất mạnh, ta có thể dùng vạt áo hoặc ghế đẳng,
gom các con lại ôm mà chạy ra. Nhưng đại trưởng giả lại nghĩ, ngôi
nhà như vầy chỉ có một cửa, cửa ấy lại nhỏ hẹp. Các con nhỏ dại,
chưa biết gì hết, lại lưu luyến đam mê chỗ chúng đang chơi, nên có thể
có đứa rơi xuống mà bị lửa đốt cháy. Vậy ta nên nói cho các con biết
sự thể khủng khiếp, rằng ngôi nhà đã cháy, phải thoát ra cho mau, đừng
để lửa đốt cháy mất. Nghĩ rồi, đại trưởng giả nói hết cho các
con nghe những điều mình nghĩ, và dục các con cấp tốc chạy ra. Nhưng,
người cha thương xót và khéo bảo, mà những đứa con của ông vẫn ham chơi
giỡn, không tin không sợ, không có lòng nào muốn ra, cũng không biết lửa
là gì, nhà ra sao, cháy mất là thế nào, chỉ biết chạy qua chạy lại, giỡn
cười và nhìn cha mà thôi.
Đại trưởng giả thấy vậy nghĩ
rằng, ngôi nhà này đang bị lửa dữ đốt cháy, ta với con ta không thoát
gấp thì chắc chắn bị đốt. Ta phải lập chước phương tiện để làm
cho các con khỏi bị tai họa. Là cha nên đại trưởng giả biết trước đây
tâm lý các con mỗi đứa có một sở thích. Những đồ chơi quí, đẹp và
lạ, ý chúng chắc chắn rất ham. Ông bảo, cha có những đồ chơi mà các
con rất thích. Những đồ ấy hiếm có, khó được, các con không lấy thì
sau tất hối tiếc. Những đồ ấy là các cỗ xe dê, các cỗ xe hươu và
các cỗ xe bò (84) , hiện cha để cả ở ngoài cửa, các con có thể ra lấy
mà chơi. Hãy chạy ra khỏi ngôi nhà lửa này tức khắc, các con muốn chơi
thứ nào cha cũng cho cả. Các con nghe cha nói đến đồ chơi vừa quí vừa
đẹp thì trúng ý của chúng, nên đứa nào cũng đâm ra hăng hái, xô nhau,
đẩy nhau, đua nhau mà chạy, giành nhau mà thoát khỏi nhà lửa.
Khi đại trưởng giả thấy các con
ra được an toàn, ngồi cả nơi chỗ đất trống ở giữa ngã tư, không
còn gì phải e ngại nữa, thì lòng ông khoan khoái, vui mừng rộn rã. Bấy
giờ các con ông cùng thưa, đồ chơi cha hứa, xe dê xe hươu xe bò ở đâu,
xin cha cho liền đi. Xá lợi phất, khi ấy đại trưởng giả cấp cho các
con mỗi đứa một cỗ xe lớn như nhau. Cỗ xe ấy cao mà lại rộng, trang
hoàng bằng các thứ ngọc. Lan can bao quanh, chuông nhỏ treo bốn phía. Phần
trên thì mui trần được căng riềm màn, và hai thứ này cũng được trang
trí bằng những thứ ngọc kỳ lạ, màu sắc xen nhau. Những đường dây kết
ngọc thì mắc như đan với nhau, kết thắt dải hoa mà treo rủ xuống. Lại
phủ bằng lụa trắng có tua với chỉ xâu hạt ngọc, và đặt những đệm
gối màu hồng. Cỗ xe được kéo bằng con bò trắng, da dẻ đầy đặn, sạch
sẽ, thân hình đã lớn lại đẹp, gân sức rất mạnh, bước đi bằng phẳng
ngay ngắn, và đi mau như gió. Cỗ xe còn có nhiều kẻ thị tùng để hầu
hạ và chăm sóc. Đại trưởng giả tài sản giàu có vô lượng, mọi thứ
kho tàng đều tràn đầy, nên ông nghĩ, với tài sản ấy, ta không nên cho
các con những cỗ xe xấu nhỏ. Những đứa bé này toàn là con ta, ta thương
đồng đều. Những cỗ xe lớn làm bằng bảy chất liệu quí báu như trên,
ta có vô số. Ta nên đồng đều mà cho các con, không nên đối xử sai biệt.
Tài sản của ta chu cấp cả nước còn không thiếu, huống chi các con. Bấy
giờ các con của đại trưởng giả cùng ngồi những cỗ xe lớn, được sự
chưa từng có, ngoài lòng mong ước.
Xá lợi phất, tôn giả nghĩ thế nào,
đại trưởng giả đồng đều cấp cho các con những cỗ xe lớn quí báu
như vậy, có dối trá không? Tôn giả Xá lợi phất thưa, không, bạch đức
Thế tôn. Đại trưởng giả ấy chỉ cốt làm cho các con ông thoát được
hỏa hoạn, toàn vẹn tính mạng, nên không phải dối trá. Tính mạng toàn
vẹn là kể như đã được đồ chơi đẹp và thích rồi, huống chi đây
chỉ là chước phương tiện của ông cứu các con ông thoát khỏi nhà lửa.
Bạch đức Thế tôn, đại trưởng giả ấy đếnnỗi không cho một cỗ xe
nhỏ nhất, cũng không phải là dối trá, vì ông vốn nghĩ ta lập chước
phương tiện để làm cho các con thoát ra. Vì nghĩ như vậy nên ông đâu
có dối trá. Huống chi ông còn biết mình giàu có vô lượng, muốn lợi
cho các con nên đồng đều cấp cho những cỗ xe lớn.
Đức Thế tôn bảo tôn giả Xá lợi
phất, tốt lắm, đúng như lời tôn giả nói. Xá lợi phất, Như lai cũng
như đại trưởng giả ấy. Như lai là từ phụ của cả thế gian. Như lai
không còn một cách hoàn toàn những sự kinh khủng, suy biến, lo buồn, những
sự đen tối che phủ của vô minh. Như lai thành tựu một cách đầy đủ sự
thấy biết không có giới hạn mà nội dung gồm có đại năng lực và sự
không sợ, có sức mạnh đại thần thông và sức mạnh đại tuệ giác,
có phương tiện toàn hảo và trí tuệ toàn hảo, lòng hiền từ bao la và
lòng thương xót bao la thì vĩnh viễn không còn biết chán biết mệt. Rồi
vì thường xuyên tìm kiếm những việc tốt lành mà làm lợi ích cho tất
cả chúng sinh, nên Như lai sinh vào nhà lửa ba cõi vừa cũ vừa mục để cứu
vớt chúng sinh vượt qua lửa dữ của sinh già bịnh chết, của lo buồn
đau khổ, của ba độc tố vô minh, dục vọng và hận thù, giáo hóa cho họ
đạt được tuệ giác vô thượng.
Như lai thấy chúng sinh bị nung nấu
thiêu đốt bởi sinh già bịnh chết, bởi lo buồn đau khổ. Lại vì năm thứ
dục lạc, vì tiền tài danh lợi mà chịu đủ khổ sở. Ham hố đeo đuổi
những thứ ấy nên hiện tại đã chịu đau khổ đủ cách, mai sau còn bị
sa vào địa ngục ngạ quỉ súc sinh. Giả sử sinh lên chư thiên hay sinh
trong nhân loại thì bần cùng khốn khổ, khổ vì ân ái mà biệt ly, khổ
vì thù ghét mà chạm mặt. Cùng loại như vậy còn có bao nhiêu đau khổ khác
nữa, chúng sinh chìm ngập trong đó mà vẫn vui thích, chơi giỡn, không hay
không biết, không kinh không sợ, không hề phát chán, không mong thoát ly.
Trong nhà lửa ba cõi, chúng sinh bôn ba qua lại, gặp phải khổ lớn mà
không cho là tai họa. Xá lợi phất, Như lai thấy như vậy nên nghĩ rằng
Như lai là từ phụ của chúng sinh, Như lai phải cứu vớt khổ nạn cho họ,
cho họ vô lượng vô biên cái vui của tuệ giác Phật đà để họ được
vui chơi trong đó.
Nhưng mà, Xá lợi phất, Như lai
nghĩ tiếp, nếu Như lai chỉ dùng sức mạnh thần thông và sức mạnh tuệ
giác, bỏ cách nói phương tiện, chỉ tán dương thẳng cho chúng sinh nghe về
sự thấy biết của Phật đà mà nội dung gồm đủ các phẩm chất đại
loại như mười đại năng lực và bốn sự không sợ, thì chúng sinh không
thể nhờ vậy mà được giải thoát. Vì sao, vì chúng sinh chưa khỏi sinh
già bịnh chết, lo buồn đau khổ; họ đang bị nung đốt trong nhà lửa ba
cõi thì còn làm sao lĩnh hội được tuệ giác Phật đà. Xá lợi phất, như
đại trưởng giả có sức mạnh của thân hình và cánh tay mà không dùng
được, chỉ dùng được phương tiện thiết tha khuyên bảo, cứu các con
thoát khỏi cái họa nhà lửa, rồi sau đó cho mỗi đứa một cỗ xe lớn
quí báu. Như lai cũng vậy, dẫu có mười đại năng lực và bốn sự
không sợ mà không dùng được, dùng được chỉ có phương tiện của tuệ
giác : ở trong nhà lửa ba cõi, vì cứu thoát chúng sinh nên nói cho họ về
ba cỗ xe là cỗ xe Thanh văn, cỗ xe Duyên giác và cỗ xe Phật đà, khuyến
cáo rằng các người đừng ham ở trong nhà lửa ba cõi, đừng ham năm thứ
hình sắc, âm thanh, hơi hướng, mùi vị và tiếp xúc, loại thô xấu tồi
tệ. Tham thì ái, và như vậy là bị thiêu đốt. Các người hãy cấp tốc
thoát khỏi ba cõi thì sẽ được ba cỗ xe: cỗ xe Thanh văn, cỗ xe Duyên
giác và cỗ xe Phật đà. Như lai bảo đảm việc ấy, không dối gạt chút
nào. Các người hãy nỗ lực mà tinh tiến. Như lai thiện dụng phương tiện
như vậy mà dẫn dụ chúng sinh tiến lên, lại bảo, các người phải biết
ba cỗ xe này toàn là những giáo pháp được các vị thánh trí tán tụng,
tự tại chứ không lệ thuộc, không nương tựa cầu hồ. Ngồi ba cỗ xe này
thì vui thú với bao phẩm chất thuần khiết đại loại như năm căn bản,
năm năng lực, bảy thành phần tuệ giác, tám thành phần đường chánh, bốn
thiền, bốn định, tám sự giải thoát, ba pháp tam muội (85) , thể hiện
vô lượng yên vui.
Xá lợi phất, nếu người nào bản
thân có khả năng tuệ giác, theo Phật nghe Pháp mà tin tưởng tiếp nhận,
thiết tha tinh tiến, nhưng ước muốn cấp tốc thoát ra ba cõi nên cầu tự
niết bàn, đó là theo cỗ xe Thanh văn, như những người con nào của đại
trưởng giả vì được cỗ xe dê mà chạy khỏi nhà lửa. Nếu người nào
theo Phật nghe Pháp mà tin tưởng tiếp nhận, thiết tha tinh tiến, nhưng cầu
tuệ giác tự nhiên, thích đơn độc, khéo vắng lặng, biết sâu nguyên lý
duyên khởi của các pháp, đó là theo cỗ xe Duyên giác, như những người
con nào của đại trưởng giả vì được cỗ xe hươu mà chạy khỏi nhà lửa.
Nếu người nào theo Phật nghe Pháp mà tin tưởng tiếp nhận, thiết tha
tinh tiến nhưng cầu tuệ giác hoàn toàn, tuệ giác Phật đà, tuệ giác tự
nhiên, tuệ giác không thầy (86) , nói tóm là cầu sự thấy biết của Phật
đà mà nội dung có đủ các phẩm chất như mười đại năng lực, bốn sự
không sợ, và cầu như vậy là vì thương tưởng, muốn đem lại sự yên
vui cho vô số chúng sinh, ích lợi cho tất cả chư thiên nhân loại, cứu độ
cho hết thảy đều được giải thoát, đó là theo cỗ xe vĩ đại, bồ tát
cầu xe vĩ đại ấy nên gọi là người vĩ đại (87) , như những người
con nào của đại trưởng giả vì được cỗ xe bò mà chạy khỏi nhà lửa.
Xá lợi phất, như đại trưởng giả
thấy các con thoát khỏi nhà lửa một cách an toàn, đến chỗ không còn sợ
hãi rồi, tự biết tài sản vô lượng nên, một cách đồng đều, chỉ
đem những cỗ xe lớn mà cho các con. Như lai cũng vậy. Là từ phụ của
chúng sinh, nên Như lai thấy vô số con số ức ngàn chúng sinh do cái cửa
giáo pháp của Như lai mà thoát khỏi cái khổ, cái chỗ nguy hiểm khủng
khiếp là ba cõi, được niết bàn yên vui rồi, liền nghĩ, Như lai có tuệ
giác vô giới hạn là kho tàng đầy các phẩm chất Phật đà mà đại loại
như mười đại năng lực, bốn sự không sợ; các loại chúng sinh vừa
nói đều là con của Như lai, Như lai phải đồng đều đem cỗ xe vĩ đại
mà cho họ. Như lai không để cho có ai chỉ được niết bàn riêng biệt;
người nào Như lai cũng đem niết bàn của Như lai mà làm cho họ niết
bàn. Các loại chúng sinh đã thoát khỏi ba cõi như trên, người nào Như
lai cũng cho chính những yếu tố vui thú của Như lai là đại loại như bốn
thiền, bốn định, tám sự giải thoát. Yếu tố như vậy toàn một sắc
thái và một phẩm chất, ấy là được chư vị thánh trí ca tụng và có năng
lực phát sinh cái vui trong suốt, tinh túy và bậc nhất.
Xá lợi phất, như đại trưởng giả
ban đầu đem cả ba loại xe mà dẫn dụ các con, nhưng sau đó chỉ cho những
cỗ xe cao lớn, những cỗ xe trang hoàng bảo vật và an toàn bậc nhất. Cho
như vậy mà đại trưởng giả không có cái lỗi dối trá. Như lai cũng vậy,
không dối trá gì cả trong cái việc ban đầu nói ba cỗ xe để dẫn dụ
chúng sinh, nhưng sau đó chỉ đem cỗ xe vĩ đại mà đưa họ đến niết bàn
hoàn toàn. Như lai làm như vậy vì Như lai có tuệ giác vô giới hạn là
kho tàng đầy các phẩm chất Phật đà mà đại loại như mười đại
năng lực và bốn sự không sợ, có thể ban cho hết thảy chúng sinh bằng
giáo pháp cỗ xe vĩ đại ẩ Có điều không phải ai cũng có khả năng tiếp
nhận được cả (88) .
Xá lợi phất, với nguyên ủy đã
nói trên đây, chư vị phải hiểu Như lai do phương tiện lực nên chỉ có
một loại xe Phật đà mà nói ra ba loại xe khác nhau (89) .
Đức Thế tôn muốn lặp lại ý
nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (39- 42) Như đại trưởng giả
- có ngôi nhà lớn.
- Ngôi nhà đã cũ
- mà lại hư rã.
- Ngay cái nhà chính
- đã cao lại nguy:
- Cột với chân cột
- thì đã mục gãy.
- Rường và đòn nóc
- đều xiêu nghiêng cả.
- Nền nhà thềm nhà
- sụp lở hư hỏng.
- Tường vách đổ nát
- vôi hồ rã rơi.
- Mái lợp (90) thủng lỗ
- rơi đổ loạn xạ.
- Đòn tay xà ngang
- trật khớp sẩy ra.
- Đây đó khắp nơi
- bị chận bị lấp,
- quanh co gồ ghề,
- tràn trề dơ bẩn.
- Đang ở trong đó
- có năm trăm người.
- Vậy mà trong đó
- có những chim dữ:
- cú mèo, chim kiêu,
- chim cắt, chim thứu,
- cùng với quạ, khách,
- tu hú, bồ câu...
- (43) Lại còn các loại
- bò sát thú dữ:
- hổ mang, rắn độc,
- rắn phúc, bò cạp,
- rít với du diên,
- cọp vách, sâu chiếu;
- chồn dứu, chồn cầy,
- chuột nhắt, loài chuột.
- (44) Sâu bọ độc dữ
- dọc ngang chen nhau.
- Phân với nước tiểu
- hôi thối cùng cực,
- đủ thứ dơ bẩn
- chảy ra lan tràn,
- bọ hung, sâu giòi
- tập trung trên đó.
- Cáo, sói, dã can
- nhai gặm dẫm đạp,
- cắn xé thây chết
- xương thịt bừa bãi.
- (45- 46) Do đó bầy chó
- đua nhau vồ chụp.
- Chúng đói cuống cuồng
- xục xạo tìm ăn,
- tranh giành móc kéo,
- gừ cắn rống tru.
- Ngôi nhà kinh khủng
- đến như thế đó.
- (47- 48) Khắp mọi nơi chỗ
- đều có yêu quái,
- ác quỉ dạ xoa
- chuyên ăn thịt người.
- Bò sát độc địa
- chim muông hung hãn
- sinh sản ấp nuôi
- đều cố cất giữ,
- vẫn bị dạ xoa
- giành nhau bắt ăn (91) .
- (49) Ăn no nê rồi
- bản chất hung dữ
- lại càng hăng lên,
- những tiếng của chúng
- đánh nhau giành nhau
- thật là rùng rợn.
- (50) Lại còn lũ quỉ
- tên cưu bàn trà,
- ngồi xoạc đất bằng
- ngồi xổm đất cục,
- có khi cách đất
- một vài thước ngắn
- lướt qua rảo lại
- nghênh ngang đùa giỡn.
- (51) Chúng túm chân chó
- vật cho thất thanh,
- lấy chân chắn cổ
- khủng bố mà chơi.
- (52) Lại có những quỉ
- thân hình cao lớn
- trần truồng đen ốm
- thường ở nhà này,
- phát tiếng dữ lớn
- thét gào tìm ăn.
- (53) Lại có những quỉ
- cổ nhỏ như kim,
- lại có những quỉ
- đầu như đầu bò,
- giành nhau tìm ăn
- thịt người thịt chó,
- đầu tóc bù rối
- tàn bạo hung dữ,
- đói khát thúc bách
- vừa gào vừa chạy.
- 54) Dạ xoa, quỉ đói,
- chim muông độc dữ,
- đói khát thúc bách
- loạn chạy bốn phía,
- rình rập lén dòm
- qua các cửa sổ.
- *
- (55) Ngôi nhà nguy hiểm
- khủng khiếp vô cùng,
- mà lại cũ kyՠ
- mục nát như vậy,
- là nơi thuộc về
- một đại trưởng giả.
- (56) Ông mới đi ra
- chưa được bao lâu,
- sau đó ngôi nhà
- bỗng nhiên dậy lửa,
- bốn phía cùng lúc
- lửa ngọn bùng lên.
- (57) Đòn nóc, rường nhà,
- đòn tay, trụ cột,
- tách nổ vang động
- gãy ngã sa rớt,
- cả tường với vách
- đổ nhào xuống hết.
- Những loại quỉ quái
- hét lên kêu gào.
- (58) Những thứ chim dữ
- loại như cắt, thứu,
- những thứ quỉ dữ
- loại như bàn trà,
- kinh hãi bàng hoàng
- không tự thoát được.
- Thú dữ trùng độc
- chui núp hang lỗ.
- (59) Quỉ tỳ xá xà
- cũng kẹt trong đó,
- vì mỏng phước đức
- nên bị lửa cháy
- chúng càng tàn bạo
- sát hại lẫn nhau,
- giành nhau ăn thịt
- uống máu lẫn nhau.
- (60) Loại như dã can
- đã chết trước cả,
- những thú dữ lớn
- giành nhau ăn nuốt,
- những gì còn lại
- thì bị đốt cháy,
- khói hôi ngùn ngụt
- phủ nghẹt bốn mặt.
- (61) Rít với du diên,
- các loại rắn độc,
- bị lửa nung đốt
- giành tuôn khỏi huyệt,
- thì quỉ bàn trà
- bắt lấy mà ăn.
- Còn các quỉ đói
- lửa cháy trên đầu,
- đói khát nóng rát
- kinh hoàng sảng chạy.
- (62) Ngôi nhà đang bị
- ở trong tình trạng
- cực kỳ khủng khiếp,
- độc hại, hỏa hoạn,
- lắm nạn như vậy,
- thì lúc bấy giờ
- vị đại trưởng giả
- đứng ở ngoài cửa.
- (63) Ông nghe người nói
- rằng các con ông (92)
- vì ham vui chơi
- đã vào nhà ấy,
- nhỏ dại ngu ngơ
- chỉ biết đùa giỡn.
- (64) Ông nghe biết thế
- trong lòng kinh sợ,
- cấp tốc vào lại
- trong ngôi nhà lửa,
- tìm cách cứu con
- cho khỏi chết cháy.
- (65) Ông nói cho chúng
- biết mọi tai họa:
- quỉ dữ, trùng độc,
- cùng với lửa lớn,
- khổ nạn như vậy
- nối nhau không ngừng.
- (66) Rắn độc, hổ mang,
- cùng với rắn phúc,
- lại còn những quỉ
- dạ xoa, bàn trà,
- dã can, chồn cáo,
- và các loài chó,
- chim cắt, chim thứu,
- cú mèo, chim kiêu,
- những thứ cùng loại
- với giống sâu chiếu,
- tất cả đều đang
- đói khát nóng rát,
- khiến chúng thành ra
- cùng cực đáng sợ.
- (67) Ngôi nhà dẫy đầy
- tai họa như vậy,
- huống chi còn biển
- lửa dữ đang đốt.
- (68) Các con ngu ngơ,
- dẫu nghe cha nói,
- vẫn cứ say sưa
- chơi giỡn không ngừng.
- (69) Trưởng giả lúc ấy
- nghĩ như thế này:
- các con như vậy
- làm ta càng lo.
- Ngôi nhà bây giờ
- có gì vui đâu,
- vậy mà các con
- vẫn mê chơi giỡn,
- không chịu nghe lời
- của ta nói cho,
- và chúng sắp sửa
- bị lửa đốt cháy.
- (70) Ông liền nghĩ ngay
- một chước phương tiện.
- (71) Ông bảo: các con,
- cha có đủ thứ
- đồ chơi quí báu,
- là những cỗ xe
- vừa đẹp vừa tốt
- trang trí vàng ngọc:
- xe dê, xe hươu,
- xe bò to lớn.
- (72) Những cỗ xe ấy
- hiện ở ngoài cửa.
- Tất cả các con
- hãy chạy ra gấp!
- Cha vì các con
- mà đã làm ra
- những cỗ xe ấy.
- Tùy ý các con
- ưa thích thứ nào
- ra lấy mà chơi.
- (73) Các con nghe nói
- những xe như vậy,
- tức thì đua nhau
- chạy mau mà ra,
- đến nơi đất trống
- hết mọi khổ nạn.
- (74) Trưởng giả thấy con
- thoát khỏi nhà lửa
- đến chỗ ngã tư,
- thì ông ngồi lên
- chỗ ngồi sư tử (93) ,
- mà tự mừng rằng
- bây giờ lòng ta
- đã vui thích rồi!
- (75) Những đứa con này
- sinh dưỡng rất khó,
- nhỏ dại ngu ngơ
- mà vào nhà hiểm,
- nơi đầy thú vật
- quỉ quái đáng sợ.
- (76) Lửa lớn ngọn dữ
- bốn phía bùng lên,
- mà các con ta
- vẫn ham chơi giỡn.
- Nay đã cứu được
- cho chúng thoát nạn,
- nên trong giờ này
- lòng ta vui thỏa.
- *
- (77) Các con biết cha
- đã ngồi yên rồi,
- cùng nhau bước đến
- mà thưa với cha,
- xin cho chúng con
- ba thứ xe quí.
- (78) Như cha đã hứa
- các con thoát ra
- thì cho ba xe
- tùy theo ý muốn,
- nay đã đến lúc,
- xin cha cấp cho.
- (79) Trưởng giả giàu lớn
- kho tàng quá nhiều
- bạc, vàng, lưu ly,
- xa cừ, mã não ...
- (80) Ông đem của ấy
- làm những xe lớn,
- trang trí huy hoàng:
- lan can bao quanh,
- chuông treo bốn phía,
- dây vàng đan nhau,
- mạng lưới kết ngọc
- trương phủ trên xe.
- (81) Những dải hoa đẹp
- kết hoa vàng thật,
- chỗ nào cũng được
- treo mắc rủ xuống.
- Đủ thứ lụa là
- đầy các màu sắc,
- trang trí xen vào
- khắp cả quanh xe.
- (82) Lụa dày bông tơ
- đem ra làm nệm.
- Và vải bạch điệp
- loại thượng hảo hạng,
- giá đáng cả ngàn
- cả ức tiền bạc,
- tươi trắng sạch sẽ,
- đem phủ lên trên.
- (83) Những con bò trắng
- mập mạnh nhiều sức
- thân hình lớn đẹp,
- kéo những xe ấy.
- Cỗ xe còn có
- nhiều người thị tùng
- để lo công việc
- phục dịch hộ vệ.
- (84) Trưởng giả đem những
- cỗ xe báu ấy
- đồng đều mà cấp
- cho các con ông.
- Bấy giờ con ông
- vui mừng rộn rã,
- ngồi xe báu này
- dạo cả bốn phương,
- vui chơi thích thú
- tự tại vô ngại.
- *
- (85) Này Xá lợi phất
- Như lai cũng vậy:
- là bậc cực tôn
- trong các bậc thánh,
- là từ bi phụ
- của cả thế gian.
- Hết thảy chúng sinh
- toàn con Như lai,
- đắm sâu thú vui
- thế giới ba cõi
- mà không hề có
- tâm thức sáng suốt.
- (86) Ba cõi không yên
- in như nhà lửa,
- khổ não tràn đầy
- thật đáng khiếp sợ:
- sinh già bịnh chết
- cùng với lo buồn,
- những ngọn lửa ấy
- thường xuyên bùng lên.
- (87) Như lai đã rời
- nhà lửa ba cõi,
- vắng bặt ở yên
- rừng thanh nội tĩnh.
- Nhưng ba cõi này
- toàn thuộc Như lai,
- chúng sinh trong đó
- con Như lai cả.
- (88) Ba cõi như vậy
- tai họa quá nhiều,
- và chỉ Như lai
- mới cứu giúp được.
- Nhưng dẫu Như lai
- nói cho đủ hết,
- mà chúng sinh ấy
- vẫn không tin nhận.
- Như vậy là vì
- chúng sinh tham trước
- sâu nặng quá lắm
- vào những dục lạc.
- (89) Do đó Như lai
- phải dùng phương tiện:
- thuyết cho chúng sinh
- cả ba cỗ xe,
- chỉ cho chúng sinh
- biết khổ ba cõi,
- và dạy cho họ
- phương cách thoát ra.
- (90) Các loại chúng sinh
- con của Như lai
- có người đạt được
- tuệ tâm quyết định,
- đủ ba minh trí
- với sáu thần thông;
- có người đạt đến
- tuệ giác duyên giác;
- có người thành bậc
- bồ tát bất thoái.
- *
- (91) Này Xá lợi phất,
- Như lai đưa ra
- ví dụ như vầy
- là để nói cho
- tất cả các người
- về cỗ xe Phật.
- Các người tin nhận
- lời Như lai nói,
- thì ai cũng sẽ
- được thành Phật đà.
- (92) Cỗ xe Phật ấy
- đẹp sạch bậc nhất,
- cả thế gian này
- không gì hơn nữa.
- Xe ấy Như lai
- đẹp dạ chấp thuận,
- hết thảy chúng sinh
- đều nên hiến cúng
- ca tụng tán dương
- một lòng kính lạy.
- (93) Xe ấy đủ hết
- vô số ức ngàn
- các đại năng lực
- các sự giải thoát
- các thiền các định
- cùng với tuệ giác,
- bao phẩm chất khác
- của chư Phật đà.
- (94- 95) Được xe như vậy,
- chúng sinh các con
- suốt cả ngày đêm,
- suốt hết cho đến
- vô số thời kỳ,
- thường được dạo chơi;
- cùng chư bồ tát
- và chư thanh văn
- ngồi trên cỗ xe
- quí báu như vậy
- mà đi thẳng đến
- nơi bồ đề tràng.
- (96) Vì lý do ấy,
- tìm kyՠmười phương
- không thấy còn có
- cỗ xe nào khác,
- trừ ra Như lai
- phương tiện thiết lập.
- *
- (97) Này Xá lợi phất,
- tất cả các người
- toàn con Như lai,
- Như lai là cha.
- Đã lắm thời kỳ
- các người bị đốt
- vì bao đau khổ,
- Như lai giải cứu
- làm cho các người
- thoát ra ba cõi.
- (98) Như lai trước đây
- dầu nói các người
- đã được niết bàn,
- nhưng mà thật ra
- chỉ hết sống chết
- chưa thật niết bàn.
- Cho nên mọi việc
- ngày nay phải làm
- là chỉ hướng vào
- tuệ giác Phật đà.
- (99) Vị bồ tát nào
- trong đại hội này
- cũng có khả năng
- chuyên chú lắng nghe
- về pháp thật ấy
- của Như lai dạy,
- rằng dẫu Như lai
- áp dụng phương tiện,
- nhưng người được dạy
- toàn là bồ tát.
- (100) Những ai trí nhỏ
- đắm sâu ái dục,
- Như lai vì họ
- nói chân lý khổ;
- họ mừng vì được
- sự chưa từng có,
- khi họ biết rõ
- khổ ấy thật khổ,
- không thể làm cho
- khác đi vui lên.
- (101) Nếu có người nào
- không biết nhân khổ,
- vướng sâu nhân ấy
- tạm thoát không nổi,
- Như lai vì họ
- phương tiện giải thích,
- cho họ tỉnh ngộ
- ý thức trọn vẹn (94)
- nguyên nhân đau khổ
- gốc ở ái dục.
- (102) Ái dục diệt trừ,
- không còn chỗ dựa
- thì khổ tận diệt,
- như vậy gọi là
- chân lý diệt khổ.
- Vì chân lý ấy
- mà tu chân lý
- về đường diệt khổ,
- thoát khổ ràng buộc
- là được giải thoát (95) .
- (103) Nhưng được giải thoát
- đối với cái gì?
- Thì chỉ là vì
- thoát ly hư ảo
- mà được gọi là
- giải thoát mà thôi,
- kỳ thật chưa được
- giải thoát hoàn toàn.
- (104) Như lai nói rằng
- những người như vậy
- chưa thật niết bàn,
- vì những người ấy
- thoát mà chưa được
- tuệ giác vô thượng.
- Ý của Như lai
- là như thế đó:
- không muốn đưa đến
- niết bàn như vậy.
- Như lai là vua
- của tất cả pháp,
- tự tại tuyên bố
- đối với mọi sự (96) ;
- và muốn đem lại
- yên vui hoàn toàn
- cho bao chúng sinh,
- cho nên Như lai
- đã xuất hiện ra
- trong thế giới này (97) .
- *
- (105) Này Xá lợi phất,
- ấn tín (98) về pháp
- của Như lai đây,
- Như lai vì muốn
- ích lợi cho đời
- nên công bố ra.
- Chư vị cần phải
- truyền bá khắp nơi (99) ,
- mặc dầu đến đâu
- chư vị cũng vẫn
- không được tuyên truyền
- một cách bừa bãi.
- (106) Ai nghe pháp này
- tùy hỷ, kính nhận,
- thì biết người ấy
- là bậc bất thoái.
- (107) Nếu ai tin được
- pháp của Pháp hoa,
- thì biết người ấy
- từng gặp chư Phật
- trong thì quá khứ,
- cung kính hiến cúng
- và cũng từng nghe
- về pháp như vầy.
- (108) Những ai tin nổi
- về pháp như vầy
- do tôn giả nói,
- thì những người ấy
- thấy được Như lai
- thấy được tôn giả
- thấy tỷ kheo tăng
- và bồ tát chúng.
- (109) Bản kinh Pháp hoa
- như thế này đây
- là nói cho người
- trí tuệ sâu xa,
- còn người biết cạn
- mà nghe kinh này
- thì tất bối rối
- không thể lý giải.
- Trí lực các vị
- thanh văn duyên giác
- mà còn bất cập
- đối với kinh này.
- (110) Ngay như tôn giả
- đối với kinh này
- còn nhờ đức tin
- mới bước vào được,
- huống chư thanh văn
- khác ngoài tôn giả.
- Chư thanh văn ấy
- vì tin vào lời
- của Như lai nói
- mà theo kinh này,
- không phải trí họ
- có thể tự theo.
- *
- (111) Nên Xá lợi phất,
- đối với những kẻ
- kiêu căng biếng nhác
- chấp trước bản ngã
- thì đừng nói cho
- về bản kinh này.
- Những kẻ phàm phu
- trí thức nông nổi,
- dính cứng vào trong
- năm thứ dục lạc,
- dẫu nghe kinh này
- cũng không hiểu được,
- thì cũng đừng nói
- cho họ kinh này.
- (112) Những ai phỉ báng
- không tin kinh này,
- làm cho tuyệt mất
- giống Phật trong đời,
- những ai nhăn mặt
- hoài nghi kinh này,
- thì bao tội báo
- của những kẻ ấy,
- tôn giả hãy nghe
- Như lai nói đến.
- (113) Như lai tồn tại
- hay nhập diệt rồi,
- những ai phỉ báng
- kinh Pháp hoa này,
- nghe thấy có người
- đọc tụng sao chép
- kính giữ Pháp hoa
- mà khinh và ghét
- mà lòng oán hận,
- thì tội báo họ
- tôn giả hãy nghe
- Như lai nói đến.
- (114) Những người như vậy
- sau khi chết rồi
- sa vào Vô gián
- trọn một thời kỳ (100) .
- Sau thời kỳ ấy
- lại sa tiếp tục,
- triển chuyển cho
- đến vô số thời kỳ.
- (115) Ra khỏi địa ngục
- thì làm súc sinh:
- làm chó, dã can,
- mình mẩy ốm gầy
- đen đủi ghẻ lác
- ai cũng hành hạ.
- (116) Và vì mọi người
- ai cũng gớm ghiếc,
- nên thường đói khát
- xương thịt khô khan.
- (117) Sống với khốn khổ
- chết vì ngói đá:
- làm mất giống Phật
- nên chịu tội ấy.
- (118) Nếu làm lạc đà
- hoặc làm giống lừa,
- thì thường chở nặng
- lại bị đánh đập,
- chỉ nghĩ cỏ nước
- không biết gì hơn:
- phỉ báng kinh này
- nên bị tội ấy.
- (119) Nếu làm dã can
- lẫn vào làng xóm,
- mình mẩy ghẻ lác
- lại mất một mắt,
- bị những trẻ con
- đánh đập quăng ném,
- chịu đủ đau đớn
- có khi đến chết.
- (120- 121) Chết các thân trên
- thì làm mãng xà,
- mình lớn mà dài
- năm trăm do tuần,
- điếc, chậm, không chân,
- uốn bò bằng bụng,
- bị những sâu kiến
- xúm lại rỉa ăn,
- khốn khổ ngày đêm
- không khi nào ngừng:
- phỉ báng kinh này
- nên bị tội ấy.
- (122) Hết làm súc sinh
- nếu may làm người
- thì các giác quan
- u mê đần độn,
- thân lùn tướng xấu
- tay cong chân quẹo
- mắt đui tai điếc
- mình cong lưng gù.
- (123) Nói ra điều gì
- người cũng không tin;
- hơi miệng hôi thối
- quỉ quái phụ nhập.
- (124) Bần cùng, hèn hạ,
- bị người sai khiến;
- bịnh tật gầy ốm,
- không nơi nương tựa.
- (125) Làm thân với người
- người chẳng đếm xỉa.
- Biết được điều gì
- cũng liền quên mất (101) .
- (126) Nếu học làm thuốc
- trị bịnh đúng phép,
- mà người thêm bịnh
- có khi đến chết.
- Nếu mình bị bịnh
- không ai cứu chữa,
- tuy dùng thuốc hay
- bịnh càng thêm dữ.
- (127) Người khác phản loạn,
- cướp giật trộm cắp,
- những tội như vậy
- mình bị họa lây.
- (128) Tội nhân như vậy
- trong thì gian dài (102)
- không thấy được Phật -
- vua của thánh triết
- tuyên thuyết chánh pháp
- giáo hóa cho người.
- (129) Tội nhân như vậy
- thường sinh những chỗ
- đủ thứ tai nạn,
- điên cuồng điếc lác
- tâm trí thác loạn,
- trong thì gian dài
- không hề nghe được
- chánh pháp Như lai.
- (130) Hằng sa thời kỳ,
- sinh ra là đã
- điếc lác câm ngọng
- giác quan không đủ.
- (131) Họ ở địa ngục
- như dạo vườn hoa,
- ở chỗ dữ khác
- như ở nhà mình,
- lạc đà và lừa
- và heo với chó
- những loài như vậy
- là chỗ họ sinh:
- phỉ báng kinh này
- nên bị tội ấy.
- (132) Nếu được làm người
- thì tự trang sức
- bằng điếc với mù
- bằng câm với ngọng
- bằng nghèo với hèn
- bằng bao suy biến.
- (133) Lại tự trang phục
- bằng các thứ bịnh
- đại loại như là
- thủng nước, khô nóng,
- lở lói, phung hủi,
- và ung thư da.
- Thân họ thường xuyên
- là chỗ hôi thối,
- tập hợp biết bao
- những thứ dơ bẩn.
- (134) Nắm cứng bản ngã
- bồi thêm sân hận,
- dục tình hừng hực
- chẳng kể cầm thú:
- phỉ báng kinh này
- bị tội như vậy.
- (135) Này Xá lợi phất,
- tội báo những kẻ
- phỉ báng không tin
- kinh Pháp hoa này,
- nói hết thời kỳ
- cũng không hết được.
- (136) Như lai vì vậy
- cố răn chư vị
- đừng nói Pháp hoa
- cho kẻ vô trí.
- *
- (137) Những ai có được
- các căn lanh lợi,
- trí tuệ thông minh
- nghe nhiều nhớ mạnh,
- quyết tâm cầu được
- tuệ giác Phật đà,
- những người như vậy
- mới được nói cho.
- (138) Nếu ai từng gặp
- ức ngàn đức Phật,
- trồng các gốc lành,
- tâm nguyện sâu vững,
- những người như vậy
- mới được nói cho.
- (139) Nếu ai tinh tiến,
- thường làm từ tâm,
- không tiếc thân mạng,
- mới được nói cho.
- (140) Ai biết kính nhau,
- không có ẩn ý,
- xa kẻ phàm ngu
- riêng ở núi chằm,
- những người như vậy
- mới được nói cho.
- (141) Này Xá lợi phất,
- nếu thấy có ai
- biết tránh bạn xấu
- biết thân bạn đạo,
- những người như vậy
- mới được nói cho.
- (142) Nếu thấy con Phật
- giữ giới trong sạch
- như ngọc trong suốt,
- cầu kinh đại thừa,
- những người như vậy
- mới được nói cho.
- (143) Ai không giận dữ,
- ngay thẳng, ôn hòa,
- thương xót tất cả,
- trọng kính chư Phật,
- những người như vậy
- mới được nói cho.
- (144) Nếu có con Phật
- ở giữa công chúng
- đem tâm trong sáng
- dùng những yếu tố,
- ví dụ, lời chữ,
- thuyết pháp thông suốt,
- những người như vậy
- mới được nói cho.
- (145) Nếu có tỷ kheo
- vì được toàn giác,
- cầu pháp bốn phương
- chắp tay kính nhận;
- (146) chỉ thích kính nhận
- kinh điển đại thừa,
- chứ không tiếp nhận
- kinh điển nào khác
- dầu chỉ một bài
- chỉnh cú mà thôi,
- những người như vậy
- mới được nói cho.
- (147) Như người thiết tha
- tìm cầu cho được
- xá lợi của Phật,
- những người tìm cầu
- Pháp hoa cũng vậy,
- được rồi kính nhận;
- (148) người ấy không cầu
- kinh sách nào khác,
- càng không nghĩ đến
- sách vở ngoại đạo,
- những người như vậy
- mới được nói cho.
- (149) Này Xá lợi phất,
- Như lai nói đến
- sắc thái những người
- cầu tuệ giác Phật,
- nói hết thời kỳ
- cũng không hết được.
- Và những người ấy
- mới tin hiểu được;
- chư vị nên nói
- cho họ được nghe
- về kinh đại thừa
- Diệu pháp liên hoa.
Phẩm 4: Tin Hiểu
[^]
Lúc ấy Tu bồ đề, vị tôn giả lấy
tuệ giác làm sinh mạng, cùng các tôn giả Ca chiên diên, Đại ca diếp và
Mục kiền liên, từ nơi đức Thế tôn nghe được điều chưa từng có,
là nghe đức Thế tôn trao cho tôn giả Xá lợi phất lời ghi thành tựu tuệ
giác vô thượng, thì thấy thật là hiếm có, nên hoan hỷ, phấn chấn, tức
thì từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa pháp y, trần vai phải, đầu gối bên
phải quì xuống chấm đất, chuyên nhất tâm trí mà chắp tay chiêm ngưỡng
đức Thế tôn, rồi cúi mình, cung kính thưa rằng, bạch đức Thế tôn,
chúng con ở vào địa vị đứng đầu chư tăng, tuổi cùng già cả, ai cũng
tự cho đã được niết bàn, không kham làm gì được nữa, không thể bước
tới mà cầu tuệ giác vô thượng. Trước đây, mỗi khi đức Thế tôn
thuyết pháp lâu, thì chúng con lúc ấy cũng ngồi tại chỗ nghe pháp, nhưng
cơ thể mệt mỏi, chỉ nghĩ nhớ về không, không sắc tướng và không ưa
thích (103) . Còn đối với pháp bồ tát, như thần thông du hóa mà làm sạch
thế giới làm nên chúng sinh, thì chúng con không có ý gì thích thú. Như vậy
là vì đức Thế tôn đã làm cho chúng con thoát ba cõi, chứng niết bàn,
thêm nữa tuổi chúng con đã già cả, nên đối với tuệ giác vô thượng
mà đức Thế tôn dạy cho bồ tát, chúng con không có một ý niệm ham
thích. Ngày nay, đối trước đức Thế tôn, chúng con được nghe ngài trao
cho thanh văn lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng thì lòng quá hoan hỷ,
được sự chưa từng có. Chúng con không ngờ ngày nay bỗng nhiên được
nghe điều hiếm cóấy. Chúng con tự mừng một cách sâu xa vì được ích
lợi vĩ đại, vô số ngọc báu chúng con không cầu mà tự được cả.
Bạch đức Thế tôn, bây giờ
chúng con thích thú mà trình bày một sự ví dụ để thưa rõ ý nghĩa như
vậy. Vínhư có người tuổi đã nhỏ dại mà lại bỏ cha trốn đến xứ
khác, ở lâu mười năm, hai mươi năm, cho đến năm mươi năm. Khi tuổi lớn
rồi, lại thêm nghèo khốn, người ấy bôn ba khắp nơi để kiếm cơm áo,
lần hồi đến nhằm đô thành cha ở (104) . Còn người cha thì từ trước
đến giờ tìm con mà không được, nên dừng lại mà ở tại đô thành ấy
(105) . Ông rất giàu có. Tài sản và bảo vật, đại loại như bạc vàng,
lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê và chân châu thì vô số. Mọi kho tàng đều
tràn đầy. Có lắm phụ tá, môn lại và tôi tớ. Voi ngựa, xe cộ và bò
dê thì vô số kể. Lợi tức thu chi khắp cả các nước. Thương khách rất
đông đảo.
Người con nghèo khốn đi qua các
vùng dân cư, hết xứ lớn đến xứ nhỏ, và rồi đến nhằm đô thành
cha ở. Người cha vẫn thường nhớ con. Xa con hơn năm mươi năm mà ông chưa
bao giờ nói việc ấy với ai, chỉ nghĩ riêng mà buồn tiếc. Ông lo già cả,
nhiều của, vàng ngọc kho tàng tràn đầy mà không có con cháu, một mai chết
đi thì của ấy tiêu tan vì không có người để giao phó. Lo nghĩ như vậy
nên ông thường tha thiết nhớ con. Ông nghĩ nếu gặp con để giao của thì
hết lo hết nghĩ, vui thích biết mấy.
Bạch đức Thế tôn, người con nghèo
khốn làm thuê làm mướn, lần hồi đến nhằm lâu đài người cha, đứng
lại bên cửa, xa thấy người cha ngồi trên ngai sư tử mà ghế đẩu nâng
chân cũng trang hoàng vàng ngọc. Bà la môn, sát lợi và cư sĩ thì kính cẩn
bao quanh. Thân ông trang sức bằng chuỗi ngọc chân châu giá trị ngàn vạn
tiền vàng. Môn lại và tôi tớ thì cầm quạt lông trắng đứng hầu hai bên.
Trên đầu thì che trướng đính ngọc và treo rủ xuống là những dải phan
kết hoa. Dưới đất thì được rưới nước thơm và rải những thứ hoa
danh tiếng. Bảo vật thì la liệt và đang được thu chi. Đủ thứ hoa myՠvà
đặc biệt tôn nghiêm như vậy. Người con nghèo khốn thấy người cha tư
thế lớn lao đến thế thì sợ hãi, hối tiếc đến nhằm chỗ này. Nghĩ
thầm đây là vua hoặc ngang với vua, không phải chỗ mình làm mướn kiếm
ăn. Chẳng bằng đi đến xóm nghèo, có chỗ bán sức, cơm áo dễ kiếm hơn.
Ta đứng mãi ở đây thì có thể bị cưỡng bách làm việc. Nghĩ vậy nên
bỏ chạy thật mau. Người cha, vị trưởng giả giàu có ấy, ngồi trên
ngai sư tử nhưng thấy con thì nhận biết được liền, lòng rất vui mừng,
nghĩ rằng bảo vật kho tàng của ta nay đã có người để giao phó rồi.
Ta nhớ mãi đứa con này, không làm sao gặp được mà nay nó bỗng nhiên tự
đến, rất hợp nguyện ước của ta. Ta già rồi mà vẫn ham con tiếc của!
Tức thì sai phái viên cấp tốc chạy theo dẫn về. Phái viên chạy mau đến
bắt. Người con nghèo khốn kinh hãi, lớn tiếng kêu oan, tôi đâu có xúc
phạm gì đến các người, tại sao các người bắt tôi? Phái viên bắt
càng gấp, kéo bừa dẫn về. Người con nghèo khốn tự nghĩ vô tội mà bị
bắt như bắt tù thì chắc phải chết. Càng nghĩ càng sợ nên ngất đi mà
ngã xuống đất. Người cha từ xa thấy vậy thì bảo phái viên, ta không cần
người này nữa; đừng dẫn người này về theo cách cưỡng bách như thế.
Hãy lấy nước lạnh rưới mặt cho người này tỉnh lại, nhưng đừng nói
gì với người này nữa. Người cha bảo như vậy vì biết con mình ý chí
thấp hèn. Ông tự biết chính sự cao sang của mình làm cho con mình khiếp
sợ. Biết đích là con trai của mình, nhưng người cha áp dụng phương tiện,
không nói với ai rằng người này là con tôi. Ông bảo phái viên nói với
con mình, rằng ta thả anh, anh đi đâu tùy ý. Người con nghèo khốn mừng
như được sự chưa từng có, từ đất đứng dậy, đi đến xóm nghèo để
kiếm cơm áo.
Trưởng giả muốn dẫn dụ con mình
nên lập chước phương tiện. Ông kín đáo sai hai phái viên hình sắc tiều
tụy, không oai phong gì, dặn rằng các người đi tìm người nghèo khốn vừa
rồi, từ từ nói rằng ở đây ta có việc thuê làm, trả giá gấp đôi.
Người ấy chịu thì các người dẫn về cho làm. Người ấy có hỏi muốn
thuê làm gì, thì các người bảo thuê quét dọn dơ bẩn (106) , và chúng
tôi cùng làm với anh. Hai phái viên tức khắc đi tìm người con nghèo khốn.
Tìm được rồi nói rõ mọi việc. Người con nghèo khốn hỏi biết giá
thuê, rồi đi liền đến lâu đài người cha mà quét dọn dơ bẩn với hai
người kia.
Người cha thấy con như vậy thì vừa
thương xót vừa quái lạ. Ngày khác, từ trong cửa sổ, ông xa thấy thân
con gầy ốm tiều tụy, phân đất bụi bặmlàm bẩn cả người. Tức khắc
ông cởi chuỗi ngọc, cởi áo mềm mịn thượng hạng và bao nhiêu đồ
trang sức khác, thay vào, ông mặc chiếc áo thô rách cáu bẩn,lại làm cho
bụi đất lấm lem cả người, rồi tay phải cầm dụng cụ quét dọn dơ bẩn,
bộ dáng có vẻ ghê sợ đồ dơ, đến bảo những người làm thuê: các người
hãy làm cho siêng, đừng nhác đừng nghỉ. Với cách phương tiện ấy ông
mới gần được con ông. Sau đó lại bảo: chàng trai này, hãy làm luôn ở
đây, đừng đi đâu nữa. Ta sẽ trả thêm tiền thuê cho anh. Cần gì về
thau chậu, gạo bún, muối giấm, thì đừng có e ngại. Có người sai vặt
vừa già vừa xấu kia, cần thì ta cấp cho. Anh hãy yên tâm. Ta như cha anh,
anh đừng lo nghĩ gì cả. Ta đối xử như vậy là vì ta già cả mà anh trai
trẻ, với lại anh làm việc thường không dối không nhác, không tức giận
không oán than. Ta không thấy anh có những tính xấu ấy như các người làm
thuê khác. Từ nay về sau anh như con trai của ta sinh ra. Trưởng giả tức
thì đặt cho cái tên gọi là con. Người con nghèo khốn, dẫu mừng vì sự
đãi ngộ ấy, vẫn tự xưng như cũ, rằng mình là người ngoài, người làm
thuê hèn hạ. Do vậy mà trong hai mươi năm trời, vẫn chỉ được bảo quét
dọn dơ bẩn. Qua thì gian này rồi lòng mới tin nhau, và người con nghèo khốn
ra vào trong lâu đài một cách không e ngại gì nữa. Nhưng chỗ ở thì vẫn
thích ở chỗ cũ.
Bạch đức Thế tôn, bấy giờ trưởng
giả bị bịnh, tự biết gần mất, mới bảo người con nghèo khốn, ta có
lắm vàng ngọc, kho tàng tràn đầy. Trong đó nhiều ít và đáng thu đáng
chi thế nào, con phải biết cho rõ. Ý cha như vậy, con phải thể theo. Nay
thì cha với con không khác gì cả. Con phải chú ý,đừng để thất thoát.
Người con nghèo khốn, khi ấy, tức thì vâng lời, lãnh nhận và biết rõ
mọi thứ, từ vàng ngọc cho đến kho tàng. Nhưng không có ý gì mong lấy
cho đủ một bữa ăn, và chỗ ở vẫn ở chỗ cũ, tâm lý thấp kém cũng
chưa bỏ được. Phải qua ít lâu nữa, cha biết con tâm trí đã thênh
thang, chí lớn đã thành đạt, đã biết tự khinh bỉ tâm lý ngày trước
của mình, nên lúc sắp chết, ông gọi con và triệu tập họ hàng, quốc vương,
đại thần, sát lợi, cư sĩ. Mọi người tập hợp cả rồi, ông tự
tuyên bố, rằng xin các vị biết cho, người này là con trai của tôi, do
tôi sinh ra. Trước đây, tại đô thành cũ, con tôi đã bỏ tôi mà trốn chạy,
lưu lạc khổ sở hơn năm mươi năm. Con tôi vốn tên như vậy, tôi tên như
vậy. Ngày xưa, tại đô thành ấy tôi lo lắng tìm kiếm mà không được,
ngày nay, tại đô thành này bỗng nhiên tôi gặp được con tôi. Nó thật
con tôi, tôi thật cha nó. Ngày nay, hết thảy tài sản bảo vật của tôi
đều là của con tôi, và trước đây thu chi thế nào, con tôi đã biết rõ
cả. Bạch đức Thế tôn, khi người con nghèo khốn nghe lời ấy của người
cha trưởng giả thì cùng cực vui mừng, được sự chưa từng có, nghĩ rằng
mình vốn không có lòng nào mong cầu, vậy mà ngày nay kho báu tự đến.
Bạch đức Thế tôn, người cha, vị
trưởng giả giàu có ấy là đức Thế tôn. Chúng con chỉ như con Phật,
nhưng đức Thế tôn vẫn thường gọi chúng con là con Phật. Bạch đức Thế
tôn, chúng con vì ba sự đau khổ (107) mà chịu bao nhiêu nóng rát phiền bực
trong chốn sống chết, đời này vẫn ngu và lầm, không biết nhận thức
gì hết nên ưa thích giáo pháp thấp nhỏ. Đức Thế tôn phải bảo chúng
con vận dụng tư duy tu mà quét dọn cho sạch hý luận dơ bẩn đối với các
pháp. Trong huấn dụ ấy, chúng con nỗ lực tinh tiến, đạt được niết bàn
như cái giá một ngày làm thuê. Đạt được như vậy mà lòng chúng con rất
mừng, tự cho đầy đủ, và tự bảo, ở trong giáo pháp của đức Thế tôn,
chúng con nhờ nỗ lực tinh tiến mà đã nhận được rất nhiều. Nhưng đức
Thế tôn biết tâm lý chúng con vốn đắm say dục lạc thô tệ, bị khổ
vì thế mà thành ra ưa thích giáo pháp thấp nhỏ, nên tạm thời buông thả,
bỏ đó mà chưa phán bảo rằng các người cũng có phần nhận được kho
tàng tuệ giác của Như lai, mặc dầu đức Thế tôn đã khéo léo nói cho
chúng con biết về kho tàng tuệ giác ấy. Chúng con, từ đức Thế tôn, nhận
được niết bàn chỉ như cái giá làm thuê một ngày mà lại cho là đã
được lớn lao, còn đối với cỗ xe vĩ đại thì chúng con không có chí
nguyện gì mong cầu. Chúng con cũng dựa vào tuệ giác của đức Thế tôn
mà diễn giảng tuệ giác ấy cho chư vị bồ tát (108) , nhưng tự mình thì
không có chí mong ước. Như vậy là vì đức Thế tôn biết tâm lý chúng
con ưa thích giáo pháp thấp nhỏ nên áp dụng phương tiện mà thuyết pháp
theo tâm lý chúng con, và chúng con không hề biết mình là thật con Phật.
Ngày nay chúng con mới biết đức Thế tôn không tiếc lẫn gì về tuệ
giác của ngài; chỉ vì chúng con tuy xưa nay vẫn là thật con Phật mà lại
ưa thích thấp nhỏ, nếu biết ưa thích vĩ đại thì ngài đã dạy cho
giáo pháp vĩ đại. Ngày nay, qua kinh Pháp hoa này, đức Thế tôn tuyên bố
chỉ có cỗ xe Phật đà duy nhất, như vậy ngày trước, trước mặt chư vị
bồ tát, ngài chê thanh văn chúng con ưa thích giáo pháp thấp nhỏ là, sự
thật, ngài chỉ muốn đem giáo pháp vĩ đại mà giáo hóa chúng con. Do vậy
nên chúng con nói chúng con vốn không có tâm nguyện gì mong cầu mà ngày
nay kho báu vĩ đại của đấng Pháp vương tự đến với chúng con: con Phật
đáng nhận được gì thì chúng con đã nhận được cả.
Lúc ấy tôn giả Đại ca diếp muốn
lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (1) Nay chúng con nghe
- tiếng nói Thế tôn,
- lòng mừng rộn rã
- được chưa từng có.
- (2) Đức Thế tôn nói
- chư vị thanh văn
- sẽ được làm Phật,
- như vậy có nghĩa
- đống ngọc tối thượng
- của đức Thế tôn,
- chúng con không cầu
- mà tự nhận được.
- (3) Như đứa bé trai
- nhỏ dại ngu ngơ,
- bỏ cha trốn đi
- đến xứ xa lạ.
- (4) Lang thang các xứ
- hơn năm mươi năm.
- Người cha lo nhớ
- tìm kiếm khắp nơi.
- (5) Tìm kiếm quá mệt
- dừng một đô thành,
- tạo lập lâu đài
- vui với ngũ dục.
- (6- 8)Ông rất giàu sang
- có lắm bạc vàng
- xa cừ mã não
- chân châu lưu ly,
- voi ngựa dê bò,
- xe liễn xe dư
- và xe thuyền khác;
- có lắm ruộng đất
- lắm người phục dịch
- và nhiều môn lại.
- Lợi tức thu chi
- khắp cả các nước,
- thương khách buôn bán
- ở đâu cũng có.
- Có vạn ức người
- kính trọng hướng về.
- Thường được vua chúa
- quí mến quan tâm,
- quan quyền thân hào
- ai cũng tôn trọng.
- Vì nhiều duyên cớ
- đông người qua lại.
- (9- 10) Giàu sang đến thế
- thế lực lại lớn,
- nhưng mà tuổi già
- nên càng nhớ con,
- ngày đêm lo nghĩ.
- Rằng chết sắp đến,
- con dại bỏ ta
- hơn năm mươi năm,
- kho tàng bảo vật
- rồi làm sao đây.
- (11) Người con nghèo khốn
- vì kiếm cơm áo
- từ xứ nhỏ này
- đến xứ nhỏ khác,
- từ xứ lớn khác
- đến xứ lớn này.
- (12) Chỗ thì cũng có,
- chỗ không có gì,
- đói khát gầy ốm
- mình sinh ghẻ chốc.
- (13) Lần hồi đi đến
- nhằm ngay đô thành
- của người cha ở,
- làm thuê làm mướn
- lại lần đến nhằm
- lâu dài người cha.
- (14) Trưởng giả lúc ấy
- ngồi ở trong cửa,
- chăng trướng báu lớn
- ngồi ngai sư tử.
- Tùy thuộc bao quanh
- lắm kẻ phục dịch.
- (15) Lại có những người
- kế toán vàng ngọc,
- thu chi tiền của,
- ghi chép giấy tờ.
- (16) Người nghèo thấy cha
- sang cả tôn nghiêm
- thì cho là vua
- hoặc ngang với vua,
- sợ và tự quái
- đến chi chốn này!
- (17) Lại nghĩ nếu ta
- đứng mãi ở đây,
- có thể bị ép
- bắt buộc làm việc.
- Nghĩ suy như thế
- người nghèo bỏ chạy
- để hỏi xóm nghèo
- mà đến làm thuê.
- (18) Trưởng giả lúc ấy
- ngồi ngai sư tử,
- xa thấy con mình
- biết mà không nói,
- sai ngay phái viên
- đuổi bắt đem về.
- (19) Người nghèo kêu hoảng
- ngất xỉu xuống đất,
- vì nghĩ người này
- bắt mình chắc giết;
- vị gì cơm áo
- đến nhằm chỗ này (109) !
- (20) Trưởng giả biết con
- u mê hèn kém,
- chắc chắn không tin
- ta nói là cha.
- (21) Ông liền phương tiện
- đổi sai vài người
- chột mắt, lùn xấu,
- không chút oai phong,
- rằng hãy tìm bảo
- muốn thuê mướn nó,
- (22) quét dọn dơ bẩn
- giá trả gấp đôi.
- (23) Người nghèo nghe nói
- vui vẻ đi theo
- đến dọn dơ bẩn
- làm sạch phòng nhà.
- (24) Nhìn qua cửa sổ
- trưởng giả thường xuyên
- quan sát con mình,
- nghĩ rằng con mình
- ngu muội thấp kém
- thích làm việc hèn.
- (25) Do đó trưởng giả
- đổi mặc áo dơ
- cầm đồ dọn bẩn
- đi đến chỗ con,
- phương tiện gần gũi
- bảo hãy siêng làm.
- (26) Ta thêm tiền công
- cho dầu xoa chân
- ăn uống đầy đủ
- đệm chiếu dày ấm.
- (27) Trưởng giả la mắng
- anh làm cho siêng,
- lại dịu dàng bảo
- anh như con ta.
- (28) Trưởng giả khéo léo,
- lần hồi sai bảo
- ra vào lâu đài.
- Sau hai mươi năm,
- bảo nắm mọi việc
- trong lâu đài ấy.
- (29) Ông chỉ cho biết
- tất cả vàng ngọc,
- tài sản thu chi
- cũng cho biết cả.
- (30) Được đãi như vậy
- nhưng người nghèo khốn
- vẫn ở ngoài cửa
- nương náu chòi tranh,
- tự nghĩ mình nghèo
- đâu có của đó.
- (31- 33) Thêm ít lâu nữa
- trưởng giả biết con
- tâm chí dần dần
- đã lớn rộng ra.
- Muốn giao tài sản,
- ông họp họ hàng
- quốc vương đại thần
- sát lợi cư sĩ.
- Trước những người ấy
- ông nói người này
- là con trai tôi,
- bỏ tôi mà trốn
- đi đến xứ khác
- đến năm mươi năm.
- Từ khi gặp lại
- cho đến ngày nay
- cũng đã trải qua
- hai mươi năm nữa.
- Xưa nơi thành ấy
- mất người con này,
- tôi tìm khắp nơi
- mới đến ở đây.
- (34) Ngày nay tất cả
- tài sản tôi có,
- kể cả lâu đài
- và bao gia nhân
- đều giao con tôi
- mặc ý sử dụng.
- (35) Người nghèo khi ấy
- tự nghĩ xưa kia
- mình quá nghèo khốn
- tâm chí thấp hèn,
- nay từ nơi cha
- cả được vàng ngọc
- được luôn lâu đài
- được hết tài sản,
- nên rất vui mừng
- như chưa từng có.
- *
- (36) Thế tôn cũng vậy.
- Biết rõ chúng con
- chí thích thấp nhỏ,
- nên ngài chưa hề
- tuyên bố chúng con
- cũng được làm Phật,
- chỉ nói chúng con
- đạt được một ít
- thành quả thuần khiết
- và thành những vị
- đệ tử thanh văn
- trong cỗ xe nhỏ (110) .
- (37) Thế tôn sắc bảo
- chúng con giảng nói
- đường lối tối thượng,
- đường lối mà ai
- tu tập trọn vẹn
- đều sẽ thành Phật.
- (38) Vâng lời Thế tôn
- chúng con cũng đã
- vận dụng những thứ
- yếu tố ví dụ
- cùng bao lời chữ
- mà giảng nói về
- đường lối tối thượng
- cho đại bồ tát.
- (39) Những con Phật ấy
- từ nơi chúng con
- nghe đường lối này,
- ngày đêm tư duy
- nỗ lực tu tập,
- bấy giờ Thế tôn
- cùng với chư Phật
- liền thọ ký cho,
- rằng trong vị lai
- sẽ được làm Phật.
- (40) Do vậy chúng con
- từng nghĩ lầm rằng
- kho tàng bí yếu
- của Phật thế tôn
- chỉ có bồ tát
- mới được nói cho,
- chúng con không được
- nói cho pháp ấy.
- Ngày nay chúng con
- tự biết in như
- kẻ nghèo khốn kia
- dầu được gần cha
- và biết bảo vật
- mà không mong lấy;
- (41) chúng con giảng nói
- kho báu chánh pháp
- của Phật thế tôn,
- mà tự chúng con
- không chí muốn có
- hì cũng như vậy.
- (42) Chúng con mới được
- niết bàn nội tại
- mà lại tự cho
- đã là đầy đủ,
- chỉ biết sự ấy
- không biết gì hơn.
- Chúng con nếu được
- nghe nói những việc
- làm sạch thế giới
- làm nên chúng sinh
- thì không cảm thấy
- thích thú chút nào.
- (43) Tại sao như vậy,
- bởi vì toàn thể
- các pháp đều không:
- không sinh không diệt
- không lớn không nhỏ
- đã không phiền não
- cũng không khử trừ,
- tư duy như vậy
- cho nên chúng con
- không còn thích gì.
- (44) Với tuệ giác Phật
- chúng con trường kỳ
- không ham không mê
- không chí ưa thích,
- trong khi đối với
- niết bàn của mình
- thì lại tự cho
- đã là cứu cánh.
- (45) Chúng con trường kỳ
- tu tập về Không,
- thoát được cái họa
- khổ não ba cõi,
- làm cho thân này
- thành thân cuối cùng,
- và thực hiện được
- niết bàn chưa toàn (111) ;
- thế là đối với
- giáo huấn Thế tôn
- chúng con tự cho
- đã thực hiện được
- một cách chắc chắn,
- và cho thế là
- đã báo đáp được
- hồng ân Thế tôn.
- (46) Cho dẫu chúng con
- nói pháp bồ tát
- cho các con Phật
- để họ cầu được
- tuệ giác Phật đà,
- nhưng chính chúng con
- đối với pháp ấy
- không thích bao giờ.
- (47) Đức Đại đạo sư
- bỏ qua chúng con
- chính vì xét thấy
- tâm lý như vậy.
- Và chưa bao giờ
- ngài khuyên chúng con
- tinh tiến bước tới,
- bằng cách nói rõ
- bước tới thì có
- ích lợi chân thật.
- (48) Như trưởng giả giàu
- biết con chí kém
- nên dùng phương tiện
- khắc phục lòng con,
- rồi sau mới giao
- tất cả tài sản.
- (49) Thế tôn cũng vậy,
- làm việc hiếm có:
- biết rằng chúng con
- chí thích thấp nhỏ
- nên đức Thế tôn
- dùng phương tiện lực
- trước hết thuần hóa
- tâm trí chúng con,
- sau đó mới dạy
- tuệ giác vĩ đại.
- *
- (50) Ngày nay chúng con
- được chưa từng được,
- vốn không hy vọng
- nay tự được cả,
- như người nghèo khốn
- được bao của báu.
- (51) Bạch đức Thế tôn,
- ngày nay chúng con
- mới được tuệ giác
- và được thành quả:
- được mắt trong suốt
- thấy pháp thuần khiết.
- Chúng con trường kỳ
- nghiêm trì tịnh giới,
- ngày nay bắt đầu
- nhận được thành quả.
- (52) Ở trong giáo pháp
- của đức Pháp vương,
- chúng con lâu ngày
- thực hành phạn hạnh,
- ngày nay nhận được
- thành quả vĩ đại
- đã rất thuần khiết
- lại không gì hơn.
- (53) Chúng con ngày nay
- mới thật Thanh văn:
- đem cái tiếng nói
- của tuệ giác Phật
- mà phát lộ ra
- cho mọi người nghe.
- (54) Chúng con ngày nay
- cũng thật La hán:
- khắp trong thế gian
- bao gồm tất cả
- chư thiên nhân loại
- ma vương phạn thiên,
- chúng con ứng thọ
- cho họ hiến cúng.
- (55) Hồng ân Thế tôn
- thật là cao cả:
- ngài đã vận dụng
- mọi cách hiếm có
- thương xót giáo hóa
- ích lợi chúng con.
- Nên dẫu trải qua
- vô số thời kỳ,
- ai mà trả được
- hồng ân như vậy.
- (56) Tay chân phục dịch
- đầu đỉnh lễ kính,
- cúng hiến tất cả
- cũng không trả được.
- Đội bằng đỉnh đầu
- vác với hai vai,
- hằng sa thời kỳ
- tôn kính hết lòng;
- (57- 58) lại hiến cỗ bàn
- cực kỳ myՠvị,
- hay dâng vải quí
- nhiều đến vô lượng,
- đồ nằm thuốc thang
- cúng hiến đủ cả;
- đem gỗ đàn hương
- và những vàng ngọc
- mà dựng bảo tháp
- và cất tự viện,
- rồi dùng vải quí
- mà trải mặt đất;
- với những cách ấy
- hiến cúng Thế tôn
- hằng sa thời kỳ
- cũng không trả được.
- (59) Thế tôn là bậc
- cực kỳ hiếm có,
- lại có đủ cả
- vô lượng vô biên
- đại thần thông lực
- ngoài tầm nghĩ bàn;
- ngài không sai sót
- lại không xao động,
- làm một vị vua
- thống lãnh các pháp,
- vậy mà có thể
- vì kẻ thấp kém,
- ngài nhẫn chịu được
- mọi sự thấp kém.
- (60) Đối với bao kẻ
- phàm phu cố chấp,
- ngài vẫn tùy nghi
- mà thuyết pháp cho,
- bởi vì đối với
- tất cả các pháp
- Thế tôn đã được
- sự rất tự tại.
- (61) Thế tôn biết hết
- thị hiếu, sở thích,
- chí hướng, năng lực
- của các chúng sinh,
- tùy sức của họ
- kham nhiệm được gì
- thì dùng vô lượng
- những sự ví dụ
- mà thuyết cho họ
- giáo pháp phong phú.
- (62) Lại tùy căn lành
- mà chúng sinh có
- từ các đời trước,
- và biết rất rõ
- ai đã thuần hóa
- ai chưa thuần hóa;
- xét đủ mọi mặt
- biết rành tất cả,
- rồi chính ở nơi
- cỗ xe duy nhất,
- Thế tôn tùy nghi
- nói ba cỗ xe.
-ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục | 01 | 02 | 03 |
04 | 05 |
06 | 07 |
08 | 09 |