中 阿 含 經 KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm, Việt
Dịch & Hiệu Chú: Thích Tuệ Sỹ
|
7. PHẨM TRƯỜNG THỌ VƯƠNG
85.
KINH CHÂN NHÂN[1]
Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô
độc.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ta sẽ nói cho các ngươi nghe về pháp chân nhân, và pháp không phải chân
nhân[02]. Hãy lắng nghe, hãy khéo
tư niệm”.
Các Tỳ-kheo thọ giáo lắng nghe.
Phật nói:
“Thế nào là pháp không phải chân nhân? Ở đây có một người thuộc dòng dõi
hào quý, xuất gia học đạo và những người khác thì không như vậy. Người ấy
nhân vì dòng dõi hào quý mà quý mình khinh người. Đó gọi là pháp không phải
chân nhân. Pháp chân nhân xét nghĩ như thế này: ‘Ta không phải nhân bởi dòng
dõi hào quý mà đoạn trừ được dâm, nộ, si. Hoặc có người nào đó không phải
dòng dõi hào quý mà xuất gia học đạo, thực hành pháp như pháp, tùy thuận
pháp, hướng đến pháp và thứ pháp[03],
do đó mà được cúng dường, cung kính’. Như vậy, vị này thú hướng sự chứng đắc
pháp chân đế nhưng không quý mình, không khinh người. Đó gọi là pháp chân
nhân.
“Lại nữa, hoặc có người đoan chánh, khả ái, những người khác không được
như vậy. Người kia nhân vì mình đoan chánh, khả ái mà quý mình khinh người.
Đó gọi là pháp không phải chân nhân. Pháp chân nhân xét nghĩ như thế này:
‘Ta không phải do vẻ đoan chánh khả ái này mà đoạn trừ được dâm, nộ, si.
Hoặc có người nào đó không đoan chánh khả ái nhưng thực hành pháp như pháp,
tùy thuận pháp, hướng pháp, thứ pháp, do đó được cúng dường cung kính’. Như
vậy vị này thú hướng sự chứng đắc pháp chân đế, nhưng không quý mình khinh
người. Đó gọi là pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có một người hùng biện, luận giỏi, những người khác không
được như vậy. Người kia nhân vì hùng biện, luận giỏi mà quý mình khinh
người. Đó gọi là điều của kẻ không phải chân nhân. Pháp chân nhân xét nghĩ
như thế này: ‘Ta không phải do tài hùng biện, luận giỏi này mà đoạn trừ được
dâm, nộ, si. Hoặc có người nào đó không có tài hùng biện, luận giỏi, nhưng
người ấy thực hành pháp như pháp, tùy thuận pháp, hướng pháp, thứ pháp, do
đó mà được cúng dường cung kính’. Như vậy, vị này thú hướng sự chứng đắc
pháp chân đế, nhưng không quý mình, không khinh người. Đó gọi là pháp chân
nhân.
“Lại nữa, hoặc có người thuộc hàng Trưởng lão, quen biết với vua, nổi
tiếng với mọi người và có đại phước, những người khác không được như vậy.
Người kia nhân vì là Trưởng lão, vì quen biết với vua, vì nổi tiếng với mọi
người và có đại phước mà quý mình khinh người. Đó gọi là pháp không phải
chân nhân. Pháp chân nhân xét nghĩ như thế này: ‘Ta không phải do Trưởng
lão, không phải do quen biết với vua, nổi tiếng với mọi người và có đại
phước mà đoạn trừ được dâm, nộ, si. Hoặc có người nào đó không phải là
Trưởng lão, không quen biết với vua, không nổi tiếng với mọi người và cũng
không có đại phước, nhưng người ấy thực hành pháp như pháp, tùy thuận pháp,
hướng pháp, thứ pháp, do đó mà được cúng dường cung kính’. Như vậy, vị này
thú hướng sự chứng đắc pháp chân đế, nhưng không quý mình, không khinh
người. Đó gọi là pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có người tụng kinh, trì luật, học A-tỳ-đàm[04],
thuộc làu A-hàm[05], học nhiều
kinh sách, người khác không được như vậy. Người kia nhân vì thuộc làu A-hàm,
học nhiều kinh sách nên quý mình khinh người. Đó gọi là pháp không phải chân
nhân. Pháp chân nhân xét nghĩ như thế này: ‘Ta không phải do thuộc làu
A-hàm, học nhiều kinh sách mà đoạn trừ được dâm, nộ, si. Hoặc có người nào
đó không thuộc làu A-hàm, cũng không học nhiều kinh sách, nhưng người ấy
thực hành pháp như pháp, tùy thuận pháp, hướng pháp, thứ pháp, do đó mà được
cúng dường cung kính’. Như vậy, vị này thú hướng sự chứng đắc pháp chân đế,
nhưng không quý mình, không khinh người. Đó gọi là pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có người mặc y phấn tảo, nhiếp ba pháp phục, trì y bất mạn[06],
người khác không được như vậy. Người kia nhân vì trì y bất mạn nên quý mình
khinh người. Đó gọi là pháp không phải chân nhân. Pháp chân nhân xét nghĩ
như thế này: ‘Ta không phải do trì y bất mạn này mà đoạn trừ được dâm, nộ,
si. Hoặc có người nào đó không trì y bất mạn nhưng thực hành pháp như pháp,
tùy thuận pháp, hướng pháp, thứ pháp, do đó mà được cúng dường cung kính’.
Như vậy, vị này thú hướng sự chứng đắc pháp chân đế, nhưng không quý mình,
không khinh người. Đó gọi là pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có người thường đi khất thực, cơm chỉ ngang bằng năm
thăng, chỉ khất thực hạn cuộc nơi bảy nhà, chỉ ăn một bữa, quá giờ ngọ không
uống nước trái cây[07], người
khác không được như vậy. Người kia nhân vì quá giờ ngọ không uống nước trái
cây mà quý mình khinh người. Đó gọi là pháp không phải chân nhân. Pháp
thượng nhân xét nghĩ như thế này: ‘Ta không phải do sự quá giờ ngọ không
uống nước trái cây này mà đoạn trừ được dâm, nộ, si. Hoặc có người nào đó
không dứt bỏ sự quá giờ ngọ uống nước trái cây, nhưng người ấy thực hành
pháp như pháp, tùy thuận pháp, hướng pháp, thứ pháp, do đó mà được cúng
dường cung kính’. Như vậy, vị này thú hướng sự chứng đắc pháp chân đế, nhưng
không quý mình, không khinh người. Đó gọi là pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có người ở chỗ rừng vắng sơn lâm, dưới gốc cây, hoặc ở núi
cao hay nơi đất trống, hoặc nơi gò mả, hoặc có thể biết thời; người khác
không được như vậy. Người kia nhân vì biết thời mà quý mình khinh người. Đó
không phải là pháp chân nhân. Pháp chân nhân xét nghĩ như thế này: ‘Ta không
phải do sự biết thời này mà đoạn trừ được dâm, nộ, si. Hoặc có người nào đó
không biết thời nhưng người ấy thực hành pháp như pháp, tùy thuận pháp,
hướng pháp, thứ pháp, do đó mà được cúng dường cung kính’. Như vậy, vị này
thú hướng sự chứng đắc pháp chân đế, nhưng không quý mình, không khinh
người. Đó gọi là pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có người vừa được Sơ thiền; người kia nhân vì được Sơ
thiền mà quý mình khinh người. Đó gọi là pháp không phải chân nhân. Pháp
chân nhân xét nghĩ như thế này: ‘Về Sơ thiền, Đức Thế Tôn nói là vô lượng
chủng loại, nếu có kế chấp thì gọi là ái[08]
vậy. Do đó người ấy được cúng dường cung kính’. Như vậy, vị này thú hướng sự
chứng đắc pháp chân đế, nhưng không quý mình, không khinh người. Đó gọi là
pháp chân nhân.
“Lại nữa, hoặc có người được đệ Nhị, đệ Tam, đệ Tứ thiền; được Không xứ,
Thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, người khác không được
như vậy. Người kia nhân vì được phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ nên quý mình
khinh người. Đó gọi là pháp không phải chân nhân. Pháp chân nhân xét nghĩ
như thế này: ‘Phi hữu tưởng phi vô tưởng, Đức Thế Tôn nói là vô lượng chủng
loại, nếu có kế chấp thì gọi đó là ái, do đó người ấy được cúng dường cung
kính’. Như vậy, vị này thú hướng sự chứng đắc pháp chân đế, nhưng không quý
mình, không khinh người. Đó gọi là pháp chân nhân.
“Các ngươi hãy nhận biết pháp chân nhân và pháp không phải chân nhân. Sau
khi biết được pháp thượng nhân và pháp không phải chân nhân rồi, hãy dứt bỏ
pháp không phải chân nhân và hãy học pháp chân nhân”.
- Giàu, đẹp trai, nói giỏi,
- Trưởng lão, tụng nhiều kinh,
- Y, thực, tu núi, thiền,
- Sau cùng bố vô sắc.
- “Các ngươi nên học như vậy”.
Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo nghe Đức Phật thuyết, hoan hỷ phụng
hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli M.
113. Sappurisa-suttaṃ. Biệt dịch, No.48.
- [02] Chân nhân pháp 真 人 法;
No.18: hiền giả. Pāli: Sappurisa-dhamma, chân nhân pháp, thiện nhân pháp
thiện sĩ pháp.
- [03] Hành pháp như pháp,
tùy thuận ư pháp, hướng pháp thứ pháp
行 法 如 法 隨 順 於 法 向 法 次 法. Pāli: dhammānudhamma-paṭṭpanno
sāmicīpaṭṭipannoanudhammacāri; là người thực hành pháp và tùy pháp, thực
hành chân chính, có hành vi tùy thuận pháp.
- [04] A-tỳ-đàm 阿 毗 曇;
thường chỉ Luận tạng. Pāli: abhidhamma.
- [05] Nguyên trong bản:
A-hàm-mộ 阿 含 慕, thường chỉ Kinh tạng. Pāli: āgama.
- [06] Bất mạn y 不 慢
衣. Pāli: amāna-cīvara, y không kiêu mạn, hay amanāpa-cīvara, y xấu xí?
- [07] Bất ẩm tương 不
飲 漿.
- [08] Ái 愛;
Tống-Nguyên-Minh: thọ (chấp thủ). Pāli: paṭhamajjhānasamāpattiyā pi kho
atammayatā, sự chứng đạt Sơ thiền được nói là có tánh không tham luyến.