Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Trong sự tu tập nhẫn nhục, kẻ oán thù là người thầy tốt nhất của ta. (In the practice of tolerance, one's enemy is the best teacher.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Đừng làm cho người khác những gì mà bạn sẽ tức giận nếu họ làm với bạn. (Do not do to others what angers you if done to you by others. )Socrates
Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Kẻ yếu ớt không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh mẽ. (The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong.)Mahatma Gandhi
Khó khăn thách thức làm cho cuộc sống trở nên thú vị và chính sự vượt qua thách thức mới làm cho cuộc sống có ý nghĩa. (Challenges are what make life interesting and overcoming them is what makes life meaningful. )Joshua J. Marine
Để sống hạnh phúc bạn cần rất ít, và tất cả đều sẵn có trong chính bạn, trong phương cách suy nghĩ của bạn. (Very little is needed to make a happy life; it is all within yourself, in your way of thinking.)Marcus Aurelius
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Dưới bóng đa chùa Viên Giác »» Về lại chùa Viên Giác - Ngày mất Mẹ - Làm đậu hủ »»

Dưới bóng đa chùa Viên Giác
»» Về lại chùa Viên Giác - Ngày mất Mẹ - Làm đậu hủ

Donate

(Lượt xem: 4.390)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Dưới bóng đa chùa Viên Giác - Về lại chùa Viên Giác - Ngày mất Mẹ - Làm đậu hủ

Font chữ:


Diễn đọc: Giang Ngọc

SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Tôi về Viên Giác chính thức vào mùa hè năm 1966. Với tôi năm này có hai sự kiện quan trọng. Đó là thân mẫu tôi qua đời do bom đạn của hai bên Quốc Cộng gây nên. Mẫu thân tôi cùng bà Bác ruột đã mất vào ngày 27 tháng 3 năm 1966. Sự kiện thứ hai là Thầy tôi và tôi bị ở tù. Đó là lúc mà ông Thiệu, ông Kỳ cho đem quân ra phong tỏa Đà Nẵng và Hội An, dẹp tan phong trào “đòi Quốc Hội Lập Hiến” và “đem bàn thờ Phật xuống đường” của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cũng như phong trào “thanh niên quyết tử” của Giáo Hội lập ra.

Nỗi buồn thân mẫu ra đi, tôi đã viết và kể rất chi tiết trong quyển “Giọt mưa đầu hạ” do chùa Khánh Anh Paris xuất bản năm 1979. Trải qua hơn 25 năm rồi, xin nhắc lại sự kiện ấy để nhớ về người mẹ năm xưa, hình ảnh một người đàn bà quê không bao giờ phai nhạt trong trí óc non trẻ của tôi.

Mùa Đông năm 1964, sau trận lụt lớn năm Giáp Thìn, tôi về thăm quê, bên dòng sông Thu Bồn. Nhà tôi ở xã Mỹ Hạt, gần cầu Câu Lâu và trạm Nam Phước.

Trên đường đi xe đạp tôi cố ngoảnh mặt qua hai bên đường để xem những nhà cửa đổ nát, trâu, bò, gà, heo chết trương sình lên. Mùi hôi thối bốc lên nồng nực cả một dòng sông. Về nhà lúc ấy thấy cha mẹ và các anh chị vẫn bình yên, tôi mừng. Dĩ nhiên lúa gạo, trâu, bò, gà, vịt cũng trôi theo số phận cả. Tôi về đột ngột nên mẹ không biết trước. Bà chỉ có mấy quả Ô Mai định đem ra chợ bán để mua trầu cau và thức ăn, nhưng đưa cho tôi và bảo tôi ăn. Tôi ăn những trái Ô Mai mà nước mắt chảy ngược vào lòng. Tuổi 15 vẫn còn non dại, chẳng biết làm sao giúp mẹ, chỉ biết đón nhận tình thương của mẹ và qua sự viếng thăm như thế mà thôi.

Tôi ở nhà được mấy hôm, trở lại chùa Phước Lâm đi học và hình như cả năm 1965 tôi không về lại nhà lần nào, cho đến đầu năm 1966 mới về lại nhà chuẩn bị làm tuần 49 ngày cho người anh thứ sáu đi lính bị tử nạn. Trên đường về Mỹ Hạt, nơi đồn lính Cẩm Hà, đường đi lên Vĩnh Điện có một chiếc xe hơi chạy ngược chiều đang tải thương, có người ngoắc tôi, báo tin mẹ tôi và bà bác mất vào khuya nay. Còn trên xe những người bị thương đang chở về bệnh viện Hội An để điều trị.



NGÀY MẤT MẸ

Tôi nghe như tiếng sét đánh bên tai. Chẳng biết làm gì hơn lúc này là gầm mặt xuống để nuốt những giọt nước mắt tự động chảy dài lăn qua hai gò má và nhớ về mẹ thật nhiều. Khi tôi đạp xe đến cổng làng, mọi người báo tin một lần nữa. Tôi được biết cha tôi, anh Cộng, con của Bác tôi và anh Lưu đang khiêng xác của mẹ và Bác xuống trường học nơi cây Duối để tẩm liệm. Đây là nơi đầu đời tôi đã học đánh vần ABC với Thầy giáo Trịnh Đức Hoàng trong những năm 1956-1957. Lúc bấy giờ cây Duối cũng chẳng còn mà trường học bị bom đạn cày xới chỉ còn trơ trọi lại sân trường và mấy cây bông gòn còn sót lại, làm chứng nhân cho lịch sử. Tôi trong chiếc áo nhật bình của một chú Tiểu, khóc nức nở khi thấy mẹ và Bác chẳng toàn thây. Lúc này, các chị gái và các chị dâu cũng đã tụ tập lại đông đủ.

Các anh tôi đi mua hòm và liệm mẹ cùng Bác một cách đơn giản, đưa đi mỗi người một ngõ. Lúc ấy, tôi biết rằng chẳng có một người hàng xóm nào còn ở lại. Vì tối hôm qua cả xóm bị cà-nông của phía quốc gia bắn vào. Vì có tin báo quân du kích đã về và tổ chức hội họp tại nhà gần đó. Thế là mọi người dân bị lãnh đủ những tang thương đổ nát của cuộc đời, của chiến tranh loạn lạc. Ai đúng ai sai chẳng ai biết. Chỉ có người dân thiệt thòi ở mọi phương diện mà thôi. Tôi theo sau chiếc quan tài của mẹ, áo quần xốc xếch và nước mũi, nước dãi, bù lu, bù loa với những nỗi khổ tâm của một người mất mẹ. Mới đi được giữa đường, máy bay dội bom quanh đó. Thế là cả đám tang bỏ quan tài của mẹ chạy tán loạn. Chúng tôi cũng bỏ chạy đi nơi khác để lánh đạn. Khi máy bay không còn rà trên đầu nữa, đám tang mới đưa quan tài của mẹ đi tiếp về hướng huyệt mộ đã đào sẵn trong miếng đất hương hỏa của gia đình tôi gần đó. Tôi nhủ thầm cho thân phận của con người, cho số phận của người dân thấp cổ bé họng, biết nói cùng ai và ai là người sẽ hiểu cho cảnh khổ này. Mọi người nỗ lực lấp đất sau khi đã đặt chiếc quan tài vào lòng đất. Tôi chờ cho lấp đất xong thì quỳ xuống bên mộ mẹ và nhớ lại một bài thơ của Xuân Tâm nói về tình mẹ mà nghe xót xa vô cùng trong lúc này:

Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi.

Quanh tôi ai cũng khóc

Im lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi...

Hoàng hôn phủ trên mộ

Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời.

Thật thế, bầu trời hôm ấy dường như nhỏ lại, bao bọc lấy thân tôi, để chứng kiến rằng tôi đã mất mẹ. Chỉ tiếc là chuông chùa gần đó chẳng có ai gióng lên tiếng nào, nhưng hoàng hôn đã phủ lên mộ mẹ, cho nên tôi cùng các anh và cha đi về hướng phía nhà của chị Ba để nghỉ chân và tìm cái gì đó để lót lòng. Chứ thật ra từ sáng đến giờ chúng tôi chưa dùng trưa và cũng chẳng ai nghĩ đến việc phải ăn uống gì cả. Bây giờ thì nước mắt của tôi không còn chảy nữa mà miệng đắng vô vàn và tâm tư như trống rỗng. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi khóc nhiều nhất ở lứa tuổi mười bảy, sau khi xuất gia được hai năm.

Tôi biết rằng mình thật sự mất mẹ. Sau này tôi mất cha năm 1986, 20 năm sau khi mất mẹ. Tôi không có cái diễm phúc đi theo sau quan tài của thân phụ mình. Lúc ấy tôi đang ở nước Đức xa xôi. Riêng Thầy Bảo Lạc, cả hai lần quan trọng ấy, Thầy không về kịp để chia sẻ những mất mát của gia đình. Lần mất mẹ vào năm 1966 Thầy ở tận Sài Gòn và lần mất cha Thầy đang ở Úc. Mặc dầu chúng tôi xuất gia nhiều năm rồi, nhưng tình thiêng liêng cốt nhục ấy vẫn còn nguyên lại trong tứ đại và tâm thức. Ngày xưa Phật cũng vậy, lúc Phụ Vương Ngài băng hà, Ngài cũng về lại quê xưa để nghiêng vai gánh quan tài của phụ thân cùng những người khác trong dòng họ. Ngài và Mẫu Hậu Maya cũng nguyện đời đời làm mẹ con với nhau, cho đến khi Ngài thành Phật. Chỉ tiếc rằng Mẫu Hậu Maya sau 7 ngày sinh Ngài lại không được thấy sự trưởng thành của Ngài về sau, chính Ngài có lẽ lúc ấy cũng chưa nhận rõ được nét mặt của Từ Mẫu.

Sau đám tang của mẹ, tôi lưu lại nhà phụ cha trong mùa gặt năm ấy và dành nhiều thời giờ để tụng Kinh cho mẹ và anh trong những tuần thất cho đến 49 ngày. Sau tang lễ, tôi về lại chùa Phước Lâm thưa Thầy Như Vạn cho phép về lại chùa Viên Giác hầu Thầy Bổn Sư. Như thế, tôi đã ở tại chùa Phước Lâm tròn hai năm. Hai năm của tuổi thơ thật trong trắng hồn nhiên. Trong hai năm ấy, tôi cũng chia sẻ, giúp đỡ và tham gia vào việc xây dựng ngôi chánh điện chùa Phước Lâm, bề thế, trang nghiêm và chắc chắn.

Hai cây đa to lớn, cành lá sum sê của chùa Viên Giác lại đón tôi trở về. Thật sự, tôi không biết tuổi thọ cây đa là bao nhiêu năm, nhưng tôi đoán chắc nó cũng hiện hữu với ngôi Đình Cẩm Phô này phải vài trăm năm. Gốc nó to lắm, có thể hai chục người ôm chắc cũng chưa giáp vòng. Mùa lá rụng thì thôi khỏi chê, chúng điệu chúng tôi phải ra sức quét dọn suốt buổi sáng đến ướt đẫm mồ hôi. Sau này mỗi lần đọc bài thơ “Cây Đa chùa Viên Giác” của Trần Trung Đạo, tôi lại nhớ đến những kỷ niệm êm đềm với hai cây đa này. Thầy tôi viên tịch vào năm 1998, nghe nói một cây đa cũng chết theo. Đúng như hai câu thơ trong chuyện Kiều mà cụ Nguyễn Du đã diễn tả:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”

Hay tin Thầy viên tịch, tại chùa Viên Giác ở tại Đức tôi cũng tổ chức lễ thọ tang và cầu nguyện. Thầy Quảng Hòa, hiện là Tri sự chùa Giác Uyển tại Sài Gòn, lúc ấy có mặt tại Viên Giác Hannover đã đi hai câu thơ nội dung cũng thật thấm đượm tình người:

“Hội An phố giăng tang trời ảm đạm
Viên Giác buồn tiễn biệt bóng Thầy đi.”

Người đi vào cõi thiên thu, còn bao nhiêu người khác ở lại tan nát cõi lòng. Ngay cả cây đa mà cũng thuận thế theo người, thử hỏi ai không thương không nhớ!

Năm 1966, tôi vẫn đi học tại trường Trung Học Bồ Đề Hội An. Thời đó, sau năm 1963, các cuộc tranh đấu của Giáo Hội cứ liên tục xảy ra, hết biểu tình đến tuyệt thực, hết tuyệt thực lại cầu nguyện v.v... Sư Phụ tôi dấn thân hết mình vào công việc như thế. Vả lại, thân phụ của Sư Phụ là Lý Trưởng của làng Minh Hương, một làng gồm cả Phố Cổ Hội An, đa phần là người Hoa và anh ruột của Thầy là Dân Biểu Lý Trường Trân, khối đối lập tại Hạ Nghị Viện thời đệ nhị Cộng Hòa lúc bấy giờ. Sau này tôi đi du học, qua Thầy giới thiệu, tôi được ông đứng ra với tư cách là Dân biểu bảo lãnh ở phía Việt Nam về tài chánh cho tôi được chính thức ra đi. Còn phía Nhật, có ông Akiyama, thuở ấy là nhà báo, sau này là Giáo Sư Đại Học tại Nhật.

Lúc nào ở chùa Viên Giác cũng có người ra kẻ vào, nhộn nhịp suốt ngày. Chú Thứ làm Thị Giả lo nước non cho khách khứa và hầu Thầy. Lúc nhỏ Thứ có tật là đứng đâu cũng cho tay vào miệng, trong khi hai con mắt thì mở rộng để quan sát sự việc. Thầy tôi chọn Thứ, vì lẽ đơn giản là Thứ lanh lẹ hơn tôi và còn biết lái xe Jeep, đưa Thầy đi đây đi đó nữa. Sau này Thứ không tiếp tục tu, trở thành Giáo Sư Đại Học tại Sài Gòn. Sau gần 40 năm xa cách, chúng tôi gặp nhau tại Anh và tại Đức, kể lại những chuyện xưa để mỉm cười. Vì chúng tôi bây giờ đang ở cái tuổi trên dưới 60, nghe lại chuyện cũ chỉ để chép miệng và thấm thía hơn, chứ không còn những cái bồng bột như tuổi thơ kia.

Tôi thấy nhiều tướng tá của quân lực Việt Nam Cộng Hòa hay tới chùa Viên Giác tấp nập cùng với những Phật Tử khắp tỉnh kéo về từ những quận huyện xa xôi. Tất cả chuyện ăn uống, ngủ nghỉ Thầy tôi đều cưu mang, không thấy Thầy than van, cũng chẳng cậy nhờ ai về chuyện tiền bạc. Lúc ấy tôi ở chùa chỉ lo tu, học, tụng Kinh và làm những việc cần làm, rất thơ ngây, chẳng biết lo gì cả. Đúng hơn chỉ biết lo học. Học thật nhiều, học thật giỏi. Đó là chí nguyện của tôi. Có lần Thầy thấy tôi học nhiều quá mới bảo rằng: “Ông có học đến mấy cái bằng cử nhân, tiến sĩ cũng không bằng một bài Kinh Bát Nhã đâu.”

Lúc ấy, nghe vậy tôi rất khó chịu thưa Thầy: “Bạch Thầy, tại sao thế?”

Thầy bảo rằng: “Dẫu cho ông đậu mấy cái bằng đi nữa, khi đi đến nhà Phật Tử nếu đưa cái bằng ra, đâu có ai dọn cho ông một bữa cơm nào. Ông chỉ cần thuộc bài Kinh Bát Nhã và tụng ở nhà Phật Tử, họ sẽ dọn và mời ông dùng một bữa cơm đầy đủ ý nghĩa.”

Lúc ấy tôi không chịu, nhưng bây giờ sau mấy mươi năm học hành, tu niệm, ra làm Phật sự, tôi thấy câu nói của Sư Phụ không sai. Dĩ nhiên, không hoàn toàn đúng hẳn, nhưng đó là sự thật trong bao nhiêu sự thật khác của cuộc đời.

Thầy Tâm Thanh, đại sư huynh của chúng tôi, xuất gia với Thầy tôi vào tháng 9 năm 1963, sau này trở thành vị Giảng Sư nổi tiếng của Giáo Hội. Sau 1975, Thầy lên Đại Ninh ẩn tu nhập thất và độ đệ tử. Thầy ấy xây dựng Vĩnh Minh Tự Viện thật khang trang. Trước khi viên tịch vào năm 2004, Thầy là một hành giả Tịnh Độ Tông, có những bằng cớ chứng minh Thầy ấy vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Ngày 22 tháng 2 năm 1972 tôi rời Việt Nam đi Nhật đã mang theo một tờ giấy bạc Việt Nam trị giá 20 đồng, trên đó có chữ ký của Thầy ấy và hiện nay tôi vẫn còn giữ để làm kỷ niệm.

Khoảng năm 1970, trường Trung Học Bồ Đề Hạnh Đức được thành lập gần chùa Phổ Hiền, nơi Thầy Tâm Thanh trụ trì tại ngã tư Bảy Hiền, nơi đa số người dân làm nghề dệt vải từ Quảng Nam vào sanh sống tại đây. Đến đó phải nói tiếng Quảng Nam chứ giọng miền Nam hầu như không nghe đến trong khu vực này. Tinh thần con dân xứ Quảng cũng rất cực đoan dưới mọi thể chế, dưới mọi triều đại và dưới mọi hình thức tôn giáo khác nhau. Thầy làm Giám Đốc trường Bồ Đề nên có đồng ra đồng vào. Thầy tôi dự tính mang tiền vào Sài Gòn cho tôi và tiễn tôi du học, nhưng cuối cùng không vào được, nhắn với Thầy Tâm Thanh ứng trước, nhưng trước ngày đi hỏi lại Thầy Tâm Thanh chẳng có đồng nào. Tôi lên đường với tấm vé máy bay của Thầy Bảo Lạc cho. Ngoài ra còn độ mấy trăm đô-la do các Phật Tử và một vài người thân giúp. Chỉ sau này khi ở Nhật, không còn cách xoay sở nào khác tôi mới viết thư về cầu cứu Thầy và Thầy mách cho một việc, cô Yến con gái bác Tô Văn Tám hiện lúc ấy đang du học tại Nhật, sắp về nước, còn dư một số tiền, tôi đến đó để nhận và Thầy hứa sẽ hoàn trả lại cho bác Tô Văn Tám tại Việt Nam. Tôi chẳng biết là Thầy có hoàn trả không. Sau này những năm 1985-1986, gặp bác Tô Văn Tám tại chùa Đức Viên ở San Jose, Hoa Kỳ, tôi cảm ơn Bác và chị Yến về sự giúp đỡ trong lúc tôi ngặt nghèo ở Nhật và hỏi việc của Thầy tôi. Bác chỉ cười nói rằng: “Thôi! Hãy quên quá khứ đi!” Ngoài ra, Giáo Hội Tỉnh Quảng Nam cũng giúp mỗi tháng học bổng 30 đô la, nhưng chi tiêu mỗi tháng đến 150 đô la. Do đó các sinh viên tăng sĩ du học tại Nhật rất khốn khổ.

Tôi nhận ơn rất nhiều người ở mọi nơi và mọi thời điểm. Ở Hội An, ngoài Thầy tôi ra, tôi được sự hỗ trợ của gia đình bác Huỳnh, chị Mai, gia đình của Kiệm. Vào Sài Gòn học vào năm 1969, được sự ủng hộ của gia đình ba má anh Phạm Nam Sơn và Hải rất tận tình. Ở chùa Hưng Long, đường Minh Mạng, Chợ Lớn, tôi được sự giúp đỡ của gia đình của Thạch Quân Cương. Tôi theo học lớp đệ nhị trường Cộng Hoà ngày hai buổi và đệ nhất tại trường Văn Học. Hòa Thượng Pháp Ý Trụ Trì chùa Hưng Long có cảm tình với tôi vì thấy tôi biết nghe lời và siêng tụng kinh.

Mùa hè năm 1966, tại chùa Viên Giác, Hội An, có chú Đồng, bác Thị Tâm, chú Tùng, chú Biên và tôi, chú Thứ, chú Ngô là những người xuất gia. Ở dưới bếp thì có bà Bốn và chung quanh có nhiều học sinh đến ở từ 1966 đến 1969, cho đến khi tôi rời Viên Giác vào Sài Gòn gồm có: Lê Hùng Anh sau này xuất gia bên Khất Sĩ, hiệu là Giác Ánh, là một pháp sư rất nổi tiếng hiện ở tại Vĩnh Long. Trần Văn Nhơn tức Trần Trung Đạo bây giờ. Nhơn thuở ấy rất rụt rè. Môi lúc nào cũng tươi. Nhơn nhỏ hơn tôi chừng ba tuổi, chơi rất tâm đắc với chú Thứ. Có điều là Nhơn học rất giỏi. Ở trong chùa, ngoài việc đi học ở trường Trung Học Trần Quý Cáp ra, Nhơn còn giúp cho Thầy tôi về giấy tờ và hình như Nhơn hay giữ nhiệm vụ rửa chén với chú Ngô. Còn tôi vốn to con nên hay xay đậu nành để làm đậu hủ. Đây là một nghề gia truyền của bà Chín để lại. Nhờ thế mà chùa có đậu hủ ăn và có đồng ra đồng vào đi chợ. Còn bã đậu hủ dùng nấu thức ăn cho heo. Cũng may, không phải ngày nào cũng làm đậu hủ mà mỗi tháng chỉ làm hai lần. Đó là ngày 14 và ngày 30 âm lịch. Nếu tháng thiếu thì làm vào ngày 29, cho nên tôi không phải vất vả lắm.



LÀM ĐẬU HỦ

Cách làm đậu hủ cũng đơn giản thôi, nhưng phải trải qua nhiều công đoạn. Đầu tiên, người ta đem đậu nành ngâm vào nước lạnh, để qua đêm cho đậu nở lớn ra. Sáng hôm sau cần hai người, một người xay và một người cho đậu vào cối xay. Nước phải cho vào đều đặn. Nếu cối tốt, đậu xay ra rất nhuyễn. Nếu cối cũ, hạt đậu không nát hết, phải xay lại lần thứ hai để lấy nước. Sau đó bà Chín hoặc cô Bốn phải bòng đậu.

Bòng là một danh từ chuyên môn của nghề làm đậu hủ. Người ta cho đậu đã xay vào trong một miếng vải lọc và túm bốn đầu vải lại, đoạn lấy tay bóp thật mạnh vào lớp vải, nước đậu chảy qua lớp vải vào thau, xác đậu được giữ lại. Sau khi bòng nước một xong, bòng nước hai và nước ba, cho đến khi nào bột đậu nành chỉ còn là xác thật sự và nước thật trong mới lấy xác ra ngoài, bắt đầu bòng lớp khác. Cứ như thế và như thế nước đậu sau khi bòng đổ vào nồi để nấu.

Công đoạn này rất quan trọng, người nấu đậu phải biết rằng mình đổ cho bao nhiêu khuôn đậu, phải canh cho đúng nước đậu để nấu và đặc biệt thạch cao hoặc chanh hay giấm hòa sẵn trong một thau lớn gần đó. Khi nước đậu sôi lên, lấy một ít nước đậu chưa nấu đổ vào nồi dằn cho bột không bị trào lên trên, đoạn nhắc nồi xuống đổ liền vào thau hòa sẵn thạch cao. Lấy muỗng lớn khuấy thật đều cho thạch cao và nước đậu đã nấu sôi quyện lại với nhau đóng thành cục, gọi là đậu hủ đông. Sau khi đậu hủ đông rồi mới đem đậu này đổ lên trên một cái vĩ, gọi là khuôn đậu.

Khuôn làm bằng gỗ có khắc nổi những lằn ranh của miếng đậu. Bốn bên là bốn thanh gỗ được khép lại với bốn cái mộng có sẵn. Sau khi đổ đậu vào khuôn, người ta lấy vải phủ kín ba bên bốn bề đậy lại. Đậu vừa nước vừa cái rất nóng được đổ từ trong nồi ra bốc lên mùi thơm phưng phức. Lấy một tấm ván vừa khít với vòng trong của khuôn đậu trấn lên và lấy đá dằn xuống cho ra nước. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, lấy đá lên và tháo khuôn, lột vải, sẽ có một khuôn đậu thật hấp dẫn, vừa thơm vừa mát mắt, nên người miền Trung đa phần gọi là đậu khuôn, vì do khuôn mà tạo thành đậu. Trong khi đó người miền Bắc gọi là đậu phụ và người miền Nam gọi là đậu hủ. Thật sự, không có tên gọi nào sai cả. Vì tất cả cũng chỉ là nguyên thỉ từ chất liệu đậu nành mà thành tựu.

Cái khó nhất ở đây là việc hòa thạch cao. Vì lẽ nếu bột nhiều quá, đậu sẽ đông cứng lại mất ngon. Nếu bột hòa ít quá, đậu không đông, dầu cho để cả nửa tiếng đồng hồ sau vẫn còn toàn là nước lợn bợn nổi trên mặt. Trường hợp này rất hao đậu, nhiều khi phải thêm vào, bớt ra thạch cao sao cho đủ lượng, nhưng kết quả miếng đậu hủ chai lì, hoặc giả mềm quá. Thông thường nếu gặp trường hợp này chỉ để dùng tại chùa chứ không mang đi chợ bán. Nếu bán cho khách hàng, dầu cho đó là khách hàng Phật Tử đi chăng nữa, trong lòng cũng không an.

Có lẽ nhờ thường xay đậu cho nên tôi có đôi tay dài. Sau này khi được hỏi: “Tại sao bàn tay của Thầy dài vậy?” Tôi trả lời rằng: “Nhờ gánh nước tưới cây ở chùa Phước Lâm và xay đậu hủ ở chùa Viên Giác.” “Tại sao Thầy hảo tướng như thế?” Tôi bảo rằng: “Nhờ lạy Phật và ăn đậu hủ lâu năm.”

Ai cũng nở môi cười đáp lễ, nhưng tất cả có lẽ đều hiểu rằng đó không phải là câu trả lời thật của tôi. Riêng tôi, tôi cũng chẳng biết tại sao. Phải chăng nhờ những tế bào phát triển đúng nhịp với sức lớn mạnh của cơ thể. Trong gia đình tôi, tôi là người cao lớn nhất, gần 1,73 mét và nặng 85 kg, ngay cả những người ăn mặn, ăn sang trọng vẫn không có được cái thân thể to lớn và khỏe mạnh như tôi.

Nghe đâu cái cối đá xay đậu nành làm đậu hủ đó ngày nay vẫn còn hiện hữu tại nhà bếp chùa Viên Giác ở Hội An như là một trong những kỷ vật của chùa. Hơn 40 năm rồi, tôi chưa về lại quê xưa, chắc cái cối xay ấy cũng nhớ tôi lắm! Hy vọng sẽ có một ngày trở về lại ngôi chùa Viên Giác thân thương quét lá đa và xay đậu nành để nhớ để thương những ngày làm điệu.

Đậu hủ được cắt ra thành từng miếng, ngâm vào nước để sáng sớm mồng một hay rằm, chú Ngô quảy gánh đậu hủ theo sau Bà Chín và cô Bốn đi xuống chợ Hội An bán. Khi nào chú Ngô bệnh, chú Thứ hoặc tôi thay thế, nhưng thật sự chúng tôi đều muốn chối từ chỉ vì mắc cỡ mà thôi. Chúng tôi quan niệm rằng đó không phải việc của đàn ông, con trai. Đành vậy, bà Chín hoặc cô Bốn phải tự gánh lấy.

Bây giờ nghe Như Tịnh cho biết chùa Viên Giác tại Hội An vẫn còn làm đậu hủ để bán, nhưng xay bằng máy và dùng điện chứ không dùng sức người như bốn mươi năm về trước nữa. Quả thật, mỗi thời đại đều có những chuyện khác nhau như thế. Do vậy Phật dạy rằng “Tất cả các pháp đều không có tánh nhất định” là đúng. Vì lẽ việc của ngày hôm qua, không phải là của ngày hôm nay và việc của ngày hôm nay sẽ không phải là của ngày mai. Tất cả các pháp đều luôn luôn thay đổi và tồn tại theo nhân duyên. Nếu ai chấp chặt vào một chỗ, chính người ấy sẽ không thấy được tướng của các pháp. Mà thực tướng của các pháp là gì? – Là không có thực tướng – đã là không thực tướng, đâu có cái gì để trụ, để phẩm bình, để sanh nghi ngờ hay khen chê tốt xấu? Do vậy, đối với tôi, trong hiện tại tự thực hiện bởi chính mình hoặc khuyên đệ tử của mình rằng: “Đừng vội mừng khi người khác khen tặng và đừng vội buồn khi người khác chê bai. Vì khen và chê ấy vốn không có thật tướng, luôn luôn thay đổi theo luật vô thường. Do vậy, không nên trụ vào cái giả tướng ấy.” Tôi sống như vậy nên rất tự tại và thoải mái chấp nhận việc gì đến cứ đến, việc gì đi cứ đi. Ai hơi đâu “khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”.

Muốn cho tâm mình được tự tại phải thực hành phép quán mọi pháp không có thật tướng như thế. Vậy tướng thật của pháp là gì? Tướng thật của pháp là tướng chân như. Nghĩa là không một, không hai, không tốt, không xấu, không còn, không mất, không chân, không ngụy v.v...

Cố Hòa Thượng Thích Đức Niệm, Giám Đốc Phật Học Viện Quốc Tế ở North Hills California Hoa Kỳ khuyên đệ tử xuất gia của Ngài một câu thật là chí lý. “Các con hãy nhớ! Sống trên đời này ai cũng muốn hơn chứ chẳng ai muốn thua người khác bao giờ, nhưng riêng các con, đệ tử của Thầy, hãy chịu thua người khác đi, như thế ít ra con cũng đã tự thắng mình rồi.” Quả là một lời dạy quá sâu sắc, bao đời sau chúng ta cũng còn có thể học hỏi áp dụng vào đời sống mỗi người được, dầu cho người ấy tại gia hay xuất gia sống đời phạm hạnh.


    « Xem chương trước «      « Sách này có 17 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.227.48.208 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (169 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - ... ...