THERAVĀDA
SỬ LIỆU
VỀ ĐẢO LAṄKĀ
Nguyên tác Pāli: Không rõ danh tánh SRI
JAYAWARDHANARAMAYA
AṬṬHĀRASAMO
PARICCHEDO 1/- Hiện nay cũng có những vị trưởng lão, trung niên, và tân thọ (tỳ khưu) là những vị thuộc về tông phái Vibhajja, là những người bảo vệ truyền thống Phật Pháp liên quan đến Luật. 2/- (Các vị ấy) đa văn, có giới hạnh làm rạng rỡ trái đất này. Được thành tựu về pháp đầu-đà và tánh hạnh, các vị làm rạng rỡ hòn đảo Laṅkā. 3/- Và ở nơi đây, nhiều vị Thích Tử thông thạo về Chánh Pháp và truyền thống. Quả thế, vì lợi ích của nhiều người bậc Hữu Nhãn đã sanh lên ở trên đời. Đấng Chiến Thắng đã xua tan bóng tối và làm hiện ra ánh sáng. 4/- Tất cả những ai có niềm tin bất động khéo được an trú vào đức Như Lai đều thoát khỏi các khổ cảnh và được sanh lên chốn an vui. 5/- 6/- Và những ai thực hành toàn bộ các Giác Chi, các Quyền, các Lực, Niệm, Chánh Tinh Tấn, và toàn thể các pháp Như Ý Túc, Thánh Đạo tám chi phần đưa đến sự diệt tận khổ đau, những người ấy sau khi hủy diệt đội binh của Tử Thần là những người chiến thắng ở thế gian. 7/- Người em gái của hoàng hậu Māyā đồng sanh chung một mẹ và có lòng từ mẫn như là người mẹ đã cho Siddhattha bú sữa. 8/- Nàng có danh tiếng, đã từ bỏ sự cao sang, có sáu thắng trí và đại thần lực, được biết đến với tên là Mahāpajāpatī Gotamī. 9/- Hai vị ni tối thượng thinh văn ấy là Khemā và Uppalavaṇṇā. Và các vị Paṭācārā, Dhammadinnā, Sobhitā, Isidāsikā, 10/- Visākhā, Soṇā, Subalā,
Saṅghadāsī là các vị sáng suốt. Nandā và Dhammapālā là rành rẽ về Luật;
các vị ni ấy là những vị ni có trí tuệ và thông thạo về Thánh đạo ở tại
xứ Jambudīpa. Trưởng lão ni Saṅghamittā và Uttarā sáng suốt, Hemā, Masāragallā, Aggimittā, Dāsikā, 12/- Pheggu, Pabbatā, Mattā, Mallā, Dhammadāsiyā, những vị tỳ khưu ni trẻ tuổi này đã từ xứ Jambudīpa đi đến nơi đây. 13/- Mong mỏi sự tồn tại của Chánh Pháp, các vị ni ấy đã giảng dạy Luật, năm Bộ (Kinh), và bảy Bộ (Diệu Pháp) ở tại thành Anurādhapura. 14/- Saddhammanandi, Somā, luôn cả Giriddhi, Dāsikā, Dhammā, Dhammapālā là rành rẽ về Luật, Mahilā, Sobhaṇā Dhammatāpasā là các vị ni theo hạnh đầu-đà. 15/- Naramittā có đại trí tuệ và rành rẽ về Luật, Sātā, Kālī, và Uttarā là thiện xảo trong truyền thống tỳ khưu ni. 16/- Khi ấy, các vị ni ấy đã được tu lên bậc trên ở hòn đảo Laṅkā. Và vị Sumanā nổi tiếng là vị thông suốt về Chánh Pháp và truyền thống. 17/- Lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ni ấy đã dứt bỏ ái dục, định tĩnh, có tâm tư trong sạch, được thỏa thích trong Chánh Pháp và Luật. 18/- Uttarā cùng với hai mươi ngàn tỳ khưu ni đã được tôn vinh bởi Abhaya là người con trai dòng quý tộc có danh tiếng. 19/- Các vị ni ấy đã giảng dạy Luật tại thành Anurādhapura. Các vị còn dạy năm Bộ Kinh, và bảy Bộ (Diệu Pháp). 20/- Mahilā nổi tiếng là vị thông suốt về Chánh Pháp và truyền thống và Samantā, các vị ni ấy là những người con gái của đức vua Kākavaṇṇa. 21/- Girikālī, con gái của Purohita, thì học rộng, còn Dāsī và Kālī, những người con gái của Dhutta, là nắm vững toàn bộ Chánh Tạng. 22/- Lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu ni ấy là khó thể sánh kịp trong mọi vấn đề thuộc về Chánh Tạng, có tâm tư tinh khiết, được thỏa thích trong Chánh Pháp và Luật. 23/- Họ cùng với hai mươi ngàn tỳ khưu ni đã từ Rohanā đi đến và đã được tôn vinh bởi đức vua Abhaya danh tiếng. Tại nơi ấy, các vị ni đã giảng dạy Luật tại thành Anurādhapura. 24/- Mahādevī, Padumā, Hemāsā là các vị ni có danh tiếng. Khi ấy, các vị tỳ khưu ni ấy có sáu thắng trí và có đại thần lực. 25/- Các vị ni ấy đã được tôn vinh bởi (đức vua) Devānampiyatissa danh tiếng. Các vị ni ấy đã giảng dạy Luật cho những cư dân ở tại thành phố Anurādhapura. 26/- Mahāsoṇā, Dattā, Sīvalī là sáng suốt, Rūpasobhinī không dễ duôi đã được chư thiên và nhân loại tôn vinh. 27/- Nāgā, Nāgamittā, Dhammaguttā, Dāsikā, và Samuddā thực chứng Pháp Nhãn là thông suốt về Chánh Pháp và truyền thống. 28/- Sapattā, Channā, Upālī, Revatā, Sādhusammatā là những vị ni đứng đầu trong số những vị ni chuyên thuyết về Luật và là những người con gái của Somanadeva. 29/- Mālā, Khemā, Tissā là những vị ni hạng nhất về thuyết Pháp. Các vị ni ấy đã giảng dạy về Luật lần đầu tiên vào lúc đức vua Abhaya băng hà. 30/- Mahāruhā và Sīvalī thông suốt về Chánh Pháp và truyền thống là những vị ni đã gieo niềm tin với Giáo Pháp cho nhiều người ở Jambudīpa. 31/- Họ đã từ Jambudīpa đi đến nơi đây cùng với hai mươi ngàn (vị tỳ khưu ni) do được thỉnh cầu bởi đức vua Abhaya danh tiếng. 32/- Các vị ni ấy đã giảng dạy về Luật cho những cư dân ở tại thành phố Anurādhapura. Các vị còn dạy năm Bộ Kinh, và bảy Bộ (Diệu Pháp). 33/- Samuddā, Nāvā, Devī, Sīvalī là những người con gái của đức vua, Nāgapālī tự tin, Nāgamittā thông thái, 34/- Mahilā là vị quản lý các tỳ khưu ni và rành rẽ về Luật, Nāgā và Nāgamittā là thông suốt về Chánh Pháp và truyền thống. Lúc bấy giờ, các vị ni ấy đã được tu lên bậc trên ở hòn đảo Laṅkā. 35/- Khi ấy, tất cả các vị ni trên đều được thành tựu về xuất xứ và được nổi tiếng trong Giáo Hội. Họ đứng đầu trong số mười sáu ngàn vị ni và được giao phó trách nhiệm. 36/- Được tôn vinh bởi Kuṭikaṇṇa và Abhaya có danh tiếng, các vị ni ấy đã giảng dạy về Luật cho những cư dân ở tại thành phố Anurādhapura. 37/- Cūlanāgā, Dattā, Soṇā được xem là thánh thiện, Saṇhā danh tiếng là thông suốt về Chánh Pháp và truyền thống. 38/- Người con gái của Gamika có đại trí tuệ, Mahātissā tự tin, Mahāsumanā, Sumanā, Mahākālī thông thái. 39/- Lakkhadhammā đáng kính xuất thân gia đình vọng tộc và có danh tiếng lẫy lừng, Dīpanayā có đại trí tuệ được xem là thánh thiện ở Rohana. 40/- Samuddā được nổi tiếng và thông suốt về Chánh Pháp và truyền thống, các vị ni ấy là những vị thuộc về tông phái Vibhajja, nắm vững về Luật, và là tinh hoa của hội chúng. 41/- Lúc bấy giờ, các vị ni ấy đã được tu lên bậc trên ở hòn đảo Laṅkā. có tâm tư trong sạch, được thỏa thích trong Chánh Pháp và Luật. 42/- Các vị ni ấy là đa văn, nắm vững kiến thức, và đã thoát khỏi điều xấu xa. Các vị ni có danh tiếng lẫy lừng ấy đã phát sáng như những đống lửa rồi Niết Bàn. 43/- Hiện nay, cũng có những vị ni trưởng lão, trung niên, và tân thọ (tỳ khưu ni) khác là những vị thuộc về tông phái Vibhajja, nắm vững về Luật, là những vị bảo vệ Giáo Pháp, đa văn, có giới hạnh đã làm sáng chói trái đất này. 44/- Vị Sát-đế-lỵ Sīva đã trị vì vương quốc mười năm và đã cho thiết lập tu viện Nagaraṅgaṇaṃ xinh xắn. 45/- Vị Sát-đế-lỵ Sūratissa đã trị vì vương quốc được mười năm. Vị ấy đã cho xây dựng năm trăm tu viện là phước báu không phải nhỏ nhoi. 46/- Hai người Damila[2] Sena và Guttika đã bắt giữ đức vua Sūratissa. Hai người này đã trị vì vương quốc một cách công minh trong mười hai năm. 47/- Vị Sát-đế-lỵ Asela, con trai của đức vua Muṭasīva, đã giết chết Sena và Guttika rồi đã trị vì vương quốc được mười năm. 48/- Vị tên Eḷāra đã giết chết vị Sát-đế-lỵ tên Asela rồi đã trị vì vương quốc một cách công minh được bốn mươi bốn năm. 49/- Là người không thiên vị do ham muốn, do sân hận, do sợ hãi, hoặc do si mê, vị ấy hành xử công bằng và đã cai trị một cách công minh. Trời đã không đổ mưa vào ban ngày trong mùa lạnh và mùa nóng, thậm chí cả trong mùa mưa nữa. 50/- 51/- Vị Sát-đế-lỵ Abhaya, con trai của Kākavaṇṇa, được tùy tùng bởi mười dũng sĩ cùng với con voi Kaṇḍula đã giết chết đức vua Eḷāra và đã thống nhất lại dòng tộc. Vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc được hai mươi bốn năm.
Bhāṇavāraṃ aṭṭhārasamaṃ.
Mahāvāro niṭṭhito.
Aṭṭhārasamo paricchedo. --ooOoo--
EKŪNAVĪSATI
PARICCHEDO 1/- Đức vua đã cho xây dựng tòa lâu đài vô giá có bốn mặt cao chín tầng và đã chi phí hết ba mươi koṭi. 2/- 3/- Vị Sát-đế-lỵ đã cho thực hiện các công việc của phần nền móng gồm có vôi bột, đá tảng, đất sét, các viên gạch, đất tinh nhuyễn, luôn cả lưới sắt nữa, đá thạch anh, cát mịn, đá cuội, và đá tám cạnh. 4/- Đức vua đã phối hợp với hội chúng tỳ khưu về việc xác định khuôn viên ngôi bảo điện. Indagutta, Dhammasena, Piyadassī là các vị giảng sư có tầm vóc, 5/- Trưởng lão Buddharakkhita, luôn cả Dhammarakkhita, trưởng lão Saṅgharakkhita, và vị Mittiṇṇa tự tin, 6/- Còn vị Uttiṇṇa, Mahādeva, và trưởng lão Dhammarakkhita, Uttara, Cittagutta, và vị thông thái Candagutta, 7/- Và trưởng lão Suriyagutta có sự khôn ngoan bén nhạy; chính mười bốn vị trưởng lão ấy đã từ Jambudīpa đi đến nơi đây. 8/- Còn các vị Siddhattha, Maṅgala, Sumana, Paduma, Sīvalī, Candagutta, Suriyagutta, Indagutta, Sāgara, Mittasena, Jayasena, cùng với Acala là mười hai. 9/- Và ba người cư sĩ: Người con trai là Supatiṭṭhita Brahmā, người mẹ là Sumanā, và người cha là Nandisenaka. 10/- Đức vua đã cho xây dựng ngôi bảo tháp Mahāthūpa và tu viện Mahāvihāra (Đại Tự) tối thắng và đã cho xuất ra tài sản vô giá là hai mươi ... 11/- Sau khi lắng nghe lời giảng của hội chúng tỳ khưu về phận sự của vị (tỳ khưu) xuất hành, đức vua đã cúng dường dược phẩm đến vị xuất hành để việc sinh hoạt được phần thoải mái. 12/- Sau khi lắng nghe lời giảng của các vị tỳ khưu ni đã được khéo thuyết giảng vào thời điểm tương tợ, đức vua là vị chúa tể đã ban tặng đến các tỳ khưu ni theo như ước muốn. 13/- Và đức vua đã cho xây dựng ngôi bảo tháp bằng đá ở tu viện Cetiyapabbata và đã cho thực hiện giảng đường hội họp tối thắng có tên là Jalaka. 14/- Chủng viện có tên là Abhayagiri đã được khởi sự xây dựng ở nơi ấy, tại địa điểm vị ngoại đạo tên Giri đã cư ngụ. 15/- Các (vị vua) Pulahattha, Bāhiya, Panaya, Pilaya, và Dāṭhika ấy đã trị vì vương quốc được mười bốn năm và bảy tháng. 16/- Vị Sát-đế-lỵ tên Abhaya, con trai của Saddhātissa, đã giết chết Dāṭhika người Damila và đã trị vì vương quốc một cách tốt đẹp. 17/- Vị ấy đã cho thiết lập (tu viện) Abhayagiri ở khoảng giữa ngôi bảo tháp bằng đá và ngôi bảo điện. Vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc được mười hai năm năm tháng. 18/- Bảy vị dũng sĩ của vua Abhaya đã cho xây dựng năm tu viện. Bảy vị dũng sĩ ấy chính là Uttiya, Sāliya, Mūla, Tissa, Pabbata, Deva, và Uttara. 19/- Vị dũng sĩ tên Uttiya đã cho xây dựng chủng viện tên là Dakkhiṇa, vị Sāliya đã cho xây dựng tu viện Sāliya, và vị Mūla đã cho xây dựng khu cư trú Mūla. 20/- Vị Pabbata đã cho xây dựng tu viện Pabbata, vị Tissa đã cho xây dựng tu viện Tissa, còn Deva và Uttara đã cho xây dựng Devāgāra. 21/- Đức vua Mahātissa, con trai của Kākavaṇṇa, đã thỏa thuận với mọi người về thửa ruộng lúa Sāli thích ý rồi đã ban cho vị trưởng lão Summa chuyên tham thiền và có tâm tư an tịnh. 22/- Đức vua đã thực hiện điều thỏa thuận ấy tròn đủ ba năm và đã tiến hành cuộc đại thí đến nhiều ngàn vị tỳ khưu. 23/- Với phước báu đã tạo, vị đại trí tuệ Abhaya Duṭṭhagāmaṇi ấy khi thân thể hoại diệt đã đến với tập thể ở cõi trời Tusitā (Đẩu Suất).
Bhāṇavāraṃ ekūnavīsatimaṃ.
Ekūnavīsatimo paricchedo. --ooOoo--
VĪSATIMO
PARICCHEDO 1/- Người con trai của Kākavaṇṇa được biết tiếng với tên là Tissa đã cho thực hiện phần dở dang như là công việc làm lọng che, v.v... ở ngôi đại bảo tháp. 2/- Chủng viện Dakkhiṇagiri đã được cho xây dựng bởi Kallakalla và nhiều chủng viện khác nữa đã được cho xây dựng bởi Saddhātissa. 3/- Tương ứng với tám mươi bốn ngàn Pháp uẩn, vị ấy đã thực hiện sự cúng dường riêng biệt đến từng Pháp uẩn một. 4/- Saddhātissa có danh tiếng lẫy lừng đã cho thực hiện tòa nhà bảy tầng xinh xắn và đã cho lợp bằng ngói đồng. Tòa nhà ấy có danh hiệu đầu tiên được gọi là Lohapāsāda (Lầu đài bằng đồng). 5/- Vị ấy đã cho xây dựng máng vòm (kañcuka) ở tại ngôi đại bảo tháp cao quý tối thượng và đã cho thực hiện hàng rào đầu voi bao quanh ngôi bảo điện. 6/- Vị Sát-đế-lỵ đã cho xây dựng hồ nước hình tứ giác có tính chất tạm thời và đã trị vì vương quốc được mười tám năm. 7/- Bậc trí tuệ ấy đã thực hiện nhiều phước báu khác nữa và đã ban phát vật thí không phải là nhỏ nhoi, đến khi thân thể tiêu hoại đã sanh về cõi trời Tusitā (Đẩu Suất). 8/- Người con trai của Saddhātissa được biết tiếng là Thullatthana đã cho xây dựng ngôi chủng viện xinh xắn Alakandara. 9/- Vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc được một tháng mười ngày. Có người con trai của Saddhātissa được biết tiếng là Lajjitissa. 10/- Vị ấy đã cai quản lãnh thổ được chín năm sáu tháng và đã cho thực hiện ba dấu hiệu (tilañchana) ở tại ngôi đại bảo tháp cao quý tối thượng. 11/- Vị ấy đã cho thiết lập tu viện tên là Girikumbhila và đã cho xây dựng ngôi bảo tháp Dīghathūpa ở về phía đông của tu viện Bảo Tháp (Thūpārāma). 12/- Vị ấy đã cho thực hiện các máng vòm bằng đá ở tại tu viện Bảo Tháp xinh đẹp. Khi Lajjakatissa chết đi, người em trai của vị ấy tên là Khallāṭanāga đã trị vì vương quốc chỉ được sáu năm. 13/- Vị tổng tư lệnh tên Mahāraṭṭhaka là kẻ vô ân đã giết chết vị vua ấy và đã trị vì vương quốc được một ngày. 14/- Nhưng người em trai của vị vua ấy tên là Vaṭṭagāmaṇī đã giết chết người thống lãnh quân đội xấu xa và đã trị vị vương quốc được năm tháng. 15/- Còn vị Pulahattha người Damila đã trị vì được ba năm và vị tổng tư lệnh Bāhiya đã trị vì vương quốc được hai năm. 16/- Panayamāro đã giết chết vị ấy và đã trị vì được bảy năm. Pilayamāro đã giết chết vị ấy và đã trị vì được bảy tháng. 17/- Vị tên Dāṭhiya đã giết chết vị ấy và đã trị vì được hai năm. Năm vị vua trung gian có nguồn gốc Damila ấy đã trị vì vương quốc được mười bốn năm bảy tháng. 18/- Đức vua Vaṭṭagāmaṇī ấy có danh tiếng lẫy lừng đã đi đến giết chết Dāṭhika người Damila và đã đích thân trị vì vương quốc. 19/- Như vậy, đức vua Vaṭṭagāmaṇī Abhaya đã trị vì vương quốc trong mười hai năm và trước đó là năm tháng. 20/- Từ trước, các vị tỳ khưu có đại trí tuệ đã lưu truyền Tam Tạng Pāli và Chú Giải Tam Tạng theo phương thức truyền khẩu. 21/- Khi ấy, các vị tỳ khưu nhận thấy sự thoái hoá của chúng sanh nên đã tụ hội lại và đã cho ghi lại ở các tập sách nhằm mục đích duy trì Giáo Pháp dài lâu. 22/- Khi vị ấy băng hà, Mahācūli Mahātissa đã trị vì vương quốc một cách chính trực và công bằng được mười bốn năm. 23/- Vị vua ấy đã thành tựu được niềm tin và đã thực hiện các phước thiện bằng nhiều hình thức và đã sanh về cõi trời sau mười bốn năm. 24/- Được biết tiếng là Coranāga (Cướp Chúa), người con trai của Vaṭṭagāmaṇī đã trở thành kẻ cướp đã trị vì vương quốc được mười hai năm. 25/- Người con trai của Mahācūḷi là vị Sát-đế-lỵ được biết tiếng với tên là Tissa đã trị vì vương quốc ở trên hòn đảo được ba năm. 26/- Đức vua tên Sīva sống chung với hoàng hậu Anulā đã cai quản lãnh thổ được một năm và hai tháng. 27/- Vị vua tên Vaṭuka người Damila là người xứ sở khác đã cai quản lãnh thổ được một năm và hai tháng. 28/- Vị vua tên là Tissa ấy, được biết tiếng là “Thợ đốn gỗ,” đã trị vì vương quốc ở trong thành phố được một năm và một tháng. 29/- Vị chúa tể tên Nīliya là người Damila dòng dõi Bà-la-môn đã trị vì vương quốc ở Tambapaṇṇi được sáu tháng. 30/- Khi ấy, vị hoàng hậu tên Anulā ấy đã giết chết Nīliya và đã cai quản lãnh thổ ở trên hòn đảo được bốn tháng. 31/- 32/- Người con trai của Mahācūli tên là Kuṭikaṇṇatissa đã tẩu thoát và đã xuất gia, đến khi đạt được binh lực ở tại nơi ấy đã đi đến giết chết hoàng hậu Anulā có tâm tư xấu xa ấy và đã cho xây dựng nhà hành lễ Uposatha tại chủng viện ở trên núi Cetiya. Sau khi đoạt lấy vương quốc, vị ấy đã điều hành ở trên hòn đảo một cách công minh. 33/- Ở phía trước nhà hành lễ Uposatha, đức vua đã cho xây dựng ngôi bảo tháp bằng đá xinh xắn, đã cho trồng cội Bồ Đề ở ngay tại nơi ấy, và đã cho thực hiện khuôn viên rộng lớn. 34/- Vị ấy đã cho xây dựng nhà tắm vì nhu cầu của các tỳ khưu ni và đã cho thực hiện hàng rào ở khu lâm viên Padumassara. 35/- Vị ấy đã cho đào hào xung quanh nhằm mục đích bảo vệ thành phố và đã cho xây dựng tường thành bao quanh (rộng) bảy cánh tay không được thiếu hụt. 36/- Và đã cho thực hiện hồ nước lớn Khemadugga xinh đẹp, hồ nước Setuppala, v.v..., và kênh đào tên Vaṇṇaka. Vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc được hai mươi hai năm.
Bhāṇavāraṃ vīsatimaṃ.
Vīsatimo paricchedo. --ooOoo--
EKAVĪSATIMO PARICCHEDO 1/- Người con trai của Kuṭikaṇṇa là vị Sát-đế-lỵ tên Abhaya đã đích thân đi đến để đảnh lễ ngôi Đại Bảo Tháp cao quý xinh đẹp. 2/- Khi ấy, các vị (tỳ khưu) có các lậu hoặc đã tận, đã thành tựu sự thu thúc, không ô nhiễm, có tâm ý trong sạch đang trì tụng tại gian phòng thờ xá-lợi với mục đích tôn vinh đấng Mâu Ni. 3/- Sau khi lắng nghe lời trì tụng ở tại gian phòng thờ xá-lợi xinh xắn, đức vua đã hướng vai phải nhiễu quanh ngôi bảo tháp nhưng đã không nhìn thấy gì qua bốn cánh cửa. 4/- Sau khi đã lễ bái xung quanh và lắng nghe lời trì tụng tối thắng, đức vua đã suy nghĩ rằng: “(Hội chúng) đã tiến hành việc trì tụng ở nơi nào? 5/- (Hội chúng) đã không trì tụng tại bốn cánh cổng, cũng không thể thực hiện ở bên ngoài. Các ngài trí thức đang trì tụng tại nơi đây, ngay ở bên trong gian phòng thờ xá-lợi. 6/- Ta cũng có ước muốn quan sát gian phòng thờ xá-lợi cao quý tối thượng. Ta cũng sẽ lắng nghe lời trì tụng và chiêm ngưỡng hội chúng tỳ khưu.” 7/- Biết được ý định của đức vua, Sakka chúa của chư thiên đã hiện ra tại gian phòng thờ xá-lợi và đã trình bày với các vị trưởng lão rằng: 8/- “Thưa các ngài, đức vua có ước muốn nhìn xem ở bên trong gian phòng thờ xá-lợi.” Nhằm mục đích hộ trì niềm tin, các vị ấy đã hướng dẫn (đức vua) đến gian phòng thờ xá-lợi. 9/- Sau khi nhìn xem gian phòng thờ xá-lợi, đức vua được phát sanh trí tuệ đã chắp tay lên, rồi đã thực hiện lễ cúng dường trọng thể đến xá-lợi luôn cả bảy ngày. 10/- Đức vua đã bảy lần thực hiện sự cúng dường những khối mật ong một cách thỏa ý và đã bảy lần tiến hành toàn bộ các sự cúng dường đều có giá trị vô ngần. 11/- Và đã bảy lần thực hiện sự cúng dường khác có giá trị tương tợ, rồi đã bảy lần thực hiện sự cúng dường đèn đuốc và còn được lặp lại nhiều lần. 12/- Đức vua đã bảy lần thực hiện sự cúng dường bông hoa một cách thỏa ý và đã tiến hành sự cúng dường các chum đầy nước ở tại nơi ấy bảy ngày. 13/- Đức vua đã cho thực hiện ở tại ngôi Đại Bảo Tháp mạng lưới vô giá làm bằng san hô và được trùm lên như là đã được mặc vào y phục. 14/- Rồi đã thực hiện cột đèn vững chải ở xung quanh chân vách tường của ngôi bảo tháp, sau đó đã cho đổ bơ lỏng đầy ống dẫn rồi đã cho đốt sáng đèn theo bảy cách thức. 15/- Sau khi đã làm đầy ống dẫn dầu ở xung quanh chân vách tường của ngôi bảo tháp, đức vua đã cho thắp sáng các ngọn đèn dầu đến mười bốn lần. 16/- Sau khi đã cho đổ đầy với nước thơm và thực hiện thảm trải ở đỉnh tháp, đức vua đã rải đều những đóa hoa sen ở trên tay và đã tiến hành bảy lần. 17/- Tại hồ nước tên Tissa ở khu vực phía tây của ngôi bảo tháp, đức vua đã cho nối liền ống dẫn rồi đã thực hiện sự cúng dường nước ở tại nơi ấy. 18/- Và đức vua đã cho trồng bông hoa toàn bộ xung quanh một do-tuần và đã thực hiện cụm bông hoa ở tại ngôi Đại Bảo Tháp cao quý tối thượng. 19/- Vị Sát-đế-lỵ đã tập trung lại bông hoa búp chớm nở rồi đã cho thực hiện cụm bông hoa đến mười bốn lần. 20/- Ở nơi ấy, vị Sát-đế-lỵ đã cho tập trung lại nhiều loại bông hoa rồi đã bảy lần cho thực hiện sân dạo có hàng rào và cột trụ bông hoa, sau đó đã cho thực hiện lặp lại nhiều lần với nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích cúng dường. 21/- Ở nơi ấy tại ngôi Đại Bảo Tháp cao quý, đức vua đã cho thực hiện việc làm sạch sẽ rồi đã tiến hành lễ đăng quang và xây dựng ngôi bảo tháp hoàng gia. 22/- Người con trai dòng Sākya (Thích Ca), bậc Đại Hùng, đã thực hiện việc chứng đắc tất cả các Pháp ở cạnh cội cây Assattha và (trở thành) đấng Tối Thượng. 23/- Vị Sát-đế-lỵ cũng đã tiến hành lễ đăng quang và (trở thành) đấng quân vương ở tại gốc Bồ Đề là cội cây làm rạng ngời hòn đảo đã được trồng ở khu vườn Meghavana xinh đẹp. 24/- Trải qua mùa an cư mưa, hội chúng tỳ khưu là nguồn đem lại sự an lạc đã tiến hành lễ Pavāraṇā (Tự Tứ). Để hổ trợ lễ Pavāraṇā, đức vua đã cúng dường phẩm vật cho lễ Pavāraṇā. 25/- Đức vua đã cúng dường sự tôn kính và phẩm vật đến hội chúng tỳ khưu cao quý tối thượng rồi đã hiến dâng tiếng trống hùng hồn đến ngôi Đại Bảo Tháp cao quý ở tại nơi ấy. 26/- Đức vua đã tập trung tất cả các nam nữ vũ công hàng đầu và là niềm tự hào của xứ sở Laṅkā rồi đã ban thưởng ở tại ngôi Đại Bảo Tháp. 27/- Vào ngày trăng tròn tháng Vesākha, đấng Chánh Đẳng Giác ấy đã hiện khởi, đức vua đã cho tiến hành hai mươi tám lần nhằm mục đích cúng dường tháng ấy. 28/- Ở khoảng giữa hai chủng viện, khu vườn Mahāmegha xinh đẹp và tu viện Bảo Tháp, đức vua đã cho xây dựng nhà hành lễ Uposatha. 29/- Đức vua đã thực hiện nhiều phước báu khác và cúng dường phẩm vật vô giá nữa. Vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc được hai mươi tám năm. 30/- 31/- Vị Sát-đế-lỵ tên Nāga, con trai của Kuṭikaṇṇa, đã cho thực hiện các vật cao quý tối thắng như là gạch làm bằng ngọc quý, v.v... và Pháp tọa ở khắp mọi nơi tại Ambatthala cao quý. Ở tại nơi ấy, vị ấy đã tiến hành lễ đại thí gọi là lễ Giribhaṇḍagahaṇa. 32/- Các vị tỳ khưu hiền thiện ở trên hòn đảo Laṅkā được bao nhiêu, với sự tôn kính đức vua đã cúng dường y phục đến tất cả các vị trong hội chúng tỳ khưu. Vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc được mười hai năm. 33/- Người con trai của Mahādāṭhika tên Āmaṇḍagāmiṇi, tức là vị vua được biết tiếng là Abhaya, đã trở thành vị chúa tể ở trên hòn đảo. 34/- Đức vua đã cho đào giếng nước luôn cả hồ nước Gāmeṇḍitaḷāka nữa. Còn đối với ngôi bảo tháp, đức vua đã cho thực hiện Rajatalena được làm bằng kim loại bạc. 35/- Đức vua đã cho thực hiện chiếc lọng che hai tầng ở tại tu viện Bảo Tháp cao quý tối thượng và dãy nhà quý báu ở tại hai nơi, Mahāvihāra (Đại Tự) và Thūpārāma (Tu viện Bảo Tháp). 36/- Đức vua đã cho xây dựng hoàn hảo gian nhà chứa vật dụng và phòng kho chứa vật dụng và đã truyền lệnh không được giết hại ở trên hòn đảo Tambapaṇṇi. Vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc được chín năm tám tháng. 37/- Người em trai của vị ấy được biết tiếng là Kaṇīrajānu Tissa. Vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc tròn đủ ba năm. 38/- Người con trai của Āmaṇḍagāmiṇi được biết tiếng là Cūlābhaya. Vị vua ấy đã cho thiết lập tu viện tối thắng Gaggarārāma. Đức vua Cūlābhaya đã trị vì vương quốc được một năm 39/- Người con gái của đức vua Āmaṇḍa là vị hoàng hậu tên Sīvalī và được biết tiếng là Revatī đã trị vì vương quốc được bốn tháng. 40/- Nhưng người cháu cậu của Āmaṇḍa tên là Ilanāga đã truất phế hoàng hậu Sīvalī ấy rồi đã trị vì vương quốc ở trong thành phố. 41/- Đức vua tên Ilanāga, vị chúa vô địch, sau khi nghe được câu chuyện Bổn Sanh Con Khỉ đã cho đào hai hồ nước Tissa và Dūra. 42/- Vị ấy đã trị vì vương quốc ở hòn đảo Laṅkā được sáu năm. Vị vua có tên là Sīva, được biết tiếng là Candamukha, đã xây dựng tu viện Maṇikārāma ở tại chủng viện có tên là Issara. 43/- Hoàng hậu của vị vua ấy được biết tiếng là Damilādevī. Khi ấy, nàng ấy đã trao tặng phần thu nhập ở ngôi làng đến tu viện. Vị Sát-đế-lỵ đã trị vì vương quốc được tám năm bảy tháng. 44/- 45/- 46/- Khi ấy, vị ấy đã cho xây dựng phòng ốc đặt theo tên của mình. Đức vua đã trị vì vương quốc ở trên hòn đảo được sáu năm.
Bhāṇavāraṃ ekavīsatimaṃ.
Ekavīsatimo paricchedo. --ooOoo--
DVEVĪSATIMO
PARICCHEDO 1/- Đức vua tên Vasabha ấy đã cho thực hiện mười ngôi bảo tháp tại tu viện ở ngọn núi Cittala và vô số sự cúng dường tối thượng. 2/- Ở tại tu viện tên là Issariya, đức vua đã cho xây dựng chủng viện xinh đẹp và nhà hành lễ Uposatha xinh xắn đẹp đẽ. 3/- Đức vua đã cho thực hiện tiếng trống hùng hồn để cúng dường đến ngôi tu viện tuyệt vời và đã cúng dường y phục đến hội chúng tỳ khưu không phải là ít. 4/- Có những tu viện bị hư hỏng ở khắp nơi trên hòn đảo Laṅkā, đức vua đã cho xây dựng trú xứ ở khắp các nơi và tiến hành sự cúng dường Pháp Bảo vô cùng xứng đáng. 5/- Đức vua đã cho xây dựng gian bảo điện ở tại Thūpārāma (tu viện Bảo Tháp) cao quý tối thượng, và tại chính nơi ấy đã cúng dường bốn mươi bốn ngàn không thiếu sót. 6/- Ở tại Mahāvihāra (Đại Tự) và Thūpārāma (tu viện Bảo Tháp) ở núi Cetiya, đức vua đã cho thắp lên hàng ngàn cây đèn dầu. 7/- 8/- Mười một hồ chứa nước (đã được xây dựng) là: Hồ Mayanti, Rājuppalika, Kolamba, Mahānikkhavaṭṭi, hai hồ tên Mahāgāma, Kehāla, Kāla, Jambuṭṭi, Vāthamaṅgana, Abhivaḍḍhamānaka. 9/- Đức vua đã xây dựng mười hai kênh dẫn nước cho vấn đề lương thực được dễ dàng và đã thực hiện nhiều loại phước thiện, tường thành, và hào lũy ở trong thành phố. 10/- Đức vua đã cho xây dựng tháp canh ở cổng thành, đã cho thực hiện quảng trường rộng lớn, và đã cho đào các hồ sen ở nhiều nơi trong kinh thành. 11/- Đức vua vĩ đại đã cho dẫn nước vào bằng đường ống ngầm. Vị quân vương đã trị vì vương quốc được bốn mươi bốn năm. 12/- Khi Vasabha băng hà, người con trai là Vaṅkanāsika Tissa lên làm vua đã cho xây dựng tu viện tên là Maṅgala. 13/- Người con trai hậu duệ của Tissa là Gajabāhuka Gāmiṇi đã cho xây dựng ngôi bảo tháp lớn ở tu viện Abhayārāma xinh đẹp. 14/- Vị lãnh tụ đã cho xây dựng hồ
nước tên là Gāmaṇī theo ước muốn của người mẹ. Và vị quân vương đã cho
xây dựng tu viện tên là Rammaka. Đức vua đã trị vì vương quốc ở trên hòn
đảo được hai mươi hai năm. 16/- Vị quân vương ở tại Tambapaṇṇi tên là Mahallanāga đã cho xây dựng tu viện Sājīlakandaka, Goṭhapabbata ở phía nam, tu viện Dakapāsāna, chủng viện Sālipabbata, (tu viện) Tenaveli, và Nāgapabbata ở Rohana. 17/- Tương tợ như thế, vị ấy đã cho xây dựng (tu viện) Girisāḷi ở trong vương quốc và đã ra đi khi chấm dứt tuổi thọ sau khi trị vì vương quốc được sáu năm. 18/- 19/- Người con trai của Mahallanāga được biết tiếng là Bhātiyatissa. Nhằm bảo vệ khu lâm viên Mahāmegha, đức vua đã cho xây dựng tường rào bao bọc có gắn cổng. Và vị vua ấy đã cho xây dựng tu viện mang tên của chính bản thân. 20/- Sau khi cho đào hồ nước Mahāgāmani, đức vua được biết tiếng là Bhātiyatissa đã dâng lên hội chúng tỳ khưu. 21/- Đức vua đã cho đào hồ nước ấy tên là Randhakaṇḍaka và đã cho xây dựng nhà hành lễ Uposatha ở Thūpārāma xinh đẹp. 22/- Đức vua đã dâng cúng lễ đại thí đến hội chúng tỳ khưu và đã trị vì vương quốc ở trên hòn đảo được hai mươi bốn năm. 23/- Người em trai của vị ấy khéo được biết tiếng với tên là Tissa đã cho xây dựng nhà hành lễ Uposatha ở tu viện Abhaya xinh đẹp. 24/- Và vị ấy đã cho xây dựng mười hai dinh thự ở Mahāvihāra (Đại Tự) và đã cho thực hiện gian nhà của ngôi bảo tháp ở tu viện có tên là Dakkhiṇārāma. 25/- Kể từ đó, đức vua đã thực hiện nhiều phước thiện khác trong Phật Giáo và đã trị vì vương quốc được hai mươi tám năm. 26/- rajjaṃ
kāresuṃ dīpamhi tīṇi vassāni bhūmipā. 27/- Còn Vaṅkanāsika Tisso là vị vua xứng đáng bởi những việc làm phước thiện đã trị vì vương quốc ở kinh thành Anurādhapura được ba năm. 28/- Khi Vaṅkanāsika Tisso băng hà, người con trai là Gajabāhuka Gāmaṇī đã trị vì vương quốc được hai mươi hai năm. 29/- Khi Gajabāhu băng hà, người cha vợ của vị vua ấy là Mahallaka Nāga đã trị vì vương quốc được sáu năm. 30/- Còn người con trai của Mahallanāga là đức vua Bhātika Tissa đã trị vì vương quốc Laṅkā được hai mươi bốn năm. 31/- Khi vị Bhātika Tissa ấy băng hà, người em trai là Kaṇiṭṭhatissa đã trị vì vương quốc ở trên hòn đảo được hai mươi tám năm. 32/- Khi Kaṇiṭṭhatissa băng hà, người con trai của vị ấy được biết tiếngt là Khujjanāga đã trị vì vương quốc được hai năm. 33/- Người em trai của Khujjanāga là Kujjanāga đã giết chết vị ấy là người anh em trai của chính mình và đã trị vì vương quốc Laṅkā được một năm. 34/- Với chiến thắng đạt được, Sirināgađã trị vì vương quốc Laṅkā được mười chín năm ở tại thành Anurādhapura cao quý. 35/- Vị có tên là Sirināga đã cúng dường tràng hoa bằng châu ngọc đến ngôi Đại Bảo Tháp cao quý tối thượng, đã thực hiện lọng che ở ngôi bảo tháp, và đã cho xây dựng nhà hành lễ Uposatha ở tại Lohapasāda (Lâu đài bằng đồng) tối thắng. 36/- Đức vua tên Abhaya, người con trai của Sirināga, đã bảo mang đến nhiều vải vóc trị giá hai trăm ngàn và đã dâng lên hội chúng tỳ khưu sự cúng dường vải vô cùng giá trị. 37/- Rồi đã cho thực hiện đường viền bằng đá ở xung quanh cội Đại Bồ Đề. Vị ấy đã trị vì vương quốc ở tại thành phố được tám năm. 38/- Người em trai của vị ấy được biết tiếng là Tissaka lên ngôi vua đã cho xây dựng chiếc lọng che tối thắng ở ngôi Đại Bảo Tháp tại tu viện Abhayārāma. 39/- Đức vua đã thực hiện ngôi bảo tháp ở cả hai chủng viện tối thắng là Mahāmeghavana xinh đẹp và tu viện Abhayārāma tuyệt vời. 40/- Sau khi lắng nghe trưởng lão Deva thuyết giảng bài kinh về người bệnh, đức vua đã cúng dường dược phẩm trị bệnh và đã cho thực hiện năm trú xứ rộng rãi và các cây cột đèn ở khu vực lân cận cội Đại Bồ Đề. 41/- Nhưng trong triều đại của vị vua ấy, có những vị công bố nhiều điều không được phép. Sau khi công bố những lời nguỵ biện, họ đã bôi nhọ Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. Cùng với viên quan cố vấn Kapila, đức vua đã thực hiện việc trừng phạt những kẻ xấu. 42/- Sau khi nhận ra các vị tỳ khưu xấu xa đang bôi nhọ Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, đức vua cùng với viên quan cố vấn Kapila đã thực hiện việc trừng phạt những kẻ xấu. Sau khi bác bỏ lời nguỵ biện, đức vua là người đã làm rạng rỡ Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. 43/- Ở nơi ấy, vị chúa tể đã xây dựng lâu đài Sattipaṇhika ở tại Meghavana và đã trị vì vương quốc được hai mươi hai năm. 44/- Khi vị Tissa băng hà, người con trai được biết tiếng là Sirināga đã trị vì vương quốc ở trên hòn đảo được hai năm không thiếu sót. 45/- Khi ấy, vị tên Sirināga này đã cho thực hiện hàng rào xung quanh cội Đại Bồ Đề và mái che xinh xắn. 46/- Ở tại ngôi Đại Bảo Tháp cao quý tối thượng, vị vua tên Saṅghatissa đã cho thực hiện chiếc lọng che bằng vàng ở đỉnh đầu của ngôi bảo tháp. 47/- Ở tại ngôi Đại Bảo Tháp, đức vua đã cho thực hiện chóp nhọn của ngôi bảo tháp bằng ngọc ma-ni. Lẽ đương nhiên, đức vua đã tiến hành lễ cúng dường liên quan đến việc làm ấy. 48/- Sau khi lắng nghe trưởng lão Deva thuyết giảng đề tài liên quan đến Andhakavinda,[3] vị chúa vô địch đã cho thành lập (việc bố thí) cháo thường kỳ tại bốn cổng thành. 49/- Sau khi người cha băng hà, con trai của Sirināga tên là Vijayakumāraka đã trị vì vương quốc được một năm. 50/- Saṅghatisso đã trị vì vương quốc được bốn năm. Vị ấy đã cho thực hiện chiếc lọng che và công việc (thếp) vàng ở ngôi Đại Bảo Tháp. 51/- Đức vua tên là Saṅghabodhi là vị có giới hạnh tốt đẹp và đã trị vì vương quốc ở tại thành Anurādhapura chỉ được hai năm. 52/- Vị chúa vô địch đã cho thành lập (việc bố thí) cháo thường kỳ tại khu lâm viên Meghavana xinh đẹp và việc rút thăm (vật thực) tại tu viện Mahāvihāra (Đại Tự) tối thắng. 53/- Vị vua tên là Abhaya được biết tiếng là Meghavaṇṇa đã cho thực hiện mái che bằng đá ở tại tu viện Mahāvihāra (Đại Tự) tối thắng. 54/- Đức vua đã cho thực hiện khu vực tham thiền ở phía tây của tu viện Mahāvihāra (Đại Tự) và đã cho xây dựng đường viền bằng đá ở xung quanh cội Đại Bồ Đề. 55/- Đức vua đã cho thực hiện hào rãnh bằng đá và cổng chào vô cùng xứng hợp và đã cho xây dựng bồ đoàn bằng đá ở điện thờ tối thắng của cội Đại Bồ Đề. 56/- Vị ấy đã cho thực hiện nhà hành lễ Uposatha ở bên trong tu viện Dakkhiṇārāma và đã cúng dường lễ đại thí đến hội chúng tỳ khưu cao quý tối thượng. 57/- Đức vua đã xây dựng hoàng cung có khuôn viên rộng lớn và xinh đẹp. Đức vua đã cúng dường đến hội chúng tỳ khưu rồi sau đó mới tiếp nhận. 58/- Khi ấy, đức vua đã cho tiến hành lễ cúng dường lễ hội Vesākha tại Meghavana. Vị ấy đã điều hành lãnh thổ được mười ba năm. 59/- Người con trai của Meghavaṇṇa Jeṭṭhatissa đã lên ngôi vua. Vị quân vương đã trị vì vương quốc ở trên hòn đảo Tambapaṇṇi. 60/- Đức vua đã cúng dường ngọc ma-ni vô cùng quý giá ở tại ngôi Đại Bảo Tháp cao quý tối thượng, sau đó đã xây dựng Lohapāsāda (Lầu đài bằng đồng) và cúng dường ngọc ma-ni thượng hạng, rồi đã quy định danh xưng là “Lầu Đài Ngọc Ma-Ni.” 61/- Vị quân vương tên là Tissa đã cho xây dựng tu viện Pācīnatissapabbata rồi đã dâng lên hội chúng tỳ khưu. 62/- Vị quân vương ấy đã cho đào hồ nước Ālambagāma. Vị lãnh tụ của dân chúng đã cho thực hiện lễ cúng dường trong tám năm. Đức vua đã trị vì vương quốc ở trên hòn đảo được mười năm 63/- Khi đức vua Jeṭṭhatissa băng hà, người em trai của vị ấy là Mahāsena đã trị vì vương quốc được hai mươi bảy năm 64/- Lúc bấy giờ, đức vua ấy đã suy nghĩ rằng: “Trong Giáo Hội có nhiều vị tỳ khưu, những vị tỳ khưu nào là nói đúng Pháp, và những vị nào là nói sai Pháp?” 65/- Sau khi đã suy xét về sự việc này, đức vua đã tầm cầu những vị khiêm tốn và đã nhận biết rằng những vị tỳ khưu xấu xa là những kẻ bôi nhọ Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. 66/- Và đức vua đã xem những vị có sở hành xấu xa đáng ghê tởm như là những xác chết hôi thối và (xem) những vị có hình thức như thế không phải là sa-môn và không có tồn tại. 67/- Trong khi đến gặp Dummitta, Pāpasoṇa, và những vị vô liêm sĩ khác, đức vua đã hỏi các vị tỳ khưu xấu xa về ý nghĩa và Giáo Pháp 68/- Dummitta, Pāpasoṇa, và những vị vô liêm sĩ khác đã đi đến nơi kín đáo rồi bàn bạc nhằm mục đích bôi nhọ các bậc đức hạnh. 69/- Khi ấy, cả hai vị ấy đã kết hợp lại và đã công bố đến các vị thuộc nhóm Mahāvihāra (Đại Tự) về điều đã được cho phép và đúng Pháp là: “Điều không được phép.” 70/- Các vị vô liêm sĩ, hành ác pháp đã công bố sự việc mặc y luộm thuộm, v.v... trong câu chuyện của nhóm Lục Sư là: “Đã được cho phép.” 71/- Vì nguyên nhân lợi lộc, các vị vô liêm sĩ đã đưa ra nhiều vấn đề thuộc Giáo Pháp đã được (đức Phật) thuyết giảng rồi đã công bố là: “Sai Pháp.” 72/- Do sự thân cận không tốt đẹp như vậy, sau khi thực hiện điều tốt cũng như không tốt đến cuối cuộc đời, đức vua Mahāsena ấy đã ra đi theo nghiệp tương ứng. 73/- Vì thế, người khôn ngoan nên tránh né từ đàng xa việc thân cận không tốt đẹp (giống như tránh xa) loài rắn là con thú có nọc độc, và nên thực hành điều tốt đẹp có lợi ích.
Dvevīsatimo paricchedo.
Dīpavaṃso niṭṭhito.
NIBBĀNA PACCAYO HOTU. --ooOoo-- [1] Một tên gọi khác của Theravāda và là truyền thống Phật Giáo ở Sri Lanka thời bấy giờ. [2] Là người Tamil hiện nay. [3] Đức Phật đề cập mười lợi ích của cháo và khuyến khích việc bố thí cháo lúc ngự đến Andhakavinda (Luật Đại Phẩm, chương VI). -ooOoo- |
Chân thành cám ơn Tỳ khưu Indachanda đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 08-2005)
[Trở về
trang Thư Mục]
last updated: 22-08-2005