Phẩm Mười Bảy
ĐỘ NHIẾP (Phần 2)
Giải thích:
Đã nói sự tu tập sáu ba-la-mật, kế nói sự sai biệt của sáu ba-la-mật.
Sự sai biệt của sáu ba-la-mật có sáu nghĩa: 1. Tự tánh; 2. Nhân tố; 3. Thành quả; 4. Nghiệp dụng; 5. Tương ứng; 6. Phẩm loại.
[0629b10] Kệ tụng:
Thí người và cùng tư
Hai thành và hai nhiếp
Trú ở đủ không xan
Pháp, tài, vô úy ba.
Giải thích:
Kệ tụng này nói sáu nghĩa của bố thí ba-la-mật.
Thí người: Tự tánh của bố thí là đem tài vật của mình thí cho người nhận.
Cùng tư: Nhân tố của bố thí là thiện căn không tham cùng sanh với tư (tâm sở).
Hai thành: Thành quả của bố thí là thành tựu tiền tài và thành tựu bản thân. Thành tựu bản thân bao gồm năm sự là thọ mạng v.v…, như năm sự mà trong kinh có ghi: Người bố thí bữa ăn có được năm sự: 1. Thọ mạng; 2. Dung sắc; 3. An lạc; 4. Sức mạnh; 5. Biện tài.
Hai nhiếp: Nghiệp dụng của bố thí là đầy đủ hai nhiếp, lợi mình lợi người và đầy đủ đại bồ-đề.
Trú ở đủ không xan: Tương ứng của bố thí là trú ở đầy đủ trong tâm người không tham lận.
Pháp, tài, vô úy ba: Phẩm loại của bố thí, có ba phẩm loại: 1. Thí chánh pháp; 2. Thí tài sản; 3. Thí vô úy.
Sáu nghĩa như vậy, người trí nên biết để tu tập.
[0629b23] Kệ tụng:
Sáu chi, diệt hữu biên
Thiện đạo và chấp trì
Phước dồn chứa đầy đủ
Hai đắc là hai loại.
Giải thích:
Kệ tụng này nói sáu nghĩa của trì giới ba-la-mật.
Sáu chi: Tự tánh của trì giới, là trú đầy đủ tịnh giới, cho đến tiếp nhận và học tập đầy đủ các học xứ.
Diệt hữu biên: Nhân tố của trì giới, là vì cầu niết-bàn, vượt qua các hữu biên nên phải tiếp nhận và thực hành giới. Diệt nghĩa là niết-bàn.
Thiện đạo: Thành quả của trì giới, là nhân giới mà có được thiện đạo, không hối hận v.v... tuần tự cho đến tâm trú điều phục [trong chín thứ tâm trú].
Chấp trì: Nghiệp dụng của trì giới. Giới có ba khả năng: 1. Khả năng nắm giữ: trì giới có khả năng nắm giữ tất cả công đức như khả năng của đại địa; 2. Khả năng yên lặng: trì giới có khả năng ngưng dứt tất cả phiền não nóng bức; 3. Khả năng không sợ hãi: trì giới có khả năng ngăn ngừa tất cả nhân duyên sanh khởi các tội là sợ hãi, oán ghét v.v... do không sợ hãi nên không sanh khởi các tội.
Phước dồn chứa đầy đủ: Tương ứng của trì giới, là trong tất cả thời gian, ba nghiệp thân, khẩu, ý đều hành thiện hạnh.
Hai đắc là hai loại: Phẩm loại của trì giới. Hai đắc là thọ đắc và pháp đắc. Thọ đắc là sự phòng hộ của ba-la-đề-mộc-xoa. Pháp đắc là sự phòng hộ của thiền định và sự phòng hộ của vô lưu định.
[0629c08] Kệ tụng:
Không báo oán, nhẫn, trí
Đại bi, nương tựa pháp
Năm đức và hai lợi
Tối thắng, ba loại nhẫn.
Giải thích:
Kệ tụng này nói sáu nghĩa của nhẫn nhục ba-la-mật.
Không báo oán, nhẫn, trí: Tự tánh của nhẫn nhục. Ba tự tánh của nhẫn nhục là: 1. Không báo oán; 2. Nhẫn nại; 3. Trí.
Không báo oán là nhẫn chịu oán hại của người. Nhẫn nại là nhẫn chịu khổ sở. Trí là nhẫn quán các pháp.
Đại bi, nương tựa pháp: Nhân tố của nhẫn nhục, có hai: 1. Đại bi; 2. Nương tựa chánh pháp. Nương tựa chánh pháp là thọ giới và đa văn.
Năm đức: Thành quả của nhẫn nhục. Như trong kinh có nói: Nhẫn nhục được năm thành quả: 1. Giảm thiểu ganh ghét; 2. Không phá hỏng ý người; 3. Được an vui; 4. Đến lúc chết không hối hận; 5. Mất thân người được sanh cõi trời.
Hai lợi: Nghiệp dụng của nhẫn nhục. Ba loại nhẫn nhục có khả năng làm ra hai nghiệp dụng lợi mình và lợi người. Như một kệ tụng trong kinh có nói:
Vị ấy tìm hai nghĩa,
Lợi mình và lợi người,
Nếu biết người giận mình,
Làm cho người nguôi giận.
Đầy đủ tối thắng: Tương ứng của nhẫn nhục. Như trong kinh có nói: Nhẫn nhục là hạnh khó làm bậc nhất.
Ba loại nhẫn: Phẩm loại của nhẫn nhục. Ba loại nhẫn nhục là: 1. Nhẫn oán hại; 2. Nhẫn khổ sở; 3. Nhẫn quán pháp.
[0629c24] Kệ tụng:
Dũng mãnh thiện và chánh
Vì có tín, có dục
Niệm tăng và đối trị
Đủ đức, kia bảy loại.
Giải thích:
Kệ tụng này nói sáu nghĩa của tinh tiến ba-la-mật.
Dũng mãnh thiện và chánh: Tự tánh của tinh tiến. Dũng mãnh ngăn ngừa những nghiệp [bất thiện] còn sót lại gọi là thiện; dũng mãnh phá trừ ý tưởng giải thoát của ngoại đạo gọi là chánh.
Vì có tín, có dục: Nhân tố của tinh tiến. Do có tin tưởng và mong muốn mà tinh tiến sanh khởi.
Niệm tăng: Thành quả của tinh tiến. Các công đức của niệm, định v.v... là nhờ tinh tiến sanh khởi.
Đối trị: Nghiệp dụng của tinh tiến. Như trong kinh có ghi: Người khởi tinh tiến thì được trú an lạc, không tạp loạn bởi pháp ác bất thiện.
Đủ đức: Tương ứng của tinh tiến. Đầy đủ công đức của vô tham v.v...
Kia bảy loại: Phẩm loại của tinh tiến. Người kia tu tập tinh tiến có bảy loại: 1. Tinh tiến học giới; 2. Tinh tiến học định; 3. Tinh tiến học tuệ; 4. Tinh tiến tu thân; 5. Tinh tiến tu tâm; 6. Tinh tiến không gián đoạn; 7. Tinh tiến tôn trọng.
[0630a08] Kệ tụng:
Tâm trú và niệm tiến
Sanh pháp lạc, trú thông
Đứng đầu trong các pháp
Định có ba rồi ba.
Giải thích:
Kệ tụng này nói sáu nghĩa của thiền định ba-la-mật.
Tâm trú: Tự tánh của thiền định, vì là tâm trú tự nội.
Niệm tiến: Nhân tố của thiền định. Có niệm nên không quên cảnh duyên, nương tinh tiến mà thiền định sanh khởi.
Sanh pháp lạc: Thành quả của thiền định. Tách rời phương tiện làm cho thoái lui, rời xa quả báo không sai.
Trú thông: Nghiệp dụng của thiền định. Thông là năm thông. Trú là ba trú: Thánh trú, thiên trú và phạn trú. Thiền định có thể làm cho năm thông và ba trú đều được an trú tự tại.
Đứng đầu trong các pháp: Tương ứng của thiền định. Như trong kinh có nói: Tam-ma-đề đứng đầu trong các pháp.
Định có ba rồi ba: Phẩm loại của định. Định có hai loại, mỗi loại có ba phẩm: 1. Định có giác có quán, định không giác có quán và định không giác không quán; 2. Định câu hữu với hỷ, định câu hữu với lạc và định câu hữu với xả.
[0630a20] Kệ tụng:
Chọn đúng, định nắm giữ
Khéo thoát và mạng thuyết
Trên hết các pháp Phật
Tuệ cũng có ba loại.
Giải thích:
Kệ tụng này nói sáu nghĩa của trí tuệ ba-la-mật.
Chọn đúng: Tự tánh của trí tuệ, là rời xa nghiệp tà và nghiệp nhận thức thế gian, có sự lựa chọn chính xác pháp xuất thế gian.
Định nắm giữ: Nhân tố của trí tuệ, là vì định nắm giữ tuệ, nhờ đó biết các pháp đúng với chân thật.
Khéo thoát: Thành quả của trí tuệ, là được khéo giải thoát đối với các nhiễm ô. Vì sao? Vì có sự lựa chọn chính xác đối với pháp thế gian, pháp xuất thế gian và pháp đại xuất thế gian.
Mạng thuyết: Nghiệp dụng của trí tuệ, là tuệ mạng và thiện thuyết. Tuệ mạng là sự lựa chọn chính xác bằng cách lấy tuệ giác vô thượng làm mạng sống. Thiện thuyết là giảng nói chính xác chánh pháp.
Trên hết các pháp Phật: Tương ứng của trí tuệ. Như trong kinh có ghi: Bát-nhã là trên hết trong tất cả pháp của Phật.
Trí tuệ cũng có ba loại: Phẩm loại của trí tuệ. Người tu có ba phẩm loại trí tuệ để lựa chọn chính xác: trí tuệ thế gian, trí tuệ xuất thế gian và trí tuệ đại xuất thế gian.
Đã nói sự sai biệt của sáu ba-la-mật, kế nói nhiếp hạnh của sáu ba-la-mật.
[0630b04] Kệ tụng:
Tất cả pháp bạch tịnh
Tán động, định, cả hai
Sáu độ có ba cặp
Các loại đều nhiếp hết.
Giải thích:
Tất cả pháp bạch tịnh: Là bố thí v.v… các hành pháp. Nên biết các hành pháp ấy nhiếp chung có ba loại: 1. Tán động; 2. An định; 3. An định và tán động.
Tán động, là nói hai ba-la-mật trước, bố thí và trì giới, nhiếp vào tánh chất tán động.
An định, là nói hai ba-la-mật sau, thiền định và trí tuệ, nhiếp vào tánh chất an định.
Cả hai, là nói hai ba-la-mật giữa, nhẫn nhục và tinh tiến, nhiếp vào tánh chất an định và tán động.
Đã nói nhiếp hạnh của sáu ba-la-mật, kế nói trị chướng của sáu ba-la-mật.
[0630b12] Kệ tụng:
Thí rời bảy đắm trước
Nên nói bảy không đắm
Nên biết năm độ kia
Trị chướng đều có bảy.
Giải thích:
Thí rời bảy đắm trước, nên nói bảy không đắm: Sự đắm trước của bố thí có bảy thứ: 1. Đắm trước của cải; 2. Đắm trước trì hoãn; 3. Đắm trước thiên chấp; 4. Đắm trước trả ơn; 5. Đắm trước quả báo; 6. Đắm trước chướng ngại; 7. Đắm trước tán loạn.
Đắm trước chướng ngại: Bố thí để đối trị tham, nhưng vẫn còn chướng ngại vì tùy miên chưa đoạn trừ.
Đắm trước tán loạn: Tán loạn có hai thứ: 1. Tán loạn ý thấp, vì cầu tiểu thừa; 2. Tán loạn phân biệt, vì còn phân biệt ba luân.
Khi Bồ tát hành thí phải rời xa bảy đắm trước này, gọi là bảy không đắm trước. Nên biết, bảy trị chướng của năm ba-la-mật còn lại cũng như vậy. Nên biết, năm ba-la-mật: giới v.v…, mỗi ba-la-mật có bảy đắm trước; rời xa bảy đắm trước này, gọi là bảy không đắm trước.
Ở đây có sự sai khác, chuyển đổi bố thí ba-la-mật rời xa đắm trước của cải, thành năm ba-la-mật trì giới v.v… rời xa đắm trước thứ nhất (trong 7 thứ), đó là: trì giới rời xa đắm trước phá giới, nhẫn nhục rời xa đắm trước sân hận, tinh tiến rời xa đắm trước biếng nhác, thiền định rời xa đắm trước loạn tâm, trí tuệ rời xa đắm trước ngu si.
Trì giới v.v… rời xa đắm trước chướng ngại, vì chướng ngại của tùy miên đều được đoạn trừ. Trì giới v.v… rời xa đắm trước (tán loạn) phân biệt, vì mỗi ba-la-mật đều được ba luân không phân biệt.
Đã nói trị chướng của sáu ba-la-mật, kế nói công đức của sáu ba-la-mật. Ở đây, trước hết nói công đức lợi người.
[0630c01] Kệ tụng:
Hằng thời xả thân mạng
Rời cầu vì thương người
Nhân thí lập bồ-đề
Trí nhiếp thí vô tận.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị công đức lợi người của bố thí ba-la-mật.
Hằng thời xả thân mạng: Các Bồ tát ở trong tất cả thời thí xả thân mạng của mình cho tất cả người cầu xin.
Rời cầu vì thương người: Các Bồ tát không mong trả ơn và không cầu dị thục quả khả ái, vì lấy tâm đại bi làm nhân tố.
Nhân thí lập bồ-đề: Thí là nhân tố thiết lập tất cả chúng sanh đi vào ba thừa bồ-đề.
Trí nhiếp thí vô tận: Thí này nhiếp thuộc trí vô phân biệt, đưa đến niết-bàn vô trú; phước đức của bố thí thì vô tận, mang lại lợi ích vô cùng cho tất cả chúng sanh.
[0630c09] Kệ tụng:
Hằng thời siêng giữ giới
Rời giới và đường lành
Nhân giới lập bồ-đề
Trí nhiếp giới vô tận.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị công đức lợi người của trì giới ba-la-mật.
Hằng thời siêng giữ giới: Bồ tát có ba nhóm giới: 1. Giới luật nghi; 2. Giới nhiếp thiện pháp; 3. Giới nhiếp chúng sanh.
Giới luật nghi lấy sự ngăn cấm và phòng hộ làm thể. Giới nhiếp thiện pháp và giới nhiếp chúng sanh lấy sự nỗ lực và dũng mãnh làm thể. Các Bồ tát ở trong tất cả thời thường gìn giữ ba nhóm giới ấy.
Rời giới và đường lành: Không đắm trước thành quả của giới và không cầu dị thục quả khả ái.
[0630c16] Kệ tụng:
Hằng thời chịu người phá
Rời cầu, sợ, vô năng
Nhân nhẫn lập bồ-đề
Trí nhiếp nhẫn vô tận.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị công đức lợi người của nhẫn ba-la-mật.
Hằng thời chịu người phá: Các Bồ tát ở trong tất cả thời, nếu tất cả chúng sanh đem lại những sự phiền não cùng cực để phá hoại các Bồ tát, thì các Bồ tát đều có thể nhẫn chịu.
Rời cầu, sợ, vô năng: Các Bồ tát không cầu trả ơn và không cầu nẻo đường lành; nhẫn chịu không phải vì sợ hãi và không phải vì không có năng lực.
[0630c23] Kệ tụng:
Hằng thời nguyện siêng làm
Giết giặc vì vô thượng
Nhân tiến lập bồ-đề
Trí nhiếp tiến vô tận.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị công đức lợi người của tinh tiến ba-la-mật.
Hằng thời nguyện siêng làm: Các Bồ tát tu tinh tiến không ai sánh bằng qua hai tự tánh: 1. Thệ nguyện rộng lớn làm tự tánh; 2. Phương tiện siêng năng làm tự tánh.
Giết giặc vì vô thượng: Các Bồ tát tu tinh tiến chỉ vì giết giặc phiền não của mình và của người để được Vô thượng bồ-đề.
[0631a01] Kệ tụng:
Hằng thời tập các định
Bỏ thiền sanh chỗ thấp
Nhân định lập bồ-đề
Trí nhiếp định vô tận.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị công đức lợi người của thiền định ba-la-mật.
Hằng thời tập các định: Các Bồ tát nhiếp lấy vô biên tam-ma-đề để tu tập.
Bỏ thiền sanh chỗ thấp: Từ bỏ sự lạc trú của thiền định vô thượng để tùy ý thọ sanh chỗ thấp kém. Vì sao? Vì Bồ tát có tâm đại bi vậy.
[0631a07] Kệ tụng:
Thường biết chân, cảnh khác
Phật diệt còn không đắm
Nhân tuệ lập bồ-đề
Bi nhiếp tuệ vô tận.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị công đức lợi người của trí tuệ ba-la-mật.
Thường biết chân, cảnh khác: Biết chân, là biết sắc thái bình đẳng của đệ nhất nghĩa đế, vì có cái trí biết nhân vô ngã và pháp vô ngã. Cảnh khác, là biết vô biên cảnh giới, vì thông suốt những sai biệt về danh, tướng v.v… (của chúng sanh và thế giới chúng sanh).
Phật diệt còn không đắm: Phật diệt, là niết-bàn của Phật. Các Bồ tát tu bát-nhã còn không đắm trước niết-bàn của Phật huống là cầu thoát sanh tử.
Ở đây, năm ba-la-mật trước được trí vô phân biệt thống nhiếp, có được công đức vô tận đưa đến niết-bàn vô trú. Trí tuệ ba-la-mật được đại bi nhiếp thủ, có được công đức vô tận do thường không bỏ chúng sanh.
Sáu kệ tụng trên là nói riêng biệt công đức lợi người, tiếp dùng một kệ tụng nói tổng quát các nghĩa trước.
[0631a18] Kệ tụng:
Rộng lớn và không cầu
Tối thắng và vô tận
Nên biết mỗi một độ
Cùng có bốn công đức.
Giải thích:
Bốn công đức là: 1. Công đức rộng lớn; 2. Công đức không cầu; 3. Công đức tối thắng; 4. Công đức vô tận.
Trong sáu kệ tụng, câu tụng thứ nhất nói về công đức rộng lớn, vì làm lợi ích cho nhiều chúng sanh; câu tụng thứ hai nói về công đức không cầu; câu tụng thứ ba nói về công đức tối thắng; câu tụng thứ tư nói về công đức vô tận. Lại nữa, sáu ba-la-mật còn có công đức thanh tịnh.
[0631a25] Kệ tụng:
Được thấy và thỏa nguyện
Cầu được hợp ba vui
Bồ tát đổi niềm vui
Kia kém tâm đại bi.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị công đức thanh tịnh của bố thí ba-la-mật.
Người cầu xin với Bồ tát sanh khởi ba sự vui mừng: 1. Vui mừng khi được thấy; 2. Vui mừng khi được thỏa nguyện; 3. Vui mừng khi cầu được thấy, khi cầu được thỏa nguyện.
Nếu người cầu xin mà không thấy, không thỏa nguyện thì không sanh vui mừng. Trong tất cả thời, Bồ tát đối với người cầu xin muốn đổi ba sự vui mừng của người kia làm ba sự vui mừng của mình: 1. Vui mừng khi được thấy người kia; 2. Vui mừng khi làm thỏa ý nguyện của người kia; 3. Vui mừng khi làm cho người kia cầu được thấy, cầu được thỏa nguyện.
Ở đây nên biết, ba sự vui mừng của người cầu xin kia không sánh bằng ba sự vui mừng của Bồ tát. Vì sao? Vì Bồ tát đầy đủ tâm đại bi.
[0631b06] Kệ tụng:
Bản thân, của, quyến thuộc
Do bi thường vui thí
Ba ác hạnh rời xa
Nhân nào không răn giữ.
Giải thích:
Những kệ tụng sau đây hiển thị công đức thanh tịnh của trì giới ba-la-mật.
Kệ tụng này nói rời xa ba ác hành của thân. Vì có tâm đại bi, Bồ tát đối với thân mạng của mình, của cải của mình, quyến thuộc của mình thường hoan hỷ bố thí những gì tốt nhất cho người, cho nên đối với thân mạng của người, của cải của người, quyến thuộc của người thì càng phải rời xa ba ác hành của thân, không thể không răn giữ.
[0631b12] Kệ tụng:
Không màng và bình đẳng
Không sợ và thí khắp
Đại bi thì lẽ nào
Não người bằng vọng ngữ.
Giải thích:
Kệ tụng này nói rời xa ác hành của nói dối.
Chúng sanh khởi lời nói dối do bốn nhân duyên: 1. Lợi mình, vì luyến tiếc thân mạng; 2. Lợi người, vì làm lợi cho người mình yêu mến; 3. Ghét sợ, vì sợ hãi phép nước; 4. Cầu của cải, vì có những nhu cầu.
Bồ tát không nói dối, bởi vì:
1. Không màng (đến thân mạng), vì không tham luyến thân mạng;
2. Bình đẳng, vì có tâm bình đẳng nên coi thân người như thân mình;
3. Không sợ hãi, vì rời xa năm sợ hãi;
4. Thí khắp, vì đem tất cả vật bố thí khắp cả.
Tâm bi mẫn của Bồ tát rất sâu xa, vì vậy không có lý do nào để sanh lời nói dối.
[0631b22] Kệ tụng:
Bình đẳng làm lợi ích
Đại bi sợ người khổ
Siêng thành thục chúng sanh
Rời ba lỗi ngữ nghiệp.
Giải thích:
Kệ tụng này nói rời xa ba ác hành khác của miệng.
Bồ tát đối với tất cả chúng sanh thường làm lợi ích bình đẳng, lẽ nào muốn phá hoại quyến thuộc của người bằng lời nói hai lưỡi? Tâm đại bi của Bồ tát là thường muốn nhổ trừ khổ đau của tất cả chúng sanh, sanh lòng lo sợ khi thấy người khổ, lẽ nào muốn làm khổ người bằng lời nói thô ác? Bồ tát thường hành siêng năng chân chánh, thường muốn thành thục tất cả chúng sanh, lẽ nào muốn không thành thục người bằng lời nói thêu dệt? Tóm lại, Bồ tát có khả năng rời xa hẳn lầm lỗi của ba loại lời nói này.
[0631c02] Kệ tụng:
Thí khắp và đại bi
Khéo léo pháp duyên khởi
Lẽ nào không thể nhẫn
Ba phiền não ý địa.
Giải thích:
Kệ tụng này nói rời xa ba ác hành của ý.
Bồ tát do thí khắp tất cả vật nên rời phiền não tham, do tâm đại bi nên rời phiền não sân, do khéo léo hiểu pháp duyên khởi nên rời phiền não tà kiến.
Trên đây là những sai biệt của sự đối trị phá giới, gọi là công đức thanh tịnh của giới Bồ tát.
[0631c08] Kệ tụng:
Người tổn thì tưởng ích
Khổ sở sanh tưởng vui
Bồ tát đã như vậy
Nhẫn ai, nhẫn việc gì.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị công đức thanh tịnh của nhẫn nhục ba-la-mật.
Người tổn thì tưởng ích: Bồ tát đối với việc không lợi ích do người mang đến cho mình thì nghĩ tưởng đó là mình được lợi ích nên cần phải nhẫn nhục. Vì sao? Vì thành tựu nhân tố nhẫn nhục.
Khổ sở sanh tưởng vui: Bồ tát trong khi nhận chịu khổ sở bèn sanh ý tưởng vui mừng. Vì sao? Vì thành tựu nhân tố lợi người.
Bồ tát đã không có lý do gì khởi tưởng không lợi ích, không có lý do gì khởi tưởng khổ sở, vậy thì khởi nhẫn với ai, khởi nhẫn việc gì?
[0631c16] Kệ tụng:
Bồ tát đoạn tưởng người
Yêu người hơn yêu mình
Vì người làm việc khó
Tinh tiến thì không khó.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị công đức thanh tịnh của tinh tiến ba-la-mật.
Bồ tát vì người làm những việc khó làm, nhưng nhờ tinh tiến nên không thấy khó. Vì sao? Vì Bồ tát dứt bỏ ý tưởng về người, và trong tất cả thời yêu người hơn yêu mình. Bồ tát vì người tu tinh tiến như vậy, sao lại có chuyện khó làm? Đây là công đức thanh tịnh của tinh tiến [ba-la-mật].
[0631c19] Kệ tụng:
Ít lạc, hai tự lạc
Chấp trước, thoái, tận, si
Là thiền ba hạng người
Thiền Bồ tát khác kia.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị công đức thanh tịnh của thiền định ba-la-mật.
Ít lạc, là thiền thế gian. Hai tự lạc, là thiền Thanh văn và thiền Duyên giác. Chấp trước, là thiền thế gian chấp trước kiến giải của mình, và thiền của nhị thừa chấp trước niết-bàn. Thoái, là đặc tánh của thiền thế gian. Tận, là đặc tánh của thiền Thanh văn và thiền Duyên giác, vì khi đến niết-bàn vô dư là tận cùng. Si, là thiền của ba hạng người trên có sự thích ứng với nhiễm ô do si và nhiễm ô không do si.
Thiền Bồ tát khác kia: Thiền của Bồ tát thì trái ngược với thiền của ba hạng người kia. Vì sao? Vì nhiều an lạc, là mình an lạc và người an lạc; vì không chấp trước, không thoái lui, không diệt tận và không si mê. Đây gọi là công đức thanh tịnh của thiền định [ba-la-mật].
[0631a03] Kệ tụng:
Tối xúc chạm, hai đèn
Trí của ba hạng người
Như ánh sáng mặt trời
Trí Bồ tát không sánh.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị công đức thanh tịnh của trí tuệ ba-la-mật.
Thí như trong bóng tối dùng tay xúc chạm đồ vật, trí của phàm phu cũng như vậy. Vì sao? Vì có được một ít cảnh, không nhận biết rõ ràng, trí không cố định lâu dài.
Thí như hai ngọn đèn chiếu sáng đồ vật trong phòng, trí Thanh văn và trí Duyên giác cũng như vậy. Vì sao? Vì có được một ít cảnh, từ từ nhận biết rõ ràng, trí chưa thanh tịnh cùng cực.
Thí như ánh sáng mặt trời chiếu soi vạn vật, trí Bồ tát cũng như vậy. Vì sao? Vì có được đầy khắp các cảnh, nhận biết rõ ràng, trí thanh tịnh cùng cực.
Các trí kia không thể so sánh với trí Bồ tát. Đây gọi là công đức thanh tịnh của trí tuệ [ba-la-mật].
Lại nữa, sáu ba-la-mật về sau có tám thứ công đức vô thượng.
[0632a13] Kệ tụng:
Y, loại, duyên, hồi hướng
Nhân, trí, điền, y chỉ
Tám tối thắng như vậy
Nghĩa vô thượng nên biết.
Giải thích:
Tám vô thượng là: 1. Chỗ dựa; 2. Phẩm loại; 3. Duyên tố; 4. Hồi hướng; 5. Nhân tố; 6. Trí tuệ; 7. Ruộng tốt; 8. Y chỉ.
Hỏi: Tám yếu tố này đối với sáu ba-la-mật vì sao gọi là vô thượng?
Đáp: Chỗ dựa thí: bố thí là chỗ dựa của Bồ tát.
Phẩm loại thí: bố thí có ba loại: 1. Thí tài sản, là sẵn sàng xả bỏ thân mạng mình; 2. Thí vô úy, là cứu tế nỗi sợ hãi của dòng sanh tử và đường dữ; 3. Thí chánh pháp, là nói pháp Đại thừa.
Duyên tố thí: lấy đại bi làm duyên tố sanh khởi bố thí.
Hồi hướng thí: bố thí vì cầu quả đại bồ-đề.
Nhân tố thí: lấy nghiệp huân tập chủng tử bố thí đời trước làm nhân tố.
Trí tuệ thí: dùng trí vô phân biệt quán sát ba luân, tức là không phân biệt người cho, người nhận và vật cho.
Ruộng tốt thí: bố thí là ruộng tốt cho năm hạng người: 1. Người cầu xin; 2. Người khổ sở; 3. Người không nương tựa; 4. Người làm ác; 5. Người đủ đức; và nên biết ở đây lấy người đủ đức thù thắng làm vô thượng.
Y chỉ thí: bố thí nhờ ba thứ y chỉ: 1. Y chỉ tín hướng; 2. Y chỉ tư duy; 3. Y chỉ tam-muội. Y chỉ tín hướng là như trong phần phân biệt tu tập [sáu ba-la-mật] đã nói về tư duy tin tưởng. Y chỉ tư duy là như trong phần phân biệt tu tập [sáu ba-la-mật] đã nói về tư duy mùi vị, tư duy tùy hỷ, tư duy mong cầu. Y chỉ tam-muội là dựa vào các định như kim cương tạng v.v…, như trong phần tu tập [sáu ba-la-mật] có nói y chỉ thế lực. Với những y chỉ vô thượng như vậy nên bố thí ba-la-mật gọi là vô thượng.
Như bố thí có tám vô thượng, năm ba-la-mật: trì giới, v.v… cũng có tám vô thượng. Ở đây, phẩm loại vô thượng của trì giới là giới Bồ tát; phẩm loại vô thượng của nhẫn nhục là người đi đến giết hại Bồ tát thì kém cỏi yếu hèn. Phẩm loại vô thượng của tinh tiến là tu tập các ba-la-mật thì những thứ bị đối trị của các ba-la-mật được đoạn trừ. Phẩm loại vô thượng của thiền định là các tam-ma-đề của Bồ tát. Phẩm loại vô thượng của trí tuệ là trí duyên cảnh như như. Ruộng tốt vô thượng của trì giới v.v… là pháp Đại thừa. Sáu vô thượng khác cũng tương tự như đã nói trong bố thí.
Lại nữa, bố thí và tinh tiến có những sai biệt về công đức không chung.
[0632b10] Kệ tụng:
Thí một khiến được vui
Nhiều kiếp tự chịu khổ
Còn xả cả yêu sâu
Thì được phước lợi lớn.
Giải thích:
Nếu các Bồ tát bố thí cho một chúng sanh để người ấy được vui mà bản thân phải chịu khổ nghèo túng trong nhiều kiếp thì các Bồ tát cũng vẫn bố thí, không bỏn xẻn, vì yêu sâu đậm. Yêu sâu đậm là mặt sai biệt của tâm bi. Huống nữa là các Bồ tát bố thí cho một chúng sanh để người ấy được vui mà bản thân được phước lợi lớn trong nhiều kiếp.
[0632b16] Kệ tụng:
Người xin tùy chỗ muốn
Bồ tát xả tất cả
Người xin vì bản thân
Lợi người trăm thứ thí.
Giải thích:
Nửa kệ tụng đầu là nói chung, nghĩa là theo sự mong cầu của người, Bồ tát thí xả tất cả. Nửa kệ tụng sau là giải thích, nghĩa là người xin vì lợi mình nên muốn được tất cả, Bồ tát vì lợi người nên trăm thứ thí xả tất cả.
[0632b21] Kệ tụng:
Xả thân còn không khổ
Huống chi xả của cải
Được hoan hỷ xuất thế
Khởi khổ là vô thượng.
Giải thích:
Việc Bồ tát xả bỏ thân mạng là phát xuất từ tâm nên không thấy có khổ. Cái tâm này hiển thị sự xuất thế gian của Bồ tát. Vì sao? Vì tâm hoan hỷ.
Hỏi: Tâm hoan hỷ này từ đâu mà được?
Đáp: Sanh khởi từ khổ, cho nên sanh khởi từ khổ là công đức vô thượng của Bồ tát, và do vậy Bồ tát ở trên hết trong những bậc xuất thế gian.
[0632b27] Kệ tụng:
Người xin được tất cả
Vui mà không vui lớn
Bồ tát xả tất cả
Vui lớn hơn vui kia.
Giải thích:
Người xin cần những gì thì Bồ tát đều cho cả, vì vậy người xin rất vui. Niềm vui này không phải là niềm vui lớn.
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Vì Bồ tát thí xả tất cả, vui khi thấy người xin vui được của, do vậy niềm vui của Bồ tát lớn hơn niềm vui của người xin.
[0632c03] Kệ tụng:
Người xin được tất cả
Có của chẳng thấy giàu
Bồ tát xả tất cả
Không của mà giàu to.
Giải thích:
Kệ tụng này nói sự sai biệt về của cải vô tận của Bồ tát.
[0632c06] Kệ tụng:
Người xin được tất cả
Chẳng nghĩ lợi ích lớn
Bồ tát xả tất cả
Nghĩ tưởng lợi ích lớn.
Giải thích:
Kệ tụng này nói sự sai biệt về tâm đại bi của Bồ tát.
[0632c09] Kệ tụng:
Người xin lấy tự nhiên
Như hái trái bên đường
Bồ tát thí xả lớn
Người khác không làm được.
Giải thích:
Kệ tụng này nói sự sai biệt về sự không đắm trước của Bồ tát.
Hỏi: Đã nói những sai biệt về công đức không chung của bố thí rồi, vậy những sai biệt về công đức không chung của tinh tiến là gì?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0632c13] Kệ tụng:
Thắng, nhân, y, nghiệp, chủng
Đối trị có khác nhau
Như vậy sáu thứ nghĩa
Sai biệt của tinh tiến.
Giải thích:
Tinh tiến có sáu thứ sai biệt: 1. Sai biệt tối thắng; 2. Sai biệt nhân tố; 3. Sai biệt y chỉ; 4. Sai biệt nghiệp dụng; 5. Sai biệt chủng loại; 6. Sai biệt đối trị.
Kệ tụng này nêu ra chung, các kệ tụng khác giải thích riêng.
[0632c18] Kệ tụng:
Bạch pháp tiến trên hết
Tiến cũng là thắng nhân
Có được các thiện pháp
Tinh tiến làm y chỉ.
Giải thích:
Kệ tụng này nói về sai biệt tối thắng, sai biệt nhân tố và sai biệt y chỉ của tinh tiến.
Bạch pháp tiến trên hết: Đây nói sai biệt tối thắng, nghĩa là trong tất cả thiện pháp thì tinh tiến là tối thắng.
Tiến cũng là thắng nhân: Đây nói sai biệt nhân tố, nghĩa là tinh tiến là nhân tố vô thượng.
Có được các thiện pháp, tinh tiến làm y chỉ: Đây nói sai biệt y chỉ, nghĩa là do y chỉ tinh tiến mà được tất cả thiện pháp.
[0632c26] Kệ tụng:
Hiện lạc, pháp thế gian
Pháp xuất thế, của cải
Động tĩnh và giải thoát
Bồ-đề: bảy nghiệp dụng.
Giải thích:
Kệ tụng này nói về sai biệt nghiệp dụng của tinh tiến.
Sai biệt nghiệp dụng của tinh tiến có bảy thứ: 1. Được hiện pháp lạc trú; 2. Được pháp thế gian; 3. Được pháp xuất thế gian; 4. Được của cải; 5. Được tĩnh lặng trong tán động; tĩnh lặng trong tán động là do biết sự không toàn hảo của thế gian; 6. Được giải thoát: giải thoát là sự đoạn được thân kiến; 7. Được bồ-đề: bồ-đề là tuệ giác vô thượng.
[0633a04] Kệ tụng:
Tăng giảm và tăng thượng
Xả chướng và nhập chân
Chuyển y và đại lợi
Sáu chủng loại tinh tiến.
Giải thích:
Kệ tụng này nói về sai biệt chủng loại của tinh tiến.
Sai biệt chủng loại của tinh tiến có sáu thứ:
1. Tinh tiến tăng giảm, là tinh tiến bốn chánh cần, làm giảm hai ác pháp và làm tăng hai thiện pháp;
2. Tinh tiến tăng thượng, là tinh tiến năm căn, lấy pháp giải thoát làm nghĩa tăng thượng;
3. Tinh tiến xả chướng, là tinh tiến năm lực, làm cho những chướng ngại không thể cản trở;
4. Tinh tiến nhập chân, là tinh tiến bảy giác phần, làm nền tảng để thiết lập kiến đạo;
5. Tinh tiến chuyển y, là tinh tiến tám thánh đạo phần, làm nhân tố của tu đạo đưa đến quả chuyển y cứu cánh;
6. Tinh tiến đại lợi, là tinh tiến sáu ba-la-mật, làm nhân tố của sự lợi ích mình người.
[0633a14] Kệ tụng:
Chủng lại có năm khác
Hoằng thệ và phát hành
Không thấp và không động
Thứ năm là không chán.
Giải thích:
Năm tinh tiến khác:
1. Tinh tiến hoằng thệ, là tinh tiến muốn phát khởi tu hành;
2. Tinh tiến phát hành, là tinh tiến thị hiện phát hành các thiện pháp;
3. Tinh tiến không thấp, là tinh tiến có được quả lớn chứ không phải những quả thấp;
4. Tinh tiến không động, là những khổ sở như lạnh, nóng v.v… không làm tâm lay động;
5. Tinh tiến không chán, là không vì được kết quả chút ít mà cho là đủ.
Năm tinh tiến này, như tinh tiến hoằng thệ, tinh tiến hiện khởi, tinh tiến dũng mãnh, tinh tiến kiên cố, tinh tiến không bỏ Phật đạo đều có nói đến trong các Kinh điển. Đối với các thiện pháp, nên biết thứ tự tinh tiến như vậy.
[0633a23] Kệ tụng:
Ba loại thấp, vừa, cao
Là do nương ba thừa
Và hai giác thấp, cao
Lợi có hai nhỏ, lớn.
Giải thích:
Những loại tinh tiến ở trên là dựa vào sự sai biệt của người tu tập. Lại nói ba loại tinh tiến và hai loại tinh tiến.
Ba loại tinh tiến là dựa vào sự sai biệt của người tu tập trong ba thừa, theo thứ tự mà nói tinh tiến bậc thấp, tinh tiến bậc vừa và tinh tiến bậc cao.
Hỏi: Nguyên nhân gì lại có hai loại tinh tiến?
Đáp: Vì có tuệ giác bậc thấp và tuệ giác bậc cao. Tuệ giác bậc thấp là y cứ người tu tập nhị thừa; tuệ giác bậc cao là y cứ người tu tập Đại thừa; theo thứ tự mà nói tinh tiến lợi nhỏ và tinh tiến lợi lớn. Vì sao? Vì lợi nhỏ là lợi mình và lợi lớn là lợi người.
[0633b02] Kệ tụng:
Đắm tài, đắm phiền não
Đắm chán, đắm biết đủ
Bốn đắm không thoái lui
Đối trị chia bốn thứ.
Giải thích:
Kệ tụng này nói về sai biệt đối trị của tinh tiến.
Do đối trị bốn thứ đắm trước mà có bốn thứ không thoái lui, nên nói tinh tiến có bốn thứ sai biệt đối trị.
Hỏi: Sai biệt đối trị như thế nào?
Đáp: Các hạnh như bố thí v.v… do bốn thứ đắm trước làm chướng ngại nên không thực thi được các hạnh: 1. Đắm trước tiền của, là với tiền của thì cực kỳ keo lận; 2. Đắm trước phiền não, là với tiền của thì tâm khởi nhuốm bẩn; 3. Đắm trước chán nản, là với các hạnh bố thí v.v… thì có sự lùi bước và khuất phục; 4. Đắm trước biết đủ, là với bố thí chút ít v.v… mà đã vui mừng cho là đầy đủ. Người tu hạnh tinh tiến thì đối trị được bốn thứ đắm trước này, có được sự không thoái lui, nên nói tinh tiến có bốn thứ sai biệt đối trị.
Đã nói công đức của sáu ba-la-mật, kế nói sự hiển thị lẫn nhau của sáu ba-la-mật.
[0633b12] Kệ tụng:
Nhiếp nhau và sai biệt
Y pháp và làm nhân
Sáu độ dựa nhau thành
Tất cả loại phân biệt.
Giải thích:
Sáu ba-la-mật tác thành cho nhau, mỗi ba-la-mật có bốn nghĩa: 1. Nhiếp nhau; 2. Sai biệt; 3. Y pháp; 4. Làm nhân.
Nhiếp nhau: Thí vô úy nhiếp lấy hai ba-la-mật trì giới và nhẫn nhục, vì hai ba-la-mật này có thể cho sự không sợ hãi. Thí chánh pháp nhiếp lấy hai ba-la-mật thiền định và trí tuệ, vì hai ba-la-mật này có thể cho chánh pháp. Hai sự bố thí đều nhiếp lấy một ba-la-mật tinh tiến, vì một ba-la-mật này có thể thực thi hai sự bố thí.
Hỏi: Trì giới ba-la-mật nhiếp lấy ba-la-mật nào?
Đáp: Thực hành tất cả thiện pháp làm giới, vì vậy các ba-la-mật khác bố thí v.v… đều nhiếp trong trì giới ba-la-mật. Cũng vậy, suy ra tương tự các ba-la-mật khác như nhẫn nhục v.v… các ba-la-mật thống nhiếp lẫn nhau.
Sai biệt: Sáu ba-la-mật, bố thí v.v…, làm thành sáu sự bố thí, nghĩa là thí thí, thí giới, thí nhẫn, thí tiến, thí thiền và thí tuệ; cứ như thế tiếp tục thiết lập bố thí, trì giới v.v…
Y pháp: Tất cả kinh đều hiển thị các nghĩa của bố thí v.v…, và tất cả nghĩa của bố thí v.v… đều hiển thị trong các kinh. Nên biết, các kinh và các nghĩa của sáu ba-la-mật đều thống nhiếp lẫn nhau.
Làm nhân: Bố thí là nhân của trì giới v.v… Vì sao? Vì người không lưu luyến tiền của có thể thực hành trì giới v.v… Trì giới cũng là nhân của bố thí v.v… Vì sao? Vì vị tỳ-kheo tiếp nhận giới phòng hộ có thể xả bỏ tất cả vật sở hữu và sự hưởng thụ, và người trú trong giới có thể đầy đủ nhẫn nhục v.v… Lại nữa, tiếp nhận giới nhiếp thiện pháp là tu tập bố thí v.v… Cũng vậy, suy ra tương tự nhẫn nhục v.v… các ba-la-mật làm nhân cho nhau.
Như vậy, đã nói các nghĩa của sáu ba-la-mật, kế nói sự thực hành bốn nhiếp.
[0633b29] Kệ tụng:
Bố thí và ái ngữ
Lợi hành và đồng lợi
Thí bình đẳng, thuyết pháp
Kiến lập và tự hành.
Giải thích:
Bốn pháp nhiếp là: 1. Bố thí nhiếp; 2. Ái ngữ nhiếp; 3. Lợi hành nhiếp; 4. Đồng lợi nhiếp.
Thí bình đẳng, là bố thí nhiếp. Thuyết pháp, là ái ngữ nhiếp, là thuyết về pháp và nghĩa của sáu ba-la-mật. Kiến lập, là lợi hành nhiếp, là kiến lập chúng sanh vào trong sáu ba-la-mật. Tự hành, là đồng lợi nhiếp, là kiến lập cho người rồi tự mình cũng phải thực hành sáu ba-la-mật.
Hỏi: Vì sao nói đặc tánh của bốn pháp nhiếp?
Đáp: Bốn pháp nhiếp là các phương tiện nhiếp hóa chúng sanh.
[0633c08] Kệ tụng:
Nhiếp người bốn phương tiện
Tức là bốn tánh nhiếp:
Tùy nhiếp và nhiếp thủ
Chánh chuyển và tùy chuyển.
Giải thích:
Bố thí là phương tiện tùy nhiếp, do thí của cải mà theo đó người nhận được nhiếp phục.
Ái ngữ là phương tiện nhiếp thủ, do thí chánh pháp mà người vô tri và người nghi ngờ tiếp nhận được nghĩa lý.
Lợi hành là phương tiện chánh chuyển, do lợi hành mà các điều thiện chuyển hóa.
Đồng lợi là phương tiện tùy chuyển, do Bồ tát thực hành những gì mình nói ra, chúng sanh thấy biết điều đó, nếu trước chưa thực hành điều thiện thì noi theo Bồ tát mà thực hành điều thiện.
Hỏi: Nghiệp dụng của bốn pháp nhiếp là gì?
[0633c15] Kệ tụng:
Đồ đựng và tin tưởng
Thực hành và giải thoát
Thứ tự làm bốn việc
Nghiệp dụng của bốn nhiếp.
Giải thích:
Bố thí nhiếp làm cho người nhận trở thành đồ chứa đựng chánh pháp, do tùy thuận tiền của mà có thể kham nhận chánh pháp.
Ái ngữ nhiếp làm cho người nghe phát sanh tin tưởng chánh pháp, do nghĩa lý của chánh pháp đánh tan sự nghi ngờ của người nghe.
Lợi hành nhiếp làm cho người được lợi phát khởi tu tập chánh pháp, do nương tựa và thực hành đúng với chánh pháp.
Đồng lợi nhiếp làm cho người tu tập được giải thoát, do tu hành thanh tịnh và dài lâu mà được lợi ích. Đó là nghiệp dụng của bốn pháp nhiếp.
Hỏi: Đức Thế tôn có nói hai nhiếp, nghĩa đó thế nào?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0633c24] Kệ tụng:
Bốn tánh nói hai nhiếp
Tài nhiếp và pháp nhiếp
Tài một, pháp có ba
Thứ tự nhiếp bốn nhiếp.
Giải thích:
Đặc tánh của bốn pháp nhiếp này, ở chỗ khác Thế tôn nói là hai nhiếp, là tài nhiếp và pháp nhiếp, nghĩa là lấy hai nhiếp thu tóm bốn nhiếp. Tài nhiếp là pháp nhiếp thứ nhất, pháp nhiếp là ba pháp nhiếp ở sau.
Hỏi: Vì sao pháp nhiếp thu tóm ba nhiếp ở sau?
Đáp: Pháp có ba thứ: 1. Pháp sở duyên; 2. Pháp sở hành; 3. Pháp sở tịnh; theo thứ tự pháp nhiếp thu tóm ba nhiếp ở sau.
[0634a02] Kệ tụng:
Sai biệt thấp, vừa, cao
Chủng loại của bốn nhiếp
Thêm không và thêm có
Thuần có thành ba ích.
Giải thích:
Chủng loại sai biệt của bốn pháp nhiếp có ba: thấp, vừa và cao, là do các Bồ tát nhiếp hóa người tu sai biệt trong ba thừa. Do ba chủng loại sai biệt này, thứ tự có ba ích: 1. Thêm không ích; 2. Thêm có ích; 3. Thuần có ích.
Thêm không ích, là pháp nhiếp của Bồ tát ở Giải hành địa. Thêm có ích, là pháp nhiếp của Bồ tát ở Nhập đại địa. Thuần có ích, là pháp nhiếp của Bồ tát từ địa thứ tám trở lên, do các Bồ tát quyết định làm cho chúng sanh thành tựu.
[0634a10] Kệ tụng:
Bồ tát muốn nhiếp chúng
Dựa bốn phương tiện này
Lợi lớn và dễ thành
Được khen ba lợi ích.
Giải thích:
Nếu các Bồ tát muốn nhiếp hóa đồ chúng thì tất cả phải dựa vào bốn pháp nhiếp này làm phương tiện. Vì sao? Vì tất cả lợi lớn được thành tựu, vì đó là phương tiện dễ dàng mang lại an vui, vì được chư Phật khen ngợi.
[0634a15] Kệ tụng:
Bốn nhiếp ở ba đời
Thường nhiếp hóa chúng sanh
Đường thành tựu chúng sanh
Không gì ngoài bốn nhiếp.
Giải thích:
Bốn pháp nhiếp này ở trong ba đời: đã nhiếp hóa, sẽ nhiếp hóa và đang nhiếp hóa tất cả chúng sanh. Cho nên, bốn pháp nhiếp này là con đường thành thục chúng sanh, không có con đường nào khác, vì con đường khác không có những đặc tánh của bốn pháp nhiếp.
Đã nói riêng bốn pháp nhiếp của sáu ba-la-mật, tiếp theo dùng một kệ tụng để tổng kết các nghĩa trước.
[0634a22] Kệ tụng:
Không đắm và vắng lặng
Chịu đựng, ý chí mạnh
Không lay động, rời tướng
Bốn nhiếp nhiếp chúng sanh.
Giải thích:
Trong kệ tụng này, ba câu trước là tóm tắt nghĩa của sáu ba-la-mật, câu sau cùng là tóm tắt nghĩa của bốn pháp nhiếp.
Nghĩa của kệ tụng này như trước đã giải thích. Bồ tát lấy sáu hạnh ba-la-mật để thực hành bốn pháp nhiếp. Rõ ràng, sáu ba-la-mật thành tựu lợi mình và lợi người, bốn pháp nhiếp cũng thành tựu lợi mình và lợi người. Đó là lý do, theo thứ tự, trước nói sáu ba-la-mật, sau nói bốn pháp nhiếp.
Phẩm Độ Nhiếp trọn vẹn
Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh