中 阿 含 經 KINH TRUNG A HÀM 
              Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm,  Việt Dịch & Hiệu Chú: Thích Tuệ Sỹ
             | 
           
        
       
     
11. PHẨM ÐẠI 
(Phần Ðầu)
      118. KINH LONG TƯỢNG[1]
      Tôi nghe như vầy: 
      Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, ở tại Đông viên giảng đường Lộc mẫu[02]. 
      Bấy giờ vào lúc xế trưa, Đức Thế Tôn từ chỗ tĩnh tọa đứng dậy, bước ra khỏi tịnh thất và nói: 
      “Ô-đà-di[03], Ta và ngươi hãy đi đến Đông hà để tắm[04].” 
      Tôn giả Ô-đà-di đáp: 
      “Kính
      vâng.” 
      Khi ấy, Đức Thế Tôn cùng với Tôn giả Ô-đà-di đi đến Đông hà, cởi bỏ y phục trên bờ sông rồi xuống nước tắm. Tắm xong, lên bờ lau mình và mặc y phục vào. 
      Bấy giờ vua Ba-tư-nặc có một con voi chúa tên là Niệm[05], đang lội ngang qua Đông hà với tất cả các loại kỹ nhạc được tấu lên. Dân chúng trông thấy nói rằng: 
      “Đây phải chăng là rồng trong loài rồng, là Đại long vương hay là con gì vậy?[06]“ 
      Tôn giả Ô-đà-di chắp tay hướng về Đức Phật bạch rằng: 
      “Bạch Thế Tôn, con voi thân hình to lớn cho nên dân chúng trông thấy nói rằng: ‘Đây phải chăng là rồng trong loài rồng, là Đại long vương hay là con gì vậy?’  
      Đức Thế Tôn nói: 
      “Đúng vậy, Ô-đà-di! Đúng vậy, Ô-đà-di, con voi có thân hình to lớn nên dân chúng trông thấy nói rằng: ‘Đây phải chăng là rồng trong loài rồng, là Đại long vương hay là con gì vậy?’ 
      “Này Ô-đà-di, ngựa, lạc đà, trâu, lừa, rắn[07], người, cây cối... nếu có thân hình to lớn, này Ô-đà-di, dân chúng trông thấy cũng nói rằng: ‘Đây phải chăng là rồng trong loài rồng, là Đại long vương hay là con gì vậy?’ 
      “Ô-đà-di, nếu Trời, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí (hay bất cứ ai) từø người cho đến trời ở trên đời này mà không làm hại bằng thân, miệng, ý, Ta nói vị ấy chính là rồng[08].
       
      “Ô-đà-di, Như Lai ở trong thế gian này bao gồm Trời, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí (hay bất cứ ai) từ người cho đến trời đều không dùng thân, miệng, ý để làm hại, cho nên Ta được gọi là rồng.” 
      Khi ấy, Tôn giả Ô-đà-di chắp tay hướng về Đức Phật mà bạch: 
      “Bạch Thế Tôn, mong Đức Thế Tôn gia trì cho con thêm uy lực. Mong Đức Thiện Thệ gia trì cho con thêm uy lực để con được ở trước Phật, bằng bài tụng liên hệ đến rồng[09] mà tán thán Đức Thế Tôn.” 
      Đức Thế Tôn nói: 
      “Tùy ý ngươi muốn.” 
      Khi ấy Tôn giả Ô-đà-di ở trước Đức Phật, dùng bài tụng liên hệ đến rồng tán thán Đức Thế Tôn rằng:
       
    
    
    
                 - Chánh
    giác sanh nhân gian,
 
                 - Tự chế ngự, đắc định.
 
                 - Phạm hạnh bước vững vàng,
 
                 - Bình an, tâm ý tĩnh.
 
                 - Nhân loại đều xưng tôn;
 
                 - Vượt ngoài tất cả pháp.
 
                 - Chư Thiên đều kính ngưỡng;
 
                 - Chí Chân, Bậc Vô Trước.
 
                 - Từ rừng, bỏ rừng đi;  
 
                 - Siêu việt toàn kết sử;
 
                 - Xả dục, sống vô dục,
 
                 - Vàng ròng trong khối đá.
 
                 - Mặt trời trên hư không,
 
                 - Tối thượng giữa loài rồng,
 
                 - Vang lừng danh Chánh Giác,
 
                 - Hy-mã điệp muôn trùng.
 
                 - Tuyệt đối không não hại,
 
                 - Đại long, thật Đại long;
 
                 - Chắc thật, đây tối thượng,
 
                 - Rồng thiêng giữa loài rồng!
 
                 - Ôn nhuần và vô hại,
 
                 - Hai chân rồng là đây.
 
                 - Khổ hạnh và phạm hạnh,
 
                 - Là bước đi của rồng.
 
                 - Rồng thiêng, tay là tín;
 
                 - Hai đức, xả là ngà;
 
                 - Tuệ đầu và niệm cổ;
 
                 - Phân biệt pháp, tư duy;
 
                 - Bụng lớn, chứa muôn pháp;
 
                 - Độc cư: đôi cánh tay;
 
                 - Rồng tu quán hơi thở;
 
                 - Nội tĩnh, tâm tinh chuyên;
 
                 - Chánh định, đi hay đứngï;
 
                 - Nằm thiền, ngồi cũng thiền;
 
                 - Định ý, hằng định ý;  
 
                 - Là pháp thường của long.
 
                 - Thọ thực nhà thanh tịnh;
 
                 - Nhà bất tịnh không ăn;
 
                 - Ác bất tịnh, không thọ,
 
                 - Quay đi như Sư tử.  
 
                 - Sở đắc những cúng dường,  
 
                 - Từ tâm nên nạp thọ.
 
                 - Long thực, do tín thí;
 
                 - Vừa đủ, không đắm say.
 
                 - Đoạn trừ mọi kết sử,
 
                 - Giải thoát mọi đường dây.
 
                 - Tâm không, không trói buộc,
 
                 - Vạn nẻo bước du hành.
 
                 - Chẳng khác loài sen trắng,
 
                 - Nước sanh, nước nuôi lớn;
 
                 - Bùn lầy không nhiễm trước;
 
                 - Tuyệt sắc, hương ngào ngạt.
 
                 - Cũng vậy, tối thượng giác,
 
                 - Sanh thành trong thế gian;
 
                 - Tịnh diệu, dục không vương,
 
                 - Như hoa không nhiễm nước.
 
                 - Ví như ngọn lửa hừng;
 
                 - Bớt củi, ngọn tắt dần.
 
                 - Củi hết rồi lửa tắt;
 
                 - Như vậy lửa diệt tàn.
 
                 - Kẻ trí nói dụ này,
 
                 - Nghĩa ấy mong thấu triệt;
 
                 - Là điều long sở tri,
 
                 - Long tụng, long sở thuyết.
 
                 - Triệt đoạn dâm dục, sân,
 
                 - Trừ si, vô lậu tịnh;
 
                 - Long xả bỏ hậu thân,
 
                 - Đó là long diệt tận.
 
     
     
    
      Phật thuyết như vậy. Tôn giả Ô-đà-di sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành. 
     
    -ooOoo- 
    Chú thích:
    
      - [01] Tham chiếu Pāli: A. Vi.43 Nāga; Thag. 689-704.
 
      - [02]
        Đông viên Lộc tử mẫu giảng đường 東 園 鹿 子 母 講 堂.  Pāli: Pubbārama Migāgamātu-pāsāda, giảng đường đượcc xây dựng bởi bà Visakhā, mẹ của Miga.
 
      - [03]
        Ô-đà-di 烏 陀 夷. Pāli: Udāyi, cũng gọi là Mahā-udāyi, hay Pandita-udāyi, con của một người Bà-la-môn ở Kapilavatthu.
 
      - [04] Đông hà 東 河. Pāli: Pubbakotthaka. Bản Pāli nói: Phật gọi ngài A-nan đi tắm.
 
      - [05]
        Long tượng danh viết Niệm 龍 象 名 曰 念. Pāli: Seto nāma nāgo (Seta, bản Hán đọc là Sati).    
 
      - [06]
        Long trung long, vi đại long vương, vi thị thùy 龍 中 龍 為 大 龍 王 為 是 誰. Pāli: Nāgo vata, bho, nāgo. “Rồng kìa, các ngài, rồng kìa!”
 
      - [07]
        Nguyên Hán: hung hành 胸 行, đi bằng bụng, Pāli: Uragam, loài bò sát hay con rắn.
 
      - [08]
        Bất dĩ thân khẩu ý hại (...) thị long 不 以 身 口 意 害 是 龍. Pāli nói: Āgum na kāgoti kāyena vācāya manasā, tam ahaṃ nāgo ti brūmi, ai không làm ác bằng thân, miệng, ý; Ta nói người đó là nāga.
 
      - [09]
        Long tương ưng tụng 龍 相 應 頌.
 
     
   
-ooOoo- 
 |