Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Chúng ta không học đi bằng những quy tắc mà bằng cách bước đi và vấp ngã. (You don't learn to walk by following rules. You learn by doing, and by falling over. )Richard Branson
Cuộc sống ở thế giới này trở thành nguy hiểm không phải vì những kẻ xấu ác, mà bởi những con người vô cảm không làm bất cứ điều gì trước cái ác. (The world is a dangerous place to live; not because of the people who are evil, but because of the people who don't do anything about it.)Albert Einstein
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Nếu muốn tỏa sáng trong tương lai, bạn phải lấp lánh từ hôm nay.Sưu tầm
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)

Trang chủ »» Danh mục »» KINH ĐIỂN »» Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận »» Quyển Mười Ba »»

Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận
»» Quyển Mười Ba

Donate

(Lượt xem: 3.507)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận - Quyển Mười Ba

Font chữ:

Phẩm Hai Mươi Ba
HÀNH TRÚ
Giải thích:
Đã nói công đức của Bồ tát, kế nói năm sắc thái Bồ tát.
[0656c18] Kệ tụng:
Nội tâm có lân mẫn
Ái ngữ và dũng kiện
Khai thủ và thích nghĩa
Năm sắc thái Bồ tát.
Giải thích:
Bồ tát có năm sắc thái: 1. Thương xót; 2. Lời nói từ ái; 3. Dũng mãnh; 4. Mở bàn tay; 5. Giải thích nghĩa lý.
Thương xót, là dùng tâm bồ-đề nhiếp hóa lợi ích chúng sanh.
Lời nói từ ái, là làm cho chúng sanh có chánh tín nơi Phật pháp.
Dũng mãnh, là không thoái lui, khuất phục trước những khổ hạnh khó làm.
Mở bàn tay, là lấy tiền của mà nhiếp hóa.
Giải thích nghĩa lý, là lấy giáo pháp mà nhiếp hóa.
Năm sắc thái này cần phải biết, sắc thái đầu là tâm, bốn sắc thái sau là hành.
Đã nói năm sắc thái Bồ tát, kế nói phần Bồ tát tại gia và Bồ tát xuất gia.
[0656c22] Kệ tụng:
Bồ tát tất cả thời
Hằng sống luân vương vị
Làm lợi ích chúng sanh
Phần tại gia như vậy.
Giải thích:
Bồ tát tại gia thường làm như vị luân vương, phụng hành giáo hóa mười điều thiện, rời xa mười điều ác, đó là làm lợi ích [cho chúng sinh].
[0657a03] Kệ tụng:
Thọ đắc và pháp đắc
Cùng với thị hiện thành
Ba thứ phần xuất gia
Ở trong tất cả địa.
Giải thích:
Bồ tát xuất gia có ba phần:
1. Phần thọ đắc, là từ người mà tiếp nhận sự phòng hộ;
2. Phần pháp đắc, là được sự phòng hộ vô lưu;
3. Phần thị hiện, là làm ra sự biến hóa.
Phần thọ đắc là Bồ tát ở tín giải hành địa; phần pháp đắc và phần thị hiện là Bồ tát đã nhập đại địa.
[0657a09] Kệ tụng:
Nên biết phần xuất gia
Đủ vô lượng công đức
So với phần tại gia
Tối thắng không đồng bậc.
Giải thích:
So sánh hai phần thì phần xuất gia hơn hẳn, do đầy đủ vô lượng công đức.
Đã nói phần Bồ tát tại gia và Bồ tát xuất gia, kế nói năm tâm cực đại của Bồ tát.
[0657a14] Kệ tụng:
Quả khả ái, thiện căn
Niết-bàn muốn có được
Chưa tịnh, tịnh, cực tịnh
Là ở trong các địa.
Giải thích:
Năm tâm cực đại là:
1. Tâm cực đại an vui;
2. Tâm cực đại lợi ích;
3. Tâm cực đại chưa thanh tịnh;
4. Tâm cực đại đã thanh tịnh;
5. Tâm cực đại cực thanh tịnh.
Quả khả ái là tâm cực đại an vui, nghĩa là làm cho các chúng sanh được quả khả ái ở đời sau.
Thiện căn là tâm cực đại lợi ích, nghĩa là làm cho các chúng sanh thực hành các điều thiện trong hiện tại và được niết-bàn.
Chưa tịnh là tâm cực đại chưa thanh tịnh, chỉ cho Bồ tát ở tín hành địa.
Tịnh là tâm cực đại đã thanh tịnh, chỉ cho Bồ tát từ địa đầu tiên đến địa thứ bảy.
Cực tịnh là tâm cực đại cực thanh tịnh, chỉ cho Bồ tát ở ba địa sau cùng.
Đã nói năm tâm cực đại của Bồ tát, kế nói bốn thứ nhiếp thọ chúng sanh của Bồ tát.
[0657a25] Kệ tụng:
Dục lạc và bình đẳng
Tăng thượng và đồ chúng
Bốn tâm nơi các địa
Nhiếp thọ các chúng sanh.
Giải thích:
Bốn thứ nhiếp thọ chúng sanh là:
1. Nhiếp thọ bằng tâm dục lạc, là lấy tâm bồ-đề để nhiếp hóa;
2. Nhiếp thọ bằng tâm bình đẳng, là nhập địa đầu tiên, được tâm bình đẳng mình người để nhiếp hóa;
3. Nhiếp thọ bằng tâm tăng thượng, là ở cư chủ vị, lấy tự tại lực để nhiếp hóa;
4. Nhiếp thọ bằng tâm đồ chúng, là nhiếp hóa để thành đệ tử của mình.
Đã nói bốn thứ nhiếp thọ chúng sanh của Bồ tát, kế nói bốn thứ thọ sanh của Bồ tát.
[0657b03] Kệ tụng:
Nghiệp lực và nguyện lực
Định lực và thông lực
Nương bốn thứ lực này
Mà Bồ tát thọ sanh.
Giải thích:
Bốn thứ thọ sanh là: 1. Nghiệp lực thọ sanh; 2. Nguyện lực thọ sanh; 3. Định lực thọ sanh; 4. Thông lực thọ sanh.
Nghiệp lực thọ sanh là Bồ tát ở tín hành địa, có nghiệp lực tự tại, tùy ý chọn lựa xứ sở thọ sanh.
Nguyện lực thọ sanh là Bồ tát nhập đại địa, có nguyện lực tự tại, vì thành thục chúng sanh mà có thể thọ sanh loài súc sanh v.v…
Định lực thọ sanh là Bồ tát chứng đắc các định, có định lực tự tại, xả cảnh giới bậc cao thọ sanh cảnh giới bậc thấp.
Thông lực thọ sanh là Bồ tát chứng đắc thần thông, có thông lực tự tại, có thể thọ sanh ở cung trời Đâu-suất v.v... thị hiện các sắc tướng.
Đã nói bốn thứ thọ sanh của Bồ tát, kế nói mười một sắc thái an trú của Bồ tát.
[0657b13] Kệ tụng:
Chứng không, chứng nghiệp quả
Trú thiền, trú giác phần
Quán đế, quán duyên khởi
Vô tướng, vô công dụng
Hóa lực, tịnh hai môn
Cùng thanh tịnh bồ-đề
Với những gì được nói
Lập sắc thái các địa.
Giải thích:
Mười một sắc thái an trú tức là mười một địa, vì an trú còn được gọi là địa.
Chứng không, hiển thị sắc thái an trú đầu tiên, là phần nhiều an trú nhân vô ngã và pháp vô ngã.
Chứng nghiệp quả, hiển thị sắc thái an trú thứ hai, là chứng nghiệp và chứng quả bất hoại thì có năng lực phòng hộ tịnh giới.
Trú thiền, hiển thị sắc thái an trú thứ ba, là năng lực thọ sanh cõi Dục mà không thoái lui các thiền định.
Trú giác phần, hiển thị sắc thái an trú thứ tư, là năng lực đi vào sanh tử mà không xả giác phần.
Quán đế, hiển thị sắc thái an trú thứ năm, là lấy [vô lượng] ánh sáng trí giác mà giáo hóa chúng sanh, rằng chỉ có cái tâm bị phiền não [nhiễm ô] chứ không có tự ngã.
Quán duyên khởi, hiển thị sắc thái an trú thứ sáu, là năng lực không khởi nhiễm tâm mà vẫn y theo duyên khởi thọ sanh.
Vô tướng, hiển thị sắc thái an trú thứ bảy, là sự tu hành tuy có dụng công, nhưng trên hết thể nhập con đường duy nhất mà phần nhiều là an trú tu tập vô tướng.
Vô công dụng, hiển thị sắc thái an trú thứ tám, là tuy làm sạch thế giới của Phật mà không khởi lên tác ý, phần nhiều an trú tu tập vô công dụng.
Hóa lực, hiển thị sắc thái an trú thứ chín, là bốn biện tự tại vô ngại có năng lực thành thục tất cả chúng sanh.
Thanh tịnh hai môn, hiển thị sắc thái an trú thứ mười, là tam-muội môn và đà-la-ni môn thì cực kỳ thanh tịnh.
Thanh tịnh bồ-đề, hiển thị sắc thái an trú thứ mười một, là diệt trừ vĩnh viễn tất cả trí chướng.
Đã nói mười một sắc thái an trú của Bồ tát, kế nói dựa vào các địa mà thiết lập danh xưng của Bồ tát.
[0657c04] Kệ tụng:
Đầu ba, ba hành tịnh
Kế ba, ba mạn đoạn
Sau ba, giác, xả, hóa
Thứ mười có bốn tên.
Giải thích:
Ở trong mười địa thiết lập mười tên gọi Bồ tát.
Đầu ba, ba hành tịnh: Ở địa đầu tiên gọi là Bồ tát kiến tịnh, vì có được cái trí đối trị hai kiến chấp [sai lầm] về nhân và pháp. Ở địa thứ hai gọi là Bồ tát giới tịnh, vì mọi sự phạm giới dơ bẩn rất nhỏ vĩnh viễn không tồn tại. Ở địa thứ ba gọi là Bồ tát định tịnh, vì các thiền và tam-muội chứng đắc thì không thoái chuyển.
Kế ba, ba mạn đoạn: Ở địa thứ tư gọi là Bồ tát đoạn pháp môn dị mạn, vì phá hủy được sự sanh khởi mạn sai biệt đối với các kinh pháp. Ở địa thứ năm gọi là Bồ tát đoạn tương tục dị mạn, vì nhập mười tâm bình đẳng nên trong mọi sự tương tục đều thấy bình đẳng. Ở địa thứ sáu gọi là Bồ tát đoạn nhiễm tịnh dị mạn, vì đặc tánh chân như có hai mặt là bản tịnh và khách trần, cho nên ở mặt nhiễm ô, Bồ tát có thể an trú nơi pháp duyên khởi; ở mặt chân như, Bồ tát không khởi cái thấy sai biệt trắng đen.
Sau ba, giác, xả, hóa: Ở địa thứ bảy gọi là Bồ tát đắc giác, vì an trú trong năng lực vô tướng nên trong mỗi ý nghĩ có thể tu tập ba mươi bảy giác phần. Ở địa thứ tám gọi là Bồ tát hành xả, vì an trú vô công dụng đối với vô tướng; cũng gọi là Bồ tát làm sạch quốc độ, vì những diệu hạnh phương tiện [ở địa thứ bảy] thích hợp với Bồ tát bất thoái địa. Ở địa thứ chín gọi là Bồ tát giáo hóa chúng sanh, vì có năng lực thành thục tất cả chúng sanh. Ở địa thứ mười có bốn tên gọi Bồ tát: 1. Bồ tát đại thần thông, vì chứng đắc đại thần thông; 2. Bồ tát viên mãn pháp thân, vì đầy đủ tam-muội môn và đà-la-ni môn; 3. Bồ tát năng hóa hiện thân, vì trú ở cung trời đâu suất v.v…, thị hiện các sắc tướng và thân hình; 4. Bồ tát thọ chức, vì được thọ chức từ Phật.
Đã nói dựa vào các địa mà thiết lập danh xưng của Bồ tát, kế nói sự tu học và quả của sự tu học dựa theo các địa của Bồ tát.
[0657c25] Kệ tụng:
Tuần tự theo sáu trước
Thấy tánh tu ba học
Tuần tự theo bốn sau
Được quả có bốn thứ.
Giải thích:
Tuần tự theo sáu trước, thấy tánh tu ba học: Bồ tát ở địa đầu tiên thông đạt chân như; ở địa thứ hai tu học giới tăng thượng; ở địa thứ ba tu học tâm tăng thượng; ở địa thứ tư, địa thứ năm và địa thứ sáu tu học tuệ tăng thượng.
Tuệ có hai đối cảnh: 1. Sự thật của các pháp, là bốn đế khổ, tập, diệt, đạo; 2. Duyên khởi, là quán sát thuận nghịch mười hai nhân duyên. Hai cảnh này cũng có trong địa thứ hai và địa thứ ba, cho nên hai địa này cũng được xây dựng bởi tuệ tăng thượng.
Tuy nhiên, ở địa thứ tư là tuệ tăng thượng về ba mươi bảy bồ-đề phần pháp, ở địa thứ năm là tuệ tăng thượng về quán bốn đế, ở địa thứ sáu là tuệ tăng thượng về quán duyên khởi, vì vậy ba địa này được xây dựng trên nền tảng của tu học tuệ tăng thượng.
Tuần tự theo bốn sau, được quả có bốn thứ: Theo địa thứ bảy, Bồ tát được sự an trú hữu công dụng đối với vô tướng, là quả thứ nhất. Theo địa thứ tám, Bồ tát được sự an trú vô công dụng đối với vô tướng, là quả thứ hai. Theo địa thứ chín, Bồ tát được sự thành thục chúng sanh, là quả thứ ba. Theo địa thứ mười, Bồ tát được hai môn thành thục, là quả thứ tư.
Đã nói sự tu học và quả của sự tu học dựa theo các địa của Bồ tát, kế nói sự tu tập năm uẩn vô lưu dựa theo các địa của Bồ tát.
[0658a11] Kệ tụng:
Thấy tánh sạch ba thân
Cũng ở sáu địa trước
Địa khác sạch hai khác
Rời xa năm chướng vậy.
Giải thích:
Sự thấy tánh ở địa đầu tiên đã giải thích. Ở địa thứ hai, Bồ tát được giới thân thanh tịnh. Ở địa thứ ba, Bồ tát được định thân thanh tịnh. Ở địa thứ tư, địa thứ năm và địa thứ sáu, Bồ tát được tuệ thân thanh tịnh. Bốn địa còn lại và Phật địa, Bồ tát được giải thoát thân và giải thoát tri kiến thân thanh tịnh, do rời xa năm chướng ngại.
Năm chướng ngại là, ở địa thứ bảy lấy sự không biết chấp tướng làm chướng ngại; ở địa thứ tám lấy sự không biết công dụng làm chướng ngại; ở địa thứ chín lấy sự không biết không có năng lực giáo hóa chúng sanh làm chướng ngại; ở địa thứ mười lấy sự không biết chưa thanh tịnh hai môn làm chướng ngại; ở Phật địa lấy sự không biết sự trở ngại làm chướng ngại; sự trở ngại ấy là sự không biết cảnh giới trí tuệ của Thanh văn và Duyên giác có thể làm sự trở ngại; chư Phật biết tất cả cảnh giới không có trở ngại nên giải thoát chướng ngại này.
Đã nói sự tu tập năm uẩn vô lưu dựa theo các địa của Bồ tát, kế nói sự thành tựu và chưa thành tựu dựa theo các địa của Bồ tát.
[0658a24] Kệ tụng:
Chưa thành tựu, thành tựu
Thành có chưa thành, thành
Như thiết lập địa biết
Phân biệt, vô phân biệt.
Giải thích:
Chưa thành tựu, thành tựu: Bồ tát ở tín hành địa gọi là chưa thành tựu. Từ tín hành địa trở lên các địa gọi là thành tựu.
Thành có chưa thành, thành: Ở trong các địa được gọi là thành tựu lại có hai loại là chưa thành tựu và thành tựu. Bồ tát từ địa thứ bảy trở xuống gọi là chưa thành tựu, vì còn hữu công dụng hành; từ địa thứ tám trở lên gọi là thành tựu, vì được vô công dụng hành.
Hỏi: Trước có nói Bồ tát ở Hoan hỷ địa cũng được gọi là thành tựu, nghĩa ấy như thế nào?
Đáp: Như thiết lập địa biết, phân biệt, vô phân biệt: Đó là do trong sự thiết lập địa này, Bồ tát biết chỉ là sự phân biệt [ngã chấp và pháp chấp]; nơi sự phân biệt ấy cũng không có phân biệt, nghĩa là sở chấp và năng chấp đều không có tự thể. Căn cứ theo nghĩa ấy mà nói [Bồ tát ở Hoan hỷ địa] là thành tựu.
[0658b05] Kệ tụng:
Nên biết trong các địa
Tu tập và thành tựu
Hai đây không nghĩ bàn
Là cảnh giới chư Phật.
Giải thích:
Bồ tát ở trong mỗi địa đều có sự tu tập và sự thành tựu; nên biết sự tu tập và sự thành tựu ở mỗi địa đều không thể nghĩ bàn, vì các Bồ tát tự chứng tuệ giác tự nội, chính là sở tri của chư Phật, không phải cảnh giới của các bậc khác.
Đã nói sự thành tựu và chưa thành tựu dựa theo các địa của Bồ tát, kế nói mười sắc thái nhập địa của Bồ tát.
[0658b11] Kệ tụng:
Minh tín, không thấp kém
Không khiếp sợ, không đợi
Thông đạt và bình đẳng
Rời thiên lệch, dính mắc
Cùng với biết phương tiện
Đồ chúng từ Phật sanh
Như vậy mười sắc thái
Mỗi địa đều viên mãn.
Giải thích:
Bồ tát nhập địa ở mỗi địa đều có mười sắc thái. Những gì là mười? 1. Minh tín; 2. Không thấp kém; 3. Không khiếp sợ; 4. Không đợi; 5. Thông đạt; 6. Bình đẳng; 7. Rời thiên lệch; 8. Rời dính mắc; 9. Biết phương tiện; 10. Đồ chúng từ Phật sanh.
Minh tín là ở địa của mình thì có được sáng suốt, vì trừ được sự vô tri đối với các pháp; đối với địa khác thì có được đức tin, vì sanh ước nguyện ưa thích đối với các địa ở sau.
Không thấp kém là nghe được giáo pháp vi diệu sâu xa mà không kinh sợ.
Không khiếp sợ là thực hành rất dũng mãnh hạnh khó làm.
Không đợi là khởi sự tu hành địa của mình mà không đợi dạy bảo.
Thông đạt là có năng lực sanh khởi phương tiện của địa khác.
Bình đẳng là chúng sanh khắp cả cùng một tự tâm.
Rời thiên lệch là tai nghe khen chê mà tâm không có cất cao hay hạ thấp.
Rời dính mắc là được các địa vị như chuyển luân vương v.v… vẫn không lưu luyến và nhiễm ô.
Biết phương tiện là biết các pháp không thể thủ đắc làm phương tiện của Phật.
Đồ chúng từ Phật sanh là đồ chúng luôn được sanh ra từ chư Phật.
Mười sắc tướng này mỗi một địa đều có đủ.
Đã nói mười sắc thái nhập địa của Bồ tát, kế nói sắc thái của mười ba-la-mật ở các địa của Bồ tát.
[0658b28] Kệ tụng:
Có dục, không sáu chướng
Tiếp đến không loạn tuệ
Không nổi, không trở lui
Thờ thiện hữu, cúng dường
Hồi hướng, sanh thù thắng
Tu thiện, du hý thông
Tạng công đức như vậy
Phật tử mười sáu tướng.
Giải thích:
Các Bồ tát ở trong các địa có mười sáu sắc thái tu tập mười ba-la-mật. Những gì là mười sáu?
1. Có dục tâm, là ưa thích thực hành các độ;
2. Không keo lẫn, là rời xa chướng ngại của thí;
3. Không trái phạm, là rời xa chướng ngại của giới;
4. Không giận dữ, là rời xa chướng ngại của nhẫn;
5. Không biếng nhác, là rời xa chướng ngại của tiến;
6. Từ bi, là rời xa chướng ngại của định; từ bi có năng lực cho vui cứu khổ, là phương cách đối trị giận dữ và bực tức, từ bi do định mà có được;
7. Không ác tuệ, là rời xa chướng ngại của tuệ; ác tuệ có ba loại: phân biệt tự tánh, phân biệt tùy ức và phân biệt hiển thị, ba loại này có thể đoạn trừ;
8. Không loạn tuệ, là rời xa tâm hướng về thừa khác;
9. Không nổi trôi, là không bị ngũ dục của con người và thắng lạc của cõi trời làm cho tâm mình say đắm;
10. Không trở lui, là không bị cái khổ vì không thành tựu và cái khổ vì khó thực hành làm cho tâm mình thoái chuyển;
11. Thờ thiện hữu, là nương tựa sự thị hiện như bậc thiện tri thức của Phật để được nghe pháp Đại thừa;
12. Cúng dường, là cúng dường Tam bảo;
13. Hồi hướng, là phương tiện thiện xảo;
14. Sanh thù thắng, là hiển thị sắc thái của nguyện ba-la-mật, là rời xa tám nạn xứ, không rời xa chư Phật Bồ tát;
15. Tu thiện, là hiển thị sắc thái của lực ba-la-mật, là tu tập không ngừng nghỉ các thiện căn;
16. Thần thông du hý, là hiển thị sắc thái của trí ba-la-mật, là vận dụng vô ngại các đại thần thông và công đức [của trí tuệ].
Bồ tát có những sắc thái này thì thường làm bậc thượng thủ trong tất cả chúng. Đây gọi là mười sáu sắc thái của người con Phật.
Đã nói sắc thái của mười ba-la-mật ở các địa của Bồ tát, kế nói năm công đức ở mỗi ba-la-mật của Bồ tát.
[0658c20] Kệ tụng:
Mỗi địa khi thăng tiến
Mỗi độ có năm đức
Hai cùng hai và một
Tu tập chỉ và quán.
Giải thích:
Mỗi địa khi thăng tiến, mỗi độ có năm đức: Bồ tát ở mỗi một địa tu tập mỗi một độ, và trong mỗi một độ có đủ năm thứ công đức.
Những gì là năm? 1. Diệt tập khí; 2. Được khinh an; 3. Tròn sáng; 4. Tướng khởi; 5. Nhân tố rộng lớn.
Diệt tập khí là trong từng sát-na diệt trừ khối tập khí dựa vào.
Được khinh an là rời xa mọi thứ ấn tượng để an trú pháp lạc.
Tròn sáng là biết tất cả chủng, không có tác ý phần đoạn.
Tướng khởi là khi nhập đại địa thì vô phân biệt tướng sanh khởi.
Nhân tố rộng lớn là làm viên mãn và thanh tịnh tất cả sắc thái của pháp thân, là làm cho cả hai khối phước trí được tăng trưởng.
Hai cùng hai và một, tu tập chỉ và quán: Ở đây nên biết, hai công đức đầu là phần chỉ, hai công đức tiếp theo là phần quán, công đức thứ năm là gồm hai phần chỉ quán.
Đã nói năm công đức ở mỗi ba-la-mật của Bồ tát, kế giải thích danh xưng mười địa của Bồ tát.
[0659a04] Kệ tụng:
Thấy chân, thấy lợi vật
Xứ này được Hoan hỷ.
Xuất phạm, xuất dị tâm
Gọi là Ly cấu địa.
Sức cầu pháp, trì pháp
Phát ánh sáng gọi Minh.
Củi hoặc chướng, trí chướng
Thiêu đốt là Diệm tuệ.
Hai khó làm thoái lui
Thoái lui nên Nan thắng.
Quán không trú hai pháp
Hằng hiện gọi Hiện tiền.
Nhiều đường gần nhất thừa
Đi xa gọi Viễn hành.
Tưởng tướng, tưởng vô tướng
Không động, Bất động địa.
Bốn biện trí lực xảo
Thuyết thiện gọi Thiện tuệ.
Hai môn như mây giăng
Mưa pháp gọi Pháp vân.
Giải thích:
Thấy chân, thấy lợi vật, xứ này được Hoan hỷ: Bồ tát ở trong địa đầu tiên có hai cái thấy: một là thấy chân như, nghĩa là thấy sự lợi mình: thấy mình đi đến gần với bồ-đề, xưa chưa từng thấy, nay mới vừa thấy; hai là thấy lợi vật, nghĩa là thấy sự lợi người: trong từng sát-na có năng lực thành thục hàng trăm chúng sanh. Do hai cái thấy này, Bồ tát khởi lên sự hoan hỷ thù thắng, nên gọi là Hoan hỷ địa.
Xuất phạm, xuất dị tâm, gọi là Ly cấu địa: Bồ tát ở địa thứ hai ra khỏi được hai thứ dơ bẩn: một là ra khỏi sự phạm giới dơ bẩn, hai là ra khỏi sự khởi tâm dị thừa dơ bẩn. Do ra khỏi hai sự dơ bẩn này mà gọi là Ly cấu địa. Như kinh Thập địa nói: “Chúng con siêng năng tinh tiến để được tịnh giới, thành mãn sự thanh tịnh của nhất thiết chủng trí. ”
Sức cầu pháp, trì pháp, phát ánh sáng gọi Minh: Bồ tát ở trong địa thứ ba có được sức tự tại của tam-muội nên có thể cầu, có thể thừa tự, có thể gìn giữ vô lượng Phật pháp, được ánh sáng chánh pháp lớn lao, vì người mà làm chỗ dựa ánh sáng trí giác. Do có thể lấy chánh pháp soi sáng cho mình, soi sáng cho người nên gọi là Minh địa.
Củi hoặc chướng, trí chướng, thiêu đốt là Diệm tuệ: Bồ tát ở trong địa thứ tư lấy trí giác của pháp bồ-đề phần làm tự tánh của ngọn lửa, lấy hoặc chướng và trí chướng làm tự tánh của củi. Bồ tát ở địa này có thể khởi lên ngọn lửa trí giác đốt tiêu củi hai chướng nên gọi là Diệm tuệ địa.
Hai khó làm thoái lui, thoái lui nên Nan thắng: Bồ tát ở trong địa thứ năm có hai thứ khó: khó thứ nhất là siêng năng giáo hóa chúng sanh mà tâm không phiền não, khó thứ hai là chúng sanh không làm theo sự giáo hóa mà tâm không phiền não. Bồ tát ở địa này có thể thoái lui vì hai thứ khó, phải khó khăn lắm mới vượt thắng nên gọi là Nan thắng địa.
Quán không trú hai pháp, hằng hiện gọi Hiện tiền: Bồ tát ở trong địa thứ sáu dựa vào trí tuệ ba-la-mật mà có năng lực không trú hai pháp là sanh tử và niết-bàn. Tuệ quán như vậy hằng hiện ở trước mắt nên gọi là Hiện tiền địa.
Nhiều đường gần nhất thừa, đi xa gọi Viễn hành: Bồ tát ở trong địa thứ bảy thì đã tiếp cận với đạo nhất thừa, cho nên gọi là đi xa.
Hỏi: Cái gì là đi xa?
Đáp: Phương tiện [thiện xảo] cho sự cứu cánh tuy còn hữu công dụng nhưng vẫn có khả năng đưa Bồ tát đi xa. Do sự đi xa này mà gọi là Viễn hành địa.
Tưởng tướng, tưởng vô tướng, không động, Bất động địa: Bồ tát ở trong địa thứ tám đối với ấn tượng hữu tướng và ấn tượng hữu công dụng về vô tướng, cả hai ấn tượng này đều không thể dao động. Do không có sự dao động này nên gọi là Bất động địa.
Bốn biện trí lực xảo, thuyết thiện gọi Thiện tuệ: Bồ tát ở trong địa thứ chín được bốn vô ngại tuệ thuộc loại thù thắng nhất, nên ở trong khoảng một sát-na, hết thảy người trời có chủng loại khác nhau nơi ba ngàn thế giới, cùng hỏi những câu hỏi khác nhau bằng tiếng nói khác nhau và nghĩa lý khác nhau, vậy mà Bồ tát ở địa này có thể dùng một tiếng nói trả lời khắp cả những câu hỏi của mọi loài, đoạn trừ những hoài nghi. Do sự thuyết pháp một cách khéo léo như vậy nên gọi là Thiện tuệ địa.
Hai môn như mây giăng, mưa pháp gọi Pháp vân: Bồ tát ở trong địa thứ mười nhờ tam-muội môn và đà-la-ni môn mà nhiếp thọ tất cả nhân tố đa văn huân tập làm đầy khắp trong thức a-lại-da, giống như mây lớn giăng che khắp cả hư không. Bồ tát ở địa này có thể lấy đám mây đa văn huân tập, ở trong từng sát-na, ở mỗi một tướng hảo, ở mỗi một vẻ đẹp tùy hình, ở mỗi lỗ chân lông, đổ mưa xuống vô lượng vô biên cơn mưa giáo pháp, làm sung mãn tất cả chúng sanh có thể hóa độ. Do như đám mây đổ mưa giáo pháp nên gọi là Pháp vân địa.
Đã giải thích danh xưng riêng biệt rồi, thế nào gọi là trú, thế nào gọi là địa?
[0659b22] Kệ tụng:
Vì tập các thiện căn
Lạc trú nên nói trú
Số đếm, số, vô úy
Lại lấy địa làm tên.
Giải thích:
Vì tập các thiện căn, lạc trú nên nói trú: Các Bồ tát vì thành tựu mọi thứ thiện căn nên ở trong tất cả thời gian an trú ý lạc trong tất cả địa, vì vậy các địa còn được gọi là các trú.
Số đếm, số, vô úy, lại lấy địa làm tên: Bộ-di-da (步彌耶) gọi là địa. Bộ là nghĩa của số đếm. Di là nghĩa của số thật. Da là nghĩa không sợ hãi. Các Bồ tát muốn tiến lên địa ở trên thì ở trong mỗi một địa phải đoạn trừ số đếm chướng ngại, có được số đếm công đức, nên gọi là nghĩa của số đếm.
Địa lấy mười số làm lượng. Các Bồ tát ở trong tất cả địa đều biết phải đoạn trừ những chướng ngại như thế, biết phải có được những công đức như thế, biết những điều đó là không giả dối, nên gọi là nghĩa của số thật.
Các địa ở trên là trú xứ không sợ hãi. Các Bồ tát e sợ rằng nếu ở mãi trong địa của mình thì sẽ thoái mất những công đức lợi mình lợi người, nên mong muốn tiến lên các địa ở trên, gọi đó là nghĩa không sợ hãi.
Do ba nghĩa đây nên gọi là địa.
Đã nói danh xưng mười địa của Bồ tát, kế nói bốn sự thủ đắc các địa sai biệt của Bồ tát.
[0659c07] Kệ tụng:
Tin hiểu và chánh hành
Thông đạt và thành mãn
Nên biết các Bồ tát
Đắc địa có bốn sự.
Giải thích:
Bốn sự thủ đắc các địa là: 1. Thủ đắc nhờ tin hiểu; 2. Thủ đắc nhờ chánh hành; 3. Thủ đắc nhờ thông đạt; 4. Thủ đắc nhờ thành mãn.
Thủ đắc nhờ tin hiểu, là lấy sự tin hiểu (sâu xa) để thủ đắc các địa, như nói đến trong tín địa. Thủ đắc nhờ chánh hành, là lấy chánh hành để thủ đắc các địa.
Các Bồ tát đối với pháp Đại thừa có mười chánh hành: 1. Sao chép; 2. Hiến cúng; 3. Chuyền cho; 4. Nghe nhận; 5. Dở đọc; 6. Chỉ dạy; 7. Phúng tụng; 8. Giảng nói; 9. Suy nghĩ; 10. Tu tập.
Mười chánh hành này có năng lực sanh ra khối công đức vô lượng. Mười chánh hành này thủ đắc các địa nên gọi là thủ đắc nhờ chánh hành.
Thủ đắc nhờ thông đạt, là thông đạt đệ nhất nghĩa đế, cho đến Bồ tát ở địa thứ bảy được gọi là thông đạt.
Thủ đắc nhờ thành mãn, là Bồ tát từ địa thứ tám đến Phật địa được gọi là thủ đắc nhờ thành mãn.
Đã nói bốn sự thủ đắc các địa sai biệt của Bồ tát, kế nói bốn sự tu hành sai biệt của Bồ tát.
[0659c19] Kệ tụng:
Các độ, các giác phần
Các thần thông, nhiếp sanh
Vì Đại thừa, tiểu thừa
Cùng thể nhập, thành thục.
Giải thích:
Nói tổng quát, tất cả hành Bồ tát không ra ngoài bốn sự: 1. Hành ba-la-mật; 2. Hành bồ-đề phần pháp; 3. Hành thần thông; 4. Hành nhiếp hóa chúng sanh.
Hành ba-la-mật là nói về chúng sanh cầu Đại thừa. Hành bồ-đề phần pháp là nói về chúng sanh cầu Tiểu thừa. Hành thần thông là làm cho hai loại chúng sanh thể nhập được Phật pháp. Hành nhiếp hóa chúng sanh là làm cho hai loại chúng sanh thành thục Phật pháp.
Phẩm Hành Trú trọn vẹn
Phẩm Hai Mươi Bốn
KÍNH PHẬT
Giải thích:
Đã nói hành trú của Bồ tát, kế nói công đức lễ Phật.
[0659c29] Kệ tụng:
Tâm hòa đồng, xa lìa
Tâm không mất, lợi ích
Thương xót các chúng sanh
Cứu đời, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai, đấng công đức vô lượng.
Tâm hòa đồng, là tâm từ, vì muốn mang lại niềm vui.
Tâm xa lìa, là tâm bi, vì muốn lấy đi nỗi khổ.
Tâm không mất, là tâm hỷ, vì muốn chúng sanh luôn được hoan hỷ.
Tâm lợi ích, là tâm xả, vì muốn chúng sanh không bị nhiễm ô.
[0660a03] Kệ tụng:
Giải thoát hết thảy chướng
Thắng hơn các thế gian
Cùng khắp tất cả xứ
Tâm thoát, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của ba xứ.
Giải thoát hết thảy chướng: Tán dương sự thù thắng của giải thoát, là được giải thoát vì không còn tất cả hoặc chướng và tất cả trí chướng.
Thắng hơn các thế gian: Tán dương sự thù thắng của chế ngự thể nhập, là tâm tự tại với cảnh sở duyên, tùy ý chuyển hóa.
Cùng khắp tất cả xứ: Tán dương sự thù thắng của biến xứ thể nhập, là trí cùng khắp trong tất cả cảnh.
Ba nghĩa này nói về tâm được giải thoát đối với ba xứ, nên tán dương là đấng tâm giải thoát.
[0660a14] Kệ tụng:
Ngăn chận phiền não khởi
Diệt tổn hại mê hoặc
Thương chúng sanh ô nhiễm
Đấng bi, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của vô tránh (không tranh cãi).
Ngăn chận phiền não khởi: Tất cả chúng sanh sanh khởi phiền não, mọi việc làm của Như lai đều làm cho chúng sanh không sanh khởi phiền não.
Diệt tổn hại mê hoặc: Tất cả mê hoặc nếu đã sanh khởi thì Như lai cũng có thể giúp cho chúng sanh sanh khởi phương tiện đối trị. Bậc khác có đức tánh không tranh cãi thì đó là duyên tố làm cho người khác không sanh khởi mê hoặc, chứ không thể làm cho người khác sanh khởi đối trị. Sự vô tránh của Như lai không phải như vậy, chẳng những làm cho chúng sanh không khởi mê hoặc mà còn khiến cho chúng sanh sanh khởi sự đối trị mê hoặc, cho nên gọi là vô tránh thù thắng.
Thương chúng sanh ô nhiễm, Đấng bi, con đảnh lễ: Tam-muội vô tránh của Như lai thì nghiêng về sự sanh khởi lòng thương xót đối với tất cả chúng sanh còn có ô nhiễm, cho nên đối với chúng sanh, Như lai được gọi là đấng đại bi.
[0660a25] Kệ tụng:
Không dụng công, không vướng
Không ngại, hằng tịch tĩnh
Giải đáp tất cả nghi
Thắng trí, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của nguyện trí.
Nguyện trí của Như lai có năm sự thù thắng: 1. Không còn khởi dụng công; 2. Không vướng mắc ở đối cảnh; 3. Không bị ngăn ngại ở trong tâm; 4. Thường xuyên tịch tĩnh; 5. Giải đáp các hoài nghi. Do có năm nghĩa này nên gọi là thù thắng.
Nguyện trí của bậc khác là: 1. Không phải không dụng công, vì còn khởi tác ý; 2. Không phải không vướng mắc, vì có định lực giả tạm; 3. Không phải không ngăn ngại, vì sự thấy biết đôi phần ít ỏi; 4. Không phải thường xuyên tịch tĩnh, vì không phải là định thường tịch; 5. Không giải đáp các hoài nghi, vì có chỗ không biết tới.
[0660b04] Kệ tụng:
Sở y và năng y
Ngôn từ và trí tuệ
Sự thuyết tuệ vô ngại
Khéo thuyết, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của bốn trí vô ngại.
Sự được thuyết có hai thứ: 1. Sở y, là giáo pháp; 2. Năng y, là nghĩa lý.
Công cụ thuyết pháp có hai thứ: 1. Ngôn từ thông suốt; 2. Trí tuệ khéo léo.
Như lai đối với sự được thuyết và công cụ thuyết pháp đều sử dụng tuệ giác vô ngại, cho nên gọi là thù thắng.
Sự thuyết, là hiển thị nghiệp dụng vô ngại. Khéo thuyết, là vận dụng phương tiện để khai mở, chỉ bày.
[0660b11] Kệ tụng:
Qua lại và nghe biết
Biết tâm hành, đến, đi
Khiến người được xuất ly
Giáo hóa, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của sáu thần thông.
Qua lại, là như ý thông, là năng lực qua lại mọi xứ sở.
Nghe biết, là thiên nhĩ thông, là năng lực nghe biết mọi ngôn âm.
Biết tâm hành, là tha tâm thông, là năng lực biết rõ tâm hành sai biệt của người.
Biết từ đâu đến, là túc trú thông, là năng lực biết rõ đời trước người kia từ nhân nào đến.
Biết đi về đâu, là sanh tử thông, là biết rõ người kia đời nay từ nhân nào đi.
Khiến người được xuất ly, là lậu tận thông, là đúng với chân thật vì người thuyết pháp.
[0660b20] Kệ tụng:
Chúng sanh nhìn thấy Ngài
Biết chắc là trượng phu
Tâm tịnh tín sâu xa
Phương tiện, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của tướng hảo.
Tất cả chúng sanh một lần được nhìn thấy Ngài thì biết chắc Như lai là bậc đại trượng phu, và khởi lên sự tin tưởng trong sáng và sâu xa nơi Như lai, vì Ngài dùng tướng hảo làm phương tiện.
[0660b25] Kệ tụng:
Giữ bỏ trú, biến hóa
Định, trí được tự tại
Như vậy bốn thanh tịnh
Thế tôn, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của bốn tướng thanh tịnh. Đó là: 1. Thân thanh tịnh; 2. Duyên thanh tịnh; 3. Tâm thanh tịnh; 4. Trí thanh tịnh.
Giữ bỏ trú, hiển thị thân thanh tịnh, là năng lực giữ, bỏ hay trú ở sự sống lâu của thân mạng một cách tự tại.
Biến hóa, hiển thị duyên thanh tịnh, là năng lực chuyển đổi và biến hóa các cảnh giới một cách tự tại.
Định, hiển thị tâm thanh tịnh, là năng lực xuất nhập các định một cách tự tại.
Trí, hiển thị trí thanh tịnh, là năng lực biết các cảnh giới vô ngại một cách tự tại.
[0660c05] Kệ tụng:
Phương tiện và qui y
Thanh tịnh và xuất ly
Đây phá bốn lừa dối
Hàng ma, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của mười lực.
Ma vương dựa vào bốn sự để phá hoại chúng sanh. Bốn sự là gì?
1. Dựa vào phương tiện để lừa dối, mê hoặc chúng sanh, nói thọ dụng năm trần thì được sanh đường lành, không đọa đường dữ;
2. Dựa vào quy y để lừa dối, mê hoặc chúng sanh, nói chúa trời Tự tại v.v... là nơi chốn quy y, quy y nơi khác là sai lầm;
3. Dựa vào thanh tịnh để lừa dối, mê hoặc chúng sanh, nói chỉ có các định của thế gian mới là thanh tịnh, các định khác không phải thanh tịnh;
4. Dựa vào xuất ly để lừa dối, mê hoặc chúng sanh, nói chỉ có đạo quả của tiểu thừa mới có thể xuất ly, chẳng phải Đại thừa có được.
Phật vì phá bốn sự của ma vương mà hiển thị mười lực:
1. Phật dùng trí lực thị xứ phi xứ để phá sự thứ nhất của ma vương, do phương tiện thiện lành có thể được sanh cõi trời, không phải phương tiện xấu ác làm được;
2. Phật dùng trí lực tam thế nghiệp báo để phá sự thứ hai của ma vương, do nghiệp lực của mình khiến được sanh cõi trời, không phải dựa vào năng lực của chúa trời Tự tại v.v…;
3. Phật dùng trí lực thiền định giải thoát để phá sự thứ ba của ma vương, do biết hết các thiền định, giải thoát tam-muội và tam-ma-bạt-đề;
4. Phật dùng bảy trí lực khác mà phá sự thứ tư của ma vương, do rời bỏ căn tánh thấp kém v.v… để đứng yên nơi căn tánh cao tột.
[0660c20] Kệ tụng:
Trí đức và đoạn đức
Xuất ly và chướng ngại
Thuyết pháp lợi mình người
Dẹp tà, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của bốn vô úy.
Trí đức là nói về nhất thiết trí vô úy.
Đoạn đức là nói về lậu tận vô úy.
Xuất ly là nói về thuyết tận khổ đạo vô úy.
Chướng ngại là nói về thuyết chướng đạo vô úy.
Ở đây, trí đức và đoạn đức là nói về công đức lợi mình, xuất ly và chướng ngại là nói về công đức lợi người.
Các ngoại đạo nạn vấn rằng: Sa-môn Cù-đàm (1) chẳng có đủ nhất thiết trí, (2) chẳng diệt hết tất cả lậu, (3) thuyết đạo [xuất thế] mà không thể hết khổ, (4) thuyết chướng pháp mà không thật có trở ngại đạo.
Như lai đối với bốn nạn vấn này đều có thể bác bỏ, cho nên gọi là vô úy.
[0660c29] Kệ tụng:
Trong chúng nói trị phạt
Không giữ gìn cái gì
Rời hai bẩn, chánh trú
Nhiếp chúng, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của ba bất hộ.
Trong chúng nói trị phạt, không giữ gìn cái gì: Nếu Phật còn có cái gì để giữ gìn thì ở trong đại chúng Phật không thể nói ra sự trị phạt tới cùng.
Rời hai bẩn, chánh trú: Rời bỏ hai sự dơ bẩn là không có vui mừng và buồn ghét. Chánh trú là không quên mất chánh niệm. Do hai thứ công đức này mà gọi là thù thắng, có năng lực nhiếp hóa tất cả đồ chúng. Đây chính là nghiệp dụng của Phật.
[0661a08] Kệ tụng:
Đi đứng ở mọi nơi
Toàn là nhất thiết trí
Đoạn tất cả tập khí
Thật nghĩa, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của đoạn trừ tập khí.
Như lai trong mọi lúc, ở mọi nơi, đi đứng nằm ngồi toàn là sự dụng thể hiện uy nghi của nhất thiết trí, vì Như lai đã đoạn trừ tất cả phiền não và cả tập khí.
Nếu không có nhất thiết trí thì phiền não tuy hết nhưng tập khí chưa hết. Khi đi đứng mà gặp phải xe ngựa chạy nhanh rồi bị tổn hại là vì không có uy nghi của nhất thiết trí. Như lai không mắc phải việc này vì thật sự có nhất thiết trí.
[0661a16] Kệ tụng:
Việc lợi ích chúng sanh
Đúng lúc không lỡ thời
Việc làm thường không sót
Không quên, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của sự không lãng quên.
Trong sự lợi ích yên vui cho chúng sanh, việc Như lai làm thường xuyên đúng lúc và không bỏ lỡ cơ hội; đây là nghiệp dụng của pháp không lãng quên. Trong mọi thời gian, việc Như lai làm đều không có hư dối; đây là tự tánh của pháp không lãng quên.
[0661a22] Kệ tụng:
Ngày đêm sáu thời quán
Tất cả cõi chúng sanh
Đầy đủ tâm đại bi
Ý lợi, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của đại bi.
Bằng tâm đại bi, Như lai ngày đêm sáu thời quán sát chúng sanh, ai thoái, ai tiến: người chưa khởi thiện căn, Ngài làm cho người ấy khởi thiện căn; người đã khởi thiện căn, Ngài làm cho người ấy tăng tiến thiện căn.
Tuy một ngày đêm có sáu thời mà thật ra Ngài thường chuyển pháp luân trong mọi thời gian, vì Ngài có đầy đủ tâm đại bi; đây chính là nghiệp dụng của tâm đại bi.
Như lai thường khởi tâm ý lợi lạc cho tất cả chúng sanh; đây là tự tánh của tâm đại bi.
[0661b01] Kệ tụng:
Do hành và do chứng
Do trí và do nghiệp
Hơn tất cả nhị thừa
Cao tột, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của mười tám pháp bất cộng.
Như lai có mười tám pháp bất cộng: 1. Thân không lầm lỗi; 2. Miệng không lầm lỗi; 3. Ý không lầm lỗi; 4. Không có ý tưởng riêng khác; 5. Không lúc nào tâm không trú định; 6. Không có sự không biết mà đã xả; 7. Nguyện dục không giảm; 8. Tinh tiến không giảm; 9. Niệm không giảm; 10. Tuệ không giảm; 11. Giải thoát không giảm; 12. Giải thoát tri kiến không giảm; 13. Trí biết đời quá khứ không vướng mắc, không chướng ngại; 14. Trí biết đời vị lai không vướng mắc, không chướng ngại; 15. Trí biết đời hiện tại không vướng mắc, không chướng ngại; 16. Thân nghiệp hành động theo trí tuệ; 17. Khẩu nghiệp hành động theo trí tuệ; 18. Ý nghiệp hành động theo trí tuệ.
Mười tám pháp ấy chia ra bốn loại: hành, gồm sáu bất cộng đầu tiên; chứng, gồm sáu bất cộng kế tiếp; trí, gồm ba bất cộng tiếp theo; nghiệp, gồm ba bất cộng cuối cùng.
Tất cả Thanh văn, Duyên giác đối với hết thảy chúng sanh khác là bậc cao. Như lai do có bốn sự bất cộng, so với bậc cao ấy là bậc cao hơn, nên được gọi là đấng cao tột.
[0661b16] Kệ tụng:
Ba thân đại bồ-đề
Đắc nhất thiết chủng trí
Chúng sanh mọi nơi nghi
Trừ diệt, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của nhất thiết chủng trí.
Ba thân là: 1. Tự tánh thân; 2. Thọ dụng thân; 3. Hóa thân. Đây là nói tự tánh của nhất thiết chủng trí.
Hỏi: Trí này biết tất cả chủng loại trong tất cả cảnh là thế nào?
Đáp: Tất cả chúng sanh ở khắp mọi nơi sanh nghi hoặc, trí này có thể đoạn diệt những nghi hoặc ấy. Đây là nghiệp dụng của nhất thiết chủng trí.
[0661b23] Kệ tụng:
Không dính mắc, không lỗi
Không dơ bẩn, không ngưng
Không động, không hý luận
Thanh tịnh, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của sáu độ viên mãn.
Không dính mắc, là không bị dính mắc tiền của.
Không lỗi, là ba nghiệp thân miệng ý vĩnh viễn không vẩn đục.
Không dơ bẩn, là các khổ của pháp thế gian không làm nhuốm bẩn tâm.
Không ngưng, là có chút sở đắc không chịu ngưng nghỉ, trú ở.
Không động, là tâm hằng tịch tĩnh, không có tán loạn.
Không hý luận, là đối với tất cả pháp mà khởi phân biệt đều không phải chỗ sở hành.
Như lai viên mãn sáu ba-la-mật nên hoàn toàn rời sáu chướng, được gọi là đấng thanh tịnh.
[0661c02] Kệ tụng:
Thành tựu đệ nhất nghĩa
Xuất ly tất cả địa
Đến vị trí cực tôn
Giải thoát các chúng sanh.
Công đức vô tận đẳng
Hiện đời đều đầy đủ
Thế gian thấy, chúng thấy
Trời người đều không thấy.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của pháp thân Phật.
Ở đây lược nói pháp thân Phật có sáu đức:
1. Thể;
2. Nhân;
3. Quả;
4. Nghiệp;
5. Tương ứng;
6. Sai biệt.
Do sáu đức này biểu hiện mà biết đó chính là Phật, nên gọi là pháp thân Phật.
Thành tựu đệ nhất nghĩa: Đây là thể của pháp thân, do viên thành đệ nhất nghĩa, chứng đắc chân như thanh tịnh tột cùng.
Xuất ly tất cả địa: Đây là nhân của pháp thân, do tu tập tất cả địa vị Bồ tát mà xuất ly.
Đến vị trí cực tôn: Đây là quả của pháp thân, do đạt đến vị trí trên hết tất cả chúng sanh.
Giải thoát các chúng sanh: Đây là nghiệp của pháp thân, do có năng lực làm cho chúng sanh được giải thoát.
Công đức vô tận đẳng, hiện đời đều đầy đủ: Đây là tương ứng của pháp thân, do thích ứng với các đức vừa vô tận vừa vô đẳng.
Thế gian thấy, chúng thấy, trời người đều không thấy: Đây là sai biệt của pháp thân. Thế gian thấy, là mọi loài trong các thế giới đều thấy hóa thân. Chúng thấy, là chúng Bồ tát trong đại hội của Phật thấy được thọ dụng thân. Không thấy, là nhân loại, chư thiên v.v… trong mọi thời gian đều không thể thấy được tự tánh thân. Đây là sự sai biệt của ba thân.
Phẩm Kính Phật trọn vẹn
Luận Đại thừa trang nghiêm kinh được thuyết trọn vẹn trong thời gian cực kỳ thanh tịnh.
Quảng Minh dịch chú
(7/1/2010 - 2/11/2012)

    « Xem chương trước «      « Sách này có 15 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Tiếp kiến đức Đạt-lai Lạt-ma


Kinh Dược sư


Phù trợ người lâm chung


Hương lúa chùa quê - Phần 2: Hồi ký của Hòa thượng Thích Như Điển

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 52.15.136.223 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (251 lượt xem) - Hoa Kỳ (16 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Saudi Arabia (3 lượt xem) - Đức quốc (3 lượt xem) - Nga (2 lượt xem) - Hungary (1 lượt xem) - ... ...