Cuốn 1
Phẩm 1: Mở Đầu
Tôi nghe như vầy.
Một thời đức Thế tôn (1) ở
thành Vương xá, trong đỉnh Linh sơn, cùng chúng đại tỷ kheo mười hai ngàn
vị, toàn là những bậc a la hán (2) mà sự sơ hở (3) đã được tận diệt,
sự phiền não không còn tái sinh, đã đạt được sự ích lợi của bản
thân, đã dứt hết sự ràng buộc vào hiện hữu (4) , tâm trí tự tại giải
thoát. Tên các vị ấy là tôn giả Kiều trần như, tôn giả Đại ca diếp,
tôn giả Tần loa ca diếp, tôn giả Già da ca diếp, tôn giả Na đề ca diếp,
tôn giả Xá lợi phất, tôn giả Mục kiền liên, tôn giả Ca chiên diên,
tôn giả A nâu lâu đà, tôn giả Kiếp tân na, tôn giả Kiều phạn ba đề,
tôn giả Ly bà đa, tôn giả Tất lăng già, tôn giả Bạc câu la, tôn giả
Câu hy la, tôn giả Nan đà, tôn giả Tôn đà ra nan đà, tôn giả Phú lâu
na, tôn giả Tu bồ đề, tôn giả A nan, tôn giả La hầu la (5) , đại loại
như vậy, những vị a la hán mà mọi người đều biết. Lại có hai ngàn vị
tu học tiếp tục và tu học hoàn tất (6) , có tỷ kheo ni Đại thắng sinh
chủ cùng với sáu ngàn người tùy thuộc, có thân mẫu tôn giả La hầu la
là tỷ kheo ni Trì dự cùng với những người tùy thuộc, đều đến tụ tập.
Chúng đại bồ tát có sáu mươi ngàn,
toàn là những vị không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng (7) ,
được các pháp tổng trì (8) , được các tài hùng biện mà trong đó có sự
biện thuyết hoan hỷ (9) , biện thuyết về pháp không thoái chuyển (10) ;
đã hiến cúng vô lượng trăm ngàn chư Phật, vun trồng các gốc rễ công
đức ở nơi chư Phật ấy, và thường được chư Phật ấy tán dương; sửa
mình bằng đức tính từbi, khéo nhập vào tuệ giác Phật đà, thông suốt
tuệ giác vĩ đại, đạt đến bờ bến bên kia; danh tiếng vang khắp vô lượng
quốc độ, hóa độ vô số trăm ngàn chúng sinh. Tên các vị ấy là bồ
tát Văn thù sư lợi, bồ tát Quan thế âm, bồ tát Đại thế chí, bồ tát
Thường tinh tiến, bồ tát Bất hưu tức, bồ tát Bảo chưởng, bồ tát Dược
vương, bồ tát Dũng thí, bồ tát Bảo nguyệt, bồ tát Nguyệt quang, bồ
tát Mãn nguyệt, bồ tát Đại lực, bồ tát Vô lượng lực, bồ tát Việt
tam giới, bồ tát Hiền hộ, bồ tát Di lạc, bồ tát Bảo tích, bồ tát Đạo
sư, đại loại như vậy, tám mươi ngàn vị đại bồ tát đều đến tụ
tập.
Chư thiên thì có Đế thích cùng
hai mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc; Nguyệt thiên tử, Phổ hương thiên tử,
Bảo quang thiên tử, và bốn vị Đại thiên vương, cùng mười hai ngàn
thiên nhân tùy thuộc; Tự tại thiên tử và Đại tự tại thiên tử cùng
ba mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc; phạn vương chủ thế giới hệ Kham nhẫn,
cùng các phạn vương đại loại như phạn vương Thikhí (11) , phạn vương
Quang minh, và hai mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc, đều đến tụ tập. Các
bộ khác thì có tám long vương là Hỷ, Hiền hỷ, Diêm hải, Cửu đầu,
Đa thiệt, Vô nhiệt não, Từ tâm và Hồng liên hoa, mỗi vị cùng mấy trăm
ngàn tùy thuộc; có bốn khẩn na la vương là Pháp và Diệu pháp, Đại pháp
và Trì pháp, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn càn thát bà
vương là Nhạc và Nhạc âm, Myՠvà Myՠâm, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn
tùy thuộc; có bốn a tu la vương là Tối thắng, Dục cẩm, Yến cư và Hấp
khí, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn ca lâu la vương là Đại
uy đức, Đại thân, Đại mãn và Như ý, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy
thuộc, đều đến tụ tập (12) .
Nhân loại thì có con hoàng hậu Vi
đề hy là hoàng đế A xà thế, cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc, cũng đến
tụ tâp. Tất cả các chúng trên đây, mỗi chúng đảnh lễ ngang chân đức
Thế tôn, rồi lui lại mà ngồi mỗi chúng một chỗ.
Vào lúc này, đức Thế tôn được
bốn chúng vây quanh, hiến cúng, cung kính, tôn trọng, tán dương. Ngài nói
cho các vị bồ tát bản kinh đại thừa tên Nghĩa vô lượng, bản kinh dạy
cho bồ tát và được Phật giữ gìn (13) . Nói kinh ấy rồi, đức Thế tôn
vẫn ngồi xếp bằng ở ngay giữa đại hội mà nhập định Vị trí của
nghĩa vô lượng, thân thể và tâm trí đều không dao động. Ngay khi ấy
chư thiên mưa xuống hoa mạn đà, hoa mạn đà lớn, hoa mạn thù, hoa mạn
thù lớn, rải trên đức Thế tôn và cả đại hội. Khắp cõi Phật (14)
này chấn động đủ cả sáu cách. Trong đại hội, bốn chúng là tỷ kheo
và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di; tám bộ là thiên, long, dạ xoa, càn
thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la dà, toàn là những người
không phải loài người, và các chúng khác mà trong đó có các vị quốc vương
và các vị luân vương, hết thảy các chúng như vậy đều được sự
chưa từng có, hoan hỷ, chắp tay, và chuyên chú chiêm ngưỡng đức Thế tôn.
Còn đức Thế tôn thì từ nơi tướng lông trắng giữa hai đầu của hai hàng
lông mày phóng ra ánh sáng, chiếu soi mười tám ngàn thế giới hệ ở về
hướng đông, không thế giới hệ nào mà không chiếu soi dưới đến Vô
gián ngục trên đến Sắc cứu cánh. Làm cho đại hội ở thế giới hêể
này mà thấy hết chúng sinh trong sáu loài của các thế giới hệ ấy; lại
thấy chư Phật hiện tại của các thế giới hệ ấy, nghe kinh pháp của
chư Phật ấy nói, thấy bốn chúng, những người hành đạo và đắc đạo
trong các thế giới hệ ấy; lại thấy các vị bồ tát đi theo đường đi
của bồ tát bằng các thứ yếu tố, các cách tin hiểu và các loại hình
thức; lại thấy chư Phật nhập diệt, thấy sau đó xá lợi của chư Phật
ấy được đem ra xây dựng những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu
mà tôn thờ.
Bấy giờ đức Di lạc suy nghĩ, hôm
nay đức Thế tôn biểu hiện cảnh tượng thần biến. Vì lý do gì mà có
điềm lành như vậy? Đức Thế tôn đang nhập định, sự thể hiếm có
và ngoài tầm nghĩ bàn được biểu hiện ra đây (15) , ta nên hỏi ai, ai giải
đáp được? Đức Di lạc lại nghĩ, bồ tát Văn thù, vị thái tử của đức
Pháp vương, đã từng thân gần phụng sự vô lượng chư Phật quá khứ, tất
đã thấy được cảnh tượng hiếm có này, vậy ta nên hỏi người. Cùng
lúc, cả bốn chúng, tám bộ và các chúng khác, ai cũng nghĩ rằng, cảnh
tượng thần biến biểu hiện bởi ánh sáng của đức Thế tôn như vầy,
nên đem hỏi ai? Đức Di lạc muốn giải quyết nghi ngờ của mình, lại
xét tâm trí của cả đại hội, nên hỏi bồ tát Văn thù, vì lý do nào
mà có điềm lành ẩ có cảnh tượng thần biến là đức Thế tôn phóng
ánh sáng lớn chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở về hướng đông, làm
cho đại hội ở đây mà thấy hết mọi sự huy hoàng của các cõi Phật
ấy? Đức Di lạc muốn lặp lại ý nghĩa đã hỏi, nên hỏi bồ tát Văn
thù bằng những lời chỉnh cú (16) sau đây.
- (1) Văn thù đại sĩ,
- vì lý do nào
- mà đức Thế tôn,
- vị thầy dẫn đạo,
- từ nơi lông trắng
- giữa hai đầu mày,
- phóng ánh sáng lớn
- chiếu soi khắp cả?
- (2) Chư thiên mưa xuống
- bao nhiêu hoa quí
- mạn đà mạn thù,
- và thổi làn gió
- hơi thơm đàn hương,
- đẹp lòng đại hội.
- (3) Vì vậy mặt đất
- cả quốc độ này
- rực rỡ huy hoàng,
- và cả quốc độ
- đều chấn động lên
- đủ hết sáu cách.
- Làm cho bốn chúng
- hoan hỷ tất cả,
- cơ thể tâm trí
- đều thấy thích thú,
- cảm nhận sự thể
- chưa bao giờ có.
- *
- (4) Chỉ một ánh sáng
- phóng từ lông trắng
- giữa hai đầu mày
- chiếu soi hướng đông,
- mà khiến một vạn
- tám ngàn quốc độ
- đều như màu sắc
- ánh từ vàng ròng.
- (5) Trong các quốc độ
- được chiếu như vậy,
- từ Vô gián ngục
- đến Sắc cứu cánh,
- hết thảy chúng sinh
- thuộc cả sáu loài
- sinh từ loài này
- chết đến loài khác,
- (6) hành vi lành dữ,
- kết quả tốt xấu,
- ở quốc độ này
- mà thấy rõ cả.
- (7) Lại thấy chư Phật,
- chúa của thánh hiền,
- tuyên thuyết kinh pháp
- tinh túy bậc nhất,
- bằng tiếng trong thanh
- xuất lời hòa nhã
- mà dạy bồ tát
- vô số ức vạn.
- (8) Bằng tiếng Phạn thiên
- thâm thúy kỳ diệu
- khiến người thích nghe,
- chư Phật ở nơi
- quốc độ của mình
- diễn giảng chánh pháp,
- vận dụng vô số
- yếu tố, ví dụ,
- soi sáng chánh pháp
- thức tỉnh chúng sinh:
- (9) Ai bị khổ não,
- chán già bịnh chết,
- thì nói cho họ
- về pháp niết bàn,
- để họ diệt tận
- biên cương khổ não.
- (10) Ai có phước đức
- từng hiến cúng Phật,
- chí cầu đạt được
- chân lý cao hơn,
- thì nói cho họ
- về pháp duyên giác.
- (11) Còn các con Phật (17)
- làm mọi hạnh nguyện
- để cầu thành tựu
- tuệ giác vô thượng,
- thì nói cho họ
- tuệ giác trong suốt.
- *
- (12) Văn thù đại sĩ,
- tôi ở nơi đây
- mà thấy và nghe
- đến như thế đó,
- có ngàn ức việc.
- Việc nhiều như vậy
- nay tôi chỉ kể
- một cách vắn tắt.
- (13) Tôi thấy bồ tát
- như cát sông Hằng,
- của trong tất cả
- thế giới hệ ấy,
- đem mọi yếu tố
- cầu tuệ giác Phật (18) .
- (14) Có người thực hành
- hạnh nguyện bố thí:
- bạc, vàng, san hô,
- chân châu, ma ni,
- xa cừ, mã não,
- kim cương, của quí,
- tôi tớ, xe thuyền,
- vật để cỡi chở,
- (15) xe liễn, xe dư (19)
- trang hoàng vàng ngọc,
- cũng rất hoan hỷ
- mà đem hiến cho,
- rồi hồi hướng cả
- về nơi trí Phật,
- (16) nguyện được xe Phật (20) ,
- cỗ xe bậc nhất
- trong cả ba cõi,
- được Phật tán dương.
- (17) Hoặc có bồ tát
- cho xe quí báu
- kéo bởi bốn ngựa,
- lại có lan can
- mui trần hoa myՠ(21)
- mái riềm trang hoàng.
- (18) Lại thấy bồ tát
- cho thân cho thịt
- cho tay cho chân
- cho cả vợ con,
- quyết chí đạt đến
- tuệ giác vô thượng.
- (19) Lại thấy bồ tát
- cho đầu cho mắt
- cho cả thân thể -
- cho mà vui thích,
- để cầu thành tựu
- tuệ giác Phật đà.
- (20) Văn thù đại sĩ,
- tôi thấy vua chúa
- đi đến chỗ Phật
- hỏi pháp vô thượng,
- rồi từ bỏ liền
- đất nước thịnh vượng,
- bỏ cả cung điện
- đình thần hậu phi,
- (21) cạo sạch râu tóc
- mà mặc pháp y.
- (22) Hoặc thấy bồ tát
- mà làm tỷ kheo,
- chỉ ở một mình
- nơi chỗ thanh vắng,
- vui vẻ thích thú
- đọc tụng kinh điển.
- (23) Lại thấy bồ tát
- dũng mãnh tinh tiến,
- vào chốn núi sâu
- suy nghĩ trí Phật.
- (24) Lại thấy bồ tát
- tách rời dục vọng,
- thường xuyên trú ở
- những chỗ trống vắng,
- tu sâu thiền định
- được năm thần thông.
- (25) Lại thấy bồ tát
- chân đứng vững vàng
- tư tưởng tập trung
- hai tay chắp lại,
- đem cả ngàn vạn
- bài văn chỉnh cú
- hoan hỷ ca tụng
- các đấng Pháp vương.
- (26) Lại thấy bồ tát
- trí sâu, nhớ chắc,
- có thể thưa hỏi
- chánh pháp nơi Phật,
- nghe rồi tiếp nhận
- ghi nhớ đủ cả.
- (27) Lại thấy con Phật
- đủ cả định tuệ,
- áp dụng vô số
- mọi sự ví dụ,
- diễn giảng chánh pháp
- cho các chúng khác;
- (28) lại vui thuyết pháp
- giáo hóa bồ tát,
- chiến thắng ma vương
- và binh đội nó,
- rồi gióng lớn lên
- tiếng trống chánh pháp.
- (29) Lại thấy bồ tát
- vắng bặt im lặng,
- trời rồng cung kính
- không lấy làm mừng.
- (30) Lại thấy bồ tát
- ở trong núi rừng
- mà phóng ánh sáng
- cứu khổ địa ngục,
- thức tỉnh cho họ
- hướng vào trí Phật.
- *
- (31) Lại thấy con Phật
- chưa từng ngủ nghỉ,
- kinh hành (22) trong rừng
- siêng cầu trí Phật.
- (32) Lại thấy có vị
- giới pháp đầy đủ,
- uy nghi vẹn toàn,
- sạch sẽ trong suốt
- in như ngọc quí
- để cầu trí Phật.
- (33) Lại thấy con Phật
- trụ vào sức nhẫn,
- bao kẻ thượng mạn (23)
- mắng nhiếc đánh đập
- vẫn nhẫn được cả
- để cầu trí Phật.
- (34) Lại thấy bồ tát
- từ bỏ trò chơi,
- bỏ luôn những kẻ
- thân thuộc ngu dốt,
- chỉ biết thân gần
- những người thánh trí,
- (35) chuyên nhất tâm ý
- trừ bỏ loạn động,
- trú ở núi rừng
- tập trung tư tưởng,
- trải qua ức vạn
- những năm như vậy
- để cầu thành tựu
- tuệ giác Phật đà.
- (36) Hoặc thấy bồ tát
- cỗ bàn quí trọng,
- thức uống, đồ ăn,
- các loại dược phẩm,
- đều đem hiến cúng
- Phật bảo Tăng bảo.
- (37) Y phục danh tiếng
- và thượng hảo hạng,
- giá trị ngàn vạn
- hoặc đến vô giá,
- đều đem hiến cúng
- Phật bảo Tăng bảo.
- (38) Nhà cửa quí báu
- bằng gỗ đàn hương,
- trong đó đồ nằm
- rất tốt và đẹp,
- nhà và đồ ấy
- nhiều đến vạn ức,
- đều đem hiến cúng
- Phật bảo Tăng bảo.
- (39) Vườn rừng quang đãng,
- trong đó đủ cả
- hoa trái tốt nhiều,
- suối chảy ao tắm,
- đều đem hiến cúng
- Phật bảo Tăng bảo.
- (40) Đồng đẳng như vậy,
- họ đem hiến cúng
- đủ hết những thứ
- rất là tinh tế,
- mà lòng hoan lạc
- không biết nhàm chán,
- chí quyết đạt đến
- tuệ giác vô thượng.
- (41) Hoặc có bồ tát
- bằng nhiều minh chứng,
- nói về nguyên lý
- tuyệt đối vắng lặng (24) ,
- huấn dụ vô số
- các loại chúng sinh.
- (42) Hoặc thấy bồ tát
- xét thấy bản thể
- tất cả vạn hữu
- in như hư không:
- không những khái niệm
- đối kháng lẫn nhau.
- Lại thấy con Phật
- tâm không vướng mắc,
- đem tuệ mầu này
- cầu tuệ vô thượng (25) .
- *
- (43) Văn thù đại sĩ,
- có những bồ tát
- Phật nhập diệt rồi
- hiến cúng xá lợi.
- (44) Lại thấy con Phật
- dựng bao chùa tháp
- nhiều bằng Hằng sa
- tô điểm quốc độ.
- (45) Tháp thì tráng lệ,
- làm bằng bảy báu,
- chiều cao có đến
- năm ngàn do tuần,
- chu vi rộng đến
- hai ngàn do tuần.
- (46) Mỗi một chùa tháp
- cờ phướn cả ngàn,
- màn được kết ngọc (26) ,
- chuông nhỏ hòa reo,
- tám bộ thiên long,
- loài người loài khác,
- thường đem hiến cúng
- hoa hương, kịch nhạc (27) .
- (47) Văn thù đại sĩ,
- những con Phật ấy
- chính vì hiến cúng
- xá lợi của Phật
- mà cố trang hoàng
- những ngôi chùa tháp,
- nên cả quốc độ
- tự nhiên tráng lệ
- tuyệt diệu tuyệt hảo,
- in như cây chúa
- của trời Đế thích
- toàn bộ nở hoa.
- *
- (48) Thế tôn chỉ phóng
- một đường ánh sáng
- mà làm cho tôi
- và cả đại hội
- thấy quốc độ này
- đủ mọi vẻ đẹp.
- (49) Những thần thông lực
- và trí tuệ lực
- của đức Thế tôn
- thật là hiếm có:
- chỉ phóng một đường
- ánh sáng rực rỡ
- mà chiếu khắp cả
- vô lượng quốc độ.
- (50) Làm cho chúng tôi
- nhìn cảnh tượng này
- ai cũng cảm được
- sự chưa từng có.
- Phật tử Văn thù,
- xin hãy giải thích
- cho nỗi nghi ngờ
- của cả đại hội.
- (51) Tất cả bốn chúng
- thích thú trông ngóng,
- nhìn vào nhân giả
- và nhìn vào tôi.
- (52) Ai cũng muốn biết
- tại sao Thế tôn
- phóng ra ánh sáng
- đến như thế này?
- (53) Phật tử Văn thù,
- hãy đáp ứng gấp,
- giải tỏa nghi ngờ
- cho họ hoan hỷ:
- vì ích lợi nào
- mà đức Thế tôn
- phóng ra ánh sáng
- đến như thế này -
- (54) Chánh pháp tinh túy
- mà đức Thế tôn
- đã chứng ngộ được
- trong khi mới ngồi
- nơi bồ đề tràng,
- ngài muốn tuyên thuyết
- về chánh pháp ấy,
- hay muốn thọ ký (28) ?
- (55) Ánh sáng Thế tôn
- đã làm hiện ra
- cho chúng tôi thấy
- bao nhiêu cõi Phật
- đẹp và sáng lên
- với những ngọc quí,
- lại được thấy cả
- chư vị Phật đà,
- thì đó không phải
- là sự kiện nhỏ.
- (56) Văn thù đại sĩ,
- nên biết tất cả
- bốn chúng tám bộ
- và các chúng khác,
- nhìn xem nhân giả
- nói cho thế nào?
Lúc ấy bồ tát Văn thù nói với
đức Di lạc, và các vị đại sĩ khác, chư vị Thiện nam tử, theo tôi suy
xét thì đức Thế tôn hiện nay muốn nói chánh pháp vĩ đại, đổ mưa chánh
pháp vĩ đại, thổi loa chánh pháp vĩ đại, đánh trống chánh pháp vĩ đại,
diễn nghĩa chánh pháp vĩ đại. Chư vị Thiện nam tử, nơi chư Phật quá
khứ, tôi đã từng thấy điềm lành như vậy. Các ngài phóng ra ánh sáng
này rồi là nói về chánh pháp vĩ đại. Do đó, chư vị nên biết, đức
Thế tôn hiện nay phóng ra ánh sáng thì cũng sẽ làm như vâểy. Muốn làm
cho chúng sinh ai cũng nghe biết được cái pháp mà cả thế gian đều khó
tin, nên đức Thế tôn biểu hiện điềm lành như vầy.
Chư vị Thiện nam tử, như trong quá
khứ, lâu đến vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn vô số thời kỳ
(29) , bấy giờ có đức Phật danh hiệu Nhật nguyệt đăng minh, đủ mười
đức hiệu: bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết
đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải
vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả
trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời (30) . Ngài
tuyên thuyết chánh pháp một cách phần đầu phần giữa phần cuối ba phần
đều tuyệt hảo, nghĩa lý sâu xa, lời tiếng tuyệt diệu, thuần nhất
không tạp, đủ hết sắc thái phạn hạnh (31) trắng trong. Ấy là người
cầu Thanh văn thì nói mà đáp ứng bằng bốn chân lý, để họ vượt qua
sinh già bịnh chết, cứu cánh niết bàn; người cầu Duyên giác thì nói
mà đáp ứng bằng mười hai duyên khởi; còn các vị Bồ tát thì nói mà
đáp ứng bằng sáu ba la mật, làm cho họ được tuệ giác vô thượng,
nghĩa là thành bậc Tuệ giác biết tất cả (32) .
Kế đó lại có đức Phật cũng tên
Nhật nguyệt đăng minh, kế đó nữa lại có đức Phật cũng tên Nhật
nguyệt đăng minh. Như vậy có hai mươi ngàn đức Phật đều cùng một
tên, tên Nhật nguyệt đăng minh, và cùng một họ, họ Phả la đọa. Di lạc
đại sĩ, đại sĩ nên biết, đức Phật đầu tiên cũng như đức Phật cuối
cùng đều cùng một tên Nhật nguyệt đăng minh, cùng đủ mười đức hiệu,
và pháp mà các ngài tuyên thuyết cũng phần đầu phần giữa phần cuối
ba phần đều tuyệt hảo. Đức Phật cuối cùng, khi chưa xuất gia, có tám
vương tử, thứ nhất tên Hữu ý, thứ hai tên Thiện ý, thứ ba tên Vô lượng
ý, thứ tư tên Bảo ý, thứ năm tên Tăng ý, thứ sáu tên Trừ nghi ý, thứ
bảy tên Hướng ý, thứ tám tên Pháp ý. Cả tám vương tử đều uy đức
tự tại, thống lãnh bốn đại lục (33) . Khi nghe phụ hoàng xuất gia,
thành tựu tuệ giác vô thượng, thì tám vương tử ấy cùng bỏ ngôi vua
mà xuất gia theo, phát tâm đại thừa, thường hành phạn hạnh, và cùng
làm pháp sư, vì đã từng gieo trồng các gốc rễ điều lành ở nơi ngàn
vạn đức Phật. Bấy giờ đức Phật Nhật nguyệt đăng minh cũng đã nói
bản kinh đại thừa tên Nghĩa vô lượng, bản kinh dạy cho bồ tát và được
Phật giữ gìn. Nói kinh ấy rồi, đức Phật ấy cũng đã ở ngay giữa đại
hội mà ngồi xếp bằng, nhập định Vị trí của nghĩa vô lượng, thân
thể và tâm trí đều không dao động. Lúc ấy chư thiên cũng mưa xuống
hoa mạn đà, hoa mạn đà lớn, hoa mạn thù, hoa mạn thù lớn, rải trên đức
Phật và cả đại hội. Khắp cõi Phật này cũng chấn động đủ hết sáu
cách. Trong đại hội, bốn chúng, tám bộ và các chúng khác, hết thảy
các chúng như vậy cũng được sự chưa từng có, hoan hỷ, chắp tay,
chuyên chú mà chiêm ngưỡng đức Phật. Còn đức Phật thì cũng từ nơi
tướng lông trắng giữa hai đầu của hai hàng lông mày phóng ra ánh sáng,
chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở về hướng đông, không cõi Phật
nào mà không chiếu soi khắp cả, y như những cõi Phật mà ngày nay chư vị
đang thấy.
Di lạc đại sĩ, đại sĩ nên biết,
trong đại hội lúc ấy có hai mươi ức bồ tát ưa thích nghe pháp. Các vị
bồ tát này thấy ánh sáng của Phật chiếu khắp các cõi Phật như vậy
thì cũng được sự chưa từng có, và cũng muốn biết mục đích của ánh
sáng ấy. Bấy giờ có một vị bồ tát tên là Diệu quang, có tám trăm đệ
tử. Đức Phật Nhật nguyệt đăng minh xuất định, nhân bồ tát Diệu
quang mà nói bản kinh đại thừa tên Diệu pháp liên hoa, bản kinh dạy cho
bồ tát và được Phật giữ gìn. Ngài nói đến sáu mươi thời kỳ bậc
nhỏ (34) , không đứng dậy khỏi pháp tòa. Đại hội thính giả lúc ấy cũng
ngồi một chỗ, trải qua sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ mà thân thể và
tâm trí đều bất động, nghe đức Phật nói thì cho rằng chỉ bằng thì
gian một bữa ăn. Cả đại hội không một ai mà thân thể hay tâm trí sinh
nhác sinh mệt. Đức Phật Nhật nguyệt đăng minh nói kinh Pháp hoa trong sáu
mươi thời kỳ bậc nhỏ rồi, liền ở giữa đại hội các chúng phạn vương,
ma vương, sa môn, bà la môn, và chư thiên, nhân loại, tu la, tuyên ngôn rằng
giữa đêm hôm nay Như lai sẽ nhập niết bàn hoàn toàn (35) . Bấy giờ có
bồ tát tên Đức tạng, đức Phật Nhật nguyệt đăng minh liền thọ ký
cho, bằng cách nói với chư vị tỷ kheo, rằng vị bồ tát Đức tạng này
sẽ kế tiếp làm Phật, danh hiệu Tịnh thân, bậc Đến như chư Phật, bậc
Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp (36) . Thọ ký rồi, ngay giữa
đêm ấy, đức Phật nhập niết bàn hoàn toàn. Sau đó bồ tát Diệu quang
ghi nhớ Pháp hoa, diễn giảng cho người trọn tám mươi thời kỳ bậc nhỏ.
Tám vương tử con đức Phật Nhật nguyệt đăng minh đều tôn thờ bồ
tát Diệu quang làm thầy, bồ tát ấy giáo hóa, làm cho tám vương tử vững
chắc đối với tuệ giác vô thượng. Tám vương tử, sau đó, hiến cúng
vô lượng trăm ngàn vạn ức đức Phật rồi, được thành Phật cả, và
vị thành Phật cuối cùng danh hiệu là Nhiên đăng. Trong tám trăm đệ tử
của bồ tát Diệu quang, có một vị tên là Cầu danh, đam mê danh lợi, dẫu
cũng đọc tụng kinh pháp mà không thông suốt, phần nhiều quên mất, nên
mới có cái tên Cầu danh. Nhưng vị này cũng nhờ sự gieo trồng các gốc
rễ điều lành mà được gặp vô lượng trăm ngàn vạn ức đức Phật,
hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương. Di lạc đại sĩ, đại sĩ nên
biết bồ tát Diệu quang lúc ấy đâu phải ai khác, mà chính là tôi đây,
còn bồ tát Cầu danh thì chính là đại sĩ (37) . Ngày nay thấy điềm lành
như vầy so với ngày xưa không khác gì cả, nên tôi nghĩ rằng đức Thế
tôn hiện nay sẽ tuyên thuyết về bản kinh đại thừa tên là Pháp hoa, bản
kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn.
Lúc ấy, ở giữa đại hội, bồ tát
Văn thù muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau
đây.
- (57) Tôi nhớ quá khứ
- vô số thời kỳ,
- có đức Phật đà,
- bậc tôn cao nhất,
- danh hiệu ngài là
- Nhật nguyệt đăng minh.
- (58) Đức Phật đà ấy
- tuyên thuyết chánh pháp
- hóa độ vô lượng
- các loại chúng sinh,
- và vô số ức
- các vị bồ tát,
- làm cho vào được
- tuệ giác Phật đà.
- (59) Có tám vương tử
- con của Phật sinh
- lúc chưa xuất gia,
- thấy Phật xuất gia
- cũng xuất gia theo
- thực hành phạn hạnh.
- (60) Bấy giờ Phật nói
- bản kinh đại thừa
- tên Nghĩa vô lượng,
- giảng giải rộng rãi
- nghĩa lý vô lượng
- cho cả đại hội.
- (61) Phật tuyên thuyết xong
- bản kinh ấy rồi,
- liền ngồi xếp bằng
- ngay trên pháp tòa,
- nhập định Vị trí
- của nghĩa vô lượng.
- (62) Chư thiên mưa xuống
- hoa mạn đà la,
- và trống chư thiên
- tự kêu vang rền;
- tám bộ thiên long
- dùng hoa trống ấy
- hiến cúng lên bậc
- tôn cao nhất người.
- (63) Toàn cõi Phật này (38)
- đồng thời chấn động.
- Và rồi đức Phật
- phóng ra ánh sáng
- từ nơi lông trắng
- giữa hai đầu mày,
- biểu hiện đủ cả
- cảnh tượng hiếm có.
- *
- (64) Ánh sáng như vậy
- chiếu soi một vạn
- tám ngàn cõi Phật
- ở về hướng đông,
- biểu hiện cho thấy
- tất cả những chỗ
- các loại chúng sinh
- sinh ra chết đi,
- hành động lành dữ,
- hưởng chịu tốt xấu.
- (65) Lại được nhìn thấy
- có những cõi Phật
- toàn thể trang hoàng
- bằng bao vàng ngọc,
- ánh lên màu sắc
- lưu ly pha lê;
- đại hội thấy được
- đến như thế này
- là do ánh sáng
- của Phật chiếu soi.
- (66) Lại thấy tất cả
- tám bộ thiên long
- cùng với nhân loại
- tại mỗi quốc độ
- cùng nhau hiến cúng
- đức Phật của mình.
- (67) Lại thấy chư Phật
- tự thành Phật tuệ,
- thân như núi vàng
- cực kỳ tráng lệ.
- Các ngài ở giữa
- đại hội thánh hiền
- diễn giảng nghĩa ý
- của pháp sâu xa,
- thì trông giống như
- những tượng vàng thật
- hiện trong các khối
- lưu ly trong suốt.
- (68) Trong mỗi cõi Phật,
- thanh văn vô số,
- cũng nhờ ánh sáng
- của Phật chiếu soi
- mà thấy rõ cả
- chúng thanh văn ấy.
- (69) Thấy chư tỷ kheo
- ở trong núi rừng,
- tinh tiến giữ giới
- như giữ ngọc sáng.
- (70) Lại thấy bồ tát
- nỗ lực bố thí
- kiên trì nhẫn nhục,
- số bồ tát ấy
- nhiều như hằng sa
- mà thấy được cả,
- là do ánh sáng
- của Phật chiếu soi.
- (71) Thấy các bồ tát
- tinh tiến nhập định
- một cách sâu xa,
- thân tâm bất động,
- đem thiền định ấy
- cầu trí vô thượng.
- (72) Thấy các bồ tát
- biết rất thấu suốt
- thật tướng vắng lặng (39)
- của tất cả pháp,
- thuyết thật tướng ấy
- nơi quốc độ mình,
- đem bát nhã này
- cầu thành trí Phật.
- (73) Bấy giờ bốn chúng
- được thấy đức Phật
- Nhật nguyệt đăng minh
- biểu hiện thần lực
- đến như thế ấy,
- lòng họ hoan hỷ
- và cùng hỏi nhau,
- rằng cảnh tượng này
- vì lý do nào
- mà Phật biểu hiện?
- *
- (74) Khi ấy đức Phật,
- đấng mà trời người
- ai cũng tôn thờ,
- vừa mới xuất định,
- tức thì khen ngợi
- bồ tát Diệu quang:
- (75) Ông là con mắt
- của cả thế gian!
- Ai cũng qui về
- tin tưởng nơi ông!
- Ông kính giữ được
- kho tàng chánh pháp!
- Kho tàng chánh pháp
- mà rồi Như lai
- sẽ nói hết ra,
- chỉ ông chứng biết!
- (76) Đức Phật khen ngợi
- làm cho bồ tát
- Diệu quang hoan hỷ,
- rồi nói Pháp hoa
- suốt hết sáu mươi
- thời kỳ bậc nhỏ.
- (77) Và pháp tối thượng
- tuyệt diệu như vậy
- được Phật tuyên thuyết
- mà không đứng dậy
- rời khỏi pháp tòa,
- pháp sư Diệu quang
- vẫn tiếp nhận được
- và ghi nhớ cả.
- (78) Đức Phật tuyên thuyết
- về kinh Pháp hoa
- làm cho các chúng
- hoan hỷ cả rồi,
- liền trong ngày ấy
- ngài bảo các chúng:
- (79) Thật tướng các pháp
- Như lai đã đem
- nói cho các người.
- Giữa đêm hôm nay
- Như lai sẽ nhập
- niết bàn hoàn toàn.
- (80) Các người cần phải
- một lòng tinh tiến
- chuyên chú vào pháp
- Như lai đã nói,
- còn sự phóng dật
- nên tránh thật xa;
- vì lẽ chư Phật
- rất là khó gặp,
- vạn ức thời kỳ
- mới thấy một lần.
- (81) Đệ tử của Phật
- nghe Phật loan báo
- sắp sửa nhập diệt,
- ai cũng đau buồn
- nghĩ Phật nhập diệt
- sao mà mau chóng.
- (82) Vị chúa thánh triết
- và vua các pháp
- an ủi các chúng:
- sau khi Như lai
- nhập niết bàn rồi
- các người đừng lo.
- (83) Bồ tát Đức tạng
- tâm trí thấu triệt
- thật tướng thuần khiết (40) ,
- sẽ kế Như lai
- thành đức Phật đà
- danh hiệu Tịnh thân,
- và cũng hóa độ
- vô lượng các chúng.
- (84) Rồi giữa đêm ấy
- đức Phật nhập diệt
- như củi mà hết
- thì lửa cũng tắt.
- Sau đó xá lợi
- được phân bủa ra
- và xây dựng lên
- vô số bảo tháp.
- (85) Chư vị tỷ kheo
- và tỷ kheo ni
- số lượng nhiều đến
- như cát sông Hằng,
- lại càng nỗ lực
- tinh tiến hơn lên
- để cầu đạt được
- tuệ giác vô thượng.
- *
- (86) Phần ngài Diệu quang,
- pháp sư bồ tát,
- kính giữ kho tàng
- chánh pháp của Phật,
- trải qua tám mươi
- thời kỳ bậc nhỏ
- tuyên thuyết rộng rãi
- Diệu pháp liên hoa.
- (87) Còn tám vương tử
- thì nhờ bồ tát
- Diệu quang khai hóa,
- tất cả đều được
- vững chắc đối với
- tuệ giác vô thượng,
- nên sau gặp được
- vô số Phật đà.
- (88) Các vị phụng sự
- chư Phật như vậy,
- cùng nhau đi theo
- con đường vĩ đại (41) ,
- nên kế tiếp nhau
- được thành Phật cả,
- và theo thứ tự
- thọ ký cho nhau.
- (89) Đức Phật cuối cùng,
- vị trời nhất trời,
- danh hiệu ngài là
- Nhiên đăng như lai,
- bậc thầy dẫn đạo
- các vị hiền triết,
- độ cho giải thoát
- vô số các chúng.
- (90) Pháp sư Diệu quang
- có một đệ tử
- tính thường biếng nhác
- đam mê danh lợi,
- (91) cầu hồ danh lợi
- một cách không chán,
- nên hay giao du
- với nhà dòng dõi,
- bỏ bê kinh pháp
- đã được tụng tập,
- nên hay quên mất
- chứ không thông suốt.
- (92) Vì lý do ấy
- có tên Cầu danh.
- (93) Nhưng cũng thực hành
- đủ các pháp lành,
- gặp được vô số
- chư vị Phật đà,
- phụng sự hiến cúng
- Phật đà như vậy
- và cũng đi theo
- con đường vĩ đại,
- hoàn thiện sáu pháp
- đến bờ bên kia,
- nên nay lại gặp
- Sư tử họ Thích.
- (94) Thì gian sau ngài,
- sẽ kế làm Phật
- với danh hiệu là
- Di lạc từ tôn,
- cứu độ rộng rãi
- các loại chúng sinh
- mà số lượng ấy
- không thể tính kể.
- *
- (95) Sau khi đức Phật
- Nhật nguyệt đăng minh
- nhập niết bàn rồi,
- người hay biếng nhác
- chính là đại sĩ,
- còn vị pháp sư
- bồ tát Diệu quang
- là bản thân tôi.
- (96) Chính tôi xưa kia
- ở nơi đức Phật
- Nhật nguyệt đăng minh
- đã từng thấy được
- điềm lành ánh sáng
- như tôi vừa nói.
- (97) Vì vậy tôi biết
- Thế tôn ngày nay
- chủ ý muốn nói
- về kinh Pháp hoa.
- (98) Cảnh tượng hiện nay
- giống điềm lành cũ,
- và là phương tiện
- của chư Thế tôn:
- Thế tôn ngày nay
- phóng ánh sáng lớn
- là để hỗ trợ
- phát hiện thật tướng (42) .
- (99) Chư vị nên biết
- chủ ý như vậy,
- và hãy chắp tay
- nhất tâm mà chờ.
- Thế tôn sẽ đổ
- nước mưa chánh pháp,
- sung túc những người
- cầu tuệ giác Phật.
- (100) Tất cả những người
- cầu ba cỗ xe
- nếu có điều gì
- hoài nghi hối tiếc,
- thì vị Toàn giác
- sẽ giải trừ cho -
- giải trừ sạch hết,
- không còn sót lại.
Phẩm 2: Phương
Tiện (43)
Khi ấy đức Thế tôn thung dung xuất
định, nói với tôn giả Xá lợi phất, tuệ giác Như lai sâu xa vô tận, cửa
ngõ tuệ giác ấy khó biết khó vào. Hết thảy thanh văn duyên giác không
thể biết thấu. Vì sao, vì Như lai đã từng thân gần trăm ngàn vạn ức
vô số chư Phật, thực hành trọn vẹn vô số các pháp đạt đến tuệ giác
vô thượng (44) mà chư Phật ấy đã thực hành, dũng mãnh tinh tiến, danh
tiếng vang khắp, và thành tựu sự chưa từng có rất là sâu xa, ấy là
tùy nghi thuyết pháp, ý hướng khó hiểu. Xá lợi phất, từ khi trở thành
bậc Toàn giác cho đến ngày nay, Như lai đem mọi thứ yếu tố và mọi sự
ví dụ mà diễn rọẤng các cách lập luận, vận dụng vô số phương tiện
ấy dẫn dắt chúng sinh thoát được sự vướng mắc vào điểm này hay điểm
khác. Tại sao Như lai làm được như vậy? Vì Như lai đã hoàn thành sự thấy
biết toàn hảo và sự phương tiện toàn hảo. Xá lợi phất, sự thấy biết
của Như lai rộng lớn sâu xa: những phẩm chất của sự thấy biết ấy
đại loại như bốn tâm vô hạn, bốn trí thông suốt, mười đại năng lực,
bốn sự không sợ, bốn thiền, bốn định, tám sự giải thoát, ba pháp
tam muội (45) , Như lai đã đi sâu vào một cách không có giới hạn, nên
thành tựu sự chưa từng có nói trên. Do đó, Xá lợi phất, Như lai phân
tích và khéo nói các pháp, lời chữ hòa nhã, đẹp lòng mọi người. Lấy
cốt yếu mà nói, thì sự chưa từng có có tính cách vô lượng vô biên,
Như lai đã thành tựu đầy đủ.
Xá lợi phất, thôi, không nên nói
nữa, vì sự chưa từng có, và khó hiểu bậc nhất ấy, mà Như lai đã
thành tựu, là chỉ Như lai với chư vị Như lai mới cứu xét cùng tận và
tuyên thuyết khéo léo về thật tướng các pháp. Thật tướng ấy là các
pháp tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như
vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, bản mạt
cứu cánh như vậy (46) .
Khi ấy đức Thế tôn muốn lặp lại
ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (1) Vô lượng những bậc
- anh hùng trong đời,
- chư thiên nhân loại
- hết thảy chúng sinh,
- không ai hiểu thấu
- đối với Như lai.
- (2) Mười đại năng lực
- bốn sự không sợ
- tám sự giải thoát
- ba pháp tam muội
- cùng với bao nhiêu
- phẩm chất Phật đà
- mà Như lai có,
- thì không một ai
- có thể biết được
- một cách tận cùng.
- (3) Vốn từ vô số
- chư Phật như lai,
- Như lai trọn vẹn
- thực hành các pháp
- tuệ giác vô thượng,
- là pháp cực kỳ
- sâu xa tinh túy
- khó mà thấy biết.
- (4) Trải qua vô lượng
- vạn ức thời kỳ,
- thực hành trọn vẹn
- các pháp ấy rồi,
- Như lai đến ngồi
- nơi bồ đề tràng,
- được đại thành quả
- biết rõ tất cả.
- (5) Đại thành quả này
- biết rõ tướng tánh
- và những nghĩa lý
- của tướng tánh ấy (47) .
- Chỉ có Như lai
- cùng với mười phương
- chư Như lai khác
- mới biết như vậy.
- (6) Và pháp như vậy
- không thể phô bày,
- khái niệm ngôn ngữ
- bặt dấu ở đây.
- (7) Hết thảy chúng sinh
- không ai hiểu nổi
- trừ chư bồ tát
- đức tin vững chắc.
- (8) Những con Phật khác
- dẫu từng hiến cúng
- chư Phật như lai,
- phiền não đã hết,
- đã đến trạng thái
- thân này là thân
- sống chết cuối cùng,
- các vị như vậy
- năng lực của họ
- cũng vẫn bất kham.
- (9) Giả sử tràn đầy
- thế giới loài người
- ai nấy đều như
- Xá lợi phất cả,
- cùng tận tư duy
- chung nhau suy lường,
- cũng không lường được
- tuệ giác Như lai.
- (10) Nếu thật đầy khắp
- mười phương quốc độ
- ai nấy đều như
- Xá lợi phất cả,
- hoặc như các vị
- đại đệ tử khác
- cũng đầy khắp cả
- mười phương quốc độ,
- (11) cùng tận tư duy
- chung nhau suy lường,
- vẫn không biết được
- tuệ giác Như lai.
- (12) Các vị duyên giác
- trí tuệ lanh lợi
- phiền não không còn,
- thân họ cũng là
- cái thân cuối cùng;
- các vị như vậy
- cũng đầy mười phương
- như một rừng tre,
- (13) cùng nhau một lòng,
- trải qua vô lượng
- vạn ức thời kỳ,
- suy nghĩ cho thấu
- tuệ giác chân thật
- mà Như lai có,
- cũng vẫn không thể
- biết được ít phần.
- (14) Các vị bồ tát
- mới phát tâm chí,
- hiến cúng vô số
- chư Phật như lai,
- thấu triệt pháp nghĩa
- lại khéo thuyết pháp;
- (15) các vị như vậy
- như lúa như tre,
- tràn đầy khắp cả
- mười phương quốc độ,
- (16) kết hợp vận dụng
- trí tuệ tinh tế,
- trải qua thời kỳ
- nhiều bằng hằng sa,
- chung sức tư duy
- chung nhau ước lượng,
- cũng không biết được
- tuệ giác Như lai.
- (17) Các vị bồ tát
- đã không thoái chuyển,
- số lượng nhiều bằng
- cát của sông Hằng,
- cùng nhau tìm xét
- cũng không biết được.
- (18) Này Xá lợi phất,
- cái pháp cực kỳ
- sâu xa, tinh túy,
- không còn sai sót,
- ngoài tầm nghĩ bàn,
- Như lai đã biết
- một cách đầy đủ.
- Và chỉ Như lai
- mới biết pháp ấy,
- cũng như chư vị
- Như lai mười phương
- mới biết như vậy.
- (19) Này Xá lợi phất,
- tôn giả nên biết
- lời Như lai nói
- không có mâu thuẫn.
- Đối với cái pháp
- của Như lai nói,
- các người phải có
- đức tin lớn lao.
- Bởi vì nguyên tắc
- của chư Như lai
- sau thì gian dài
- phải nói sự thật.
- (20) Cho nên ngày nay
- Như lai tuyên cáo
- với chư thanh văn
- và chư duyên giác,
- những người đã được
- Như lai làm cho
- thoát khổ thắt buộc
- đạt được niết bàn,
- (21) rằng đó chỉ là
- Như lai vận dụng
- năng lực phương tiện
- thiết ba cỗ xe,
- để ai vướng mắc
- bất cứ chỗ nào
- Như lai cũng dắt
- cho được thoát ra.
Lúc ấy trong đại hội có một
ngàn hai trăm vị a la hán đã hết phiền não, thuộc chúng thanh văn, đại
loại như tôn giả Kiều trần như, cùng tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc
và ưu bà di, những người tâm chí thanh văn duyên giác, đều nghĩ như vầy,
tại sao hôm nay đức Thế tôn ân cần tán dương sự phương tiện, bằng cách
nói rằng pháp Như lai được cực kỳ sâu xa tinh túy và khó hiểu, rằng
Như lai nói gì ý hướng cũng khó biết, rằng hết thảy thanh văn duyên
giác không thể đạt đến? Đức Thế tôn nói về sự giải thoát đồng
nhất thì chúng ta cũng thành tựu sự ấy, đạt đến niết bàn. Nhưng hôm
nay thì chúng ta không biết sự ấy về đâu.
Tôn giả Xá lợi phất biết nỗi
hoài nghi trong lòng bốn chúng và chính mình cũng chưa thấu triệt, nên thưa
rằng, bạch đức Thế tôn, vì yếu tố chính và yếu tố phụ nào mà đức
Thế tôn ân cần tán dương sự phương tiện bậc nhất của ngài là pháp
sâu xa, tinh túy và khó hiểu? Hồi nào đến giờ con chưa hề nghe đức Thế
tôn nói như vậy. Hiêển giờ bốn chúng đều nghi ngại. Con thỉnh cầu đức
Thế tôn giải thích vấn đề này cho chúng con: vì lý do nào mà ngài ân cần
tán dương sự phương tiện của ngài là sâu xa, tinh túy và khó hiểu? Tôn
giả Xá lợi phất muốn lặp lại ý nghĩa đã hỏi, nên nói những lời chỉnh
cú sau đây.
- (22) Mặt trời tuệ giác,
- bậc đại thánh triết,
- lâu rồi mới nói
- điều đặc biệt này.
- Là ngài tự nói (48)
- bao nhiêu phẩm chất
- mà Như lai có,
- đại loại như là
- mười đại năng lực
- bốn sự không sợ
- ba pháp tam muội
- bốn thiền bốn định
- tám sự giải thoát,
- toàn là những pháp
- trên sự tư duy
- ngoài tầm thảo luận.
- (23) Ngài tự nói đến
- pháp mà ngài biết
- trong khi ngài ngồi
- nơi bồ đề tràng,
- chứ không một ai
- có thể hỏi thấu.
- Ngài lại tự nói
- ý ngài khó biết,
- điều này cũng không
- một ai hỏi được.
- (24) Không ai hỏi được,
- chỉ ngài tự nói,
- tán dương con đường
- mà ngài đã đi,
- tán dương tuệ giác
- cực kỳ tinh túy
- mà, như chư Phật,
- ngài đã đạt được.
- (25) Các vị la hán
- đã hết phiền não,
- cùng với những vị
- cầu được niết bàn,
- hôm nay cùng sa
- vào lưới ngờ vực:
- Thế tôn vì gì
- tự nói như vậy?
- (26) Những vị cầu được
- tuệ giác duyên giác,
- các vị tỷ kheo
- và tỷ kheo ni,
- cùng với tất cả
- tám bộ thiên long,
- ai cũng bối rối
- mà nhìn lẫn nhau
- và nhìn lên ngài,
- một bậc hoàn hảo
- cả hai phương diện
- phước đức tuệ giác.
- (27) Bạch đức Thế tôn,
- việc này thế nào?
- xin ngài giải thích
- cho chúng con rõ.
- (28) Trong chúng thanh văn,
- Thế tôn nói con
- là bậc thứ nhất,
- nhưng nay chính con
- tự mình đối với
- tuệ giác của mình
- cũng sinh nghi hoặc:
- không rõ tuệ ấy
- đã là cứu cánh
- hay phải tới nữa (49) ?
- (29) Bao nhiêu con Phật
- sinh từ miệng Phật
- nay đang chắp tay
- ngước nhìn chờ đợi,
- ước mong Thế tôn
- xuất ra âm thanh
- cực kỳ tuyệt diệu,
- kịp thời nói cho
- về pháp của ngài
- đúng như pháp ấy.
- (30) Tám bộ thiên long
- số bằng hằng sa,
- chư vị bồ tát
- cầu tuệ giác Phật
- số lượng đại khái
- cũng có tám vạn,
- (31) Lại còn xuất từ
- vạn ức các nước,
- các vị luân vương
- cùng nhau đến đây,
- ai cũng chắp tay
- đem lòng cung kính
- mong muốn được nghe
- con đường hoàn hảo.
Đức Thế tôn bảo tôn giả Xá lợi
phất, thôi thôi, không nên nói. Nói vấn đề này thì cả thế gian, trong
đó có chư thiên và nhân loại, sẽ kinh sợ ngờ vực. Tôn giả Xá lợi phất
lại thưa, bạch đức Thế tôn, xin đức Thế tôn dạy cho vấn đề này, vấn
đề này xin đức Thế tôn dạy cho. Vì đại hội này nhiều đến trăm ngàn,
vạn ức, vô số, có nhiều người từng gặp chư Phật, các căn (50) lanh lợi,
trí tuệ sáng tỏ, nghe đức Thế tôn dạy thì có thể kính tin. Tôn giả
Xá lợi phất muốn lặp lại ý nghĩa đã thưa, nên nói lời chỉnh cú sau
đây.
- (32) Bạch đức Vô thượng,
- vị Vua các pháp!
- xin ngài dạy cho,
- không cần e ngại.
- Đại hội các chúng
- vô số như vầy,
- tất có những người
- có thể kính tin.
Đức Thế tôn lại ngăn tôn giả
Xá lợi phất, rằng nếu Như lai nói vấn đề này thì cả thế gian, trong
đó có chư thiên, nhân loại và tu la, sẽ cùng kinh sợ, ngờ vực, những vị
tỷ kheo tăng thượng mạn sẽ rơi xuống hố lớn. Đức Thế tôn lặp lại
ý ngài bằng lời chỉnh cú sau đây.
- (33) Thôi thôi, đừng hỏi!
- Pháp của Như lai
- tinh túy, khó biết.
- Những kẻ thượng mạn
- nghe nói pháp ấy
- tất không kính tin.
Tôn giả Xá lợi phất lại thưa, bạch
đức Thế tôn, xin đức Thế tôn dạy cho vấn đề này, vấn đề này xin
đức Thế tôn dạy cho. Nay trong đại hội này, những người như con, và
trăm ngàn vạn ức người, đời đời đã từng tiếp nhận sự giáo hóa của
đức Thế tôn; những người như vậy chắc chắn có thể kính tin, ổn định
lâu dài và lợi ích lớn lao. Tôn giả Xá lợi phất lặp lại ý mình bằng
những lời chỉnh cú sau đây.
- (34) Thưa đấng Vô thượng,
- phước trí toàn hảo!
- xin ngài dạy cho
- cái pháp bậc nhất.
- Con là con trưởng
- của đức Thế tôn,
- con thỉnh cầu ngài
- dạy cho chúng con.
- Trong đại hội này
- có vô số người
- có thể kính tin
- về pháp ngài dạy.
- (35) Đời đời liên tiếp,
- Thế tôn đã từng
- giáo hóa tiếp độ
- những người như vầy.
- Nay họ chắp tay
- đồng nhất tâm nguyện
- muốn nghe và nhận
- lời Thế tôn nói.
- (36) Những người như con
- một ngàn hai trăm,
- cùng với các vị
- cầu tuệ giác Phật,
- xin đức Thế tôn
- vì những người này
- rủ lòng thương xót
- mà giảng giải cho.
- Những người này đây
- nghe được pháp này
- thì lòng sinh ra
- hoan hỷ cùng cực.
Khi ấy đức Thế tôn bảo tôn giả
Xá lợi phất, tôn giả đã thiết tha thỉnh cầu đến lần thứ ba, nên Như
lai không thể không nói. Vậy tôn giả hãy lắng nghe, hãy khéo nghĩ và
khéo nhớ! Như lai sẽ phân tích giảng giải cho tôn giả. Khi đức Thế tôn
dạy như vậy, trong đại hội có đến năm ngàn tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu
bà tắc và ưu bà di, tức thì đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, đảnh lễ
đức Thế tôn mà lui ra. Những người này gốc rễ tội lỗi về tăng thượng
mạn thật là sâu nặng, chưa được tự cho đã được, chưa chứng tự
cho đã chứng, lầm lẫn đến thế nên họ không ở lại. Đức Thế tôn cũng
yên lặng mà không ngăn cản. Ngài bảo tôn giả Xá lợi phất, đại hội
này của Như lai nay không còn trấu lép (51) , mà chỉ toàn là hạt chắc.
Xá lợi phất, tăng thượng mạn như những người kia thì lui ra cũng tốt.
Bây giờ tôn giả hãy nghe cho khéo, Như lai sẽ giảng giải cho tôn giả.
Tôn giả Xá lợi phất thưa, dạ, bạch đức Thế tôn; chúng con ước nguyện
và thích thú muốn nghe.
Đức Thế tôn bảo tôn giả Xá lợi
phất, cái pháp tinh túy này Như lai thỉnh thoảng mới nói, như hoa ưu đàm
thỉnh thoảng mới xuất hiện một lần. Xá lợi phất, chư vị hãy tin lời
Như lai nói không trống rỗng, dối trá. Xá lợi phất, Như lai tùy nghi thuyết
pháp, ý hướng khó hiểu. Tại sao, vì Như lai hoạt dụng vô số phương tiện,
trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà diễn đạt về
pháp. Pháp ấy không phải tư duy phân tích mà lĩnh hội được. Pháp ấy
chỉ có chư Phật như lai mới chứng biết.
Sự thể là chư Phật như lai chỉ
vì lý do duy nhất và trọng đại mà xuất hiện thế gian. Xá lợi phất,
lý do duy nhất và trọng đại mà chư Phật như lai xuất hiện thế gian là
gì ? Là chư Phật như lai muốn làm cho chúng sinh khai mở sự thấy biết của
Phật (52) nên xuất hiện thế gian, muốn chỉ thị cho chúng sinh sự thấy
biết của Phật nên xuất hiện thế gian, muốn làm cho chúng sinh tỉnh ngộ
sự thấy biết của Phật nên xuất hiện thế gian, muốn làm cho chúng sinh
nhập vào con đường thấy biết của Phật nên xuất hiện thế gian (53) .
Xá lợi phất, như thế đó là lý do duy nhất và trọng đại mà chư Phật
như lai xuất hiện thế gian. Và Xá lợi phất, như thế đó tức là chư Phật
như lai chỉ giáo hóa bồ tát, nghĩa là làm gì cũng thường vì một việc,
ấy là đem sự thấy biết của Phật mà chỉ thị thức tỉnh cho chúng
sinh.
Xá lợi phất, Như lai chỉ đem cỗ
xe duy nhất là cỗ xe Phật đà mà thuyết pháp cho chúng sinh, không có cỗ
xe nào khác dầu là cỗ xe thứ hai hay là cỗ xe thứ ba. Xá lợi phất,
pháp của chư Phật mười phương cũng là như vậy. Xá lợi phất, chư Phật
quá khứ đã vận dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu
tố, ví dụ và lời chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của
cỗ xe Phật đà duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu
cánh đều được tuệ giác biết tất cả. Chư Phật vị lai sẽ xuất hiện
thế gian cũng vận dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu
tố, ví dụ và lời chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của
cỗ xe Phật đà duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu
cánh cũng đều được tuệ giác biết tất cả. Hiện tại, trong vô lượng
trăm ngàn vạn ức cõi Phật khắp cả mười phương, chư Phật đang làm lợi
ích và yên vui rất nhiều cho chúng sinh, chư Phật như vậy cũng vận dụng
vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời
chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của cỗ xe Phật đà
duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu cánh cũng đều
được tuệ giác biết tất cả. Xá lợi phất, chư Phật ba đời trong mười
phương làm như vậy là đồng nghĩa với việc (54) chỉ giáo hóa bồ tát:
(54B) muốn đem sự thấy biết của Phật chỉ thị cho chúng sinh, muốn đem
sự thấy biết của Phật thức tỉnh cho chúng sinh, muốn dẫn chúng sinh
vào con đường (55) thấy biết của Phật. Xá lợi phất, nay Như lai cũng làm
như vậy. Như lai biết rõ những thị hiếu và vướng mắc của các loại
chúng sinh; tùy bản tính của họ, Như lai vận dụng các thứ yếu tố, ví
dụ và lời chữ, nghĩa là vận dụng năng lực phương tiện, mà thuyết
pháp. Xá lợi phất, Như lai làm như vậy toàn là để cho họ cùng được
tuệ giác biết tất cả của cỗ xe Phật đà duy nhất.
Xá lợi phất, như vậy là trong mười
phương quốc độ, cỗ xe thứ hai còn không có, huống chi có cỗ xe thứ
ba. Nhưng, Xá lợi phất, chư Phật như lai xuất hiện trong thời kỳ dữ dội
thì đó là thời kỳ đủ cả năm thứ vẩn đục: thời kỳ vẩn đục, tâm
lý vẩn đục, con người vẩn đục, kiến thức vẩn đục, mạng sống vẩn
đục. Khi thời kỳ vẩn đục loạn lên, thì chúng sinh dơ bẩn dày nặng,
keo lẫn, tham lam, ganh ghét, hoàn thành đủ thứ bất thiện, nên chư Phật
như lai phải vận dụng năng lực phương tiện : chính nơi cỗ xe duy nhất
là cỗ xe Phật đà mà giả thiết ra, nói có ba cỗ xe. Do đó, Xá lợi phất,
nếu là đệ tử của Như lai, tự gọi là La hán, là Duyên giác, mà không
nghe không biết đến việc Như lai chỉ giáo hóa Bồ tát như trên (56) ,
thì những người ấy không phải đệ tử của Như lai: không phải la hán
không phải duyên giác. Những vị tỷ kheo và tỷ kheo ni như vậy tự cho đã
thành la hán, thân mình là thân cuối cùng, mình cứu cánh niết bàn, rồi
không còn có chí mong cầu tuệ giác vô thượng, thì tôn giả nên biết họ
toàn là người tăng thượng mạn. Vì lẽ nếu có vị nào thật được thành
la hán mà không tin pháp này thì vô lý, trừ ra sau khi Như lai đã nhập diệt,
trước mặt họ không có Như lai nữa - bởi vì sau khi Như lai nhập diệt,
kinh Pháp hoa này có ai tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được
thuộc lòng, lý giải ý nghĩa (57) ..., người ấy thật khó có. Nếu gặp
đức Phật khác thì đối với kinh này họ nhận thức được ngay.
Nói tóm, Xá lợi phất, chư vị hãy
nhất tâm mà tin tưởng, lý giải, tiếp nhận và ghi nhớ lời của Như lai
nói. Lời của chư Phật như lai nói thì không trống rỗng, dối trá, nói rằng
không có cỗ xe nào khác mà chỉ có cỗ xe duy nhất là cỗ xe Phật đà.
Khi ấy đức Thế tôn muốn lặp lại
ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
- (37) Chư vị tỷ kheo
- và tỷ kheo ni
- mà có thượng mạn,
- cùng ưu bà tắc
- và ưu bà di
- mà lòng không tin,
- bốn chúng như vậy
- số có năm ngàn.
- (38) Họ không tự thấy
- mình đã khinh suất.
- Họ thiếu giới hạnh,
- che dấu tì vết.
- Hạng trí nhỏ ấy
- đã lui hết rồi.
- (39) Trong đại hội này
- họ là cặn bã.
- Họ lui là vì
- uy thần Như lai.
- Họ là những kẻ
- thiếu cả phước đức,
- không kham tiếp nhận
- diệu pháp như vầy.
- (40) Trong đại hội này
- nay hết trấu lép,
- còn lại chỉ có
- toàn là hạt chắc.
- (41) Này Xá lợi phất,
- hãy nghe cho khéo
- về pháp Như lai
- đã thành tựu được,
- và về phương tiện
- Như lai hoạt dụng
- để nói pháp ấy
- cho các chúng sinh.
- *
- (42) Quan niệm, đạo hạnh,
- thị hiếu, khuynh hướng,
- hành vi lành dữ
- đời trước đã làm,
- tất cả điều này
- của các chúng sinh
- Như lai nhận thức
- rất là rõ ràng.
- (43) Thế rồi Như lai
- sử dụng mọi thứ
- yếu tố, ví dụ,
- cùng với lời chữ,
- nghĩa là dùng đến
- năng lực phương tiện,
- làm cho chúng sinh
- hoan hỷ tất cả.
- (44) Cho nên Như lai
- đã nói tản văn,
- chỉnh cú độc lập,
- việc cũ, đời trước,
- việc hiếm, nguyên do,
- hoặc nói ví dụ,
- chỉnh cú thích ứng,
- cùng với thảo luận (58) .
- (45) Những kẻ ám độn
- chỉ thích pháp nhỏ,
- vướng mắc sinh tử;
- nơi vô số Phật
- họ đã không đi
- theo đường tuyệt diệu.
- Họ bị đau khổ
- dày vò tác loạn.
- Như lai vì họ
- mà nói niết bàn.
- (46) Như lai thiết lập
- phương tiện như vậy,
- chủ ý làm cho
- họ được nhập vào
- tuệ giác Phật đà,
- nhưng chưa hề nói
- tất cả các người
- đều sẽ thành Phật.
- (47) Sở dĩ Như lai
- chưa nói như vậy
- là vì chưa đến
- thì gian đáng nói.
- Nhưng nay là lúc
- Như lai quyết định
- nói về giáo pháp
- cỗ xe vĩ đại.
- (48) Giáo pháp ở trong
- chín thể loại trên,
- là do Như lai
- tùy thuận chúng sinh
- mà tuyên thuyết ra,
- nhưng mà bản ý
- là dẫn họ vào
- cỗ xe vĩ đại.
- Vì lý do ấy,
- ngày nay Như lai
- nói về bản kinh
- Diệu pháp liên hoa.
- (49) Có những con Phật
- tâm trí trong sáng
- tánh tình ôn hòa
- các căn lanh lợi,
- đã từng đi theo
- con đường tuyệt diệu
- ở nơi vô lượng
- chư Phật như lai;
- chính vì những người
- con Phật như vậy
- mà nay Như lai
- nói kinh Pháp hoa,
- bản kinh thuộc về
- cỗ xe vĩ đại.
- (50) Qua đó Như lai
- sẽ thọ ký cho
- những con Phật ấy
- trong thì vị lai
- được thành Phật đà -
- Được thành vì họ
- đã đem tâm chí
- cực kỳ sâu xa
- tưởng niệm Phật đà
- nghiêm giữ giới pháp.
- (51) Những con Phật ấy
- nghe được thành Phật
- thì nỗi mừng lớn
- tràn khắp cơ thể.
- Như lai biết rõ
- tâm chí cùng với
- đạo hạnh của họ,
- nên mới nói cho
- bản kinh thuộc về
- cỗ xe vĩ đại.
- (52) Và là thanh văn
- hay là bồ tát,
- nghe kinh như vậy
- của Như lai nói,
- thì dẫu chỉ được
- một bài chỉnh cú,
- cũng thành Phật cả,
- không nghi gì được.
- (53) Khắp các cõi Phật
- trong cả mười phương,
- chỉ có diệu pháp
- cỗ xe duy nhất.
- Cỗ xe thứ hai
- đã không thực có,
- cũng không thực có
- cỗ xe thứ ba,
- trừ ra Như lai
- phương tiện tuyên thuyết -
- là chỉ thiện dụng
- những danh từ giả
- mà dẫn dắt cho
- các loại chúng sinh.
- (54) Chính vì công bố
- tuệ giác Phật đà,
- cho nên Như lai
- xuất hiện thế gian.
- Chỉ một việc này
- là việc đích thực,
- còn hai việc khác
- không đích thực đâu.
- Như lai tuyệt đối
- không muốn sử dụng
- cỗ xe thấp nhỏ
- mà chở chúng sinh.
- (55) Như lai tự ngồi
- cỗ xe vĩ đại,
- cỗ xe được có
- những pháp như là
- định, tuệ và lực
- trang sức huy hoàng,
- Như lai sử dụng
- mà chở chúng sinh.
- (56) Như lai tự chứng
- tuệ giác vô thượng
- là xe vĩ đại
- có tính bình đẳng.
- Nếu đem hóa độ
- bằng xe thấp nhỏ,
- thì dẫu hóa độ
- một người mà thôi,
- Như lai cũng rơi
- vào sự tham lẫn:
- ấy là một việc
- không chấp nhận được.
- (57) Mọi người tín ngưỡng
- qui y Như lai.
- Như lai không hề
- lừa dối ai cả,
- không cả tâm ý
- tham lam ganh ghét,
- triệt hết sự xấu
- ở trong các pháp.
- Cho nên khắp trong
- mười phương quốc độ,
- chỉ có Như lai
- không e sợ gì.
- (58) Với cái thân thể
- tướng hảo trang nghiêm,
- với cái tuệ giác
- soi sáng tất cả,
- và được vô lượng
- chúng sinh tôn trọng,
- Như lai công bố
- ấn tín thật tướng (59) .
- (59- 60) Này Xá lợi phất,
- tôn giả nên biết
- Như lai vốn lập
- chí nguyện cao rộng
- là muốn làm cho
- hết thảy chúng sinh
- đều như Như lai
- không khác gì cả.
- Đúng như chí nguyện
- Như lai đã lập,
- ngày nay Như lai
- thực hiện đầy đủ,
- cho nên Như lai
- giáo hóa tất cả,
- làm cho vào được
- tuệ giác Phật đà.
- (61) Nhưng nếu Như lai
- gặp ai cũng đem
- tuệ giác Phật đà
- mà giáo hóa cho,
- thì kẻ vô trí
- sẽ bị thác loạn,
- mù mờ, lầm lẫn,
- không thể tiếp nhận.
- (62) Như lai nhận thức
- những kẻ như vậy
- chưa từng sửa sang
- gốc rễ pháp lành,
- dính chắc vào nơi
- năm thứ dục lạc,
- khổ não vì những
- mù quáng, đam mê.
- (63) Chính vì nhân tố
- năm thứ dục lạc
- mà họ sa vào
- ba đường độc dữ.
- Luân hồi khắp cả
- sáu nẻo sống chết,
- lãnh chịu đủ hết
- khổ sở độc địa.
- Hình hài hèn kém
- có bởi bào thai,
- đời đời liên tiếp
- cứ thêm lên mãi.
- Họ là những kẻ
- mỏng đức thiếu phước,
- và bị đủ thứ
- khổ não bức bách.
- (64) Nên họ lạc vào
- rừng rậm tà kiến,
- chấp có thế này
- chấp không thế khác.
- Căn cứ những thứ
- tà kiến như vậy,
- họ lần đủ cả
- sáu hai tà kiến,
- đắm sâu vào trong
- chủ thuyết hư vọng,
- chấp nhận cứng chắc
- không thể xả bỏ.
- (65) Họ đầy ngã mạn,
- tự cao, dua nịnh,
- quanh co, xảo trá.
- Vạn ức thời kỳ
- họ không nghe được
- danh từ Phật đà,
- chánh pháp Phật đà
- càng không nghe thấy.
- Những người như vậy
- thật khó hóa độ.
- (66) Này Xá lợi phất,
- vì những người ấy
- cho nên Như lai
- lập chước phương tiện:
- nói cho họ biết
- con đường diệt khổ,
- chỉ cho họ rõ
- về sự niết bàn.
- Nhưng mà Như lai
- dẫu nói niết bàn,
- sự niết bàn đó
- chưa thật niết bàn.
- (67) Vì vậy Như lai
- khai thị nguyên lý (60) :
- các pháp xưa nay
- thường tự vắng lặng.
- Con Phật đi trọn
- đường đi của mình (61)
- thì trong tương lai
- được thành Phật đà,
- như thế mới là
- niết bàn đích thực.
- (68) Như vậy đủ thấy
- do phương tiện lực
- mà Như lai có,
- Như lai khai thị
- đủ hết các pháp
- của ba cỗ xe;
- kỳ thật tất cả
- chư Phật như lai
- đều chỉ nói đến
- cỗ xe duy nhất.
- (69) Ngày nay đại hội
- hãy bỏ nghi hoặc.
- Lời chư Phật nói
- không khác sự thật:
- chỉ có cỗ xe
- Phật đà duy nhất,
- không hai cỗ xe
- thứ hai thứ ba.
- *
- (70) Vô số thời kỳ
- thuộc thì quá khứ,
- vô lượng chư Phật
- đã nhập niết bàn;
- những loại số mục
- trăm ngàn vạn ức
- không thể đem ra
- mà tính cho được.
- (71) Chư Phật như vậy
- đã dùng đủ thứ
- yếu tố, ví dụ
- của phương tiện lực,
- diễn đạt thật tướng
- tất cả các pháp.
- (72) Nghĩa là các ngài
- cũng nói giáo pháp
- cỗ xe duy nhất,
- giáo hóa chúng sinh
- làm cho vào được
- tuệ giác Phật đà.
- (73) Chư Phật quá khứ,
- những chúa thánh triết,
- biết rõ thị hiếu
- từ trong thâm tâm
- của cả thế gian,
- trong đó bao gồm
- chư thiên, nhân loại
- và bao loài khác,
- cho nên sử dụng
- phương tiện khác nhau
- để giúp phát lộ
- chân lý bậc nhất (62) .
- (74- 75) Ấy là ai gặp
- chư Phật quá khứ,
- được nghe thuyết pháp
- và rồi bố thí,
- giữ giới, nhẫn nhục,
- cùng với tinh tiến,
- thiền định, trí tuệ,
- làm đủ các pháp
- của cả hai loại
- phước đức tuệ giác (63) ,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ (64) .
- (76) Chư Phật quá khứ
- nhập niết bàn rồi,
- ai có tâm lý
- tốt đẹp mềm dịu,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ.
- (77- 78) Chư Phật quá khứ
- nhập niết bàn rồi,
- những ai hiến cúng
- xá lợi các ngài,
- bằng cách xây dựng
- vạn ức chùa tháp (65) ,
- lại đem bạc, vàng,
- cùng với pha lê,
- xa cừ, mã não,
- mai khôi, lưu ly,
- trang hoàng quang đãng
- trần thiết tráng lệ,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ.
- (79- 80) Ai dựng chùa tháp
- bằng đá cẩm thạch,
- bằng những thứ gỗ
- đàn hương, trầm hương,
- cùng với gỗ mật
- và gỗ quí khác;
- ai dựng chùa tháp
- bằng gạch, đất sét;
- hay nơi hoang dã
- đắp nổi gò đất
- tạo thành chùa tháp
- chư Phật quá khứ;
- (81) thậm chí trẻ con
- vui đùa đắp cát
- mà tưởng tượng rằng
- xây dựng tháp Phật,
- tất cả người này
- đã thành Phật tuệ.
- (82) Ai vì chư Phật
- trong thì quá khứ
- mà tạo hình tượng
- chạm trổ tướng tốt,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ.
- (83) Hoặc tạo tượng Phật
- bằng bảy chất quí,
- bằng các loại đồng
- vàng, đỏ và trắng,
- (84) bằng chì, thiếc, sắt,
- gỗ với đất sét;
- hoặc dùng các thứ
- keo, sơn, vải bố,
- bồi đắp tô chuốt
- mà làm tượng Phật;
- tất cả người này
- đã thành Phật tuệ.
- (85) Hoặc dùng hội họa
- vẽ ra tượng Phật
- đủ cả các tướng
- trăm phước trang nghiêm,
- tự mình vẽ ra
- hay nói người vẽ,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ.
- (86) Đến nỗi trẻ con
- dùng cỏ, cây, bút,
- ngón tay, móng tay,
- vẽ chơi tượng Phật,
- (87) thì những trẻ ấy
- công đức dồn chứa,
- từ bi hoàn hảo,
- đã thành Phật tuệ,
- và chỉ giáo hóa
- chư vị bồ tát,
- cứu độ vô lượng
- các loại chúng sinh (66) .
- (88) Nếu ai đối với
- chùa tháp, hình tượng,
- tượng ngọc, tượng vẽ
- chư Phật quá khứ,
- mà đem bông hoa
- các loại hương liệu
- tràng phan bảo cái
- cung kính hiến cúng;
- (89- 92) nếu ai tấu nhạc:
- đánh trống, thổi còi,
- thổi ốc, ống tiêu,
- ống sáo, đàn cầm,
- đàn hầu, tỳ bà,
- chiêng nhỏ, bạt đồng,
- đem hết âm thanh
- nghe hay như vậy
- hiến lên chư Phật
- trong thì quá khứ;
- hoặc là hoan hỷ
- ca hát, ngâm vịnh,
- tán dương đức tính
- chư Phật quá khứ;
- và làm như vậy
- dầu một tiếng nhỏ;
- tất cả người này
- đã thành Phật tuệ.
- (93) Những ai trong lòng
- tư tưởng xao lãng,
- chỉ được mỗi một
- bông hoa mà thôi,
- và chỉ hiến cúng
- tượng vẽ mà thôi,
- cũng vẫn dần dần
- gặp vô số Phật.
- (94) Ai biết lễ bái,
- hay chỉ chắp tay,
- đến nỗi đưa lên
- chỉ một cánh tay,
- hoặc chỉ hơi khẽ
- cúi đầu mình xuống,
- hiến cúng tượng Phật
- bằng những cách ấy
- cũng đã dần dần
- gặp vô lượng Phật,
- tự thành tựu được
- tuệ giác vô thượng,
- hóa độ rộng rãi
- vô số các chúng,
- và rồi nhập vào
- niết bàn hoàn toàn
- tựa như củi hết
- thì lửa cũng tắt (67) .
- (95) Những kẻ trong lòng
- tư tưởng xao lãng,
- bước vào chùa tháp
- chư Phật quá khứ,
- chỉ nói một tiếng
- con tôn kính Phật,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ.
- (96) Ở nơi chư Phật
- quá khứ như vậy,
- mà lúc các ngài
- đang còn ở đời
- hay lúc các ngài
- nhập niết bàn rồi,
- những ai nghe danh (68)
- của pháp như vầy,
- thì những người ấy
- đã thành Phật tuệ.
- *
- (97) Chư Phật như lai
- trong thì vị lai
- số lượng vô số,
- các ngài cũng dùng
- mọi cách phương tiện
- tuyên thuyết về pháp.
- (98) Các ngài cũng dùng
- vô số phương tiện
- cứu thoát chúng sinh,
- dẫn vào tuệ giác
- không còn sai sót
- của chư Phật đà.
- (99) Những người được nghe
- pháp các ngài thuyết,
- thì không một ai
- không thành Phật đà.
- Bởi vì các ngài
- cũng lập thệ nguyện
- nguyện đem trí Phật
- mà mình hoàn thành
- dìu dắt hết thảy
- các loại chúng sinh
- cũng được hoàn thành
- trí Phật như vậy.
- (100) Chư Phật vị lai
- dẫu cũng sẽ nói
- về các pháp môn
- nhiều đến vạn ức,
- kỳ thật chỉ vì
- cỗ xe duy nhất.
- (101) Chư Phật (69) : các đấng
- phước tuệ hoàn hảo,
- thấy biết các pháp
- thường không cố định,
- giống Phật cũng phát
- từ các yếu tố;
- thấy biết như vậy
- nên chư Phật đà
- tuyên thuyết giáo pháp
- cỗ xe duy nhất.
- (102) Chính vì vốn là
- bản thể an trú,
- bản thể nguyên vị,
- cho nên thật tướng
- của chính thế gian
- cũng vẫn thường trú;
- tại bồ đề tràng
- các đức Đạo sư
- biết rõ như vậy,
- nên dùng phương tiện
- tuyên thuyết giáo pháp
- cỗ xe duy nhất.
- *
- (103) Chư Phật hiện tại
- ở khắp mười phương,
- toàn là những bậc trời
- người hiến cúng,
- số lượng nhiều như
- cát của sông Hằng.
- Chư Phật như vậy
- xuất hiện thế gian,
- vì muốn làm cho
- chúng sinh yên vui
- nên cũng tuyên thuyết
- về diệu pháp này.
- (104) Chư Phật như vậy
- thấu triệt nguyên lý
- vắng lặng bậc nhất,
- và rồi áp dụng
- năng lực phương tiện,
- phô bày đủ hết
- các loại chánh pháp;
- tuy làm như vậy
- mà thật chỉ vì
- cỗ xe Phật đà.
- (105- 106) Tính nết, quan niệm,
- việc làm đời trước,
- thị hiếu, khuynh hướng,
- nỗ lực, năng lực,
- các căn lanh chậm,
- chư Phật biết rõ
- tất cả điều này
- của các chúng sinh.
- Thế rồi các ngài
- áp dụng đủ thứ
- yếu tố, ví dụ,
- cùng với lời chữ,
- tùy sự nên nói
- phương tiện mà nói.
- *
- (107) Ngày nay Như lai
- cũng làm như vậy.
- Để làm yên vui
- cho các chúng sinh,
- Như lai thiện dụng
- các cách huấn dụ,
- tuyên thuyết biểu thị
- tuệ giác Phật đà.
- (108) Với trí tuệ lực,
- Như lai nhận thức
- bản tính, thị hiếu
- của các chúng sinh,
- phương tiện thuyết pháp
- làm hoan hỷ cả.
- (109) Này Xá lợi phất,
- tôn giả nên biết,
- Như lai sử dụng
- mắt Phật mà nhìn
- thì thấy chúng sinh
- trong cả sáu đường
- đều quá nghèo nàn
- phước đức tuệ giác,
- lạc vào đường hiểm
- của chốn sống chết,
- cái khổ liên tục
- không hề đứt mất.
- (110) Họ dính sâu xa
- vào năm dục lạc,
- như bò đuôi dài
- tự cưng đuôi nó.
- Tham lam đam mê
- tự che phủ lấy,
- làm họ đui mù
- không thấy gì cả:
- không biết tìm Phật
- bậc cực hùng mạnh,
- không biết cầu Pháp
- yếu tố dứt khổ.
- (111) Họ đi sâu vào
- chủ thuyết sai lầm,
- sử dụng đau khổ
- mong hết đau khổ.
- Chính vì bao kẻ
- như thế này đây,
- Như lai động lòng
- thương xót lớn lao.
- (112- 113) Trong khi mới ngồi
- nơi bồ đề tràng,
- vừa thành tựu được
- tuệ giác vô thượng,
- Như lai nhìn vào
- bồ đề đại thọ,
- lại còn kinh hành
- quanh đại thọ ấy,
- ba tuần liên tiếp
- suy nghĩ như vầy:
- Tuệ giác Như lai
- đã thành tựu được
- thì rất tinh túy
- cao tột bậc nhất;
- còn như các căn
- của bao chúng sinh
- thì quá chậm chạp,
- lại bị cái ngu
- vì ham dục lạc
- làm mù tâm trí,
- những kẻ như vậy
- làm sao hóa độ?
- (114- 116) Khi ấy các vị
- Phạn vương, Đế thích,
- bốn Đại thiên vương
- hộ vệ thế gian,
- Đại tự tại thiên,
- cùng các thiên chúng
- tùy thuộc của họ
- nhiều đến ngàn vạn,
- cung kính chắp tay
- đảnh lễ thỉnh cầu
- Như lai chuyển đẩy
- bánh xe chánh pháp.
- Như lai tức thì
- suy nghĩ như vầy:
- Nếu chỉ tán dương
- cỗ xe Phật đà,
- những kẻ chìm ngập
- ở trong đau khổ
- không thể tin được
- về pháp như vậy.
- Rồi vì phá hoại
- không tin vào pháp,
- nên rơi vào lại
- trong ba đường dữ.
- Như vậy thà là
- Như lai không nói,
- mà nên mau chóng
- nhập vào niết bàn.
- (117) Nhưng rồi Như lai
- tức thì nhớ đến
- chư Phật như lai
- trong thì quá khứ,
- nhớ đến phương tiện
- các ngài thi hành,
- và nghĩ như vầy:
- tuệ giác vô thượng
- mà nay Như lai
- đã thực hiện được,
- Như lai cũng phải
- áp dụng phương tiện
- mà tuyên thuyết ra
- đủ ba cỗ xe.
- (118) Ngay khi Như lai
- suy nghĩ như vậy,
- chư Phật mười phương
- đều hiện trước mắt,
- dùng tiếng Phạn thiên
- khuyến khích Như lai,
- nói rằng tốt lắm
- Thích ca thế tôn!
- (119) Ngài là vị thầy
- dẫn đạo bậc nhất!
- Ngài đã hoàn thành
- cái pháp tối thượng,
- thì nên thể theo
- hết thảy chư Phật
- mà cùng dùng đến
- nghệ thuật phương tiện.
- (120) Chư Phật chúng tôi
- cũng hoàn thành được
- cái pháp bậc nhất
- rất tinh túy ấy,
- và vì chúng sinh
- các loại khác nhau
- nên phải phân ra
- nói ba cỗ xe.
- Vì kẻ trí nhỏ
- chỉ thích pháp nhỏ,
- không thể tự tín
- mình sẽ làm Phật.
- (121) Do vậy chúng tôi
- áp dụng phương tiện,
- phân nói các loại
- tuệ giác ba xe,
- và tuy nói cả
- tuệ giác ba xe,
- kỳ thật chỉ dạy
- các vị bồ tát.
- (122) Này Xá lợi phất,
- tôn giả nên biết,
- Như lai nghe được
- tiếng nói tuyệt diệu
- trong thanh thâm thúy
- của chư Như lai -
- những bậc Sư tử
- của các thánh triết,
- tức thì hoan hỷ
- và thốt lên rằng:
- Tôi xin tôn kính
- chư vị Phật đà (70) !
- (123) Như lai lại nghĩ:
- Như lai xuất hiện
- nhằm vào thời kỳ
- dữ dội vẩn đục,
- thì như lời lẽ
- của chư Phật nói,
- Như lai cũng phải
- thể theo mà làm.
- (124) Như lai nghĩ rồi
- liền đến Lộc uyển.
- Thật tướng các pháp
- vốn rất vắng lặng,
- không thể diễn tả
- bằng những lời chữ,
- nhưng mà Như lai
- áp dụng phương tiện
- nói pháp ấy ra
- cho năm tỷ kheo.
- (125) Như vậy gọi là
- quay bánh xe pháp,
- thế gian liền có
- danh hiệu Niết bàn,
- lại còn có cả
- danh hiệu La hán,
- có Pháp có Tăng
- danh hiệu khác biệt.
- (126) Từ đó đến nay
- Như lai ca tụng
- niết bàn hết hẳn
- cái khổ sống chết.
- Như lai thường xuyên
- đã nói như vậy.
- (127) Nhưng Xá lợi phất,
- tôn giả nên biết,
- Như lai lại thấy
- có những con Phật
- quyết chí cầu được
- tuệ giác Phật đà.
- Số ấy nhiều đến
- vô lượng vạn ức.
- (128) Ai cũng cung kính
- đến chỗ Như lai,
- vì các đời trước
- họ đã từng nghe
- pháp mà chư Phật
- phương tiện tuyên thuyết.
- (129) Như lai lúc ấy
- suy nghĩ như vầy:
- Sở dĩ Như lai
- xuất hiện thế gian
- là để tuyên thuyết
- tuệ giác Phật đà,
- thì nay chính là
- thì gian tuyên thuyết.
- (130) Này Xá lợi phất,
- tôn giả nên biết,
- những kẻ trí nhỏ,
- các căn chậm chạp,
- chấp trước hình thức,
- kiêu căng ngạo mạn,
- thì không thể nào
- tin được pháp này.
- Nhưng mà pháp này
- bồ tát sẽ nghe (71) .
- (131) Thế nên ngày nay
- Như lai cảm thấy
- hoan hỷ hết sức,
- chứ không e ngại.
- Ngay giữa đại chúng
- chư vị bồ tát,
- Như lai thẳng thắn
- loại bỏ phương tiện,
- chỉ còn nói đến
- tuệ giác vô thượng.
- (132) Chư vị bồ tát
- nghe được pháp này
- thì lưới ngờ vực
- thoát bỏ được cả,
- mà ngàn hai trăm
- chư vị la hán
- ai nấy cũng sẽ
- được làm Phật đà.
- (133- 134) Cho nên y như
- thể thức thuyết pháp
- của chư Phật đà
- trong ba thì gian,
- ngày nay Như lai
- cũng làm như vậy:
- tuyên thuyết về pháp
- không có khác nhau (72) .
- *
- (135) Chư Phật xuất thế
- là sự khó có,
- vì lẽ lâu xa
- mới gặp một lần.
- Mà dẫu chư Phật
- đã xuất thế rồi,
- nói về pháp này
- là sự khó có.
- Vô số thời kỳ
- mới nghe pháp này,
- nên sự nghe ấy
- là sự khó có.
- Và rồi những ai
- nghe nổi pháp này,
- thì người như vậy
- là người khó có.
- (136) Như hoa ưu đàm
- ai cũng ưa thích,
- đến như chư thiên
- cũng thấy hiếm có,
- vì lẽ thỉnh thoảng
- mới trổ một lần.
- (137) Những người nghe nổi
- pháp như thế này,
- nghe rồi hoan hỷ
- ca tụng tán dương,
- thì dẫu đến nỗi
- chỉ phát một lời,
- cũng đã hiến cúng
- tam thế chư Phật.
- Nên người như vậy
- hết sức khó có,
- khó có hơn cả
- hoa thiêng ưu đàm.
- (138) Tất cả các chúng,
- các người đừng nghi!
- Như lai là bậc
- vua của các pháp,
- phổ cáo các người
- biết rằng Như lai
- chỉ đem giáo pháp
- cỗ xe duy nhất
- mà giáo hóa cho
- chư vị bồ tát.
- Như lai không có
- đệ tử thanh văn.
- (139) Này Xá lợi phất,
- tất cả các người,
- bất luận thanh văn
- hay là bồ tát,
- đều phải biết rằng
- pháp tinh túy này
- chính là bí yếu
- của chư Phật đà.
- (140) Thời kỳ dữ dội
- đầy năm vẩn đục,
- con người chỉ thích
- đắm say dục lạc,
- không bao giờ muốn
- cầu tuệ giác Phật.
- (141) Nên những kẻ ác
- trong tương lai ấy
- dẫu được nghe đến
- cỗ xe duy nhất
- của Như lai nói,
- cũng ngu và lầm,
- không thể tin tưởng,
- không chịu tiếp nhận,
- phá hoại pháp ấy
- và sa đường dữ.
- (142) Chỉ có những ai
- hổ thẹn, trong sạch,
- quyết chí tìm đến
- tuệ giác Phật đà,
- thì cần phải vì
- những người như vậy
- tán dương rộng rãi
- cỗ xe duy nhất.
- *
- (143) Này Xá lợi phất,
- chư vị phải biết,
- nguyên tắc chư Phật
- là như thế đó:
- vận dụng phương tiện
- tùy nghi thuyết pháp.
- Ai không tu học
- không thể hiểu thấu.
- (144) Đến như chư vị
- khi đã biết được
- sự thể tùy nghi
- phương tiện thuyết pháp
- của chư Phật đà,
- bậc Thầy thế gian,
- thì đừng còn nữa
- những sự nghi hoặc:
- Tất cả chư vị
- hãy vui mừng lên,
- khi tự biết chắc
- mình sẽ làm Phật.
Kết thúc tụng kinh Pháp hoa, con xin
hồi hướng:
Vạn ức thời kỳ không thể nói
được mới được có lúc Phật nói Pháp hoa. Vạn ức thời kỳ không thể
nói được mới được có lúc nghe nói Pháp hoa. Chúng con nương nhờ Phật
Pháp Tăng lực mới được trì tụng Diệu pháp liên hoa. Chúng con nguyện
đem công đức như vầy hiến khắp tất cả các loại chúng sinh, cầu cho
chúng con cùng với chúng sinh đều được thành tựu tuệ giác chư Phật.
Kính lạy kinh Diệu pháp liên hoa, bản
kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được
Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười
phương quốc độ.
Kính lạy đức Thích ca mâu ni, đức
Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp hoa. Kính lạy đức Đa
bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp hoa toàn là chân thật. Kính lạy
đức Di lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp hoa và tiếp dẫn
những người hành trì Pháp hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất
cả Phật bảo trong kinh Pháp hoa, trong quốc độ này và trong mười phương
quốc độ.
Kính lạy bồ tát Văn thù, vị
pháp sư Pháp hoa. Kính lạy bồ tát Phổ hiền, vị khuyến phát Pháp hoa.
Kính lạy bồ tát Quan âm, vị đại sĩ toàn diện, ban cho chúng sinh sự
không sợ hãi. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị
Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp hoa, trong quốc độ này và
trong mười phương quốc độ.
-ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục | 01 |
02 | 03 |
04 | 05 |
06 | 07 |
08 | 09 |