Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển

Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Những chướng ngại không thể làm cho bạn dừng lại. Nếu gặp phải một bức tường, đừng quay lại và bỏ cuộc, hãy tìm cách trèo lên, vượt qua hoặc đi vòng qua nó. (Obstacles don’t have to stop you. If you run into a wall, don’t turn around and give up. Figure out how to climb it, go through it, or work around it. )Michael Jordon
Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar
Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hãy học cách vui thích với những gì bạn có trong khi theo đuổi tất cả những gì bạn muốn. (Learn how to be happy with what you have while you pursue all that you want. )Jim Rohn
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1 »» Giải thích về thính chúng (tiếp theo) »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1
»» Giải thích về thính chúng (tiếp theo)

(Lượt xem: 27)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Giải thích về thính chúng (tiếp theo)

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Ba vị Ca-diếp

[Danh xưng] Ca-diếp (Kāśyapa) như trước đã giải thích. [Ba anh em Ca-diếp gồm có] ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp (Uruvilvā-kāśyapa), cũng được đọc là Ưu-lâu-tỳ (優樓毘), hoặc cũng đọc là Ưu-vi (優為), dịch nghĩa là Mộc Qua Lâm;[1] ngài Na-đề Ca-diếp (Nadī-kāśyapa), dịch nghĩa là Hà hoặc Giang;[2] ngài Già-da Ca-diếp (Gayā-kāśyapa), cũng đọc là Kiệt-di, dịch là Tượng (象), cũng dịch là Thành (城), vì nhà ngài ở phía nam thành Vương Xá, cách 7 do-tuần.

Vào thời đức Phật Tỳ-bà-thi, [ba người] cùng nhau dựng trụ tháp thờ Phật,[3] do nhân duyên đó [nên sinh ra] làm anh em một nhà. Người anh [cả] là thầy của vua Bình Sa,[4] có 500 đệ tử, hai người em mỗi người có 250 đệ tử, cùng tu hành theo giáo pháp của người anh. Đức Phật [vì muốn hóa độ nên] thị hiện 10 pháp biến hóa như là: không trúng độc của rồng, rồng phun lửa không đốt cháy được, nước dâng không chìm, hái quả từ ba hướng [đông, tây, nam] trong khi hướng bắc cắt lúa, lấy nước cam lồ từ cõi trời Đao Lợi, rõ biết những việc ẩn khuất trong quá khứ, biết rõ những ý niệm [của người khác] trong hiện tại và tương lai, [làm cho] lửa tắt không thể cháy lên được, [làm cho kẻ] đưa búa lên không thể hạ xuống được, và hiện ra rất nhiều điềm lành. Tuy nhìn thấy đủ các sự biến hóa như vậy [nhưng Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp vẫn] bám chấp tà kiến không chịu hối cải nên nói rằng: “Cù-đàm tuy có thần thông nhưng không thể sánh bằng đạo chân thật của ta.” Đức Phật liền bảo: “Ông chẳng phải A-la-hán, cũng không hề đắc đạo.” [Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp nghe nói vậy] hốt nhiên tỉnh ngộ, tất cả thầy trò đều quy phục theo Phật. Hai người em thấy vậy liền [dẫn theo các đệ tử cùng về] quy y với Phật, tổng cộng thành 1.000 vị tỳ-kheo.

Theo giáo nghĩa thì như trong kinh Tăng Nhất A-hàm có nói rằng: “Ngài Ưu-lưu-tỳ[5] là bậc dẫn đầu trong việc giúp đỡ hộ trì bốn chúng,[6] cung cấp bốn sự thiết yếu[7] không để cho thiếu thốn. Tỳ-kheo Na-đề thì tinh tấn bậc nhất, tâm ý vắng lặng an nhiên, hàng phục được hết thảy phiền não kết sử. Tỳ-kheo Già-da là bậc đứng đầu trong việc quán xét rõ các pháp, hết thảy đều không vướng mắc, thường khéo léo giáo hóa người khác.

Giải thích như trên là giáo pháp [dẫn dắt], giống như vị sữa đặc (lạc). Nếu tiến thêm một bước, giống như vị váng sữa sống (sinh tô), suy theo lệ thường thì biết, ắt phải xem nhẹ Tiểu thừa, hâm mộ Đại thừa. Lại nếu tiến lên bước nữa, giống như vị váng sữa chín (thục tô), ắt phải nương theo nghiệp mà nhận hiểu giáo pháp. Nếu tiến lên một bước cao hơn nữa, như vị đề-hồ,[8] tức là [tầng bậc] như trong kinh [Pháp hoa] này nói là được thụ ký thành Phật.

Giải thích theo nghĩa bản tích thì trụ ở ba đức. [Ngài Ưu-lâu-tần-loa là] rừng (Lâm), tức là Bát-nhã, [ngài Già-da là] thành tức là pháp thân, [ngài Na-đề là] nước (Hà), tức là giải thoát. Đây chính là kho tàng căn bản bí mật, mà dấu tích biểu hiện là dựa vào [ba yếu tố] “rừng, thành, nước” như trên để hóa độ chúng sinh.

Giải thích theo nghĩa quán tâm thì chân chánh quán xét tâm tánh, theo Trung đạo chẳng lay động giống như thành ngăn quân địch; chẳng động mà động giống như nước làm sạch các bờ điên đảo, mưa nắng hai mùa soi chiếu như rừng cây sầm uất.[9] Ba tướng pháp ấy hỗ tương cho nhau nên gắn kết thành anh em một nhà.

Xá-lợi-phất

Xá-lợi-phất (Śāriputra), nói đầy đủ là Xá-lợi-phất-la, Hán dịch là Thân Tử, cũng dịch xá-lợi là châu ngọc. Mẹ ngài khi còn trẻ vốn đã thông minh, tướng thông minh ấy hiện ra nơi đôi mắt đẹp như châu ngọc, nên sinh con ra gọi tên là Châu tử. Lại cũng dịch [tên ngài là] là Thân vì người mẹ có thân hình đẹp, nên sinh con ra gọi là Thân tử.[10] Người thời bấy giờ dùng tên con để nêu danh mẹ nên gọi như vậy. Lại có tên do người cha đặt là Ưu-ba-đề-xá (Upatiṣya), hoặc cũng gọi là Ưu-ba-thế, Hán dịch là Luận nghĩa. [Cha ngài] nhờ việc luận nghĩa mà cưới được vợ, nên sinh con ra đặt tên là Luận, đó là để nêu đức tốt của cha.

Luận giải nói rằng: “Ta tên là Đề-xá nên noi theo tên ta mà đặt tên con là Ưu-ba-đề-xá.” Ưu-ba dịch nghĩa là noi theo, đề-xá là tên một ngôi sao.

Lại nữa, [trong tên gọi Xá-lợi thì] Xá là nêu tên cha, Lợi là nêu tên mẹ. Vì muốn nêu tên cả cha lẫn mẹ nên gọi là Xá-lợi-phất, vì chữ Phất nghĩa là con. Họ của ngài là Câu-lật-đà, thuộc chủng tộc Bà-la-môn.

Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, [Phật] nói: “Trong Phật pháp của ta, [nếu xét về] trí tuệ mênh mông không giới hạn, dứt hết được mọi sự nghi ngờ thì Xá-lợi-phất là bậc nhất.”

Thuở xưa, theo Sinh kinh[11] nói rằng, trong quá khứ có hai cậu cháu đều là thợ dệt, biết rõ về kho tàng của nhà vua nên nhân đó đào đường hầm xuyên dưới đất để lẻn vào, lấy trộm được rất nhiều châu báu. Người giữ kho [phát hiện châu báu bị mất] liền tâu lên vua. Vua nói: “Đừng nói ra việc này, kẻ trộm thế nào cũng quay lại, hãy âm thầm rình bắt nó.”

[Hai cậu cháu không biết việc đã bại lộ nên quay lại trộm nữa.] Người cháu bảo cậu chui ngược vào đường hầm, [đưa chân vào trước], liền bị quân canh tóm được. Người cháu sợ bị người của vua nhận biết nên [ở phía sau] chặt lấy đầu người cậu mang chạy đi mất, [quân canh chỉ giữ được thi thể không đầu].

Nhà vua ra lệnh đem thi thể người chết [không có đầu] đặt ở ngã tư đường để dụ người thân tìm đến [thì bắt]. Người cháu chờ khi khách buôn tấp nập đông đúc ở nơi ấy thì đưa hai xe củi khô chen vào, đi ngang qua đổ củi lên phủ lấp tử thi.

Vua lại cho người rình rập canh giữ chung quanh, [đợi kẻ nào đến nổi lửa thiêu xác thì bắt]. [Người cháu thuê] một đám trẻ con cầm đuốc chơi đùa nhảy múa quanh đó rồi ném đuốc vào, thiêu được xác.

[Vua lại lệnh người canh giữ cẩn mật, chờ có kẻ đến lấy tro cốt thì bắt.] Người cháu giả làm người đi đường mang rượu ngon đặt quanh đó, đợi quân canh uống rượu say thì lẻn đến dùng bình đựng rượu hốt lấy tro cốt đi mất.

Vua [không bắt được kẻ trộm] giảo hoạt, liền nghĩ cách cho một người con gái đẹp đến ở trong căn phòng bên bờ sông, dặn trước là khi có người tìm đến phải nắm chặt lấy và la lên, [rồi cho quân canh phòng quanh đó chờ bắt]. [Người cháu liền núp bên dưới] một gốc cây khô rồi thả trôi đến gần. Quân canh phòng nghi là có người liền đến xem thì chỉ thấy gốc cây khô nổi. Qua nhiều ngày liên tiếp đều như vậy nên lơ là không chú ý nữa. Người cháu nhân đó [rời khỏi gốc cây khô] vào phòng người con gái đẹp. [Trong lúc gần nhau, cô gái nhớ lời vua dặn liền nắm giữ chặt tay áo người cháu. [Người cháu đã tính toán trước nên mang theo một] cánh tay người chết, lúc đó tráo sang cho người con gái nắm lấy rồi thoát ra được mà trốn đi. Khi ấy cô gái mới la to lên gọi người đến bắt, hóa ra chỉ đang nắm giữ một cánh tay người chết.

[Sau lần đó, cô gái mang thai] rồi sinh ra một đứa bé trai khôi ngô tuấn tú. Nhà vua liền ra lệnh cho người nuôi trẻ bồng đứa bé đi ra ngoài, dặn có ai quan tâm đến thì bắt giữ. Đi tiếp mấy ngày [chẳng gặp ai,] vừa đói vừa khát, đến chỗ một lò nấu bánh, người [cháu chính là người thợ] làm bánh, lấy bánh đưa cho đứa trẻ mà nựng nịu. [Hôm sau] vua ra lệnh mang đứa trẻ đi ra ngoài đến đó lần nữa. Người cháu dùng rượu ngon chuốc cho những người canh giữ uống đến say khướt rồi bồng đứa bé trốn ra khỏi nước.

[Vua] nước làng giềng xem trọng người nhiều mưu kế nên phong làm đại thần, lại muốn gả con gái cho, nhưng người cháu không nhận, xin với đức vua giúp sang hỏi cưới con gái vua nước mình. Vua nước ấy liền nhận người cháu làm con rồi mới sang hỏi cưới con vua lân quốc, được vua thuận hứa gả cho. [Lúc đưa sính lễ sang, vua nhận ra những châu báu bị mất trước đây] nên nghi là kẻ trộm ngày trước. Người cháu dùng đến 500 người cưỡi ngựa y phục giống hệt như nhau để đi đón dâu. Khi gặp mặt, nhà vua liền gặng hỏi thì quả đúng là kẻ trộm trước đây. Vua thán phục là người đa mưu túc trí, [nên vẫn chấp nhận] gả con gái cho. Người cháu ấy nay là Xá-lợi-phất, còn người cậu nay là Điều-đạt[12]... Đại lược là như thế.

Kể về giai đoạn nhập thai. Cha ngài là Ưu-ba-đề-xá học tinh thông kinh điển thư tịch, dùng lá sắt mỏng quấn quanh bụng, đầu đội mũ trên có ngọn đèn,[13] một mình đi vào thành Vương Xá đánh trống thách người tranh luận. Quốc sư Đà-la tự biết người phô bày như thế không nên cùng tranh luận, khi thấy ông tranh luận khuất phục được tất cả liền đem con gái gả cho làm vợ, [tức là mẹ ngài Xá-lợi-phất].

Mẹ ngài một hôm mộng thấy một người, thân mang giáp trụ, tay cầm chày kim cang đập nát hết các ngọn núi, cuối cùng chỉ còn lại một ngọn liền đến đứng bên cạnh. Khi tỉnh mộng cảm thấy thân thể nặng nề, liền đem việc ấy hỏi cha ngài. Cha ngài bảo: “Bà đã mang thai rồi. [Đứa con này về sau] sẽ thắng hết tất cả luận sư, chỉ không thắng được một người nên sẽ làm đệ tử của vị ấy.”

Người cậu, em của mẹ ngài, tên Câu-hy-la, khi tranh luận thường thắng chị, nhưng khi người chị mang thai thì luôn thắng được em. Người em tự nghĩ, đây không phải năng lực của chị mình, ắt là do đang mang thai một người có trí tuệ nên khiến cho người mẹ tranh biện được vậy. Nay ở trong thai mà còn vậy, huống chi sau này khi sinh ra, [làm sao ta có thể thắng được nó? Nghĩ vậy rồi liền] sắp xếp việc gia đình, đi du học khắp nơi, nỗ lực đến mức không có thời gian rảnh để cắt móng tay. Do vậy người thời bấy giờ gọi ông là Phạm chí Trường Trảo, [nghĩa là ông Phạm chí móng tay dài]... [Chuyện về giai đoạn trong thai của ngài Xá-lợi-phất] đại lược là như vậy.

[Thuở ấy] có hai vị long vương là Nan-đà và Bạt-nan-đà thường hộ trì thành Vương Xá, giúp mưa thuận gió hòa, trong nước không bị đói thiếu, đức vua và thần dân mỗi năm đều mở đại hội [ăn mừng], bên trên thiết lập ba tòa ngồi cao, một dành cho đức vua, một dành cho thái tử và một dành cho luận sư. Ngài Xá-lợi-phất năm ấy mới 8 tuổi, đến tham dự đại hội, thấy ba tòa ngồi trên cao liền dọ hỏi, có người trả lời cho biết như vậy. Ngài liền vượt qua hết thảy mọi người để trèo lên tòa của luận sư mà ngồi. Các luận sư dự hội đều xấu hổ không muốn ra tranh luận, vì nếu thắng một đứa bé cũng chẳng vinh dự gì, mà nếu thua thì thật là nỗi nhục quá lớn. Do vậy, mỗi người đều đặt câu hỏi rồi sai người hầu của mình mang đến chất vấn. Tất cả những câu hỏi đều được [ngài Xá-lợi-phất] trả lời và giải thích sâu rộng hơn nữa. Cho đến khi hết thảy mọi luận sư dự hội đều hạ cờ khuất phục, không còn ai dám chất vấn nữa. Đức vua và tất cả nhân dân đều hết sức vui mừng khen ngợi, cho rằng đất nước gặp vận thái bình nên mới có bậc hiền trí ra đời.

Đến năm 16 tuổi thì ngài Xá-lợi-phất đã nghiên cứu hết tất cả kinh điển thư tịch trong cõi Diêm-phù-đề, không có việc gì không thông thuộc, thông kim bác cổ, diễn thuyết hết thảy mọi việc đều sâu xa uyên áo, trong 16 nước lớn không còn ai có thể tranh luận ngang tài, trở thành [luận sư] bậc nhất trong khắp năm vùng Thiên Trúc.[14]

Ngài theo học với thầy là Phạm chí Sa-nhiên,[15] hết thảy đạo lý phương thuật đều học được. Thầy có 250 đệ tử, tất cả đều dựa vào ngài Xá-lợi-phất mà được thành tựu. Khi Sa-nhiên sắp chết bỗng hân hoan nở nụ cười, ngài Xá-lợi-phất thưa hỏi, ông đáp rằng: “Người thế tục không có mắt, lấy sự ân ái làm thân thiết. Ta nhìn thấy vua nước Kim vừa chết, phu nhân của vua đâm đầu vào đống lửa chết theo, nguyện được cùng sinh về một chỗ với nhau.” Phạm chí Sa-nhiên nói như vậy rồi liền mạng chung.

Về sau, [ngài Xá-lợi-phất] gặp thương nhân người nước Kim, hỏi ra quả đúng [có sự việc] như vậy, liền hối tiếc là chưa học được hết phương thuật của thầy, có lẽ vì mình không phải người thích hợp nên thầy còn che giấu. Ngài tự biết mình chưa thông đạt nên vẫn có lòng mong cầu pháp thù thắng, nhưng không còn ai để có thể theo học được nữa. Tuy không đạt được pháp như vậy nhưng hết thảy các pháp khác ngài đều thông suốt, là bậc cao trổi nhất trong chúng ngoại đạo [lúc bấy giờ].

[Một hôm], trên đường đi ngài gặp tỳ-kheo Át-bệ[16] dáng vẻ uy nghiêm chững chạc, nhân đó liền hỏi [ngài Át-bệ] giáo pháp nào ông đã học được với thầy. Át-bệ [đọc kệ] trả lời rằng:

Các pháp từ duyên sinh,
Cho nên nói nhân duyên.
Pháp cũng do duyên diệt,
Thầy ta dạy như vậy.

Ngài Xá-lợi-phất vừa nghe qua liền chứng quả Tu-đà-hoàn. [Sau đó] tìm đến chỗ Phật, trải qua 7 ngày liền thông đạt hết Phật pháp sâu thẳm như biển lớn. Lại nói, sau 15 ngày ngài chứng quả A-la-hán. [Ngài được đức Phật giao cho làm] hòa thượng dẫn dắt La-hầu-la, làm thầy của ngài Kiều-phạm-ba-đề. Trong chúng Thanh văn, ngài là đệ tử luôn đứng hầu bên phải đức Phật.

Khi Đề-bà-đạt-đa phá hoại Tăng đoàn, dẫn 500 tỳ-kheo bỏ đi, ngài Xá-lợi-phất là người đến giáo hóa đưa 500 vị này quay về... Đại lược là như vậy.

Về chuyện đấu sức thần thông với Lao Độ Sai,[17] [đệ tử của ngoại đạo]. Khi Độ Sai hóa ra một cái hồ trong có đủ các loại hoa thì Xá-lợi-phất hóa ra một con voi lớn nhổ hoa phá nát hồ. Độ Sai lại hóa làm quỷ dạ-xoa thì Xá-lợi-phất hóa làm Thiên vương Tỳ-sa-môn [khiến quỷ dạ-xoa khiếp sợ]... Với đủ cách biến hóa khác nhau, Xá-lợi-phất đều vượt trội, Độ Sai chịu khuất phục.

Kinh Trung A-hàm nói rằng, Xá-lợi-phất là người mẹ sinh ra bốn chúng, Mục-kiền-liên là người mẹ dưỡng nuôi... Đại lược là như vậy.

Kinh Trung A-hàm, quyển 2,[18] kể rằng: Các vị tỳ-kheo an cư ở Sinh xứ[19] [khi đến lễ Phật] đều khen ngợi xưng tán ngài Mãn Từ tử[20] là người [tự mình có đủ các pháp] ít ham muốn, biết đủ, tinh tấn, sống nơi vắng vẻ, nhất tâm, chánh niệm, trí tuệ, vô lậu, lại cũng khuyến khích người khác và giảng thuyết về các pháp ấy.

Lúc bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất nghe như vậy tự nghĩ, biết bao giờ ta mới được gặp vị ấy, biết bao giờ vị ấy mới đến chỗ Phật?

[Ngài Xá-lợi-phất liền hỏi các vị tỳ-kheo về ngài Mãn Từ tử,] có vị tỳ-kheo nói cho biết rằng: “Thầy ấy là người có nước da trắng, mũi cao như mỏ chim anh vũ.”[21] [Ngài Xá-lợi-phất liền ghi nhớ như vậy.]

Sau đó, nơi rừng An-đà (Jeta), Hán dịch là Thắng lâm,[22] hai người có dịp gặp nhau [nhưng chưa hỏi tên]. Ngài Xá-lợi-phất thưa hỏi rằng: “Thưa hiền giả! Có phải hiền giả theo đức Cù-đàm (Gotama) tu Phạm hạnh chăng?”[23] Đáp: “Đúng vậy.”

Lại hỏi: “Có phải hiền giả vì muốn được giới thanh tịnh mà tu Phạm hạnh chăng?” Đáp: “Không phải.”

[Lại hỏi:] “Vậy có phải hiền giả vì muốn làm thanh tịnh tâm, hoặc làm thanh tịnh tri kiến, hoặc làm cho sự nghi ngờ ngăn che được thanh tịnh, hoặc làm cho những gì thuộc về đạo và không phải đạo đều được thanh tịnh, hoặc làm cho tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh, hoặc làm cho sự đoạn dứt tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh, vì [bảy điều] như thế mà tu Phạm hạnh chăng?”[24] Đáp: “Cũng không phải.”

Lại hỏi rằng: “Hiền giả! Tôi đã thưa hỏi [bảy điều] như trên, hiền giả đều nói là không phải. Vậy là ý nghĩa thế nào?”

[Ngài Mãn Từ tử] đáp: “Tôi vì hướng đến Niết-bàn vô dư nên mới tu Phạm hạnh.”

[Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi: “Vậy có phải vì giới thanh tịnh [mà đức Thế Tôn] thiết lập Niết-bàn vô dư chăng?” Đáp: “Không phải.”

[Lại hỏi:] “Vậy có phải vì [tâm thanh tịnh...] cho đến vì sự đoạn dứt tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh mà thiết lập Niết-bàn vô dư chăng?” Đáp: “Cũng không phải.”

[Ngài Xá-lợi-phất] lại hỏi: [“Thưa hiền giả! Tôi đã hỏi [bảy điều] như trên, hiền giả đều nói là không phải. Vậy là ý nghĩa thế nào?”

[Ngài Mãn Từ tử đáp: “Nếu vì giới thanh tịnh mà thiết lập vô dư thì đó là dùng hữu dư để giảng nói vô dư... Cho đến nếu vì sự đoạn dứt tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh mà thiết lập vô dư cũng là dùng hữu dư để giảng nói vô dư. Nếu [đức Thế Tôn] lìa bỏ bảy pháp này [mà thiết lập Niết-bàn vô dư] thì dù phàm phu cũng sẽ chứng Niết-bàn, bởi vì phàm phu vốn lìa bảy pháp này. [Thưa hiền giả!] Nhờ giới thanh tịnh nên tâm được thanh tịnh, [nhờ tâm thanh tịnh nên tri kiến được thanh tịnh...] cho đến sự đoạn dứt tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh.

“Xin hiền giả hãy nghe tôi nói một thí dụ, như vua Ba-tư-nặc [có việc gấp] muốn đi từ [thành Xá-vệ nước] Câu-tát-la đến Bà-kê-đế [chỉ trong một ngày], nên trên suốt chặng đường liền bố trí bảy chiếc xe. Vua đi xe thứ nhất đến chỗ xe thứ hai, bỏ xe thứ nhất lên xe thứ hai... [tuần tự đi như vậy] cho đến bỏ xe thứ sáu lên xe thứ bảy. [Nhờ vậy có thể đi nhanh trong một ngày đến được Bà-kê-đế].[25] Người ở Bà-kê-đế hỏi vua: ‘Có phải vua đi xe thứ nhất đến chăng?’ Đáp: ‘Không phải.’ Cho đến hỏi rằng: ‘Có phải vua đi xe thứ bảy đến chăng?’ Vua cũng đáp rằng: ‘Không phải.’ Lại hỏi rằng: ‘Có phải vua lìa bỏ cả bảy xe [mà đến được] chăng?’ [Vua] đáp: ‘Cũng không phải.’ Thí dụ này có thể làm rõ câu hỏi [của hiền giả].”[26]

Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi: “Hiền giả tên là gì? Những người tu Phạm hạnh gọi tên ngài như thế nào?”

Đáp rằng: “Tôi tên Mãn,[27] mẹ tôi tên Từ, nên những người tu Phạm hạnh gọi tôi là Mãn Từ tử.”

Ngài Xá-lợi-phất liền xưng tán: “Lành thay! Hiền giả Mãn Từ tử, đệ tử của đức Như Lai, có trí tuệ biện tài, thông minh quyết định, an ổn không sợ sệt, đạt đại biện tài, dựng cờ Chánh pháp, đối với Chánh pháp đã tự tác chứng. Được gặp hiền giả thật là lợi ích lớn lao. Những người tu Phạm hạnh nên tôn kính quấn y đội đầu lễ bái hiền giả.”[28]

Ngài Mãn Từ tử liền hỏi: “Hiền giả tên là gì? Những người tu Phạm hạnh gọi tên ngài như thế nào?”

Ngài Xá-lợi-phất đáp: “Tôi tên Ưu-ba-đề-xá,[29] mẹ tôi tên Xá-lợi, nên mọi người gọi tôi là Xá-lợi tử.”

Ngài Mãn Từ tử xưng tán rằng: “Ồ, nay tôi được cùng với đệ tử đức Thế Tôn luận bàn mà không biết, cùng với bậc trí tuệ chỉ đứng sau đức Thế Tôn luận bàn mà không biết, cùng với vị tướng quân trong Chánh pháp luận bàn mà không biết, cùng với vị đệ tử thay Phật trùng chuyển pháp luân mà không biết. Nếu tôi biết đây là Tôn giả [Xá-lợi-phất] thì chỉ một câu cũng không dám đối đáp, huống chi lại dám luận bàn sâu xa! Lành thay, lành thay! Ngài là đệ tử của đức Như Lai, Những người tu Phạm hạnh nên tôn kính quấn y đội đầu lễ bái hiền giả.”[30] Đại lược là như vậy.

Khi Phật thuyết pháp nói ra một câu, ngài Xá-lợi-phất có thể dùng một câu ấy làm căn bản, thuyết giảng hùng hồn như tiếng sư tử hống trong suốt bảy ngày bảy đêm, diễn giải thành nhiều câu khác, nhiều ý nghĩa khác, cho đến vô cùng tận. Huống chi Phật thuyết giảng rất nhiều, nên biện tài trí tuệ của ngài Xá-lợi-phất thật không thể cùng tận.

Trong kinh [Tăng nhất] A-hàm, quyển 29[31] chép rằng: “Khi Phật ở tại ao A-nậu-đạt, Long vương thưa rằng: ‘Trong chúng hội không thấy ngài Xá-lợi-phất, xin Phật cho gọi đến.’ Đức Phật liền sai ngài Mục-kiền-liên đến tinh xá Kỳ Hoàn mời ngài Xá-lợi-phất. Ngài Xá-lợi-phất đang khâu y ngũ nạp,[32] đáp rằng: ‘Ngài cứ về trước, tôi sẽ đến sau.’ Ngài Mục-kiền-liên nói: ‘Phật sai tôi đến mời ngài, sao có thể về trước được?’ Ngài Mục-kiền-liên nói rồi lấy tay chạm vào tấm y, việc khâu y liền hoàn tất. Ngài Xá-lợi-phất nghĩ, Mục-kiền-liên đùa bỡn để thử ta, vậy ta cũng thử lại ông ấy xem sao. Liền ném sợi dây buộc y xuống đất và nói: ‘Ông có thể nhặt sợi dây này lên được chăng?’ Mục-kiền-liên nghĩ: ‘Xá-lợi-phất đùa cợt để thử ta.’ Liền dùng hết sức để nhặt sợi dây lên nhưng không nhấc lên được.

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất liền buộc sợi dây ấy vào cây diêm-phù, [Mục-kiền-liên dùng thần lực nhấc cây diêm-phù] làm cho khắp một cõi thiên hạ đều chấn động. [Ngài Xá-lợi-phất] lại buộc dây vào hai, ba rồi bốn cõi thiên hạ, [ngài Mục-kiền-liên cũng dùng thần lực nhấc cả lên làm cho chấn động,] nhưng vẫn không nhấc được dây buộc y lên. [Ngài Xá-lợi-phất] lại buộc vào cả tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, rồi đại thiên thế giới, [cũng đều bị ngài Mục-kiền-liên làm cho chấn động,] nhưng vẫn không nhấc dây buộc y lên được. [Khi ấy, khắp các thế giới đều chấn động, chỉ riêng tòa ngồi của đức Như Lai ở hồ A-nậu-đạt là an nhiên bất động.][33] Ngài Mục-kiền-liên tự nghĩ: ‘Ta có thần lực bậc nhất mà nay không thể nhấc nổi sợi dây buộc y, chẳng phải là đã mất thần lực rồi sao?’ Nhân đó lại thúc giục ngài Xá-lợi-phất cùng đi. Ngài Xá-lợi-phất nói: ‘Ông hãy đi trước.’ Ngài Mục-kiền-liên [liền đi trước,] về đến chỗ Phật thì thấy ngài Xá-lợi-phất đã ngồi ở phía trước đức Phật rồi.

Long vương thấy cõi đất chấn động nên thưa hỏi Phật. Đức Phật bảo: ‘Đó là do thần lực của Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên.’ Khi ấy, Long vương và 500 vị tỳ-kheo đều khởi tâm khinh thường ngài Mục-kiền-liên, [cho là không bằng Xá-lợi-phất]. Đức Phật dạy: ‘Xá-lợi-phất đối với bốn thần lực[34] đều được tự tại. Mục-kiền-liên cũng được tự tại như vậy, nhưng không thể vượt qua Phật lực.’ Nhân đó Phật bảo ngài Mục-kiền-liên: ‘Ông hãy thể hiện thần lực của mình [cho đại chúng xem].’ Ngài Mục-kiền-liên liền dùng bình bát chứa hết cả 500 vị tỳ-kheo vào đó rồi nâng lên đến cung trời Phạm thiên, lại dùng một chân đạp lên núi Tu-di và chân kia bước đến cung trời Phạm thiên, rồi hiện thân ở phương khác đọc một bài kệ mà khiến cho khắp các cõi nước trong đại thiên thế giới đều nghe được. Khi ấy, 500 vị tỳ-kheo đều tâm phục. Đại lược là như vậy.

Cứ theo giáo nghĩa thì [ngài Xá-lợi-phất là bậc] Tam tạng trí tuệ, tức đủ mười trí vô học, dứt hết phiền não kết sử, chứng pháp chân thật, giúp Phật tuyên dương giáo hóa. Đại Trí độ luận, quyển 40, gọi [ngài Xá-lợi-phất] là Hữu diện đệ tử,[35] chính là ý nghĩa này.

Theo Thông giáo thì trí tuệ [của ngài Xá-lợi-phất] là như trong kinh Bát-nhã nói về duyên do gọi là đại [trí tuệ], rằng đối với các kiến chấp về tự ngã, kiến chấp về chúng sinh, kiến chấp về Phật, kiến chấp về Bồ-đề, kiến chấp về chuyển pháp luân, tất cả đều phá trừ được hết thì gọi là đại trí tuệ. Chư hiền thánh thuyết giảng pháp đã tự chứng đắc, nếu không được vậy tức là người đời nay dối gạt nói mình có chỗ thuyết. Nên biết rằng ngài Xá-lợi-phất không chỉ phá trừ kiến chấp sinh tử mà cũng phá trừ cả những kiến chấp về Phật, về Bồ-đề, về chuyển pháp luân, về Niết-bàn. Trí tuệ này khác với trí tuệ theo giáo pháp sơ cơ.

Theo Biệt giáo nói về trí tuệ thì lược qua như 5 vị khác biệt [của sữa].[36] Nếu chỉ theo những giáo pháp căn bản ban sơ [thì giống như] chỉ biết đến vị của sữa tươi (nhũ) và sữa đặc (lạc), không được biết đến các mùi vị khác. Người phát tâm tu hành mà chỉ hành trì [những giáo pháp như] sữa với sữa đặc thì gọi đây là trí tuệ của giáo pháp căn bản.

Nếu nói rằng nếm mùi sữa đặc (lạc), mà sữa đặc ấy chẳng từ nơi sữa (nhũ), thì đó là giáo pháp về bản tánh của thiện và ác vốn đều là không, chẳng phải do tu việc thiện, trừ việc ác, dứt hình sắc mà được nghĩa không, chỉ ngay nơi sự tu tập đó tức là không.

Theo Thông giáo thì [người có] trí tuệ là ngay từ ban đầu đã nếm được vị đề hồ, biết đó là đề hồ.

Nếu trải qua các việc nuôi bò lấy sữa, nấu sữa thành sữa đặc, từ sữa đặc chế thành sinh tô, từ sinh tô chế thành thục tô, rồi sau đó mới được đề hồ, người tu hành [tuần tự qua các bước] như thế tức là có trí tuệ theo Biệt giáo.

Nếu từ ban sơ chỉ nếm một vị sữa của loài bò ăn toàn cỏ nhẫn, sữa ấy tức là đề hồ, có thể chữa khỏi tất cả bệnh tật, hết thảy các loại thuốc trị bệnh đều có đủ trong sữa ấy. Người tu hành như thế tức là có trí tuệ theo Viên giáo.

Giải thích [tên ngài là Thân tử] theo bản tích thì bản là trụ nơi thật tướng, Bát-nhã ba-la-mật là mẹ, nương theo cảnh mà sinh ra trí tuệ. Cảnh tức là “Thân”, trí tuệ tức là “tử”, nên khởi lòng từ bi thương xót chúng sinh.

Về hình tích thì [hiện thân] là Thân tử [với giáo pháp đủ 5 mùi vị sữa]. Vì muốn chuyển hóa máu phiền não xấu ác thành dòng sữa hiền thiện nên thị hiện làm ngoại đạo có trí tuệ, làm vị đại luận sư. Vì muốn nấu sữa (nhũ) thành sữa đặc (lạc) nên thị hiện có trí tuệ tinh thông Tam tạng, làm người thứ hai sau đức Thế Tôn, [giáo hóa đại chúng]. Vì muốn làm cho sữa đặc thành váng sữa sống (sinh tô) nên thị hiện kém cỏi Đại thừa, biểu lộ Tiểu thừa, chịu khuất phục trước cư sĩ Tịnh Danh (Duy-ma-cật). Vì muốn làm cho váng sữa sống thành váng sữa chín (thục tô), khuyến tấn, khích lệ, làm lợi ích cho những người đồng tu Phạm hạnh nên trong Pháp hội Bát-nhã thọ lãnh giáo pháp. Vì muốn làm cho thục tô thành đề hồ nên [thị hiện] lần đầu giác ngộ trong hội Pháp hoa. Tất cả những điều trên đều là trong ý nghĩa hình tích thị hiện ra bên ngoài, nhưng nơi nguồn cội bản địa vốn đã hàm chứa tánh thật bên trong từ rất lâu xa.

Giải thích [trí tuệ] theo quán tâm thì chỉ một tâm đủ ba pháp quán, thâu nhiếp được tất cả trí tuệ. Quán không thì thâu nhiếp được trí tuệ như sữa đặc (lạc). Quán giả tạm thì thâu nhiếp được trí tuệ như sinh tô và thục tô, cùng trí tuệ thế gian. Quán trung đạo thì thâu nhiếp được trí tuệ [cùng tột] như đề hồ. Đây gọi là trong một pháp quán tâm, một trí tuệ là hết thảy trí tuệ, hết thảy trí tuệ là một trí tuệ, chẳng phải một trí tuệ cũng chẳng phải hết thảy trí tuệ. Đại lược là như vậy.

Đại Mục-kiền-liên

Về dòng họ của Đại Mục-kiền-liên, [đây là theo họ của mẹ,] Hán dịch là Tán Tụng, trong kinh Văn-thù vấn lại dịch là Lai Phục Căn. Ngài Chân Đế phiên âm là Vật-già-la, Hán dịch là cây hồ đậu, [tức cây đậu xanh].[37] Xưa có vị tiên không ăn bất cứ món gì, chỉ thích ăn đậu xanh nên xưng tên là Vật-già-la. Dòng họ Mục-kiền-liên là con cháu của vị tiên này nên lấy đó làm tên tộc họ. Thích luận nói, cha ngài là thầy bói toán, đặt tên cho ngài là Câu-luật-đà. Câu-luật-đà là tên một loài cây, cha mẹ ngài vốn không sinh con, do cầu đảo thần cây này mà sinh được ngài nên nhân đó mà đặt tên. Lại cũng phiên âm là Mục-già-lược-hề-đạc. Kinh Vị lai nhân quả nói rằng: “[Tên ngài là] Mục-liên-la-dạ-na, vì có nhiều người trùng tên nên gọi thêm chữ Đại.”

Thích luận nói rằng: “Xá-lợi-phất đáng trân quý ở chỗ tài trí sáng suốt. Mục-kiền-liên đáng trọng ở điểm hào phóng rộng rãi. Cả hai vị so ra tài ba trí tuệ đều như nhau, đức hạnh cũng tương đồng.”

Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, [Phật] nói: “Trong các đệ tử của ta, người có thần thông nhẹ nhàng bay lên không trung đến cả mười phương thì Đại Mục-kiền-liên là bậc nhất.” Luận Đại Trí độ, quyển 41, gọi ngài Mục-kiền-liên là Tả diện đệ tử [của Phật].[38]

[Có lần] thầy trò ngoại đạo cả 500 người cùng nhau niệm chú để dời ngọn núi, trải qua một tháng thì núi bắt đầu lay động. Ngài Mục-kiền-liên suy nghĩ: “Núi này nếu bị di chuyển đi thì rất nhiều loài bị tổn hại.” Ngài liền bay lên hư không ở phía trên đỉnh núi ngồi kiết già, khiến cho núi trở lại như cũ, không hề lay động. Thầy trò ngoại đạo bảo nhau: “Pháp thuật của chúng ta đã làm cho núi lay động, tính toán theo đúng ngày thì phải di chuyển, tại sao núi lại nằm yên như cũ? Chắc chắn là do vị sa-môn kia đã khiến cho thành như vậy.” Nhân đó họ tự biết sức tu tập của mình còn yếu kém, liền phát tâm quy y theo đạo Phật, khiến cho vô số người cũng đều xuất gia theo Chánh pháp.

Có hai anh em long vương là Nan-đà và Bạt-nan-đà cùng sống ở vùng biển cạnh núi Tu-di. Đức Phật mỗi khi lên cung trời Đao Lợi thường bay ngang qua trên vùng này. Anh em rồng khởi tâm sân hận, tự nghĩ: “Sa-môn trọc đầu này sao dám bay ngang qua trên đầu chúng ta.” Sau đó, khi biết Phật sắp lên cung trời, bọn rồng liền phun mây đen kịt che khuất cả mặt trời, mặt trăng cho đến hết thảy các vì sao. Các vị tỳ-kheo đều muốn lui về, Phật không cho phép. Ngài Mục-kiền-liên thưa: “Con có thể hàng phục rồng này.”

[Khi ấy,] rồng hiện thân lớn quấn quanh núi Tu-di bảy vòng, đuôi khuấy nước biển, đầu tựa lên đỉnh núi. Ngài Mục-kiền-liên liền hiện thân lớn hơn gấp nhiều lần, quấn quanh núi Tu-di đến mười bốn vòng, đuôi dài ra khỏi biển, đầu tựa lên đến cung trời Phạm thiên. Rồng nổi cơn sân hận, hóa mưa xuống cát cứng chắc như kim cương [có thể làm giập nát hư hại mọi thứ], ngài Mục-kiền-liên liền biến cát ấy thành hoa báu mềm mại xinh đẹp, nhẹ nhàng rơi xuống. Rồng vẫn không nguôi cơn sân hận. Ngài Mục-kiền-liên liền hiện thân rất nhỏ đi vào bên trong thân rồng, đi vào mắt rồng rồi ra nơi tai rồng, lại đi vào tai rồi ra nơi mũi, khoan thủng, cắn rứt khắp thân rồng, khiến cho đau đớn khôn cùng, đành chịu khuất phục. Ngài Mục-kiền-liên khi ấy mới thâu nhiếp cả thân lớn, thân nhỏ, hiện lại hình tướng sa-môn rồi đưa hai con rồng cùng đến trước đức Phật.

Khi Đề-bà-đạt-đa [phá hoại Tăng đoàn], dẫn 500 vị tỳ-kheo về làm đồ chúng của riêng mình, ngài Mục-kiền-liên [dùng phép] khiến cho [Đề-bà-đạt-đa] ngủ say như chết, miệng ngáy như sấm động, thân dưới phát tiếng trung tiện, đến nỗi Cù-già-ly[39] dùng chân đạp mà vẫn không tỉnh dậy. Ngài Xá-lợi-phất [nhân lúc đó] thuyết pháp cho 500 vị tỳ-kheo, khiến họ hồi tâm thức tỉnh. Ngài Mục-kiền-liên khi ấy dùng bàn tay nâng [cả 500 vị tỳ-kheo] lên đưa về [tinh xá], Tăng đoàn lại được hòa hợp.

Kinh Tăng Nhất A-hàm, quyển 44,[40] chép rằng: Khi Phật ở tại thành Xá-vệ, chuẩn bị thuyết giới vào ngày 15, nhưng đức Phật yên lặng không nói gì. Ngài A-nan thưa thỉnh bốn lần, [Phật vẫn không thuyết giới]. Phật nói: “Hôm nay trong chúng không thanh tịnh nên ta không thuyết giới. Ông có thể thỉnh một vị thượng tọa, hoặc vị trì luật, hoặc một vị nào [thông thuộc giới luật] để tụng giới.” Khi ấy, ngài Mục-kiền-liên liền nhập định, quán xét xem ai là người không thanh tịnh, thì thấy đó là hai tỳ-kheo Mã Sư và Mãn Túc, liền nắm tay lôi hai tỳ-kheo này ra bên ngoài, rồi đóng cửa lại và thỉnh Phật thuyết giới. Phật dạy: “Ta chẳng nói hai lời, nên hôm nay không tự thuyết giới.” Ngài Mục-kiền-liên cũng nói: “Nay trong chúng không thanh tịnh, con cũng không thể làm Duy na.”[41]

Kỳ-vực (Jivaka),[42] Hán dịch là Cố Hoạt, [sau khi chết] sinh lên cõi trời Đao Lợi. Đệ tử của ngài Mục-kiền-liên có bệnh, ngài liền dùng thần thông [lên cung trời Đao-lợi] để hỏi [cách trị bệnh], gặp lúc [Kỳ-vực cùng] chư thiên ra khỏi vườn để dạo chơi. Kỳ-vực ngồi trên xe không xuống, chỉ chắp tay chào. Ngài Mục-kiền-liên giữ xe dừng lại, Kỳ-vực nói: “Chư thiên [ở đây] hối hả thọ hưởng lạc thú nên không có thời gian rảnh rỗi dừng lại để gặp nhau. Tôn giả có việc gì cần?” Ngài Mục-kiền-liên nói rõ ý mình. [Kỳ-vực] nói: “Điều quan trọng là phải nhịn ăn.”[43] Ngài Mục-kiền-liên buông ra, xe mới đi tiếp được.[44]

Khi Đế thích đánh nhau với A-tu-la chiến thắng, liền tạo ra [cung điện lớn gọi là] Đắc thắng đường, lầu gác đài quán đều bằng bảy món báu, trang nghiêm đẹp đẽ đặc biệt lạ thường. Rường cột và các chi tiết tất cả đều xinh đẹp ngay ngắn, không buộc vào nhau mà vẫn gắn kết giữ vững. Đây là do thần lực mầu nhiệm có được từ phước báu cõi trời nên mới được như vậy. Ngài Mục-kiền-liên bay ngang qua, Đế thích liền đưa ngài đi xem khắp Đắc thắng đường. Các thiên nữ e thẹn với ngài Mục-kiền-liên nên đều ẩn hình trốn đi không hiện ra. Ngài Mục-kiền-liên suy nghĩ: “Đế Thích đắm say dục lạc, không tu tập căn bản của đạo.” Nghĩ rồi liền dùng phép biến hóa thiêu cháy Đắc thắng đường, tất cả đều sụp đổ. Nhân đó mới vì Đế thích giảng rộng về lẽ vô thường. Đế Thích nghe pháp vô cùng hoan hỷ. Sau đó Đắc thắng đường hiện ra trở lại, trang nghiêm như trước, không một chút dấu tích gì của lửa khói.

[Ngài Mục-kiền-liên] lại có thần thông dùng bình bát đựng cả 500 vị tỳ-kheo [mang đi], như phần trước đã nói.

Đức Như Lai [thuyết pháp bằng] Phạm thanh, vang đi rất xa và dù ở xa vẫn nghe được [rõ ràng] giống như ở bên cạnh Phật, không khác. Ngài Mục-kiền-liên muốn biết âm thanh của Phật [thuyết pháp] vang xa đến đâu, nhưng dù đã đi xa hết mức vẫn nghe như đang ở bên cạnh Phật. Ngài liền dùng thần lực bay về hướng tây, vượt qua số cõi nước nhiều như cát sông Hằng, nhưng vẫn nghe tiếng Phật thuyết pháp như lúc ở gần, chẳng thấy khác biệt. Ngài bay mãi, bay mãi không dừng đến lúc thần lực đã hết nên thân mệt mỏi, gặp lúc đại chúng ở phương ấy đang cùng nhau dùng bữa, liền dừng nghỉ, đi kinh hành quanh miệng bình bát [rất lớn của một vị tỳ-kheo ở đó]. Vị [tỳ-kheo] ấy hoảng kinh lấy làm quái lạ, tự hỏi vì sao lại có con sâu đầu người từ đâu đến đây. Đức Phật ở đó bảo rằng: “Không phải con sâu. Đó là vị đệ tử Đệ nhất thần túc của đức Phật Thích Tôn ở về phương đông cách đây vô số cõi Phật, vì muốn biết nơi xa nhất của âm thanh [Phật thuyết pháp] nên mới đến tận đây.”

Lại trong kinh Niết-bàn nói: “Đức Phật muốn tìm người làm thị giả, tâm Phật hướng về A-nan giống như mặt trời ở phương đông chiếu sang vách tường phía tây.” [Ngài Mục-kiền-liên nhập định quán sát thấy biết rõ.][45] Đại lược là như vậy.

Bàn luận về thần thông theo giáo nghĩa thì nương vào Tứ thiền đạt được 14 pháp biến hóa,[46] nương theo pháp thiền Thập nhất thiết xứ[47] vô lậu sự mà quán chiếu huân tập lâu ngày thì có thể thực hiện 18 pháp biến hóa.[48] Đây là thần thông ban sơ trong Tạng giáo. Nương vào [pháp quán] không để khởi lên trí tuệ. Dùng tâm với trí tuệ không ấy mà tu các thần thông, đó là thần thông trong Thông giáo. Tuần tự nương vào Tam đế[49] tu tập đạt được thần thông, dần dần vào sâu vượt hơn hàng Nhị thừa, đó là thần thông của Biệt giáo. Nương vào tướng chân thật mà đạt được thần thông, không dùng tướng phân biệt để nhìn các cõi Phật. Từ nơi chân thật mà khởi lên và ứng hợp, nhưng trong chỗ chân thật ấy chẳng hề dao động, có thể biến hiện khắp mười pháp giới. Đây là thần thông của Viên giáo. Đại lược là như vậy.

[Ngài Mục-kiền-liên] trong quá khứ từng giúp đỡ một vị Phật Bích-chi trong những việc cạo tóc, nhuộm, giặt và may vá áo cà-sa, [nhân đó] phát nguyện được thần thông. Đại lược là như thế.

[Giải thích về thần thông theo] bản tích thì bản là trụ nơi chân thật của pháp định Thủ-lăng-nghiêm, có thể từ một niệm mà ứng hiện biến khắp mười phương, đủ các phương cách thị hiện để thi hành mọi Phật sự, đều do nơi tâm từ bi, còn dấu tích hiển hiện là thần thông qua năm giai đoạn[50] để đi đến chỗ cùng cực cao tột nhất. Đại lược là như vậy.

[Giải thích về thần thông theo] quán tâm thì quán nơi một tâm tức thời có hết thảy tâm, quán hết thảy tâm tức thời không có tất cả tâm. Tâm chẳng rơi vào có hoặc không, thông suốt đến tướng chân thật, đó là quán thần thông.

Ma-ha Ca-chiên-diên

Ma-ha Ca-chiên-diên (Mahākātyāyana), Hán dịch là Văn Sức, cũng dịch là Kiên Thừa, có người cho là lầm, đúng ra nên dịch là Phiến Thằng, hoặc dịch là Hảo Kiên. Tên ngài cũng đọc là Kha-la, Hán dịch là Tư Thắng. Tất cả những tên ấy đều là gọi theo họ, lấy họ làm tên.

Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Ca-chiên-diên là bậc nhất trong việc khéo phân biệt nghĩa lý, diễn giải đạo pháp.”

Kinh Trường A-hàm chép rằng: “Có kẻ ngoại đạo chấp thuyết đoạn diệt, cho rằng không có đời sau, từng có đến 10 lần đối đáp [với ngài Ca-chiên-diên].

[Lần thứ nhất,] ngoại đạo nói: “Không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] hỏi: “Nay thấy có mặt trời, mặt trăng, vậy là của người làm ra hay trời làm ra? [Mặt trời, mặt trăng ấy] là thuộc về đời này hay đời sau? Nếu nói không có đời sau tức là không có ngày mai. [Nhưng sự thật là có ngày mai, nên biết là có đời sau.]”

[Lần thứ hai, ngoại đạo] lại hỏi: “Tôi thấy người chết rồi chẳng ai quay lại, làm sao [biết mà] nói về sự thọ khổ của họ? Cho nên biết là không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như tội nhân đã bị giam, liệu có quay về được chăng?”

[Lần thứ ba, ngoại đạo] lại hỏi: “Vậy như người sinh lên cõi trời, [không phải tội nhân,] sao cũng chẳng quay trở lại? Cho nên biết rằng không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như người bị rơi xuống hầm phân rồi được lên khỏi, liệu có quay trở xuống dưới hầm phân ấy chăng? Hơn nữa, một ngày trên cõi trời bằng 100 năm cõi này. Người sinh lên cõi trời trong năm ba ngày hẳn còn chưa có thời gian nghĩ đến việc trở lại cõi người. Ví như [sau năm ba ngày rồi] có quay trở lại thì ông cũng đã chết, làm sao biết được?”

[Lần thứ tư, ngoại đạo] lại hỏi: “Khi người ta hành hình tội nhân nấu trong chảo nóng, đậy nắp kín bên trên, bốn phía đều chẳng thấy thần thức thoát ra, cho nên biết rằng không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Lúc ông nằm ngủ ban ngày, liệu người bên cạnh có thấy được thần thức của ông thoát ra chăng?”

[Lần thứ năm, ngoại đạo] lại hỏi: “Khi ta cắt xẻ xác người chết ra, chỉ thấy da, thịt, xương cốt, không thể tìm được thần thức, cho nên biết là chẳng có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như đứa trẻ con chẻ vụn củi ra để tìm lửa, liệu có tìm được chăng?”

[Lần thứ sáu, ngoại đạo] lại hỏi: “Ta cân xác người chết thấy nặng hơn. Nếu thần thức thoát ra thì hẳn phải nhẹ hơn, còn nếu thần thức không thoát ra tức là chẳng có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như lửa nung sắt thì nhẹ, sắt không có lửa lại nặng hơn. Con người [cũng vậy], có thần thức thì nhẹ, khi chết rồi không còn thần thức cho nên nặng hơn.”

[Lần thứ bảy, ngoại đạo] lại hỏi: “Tôi thấy người sắp chết, lật ngược tìm thần thức cũng không thấy, nên biết là không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp: “Như có người lật ngược vỏ ốc [làm tù và] để tìm âm thanh, liệu có tìm được chăng?”[51]

[Lần thứ tám, ngoại đạo] lại nói: “Tuy ông phá bỏ hết mọi lập luận, nhưng tôi bám chấp thuyết đoạn diệt này đã lâu nên không thể buông bỏ được.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như người biết chọn lọc, ban đầu chỉ thấy ruộng trồng gai liền thu lấy gai. Được nhiều gai rồi thì bỏ cây gai chỉ giữ lấy vỏ gai. Được nhiều vỏ gai rồi lại bỏ vỏ gai chỉ lấy sợi gai. Được nhiều sợi gai rồi thì bỏ sợi gai chỉ lấy vải dệt từ sợi gai. Được nhiều vải rồi thì bỏ vải đổi lấy lụa. Được nhiều lụa rồi thì bỏ lụa đổi lấy bạc. Được nhiều bạc rồi thì bỏ bạc đổi lấy vàng. Bỏ điều kém cỏi hơn để giữ lấy điều tốt đẹp hơn, tại sao lại không thể bỏ?”

[Lần thứ chín, ngoại đạo] lại hỏi: “Chẳng phải riêng tôi nói điều này, mà nhiều người khác cũng nói như vậy, tại sao nói tôi sai?” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Có hai người đi buôn gặp quỷ. Quỷ giả hình người, bảo họ rằng: “Nơi các ông sắp đến ở phía trước lúa gạo rất nhiều, cỏ khô không thiếu, các ông chở theo đến đó làm gì?” Một người nghe vậy liền vất bỏ hết [lúa gạo và cỏ khô trên xe mình], khi đi đến phía trước [không đúng như lời quỷ nói] người và trâu đều bị đói, cuối cùng bị quỷ ăn thịt. Người còn lại thì nghĩ: “Đợi khi nào có được lúa gạo và cỏ khô ở nơi đó thì ta hãy vất bỏ lúa gạo và cỏ khô mang theo cũng không muộn.” Nhờ vậy nên người và trâu đều không bị đói, không bị quỷ ăn thịt. Những người nói ra thuyết sai lầm cũng giống như quỷ kia nói dối. Ông không tin lời của tôi, như việc vất bỏ lúa, cỏ mang theo trên xe, nay đã có được lúa, cỏ ở nơi mới, sao vẫn chẳng chịu vất bỏ lúa, cỏ mang theo?”[52]

[Lần thứ mười, ngoại đạo] lại nói: “Tôi không thể buông bỏ, nếu ông cố khuyên tôi sẽ nổi sân hận.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Ông như người nuôi heo, đi trên đường gặp phẩn liền nhặt lấy, đội trên đầu [mang về cho heo]. Gặp lúc trời mưa, nước hòa phẩn chảy xuống dơ đầu, người đi bên cạnh khuyên nên vất bỏ đi, lại nổi giận với người ấy, nói rằng: ‘Ông không nuôi heo nên mới bảo ta vất bỏ phân đi.’ Đó là giận ngược lại người khuyên mình.”

Cứ như vậy, [ngài Ca-chiên-diên] lần lượt phân tích phá trừ [các tà kiến], giảng rộng các ý nghĩa. Ngoại đạo liền thán phục, ngợi khen xưng tán rằng: “Tôn giả ở trước vừa nói ví dụ mặt trời, mặt trăng thì tôi đã hiểu rõ rồi. Vì muốn được nghe lập luận của bậc trí tuệ nên mới nhiều lần tiếp tục gạn hỏi. Lành thay! Lời giảng giải của tôn giả thật nhiệm mầu.”

Sự khéo léo biện luận về hình tướng nghĩa lý của ngài Ca-chiên-diên cũng giống như vậy.

Trong Luật nói rằng: “Ngài Ca-chiên-diên thường khéo giáo hóa về quy giới, đối với người đồ tể thì dạy họ thọ giới ban đêm, đối với người nhiều dâm dục thì dạy họ thọ giới ban ngày. Về sau, đến lúc thọ báo thì mỗi người đều được thấy hiện tướng an lạc vào ngày hoặc đêm.” Đại lược là như thế.

Lại có vị bà-la-môn tên là Thế Điển, nói với 500 người họ Thích rằng, có ai có thể cùng ta tranh luận chăng? Những người họ Thích đáp rằng: “Có [ngài Cù-đàm thuộc dòng họ Thích, là bậc Chánh đẳng giác;] lại có người không trí tuệ, không tri thức, lời nói thô lậu vụng về, tên là Châu-lợi-bàn-đặc,[53] ở trong chúng xuất gia là hạng thấp kém. Ông có thể cùng hai người này tranh luận, nếu thắng được thì chúng ta sẽ thừa nhận danh tiếng của ông.”[54]

Thế Điển suy nghĩ rằng, thắng được hai người này cũng không đủ để được tôn trọng hơn, nhưng nếu không thắng được thì thật quá nhục nhã. [Liền từ chối không tranh luận.]

Về sau, trên đường đi [Thế Điển] gặp Châu-lợi-bàn-đặc, liền hỏi tên họ. Châu-lợi-bàn-đặc đáp: “Ông nên hỏi về nghĩa lý, việc gì phải nhọc sức hỏi họ tên?” Liền hỏi lại: “Vậy ông có thể cùng ta tranh luận nghĩa lý chăng?” Châu-lợi-bàn-đặc đáp rằng: “Ta có thể tranh luận cùng Phạm vương, huống chi ông chỉ là một kẻ mù không có mắt?” Thế Điển vặn hỏi lại: “Nói mù tức là không có mắt, không có mắt tức là mù, sao ông phải lặp lại rườm rà?”

Châu-lợi-bàn-đặc liền hiện ra 18 pháp biến hóa. [Thế Điển] nói: “Người này chỉ biết bay nhảy biến hóa, rốt lại cũng không biết giảng giải nghĩa lý.”

Khi ấy, ngài Ca-chiên-diên có thiên nhĩ nên từ xa nghe được [lời nói ấy], liền [biến hóa] ẩn giấu thân hình của Châu-lợi-bàn-đặc, rồi tự mình thị hiện ra thân hình giống hệt như vậy, từ trên không trung hạ xuống hỏi: “Ông tên hiệu là gì?” [Thế Điển] đáp: “Tôi có tên hiệu là Nam Trượng Phu.” Ngài Ca-chiên-diên liền vặn hỏi lại: “Nam tức là trượng phu, trượng phu tức là nam, sao ông phải lặp lại rườm rà?”

Thế Điển nói: “Thôi, thôi! Hãy gác lại những chuyện nhỏ nhặt này, hãy bàn luận những nghĩa lý sâu xa.”

Nói rồi đặt câu hỏi: “Không nương theo pháp chứng Niết-bàn được sao?” Đáp: “Không nương theo pháp ngũ ấm thì có thể chứng Niết-bàn.”

Lại hỏi: “Ngũ ấm nương theo gì sinh ra?”

Đáp: “Do nhân là ái dục sinh ra.”

Lại hỏi: “Làm thế nào để đoạn trừ ái dục?”

Đáp: “Nương theo Bát chánh đạo thì có thể đoạn trừ ái dục.” [Bà-la-môn] Thế Điển nghe xong liền xa rời trần cấu, [tâm được giải thoát].

[Chuyện về ngài Ca-chiên-diên] thường là như vậy.

[Bàn về tài biện luận] theo giáo nghĩa thì y cứ các ý nghĩa vô thường, khổ, không và vô ngã để phá trừ đoạn kiến, thường kiến v.v. Đó là luận nghĩa theo Tạng giáo.[55] Nếu y theo các ý nghĩa không, vô sở hữu, bất khả đắc để phá trừ những kiến chấp như đoạn kiến, thường kiến, ái kiến... đó là luận nghĩa theo Thông giáo. Cho nên, [trong kinh Duy-ma-cật] thiên nữ nói rằng: “Ta không có chỗ chứng đắc, nên biện tài mới được như vậy.”

Nương theo sự thâu nhiếp trọn vẹn bốn biện tài vô ngại[56] mà quán xét căn cơ, soi chiếu giả tướng, dùng thuốc ngăn bệnh, phá trừ đoạn kiến, thường kiến... đó là luận nghĩa theo Biệt giáo.

Y theo tướng chân thật rốt ráo, chẳng rơi vào có không mà phá trừ đoạn kiến, thường kiến... đó là luận nghĩa theo Viên giáo.

Lược nói theo bản tích thì bản là trụ ở hai loại trang nghiêm, phước đức và trí tuệ, có thể hỏi đáp, vì thương xót chúng sinh, còn hình tích hiển thị là luận sư giảng giải giáo nghĩa theo năm tầng bậc.[57]

Theo nghĩa quán tâm thì quán nơi trí, nghiên tầm nơi cảnh, cảnh phát ra nơi trí, trí và cảnh tương quan qua lại. Đó là luận nghĩa theo quán tâm.

A-nậu-lâu-đà

A-nậu-lâu-đà (Aniruddha), cũng đọc là A-na-luật hoặc A-nê-lô-đậu, đều là phiên âm từ tiếng Phạn, Hán dịch là Vô Bần, cũng dịch là Như Ý hay Vô Lạp. Thuở xưa, gặp năm mất mùa, ngài cúng dường cơm lúa bại[58] cho một vị Phật Bích-chi, được quả báo trong 91 kiếp luôn sung túc nên có tên là Vô Bần (không nghèo).[59]

Lại nói về dòng họ, vào thuở kiếp sơ, nước dâng gió thổi mới kết cấu thành thế giới. [Vào lúc đó], chư thiên ở cõi trời Quang Âm sau khi mạng sống đã dứt, hóa sinh làm người [ở thế giới này], thân có ánh sáng, bay đi trên hư không, lấy niềm vui làm thức ăn, không phân biệt nam nữ, không trật tự trên dưới, đại chúng cùng sinh sống nên gọi là chúng sinh. Đất tự nhiên có mùi vị như đề hồ, màu sắc như sinh tô, ngọt như mật. [Có người tham] ăn nhiều [đất ấy] nên thân mất ánh sáng, tiều tụy không thể bay lên được nữa, người ăn ít thì [thân thể] còn sáng đẹp, nhân đó có hơn kém, sinh ra chuyện thị phi. Khi đã mất vị ban đầu của đất thì quay sang ăn lớp bìa của đất, [ăn rồi liền] sinh ra khinh chê, ngạo mạn với nhau. [Khi hết lớp bìa rồi] chuyển sang ăn lớp đất bên trong, [ăn rồi liền] sinh ra các việc ác. Hết cả lớp đất bên trong thì bắt đầu ăn [những thứ sinh ra từ đất như] lúa gạo. Khi ăn lúa gạo rồi thì sinh ra nam căn, nữ căn, rốt lại thành vợ chồng với nhau.

Vì xấu hổ [khi giao hợp] nên phải làm nhà cửa phòng ốc [để che kín]. Từ đó bắt đầu tích trữ, gom giữ lúa gạo. [Do tâm tham lam đó] mà hạt lúa sinh ra vỏ trấu, cám [bao bọc], khi gặt một lần rồi chẳng mọc lên [như trước đó] nữa, chỉ còn gốc khô. [Do tâm tham nên] dần dần sinh ra chuyện trộm cắp, cướp đoạt lẫn nhau. Từ đó phải cử ra một người công bằng, gọi là điền chủ, để dùng lý lẽ phân xử khi có tranh tụng. Đó là vị Chúa dân [đầu tiên]. Chúa dân sinh con trai tên là Trân Bảo. Trân Bảo có con trai tên là Hảo Vị. Bắt đầu từ lúc Chúa dân khai sáng [việc cai trị dân] truyền lại về sau, các vị vua Kim luân[60] liên tục nối nhau cai trị, cho đến đời vua Thiện Tư. Từ vua Ý Ma đến vua Tịnh Phạn là 4 đời, đều là các vua Thiết luân. Tổng cộng đã có 84.210 vị vua.

Trong kinh Thập nhị du[61] nói rằng: Thuở xa xưa cách đây nhiều kiếp, có một vị vua sớm mồ côi cha mẹ, đem việc trị nước giao cho người em, còn mình theo phụng sự một vị Bà-la-môn. Thầy Bà-la-môn [họ Cù-đàm] dạy rằng: “Ông nên cởi bỏ vương bào, lấy theo họ [của ta là] Cù-đàm. Vua ấy vâng lời làm theo, người thời bấy giờ gọi ông là Tiểu Cù-đàm, [còn vị thầy là Đại Cù-đàm]. Tiểu Cù-đàm sống trong một vườn cây trái ngọt.[62] Có bọn trộm mang đồ trộm được chạy ngang qua vườn, [giấu những đồ trộm được quanh túp lều của Tiểu Cù-đàm] quân bắt trộm đuổi theo bắt nhầm Tiểu Cù-đàm, [buộc tội rồi hành hình bằng cách] dùng cọc gỗ đâm xuyên qua thân cho chảy hết máu xuống đất, cuối cùng mới dùng tên bắn chết. Đại Cù-đàm đau đớn thương tiếc, gom hốt hết chỗ đất nhuộm máu đem về vườn, đựng vào trong hai cái bình đặt hai bên tả hữu rồi trì tụng thần chú, [phát nguyện rằng:] “Nếu Cù-đàm tôi có đủ tâm thành, xin thiên thần biến [đất có] máu này thành người.” Trải qua 10 tháng, bình bên trái hóa thành đứa con trai, bình bên phải hóa thành đứa con gái, [đều cho mang họ Cù-đàm], từ đó về sau có dòng họ Cù-đàm.

Họ Cù-đàm (Gotama) Hán dịch là Thuần Thục, lại đặt tên là Xá-di. Xá-di nghĩa là tên họ cao quý. Vào thuở ban sơ của kiếp Nhân Hiền, khi đức Như Lai Đương Bảo ra đời thì thần thức Cù-đàm mới bắt đầu thác sinh. Nếu theo ý này thì các vị Chúa dân từ trước đến nay đều thuộc họ Cù-đàm. Từ đời vua Ý Ma, có bốn người con, một là Diện Quang, hai là Tượng Thực, ba là Lộ Chỉ, bốn là Trang Nghiêm, vì bị [vua] ngờ vực nên phải dời đến sống ở phía bắc dãy Tuyết sơn, trong rừng cây trực. Người trong nước yêu thích họ nên đi theo rất đông, tụ họp thành cương vực một nước. Đức vua cha [thấy vậy] khen ngợi rằng: “Các con ta thật có năng lực.” Bốn người con nhân đó lập thành dòng họ riêng. Nơi đất ấy có cây thích-ca (sakya) mọc nhiều, rậm rạp tươi tốt. Rừng cây thích-ca, Hán dịch là rừng cây trực. Đã lập thành một nước trong rừng ấy, nên lấy tên khu rừng làm họ, [tức là họ Thích-ca]. Trong Phạn ngữ, chữ thích-ca (sakya) có nhiều hàm nghĩa, có thể dịch là trực (thẳng), cũng có thể dịch là năng (có khả năng). Vua Tịnh Phạn chính là hậu duệ nối dòng vua Trang Nghiêm, [một trong bốn người con] thuở ấy. Vua Trang Nghiêm tức là Ô-đầu, sinh ra con là Ô-đầu-la. Ô-đầu-la sinh ra Ni-cầu-la. Ni-cầu-la sinh ra Thi-hưu-la. Thi-hưu-la tức là Sư Tử Giáp. Sư Tử Giáp sinh ba người con đều đặt tên có chữ Phạn, một người trong số đó là Hộc Phạn, có hai người con. Con trưởng là Ma-ha-nam, con thứ là A-na-luật.

[Như vậy, ngài A-na-luật] chính là cháu vua Tịnh Phạn, là con thứ vua Hộc Phạn, là em họ đức Thế Tôn, là anh họ ngài A-nan, là chú La-hầu-la, không phải người tầm thường.

Xưa Chu Công nói rằng: “Ta là con Văn vương, em Vũ vương, chú Thành Vương, chẳng phải người hèn kém trong thiên hạ, vậy mà gội đầu phải nắm tóc ba lần, một bữa ăn phải [dừng lại] nhả cơm ra ba lần, dùng lễ cầu người hiền phải như thế, huống chi những kẻ khác.”[63]

Kinh Hiền ngu nói: “Sau khi đức Phật Phất-sa ra đời, đến thời mạt pháp, gặp lúc có nạn đói, có vị Phật Bích-chi tên là Lợi-trá, một hôm đi khất thực không được gì, ôm bình bát trống không. Có một người nghèo thấy vậy hết sức đau lòng, bạch Phật Bích-chi rằng: “Bạch ngài, con không biết ngài có thể thọ nhận cơm lúa bại được chăng?” Thưa hỏi rồi liền lấy phần ăn của chính mình dâng cúng. Phật Bích-chi thọ thực xong liền thị hiện 18 phép biến hóa.

Hôm sau người ấy đi cắt lúa bại, bỗng có con thỏ nhảy lên rồi hóa thành xác người chết ôm ngang lưng ông, không cách gì gỡ ra được, đành chờ đến lúc trời tối [mang cả xác chết] về nhà. [Về đến nhà vừa] bỏ xuống đất lập tức xác chết hóa thành người bằng vàng. Bẻ lấy ngón tay lại sinh ra ngón tay khác, lại chặt chân rồi cũng mọc ra chân khác, cứ như vậy lấy vàng mà dùng không bao giờ hết. Những kẻ xấu ác cùng tên vua ác [khi biết chuyện] đều muốn đến cướp lấy, thì chỉ thấy một xác người chết, riêng người ấy thì nhìn thấy toàn vàng quý.

[Đây chính là tiền thân của ngài A-na-luật,] trải qua 91 kiếp đều được quả báo luôn sống sung túc như vậy, nên có tên là Vô Bần (không nghèo). Kể từ kiếp sống kể trên về sau thì gia nghiệp luôn giàu sang sung túc, lại mỗi ngày mỗi tăng thêm. Cha mẹ muốn thử nên lấy bát trống đậy kín rồi đưa cho ngài, đến khi lấy lại mở ra xem thì thấy bên trong có đủ món ngon trăm vị. Trước cửa nhà ngài mỗi ngày thường có 12.000 người, trong đó có 6.000 người đến mượn nợ và 6.000 người đến để trả nợ.

Sau khi ngài xuất gia, dù đi đến đâu, ai gặp ngài cũng đều hoan hỷ. Nếu ngài có nhu cầu gì cũng luôn được đáp ứng ngay, giống như ở nhà mình không khác.

Ngài A-na-luật tu tập tinh tấn đến mức trong suốt bảy ngày đêm không hề chớp mắt, hai mí mắt không chạm vào nhau. Giấc ngủ vốn là thức ăn của mắt, suốt bảy ngày đêm không ngủ nên con ngươi trong mắt phải chết, do vậy ngài bị mất đi nhục nhãn. Phật dạy ngài hãy cầu thiên nhãn, luôn nhớ đến duyên là sắc thanh tịnh của bốn đại từ nơi giữa đầu phát ra, dứt sạch che chướng trong ngoài thì dù sáng hay tối cũng đều thấy rõ.

[Sau khi thành tựu, ngài từng] nói với Phạm vương rằng: “Ta nhìn thấy khắp cõi đại thiên của Phật Thích-ca giống như nhìn quả [am-ma-lặc] trong lòng bàn tay.” Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, [đức Phật] nói: “Trong Phật pháp của ta, A-na-luật là bậc nhất trong việc dùng thiên nhãn để nhìn thấu khắp nơi.”

Khi ngài A-na-luật đã mù nhục nhãn, đức Phật cùng các vị tỳ-kheo thường giúp ngài cắt và may y. Lúc Phật ở động Câu-tát-la tại nước Xá-vệ, có 800 vị tỳ-kheo quy tụ về, cùng vì ngài A-na-luật mà may đủ 3 tấm y. Đức Phật tự tay trải các tấm vải ra, các vị tỳ-kheo kẻ cắt người khâu, trong một ngày thì hoàn thành [trọn vẹn ba tấm y]. [Nhân đó] đức Phật giảng rộng về việc người xuất gia đã thọ y phải biết sống đoàn kết, cùng chia sẻ với nhau. Vô số người [nghe pháp] được đạo.

[Luận về thiên nhãn] theo giáo nghĩa thì nương vào thiền định phát xuất thiên nhãn là phàm phu ngoại đạo, nương theo pháp thiền hết thảy đều vô lậu phát xuất được thiên nhãn, đó là theo Tạng giáo. Nương theo trí tuệ vô lậu về bản thể các pháp mà phát xuất các công hạnh, nương theo những công hạnh ấy mà phát xuất thiên nhãn, đó là ý nghĩa theo Thông giáo.

Theo ý nghĩa của Biệt giáo thì nương theo việc tán thán các việc lành mà phát xuất nhục nhãn,[64] y theo định lực phát xuất thiên nhãn, y theo lẽ chân thật [thấy các pháp đều không] (chân đế) nên phát xuất tuệ nhãn, y theo lẽ thế tục [thấy các pháp đều giả tạm] (tục đế) nên phát xuất pháp nhãn, y theo lẽ Trung [đạo] phát xuất Phật nhãn.

Theo Viên giáo thì y theo thật tướng phát xuất thiên nhãn, thiên nhãn đó tức là Phật nhãn.

Lại nữa, theo ý nghĩa của Tạng giáo thì y theo sự tán thán những việc lành mà tu tập nhục nhãn,[65] y theo thiền định mà tu tập thiên nhãn. Còn Thông giáo thì y theo nghĩa Không để tu tập nhục nhãn, thiên nhãn. Theo Biệt giáo thì tu tập năm thứ mắt, [gồm nhục nhãn, thiên nhãn, pháp nhãn, tuệ nhãn và Phật nhãn] tuần tự theo thứ lớp. Theo Viên giáo thì tu tập ngũ nhãn không tuần tự theo thứ lớp.

Theo ý nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi thật tướng thiên nhãn chân thật, không dùng tướng phân biệt để nhìn các cõi Phật, còn hình tích thị hiện nên có thiên nhãn phát xuất từ giữa đầu.

Theo ý nghĩa quán tâm thì giải thích rằng, quán nhân duyên sinh tâm hiền thiện tức là nhục nhãn, quán nhân duyên sinh tâm Không tức là thiên nhãn, quán nhân duyên sinh tâm giả tức là pháp nhãn, [ngay nơi đó thấy] Trung đạo tức là Phật nhãn. Đại lược là như thế.

Kiếp-tân-na

Kiếp-tân-na (Kapphiṇa), Hán dịch là Phòng Tú. Cha mẹ cầu đảo sao Phòng,[66] chiêu cảm sinh được con nên lấy tên sao ấy đặt tên cho con.

Ngài là vị tỳ-kheo lúc ban đầu xuất gia chưa được gặp Phật. Khi ngài mới phát tâm tìm đến chỗ Phật thì trên đường gặp mưa, đêm ấy ghé vào xin trú mưa trong nhà một người thợ làm đồ gốm. Có một phòng trống, ngài trải cỏ làm chỗ ngồi thiền. Sau đó, lại có một vị tỳ-kheo cũng vào nhà ấy xin ngủ nhờ, ngài liền chia một phần cỏ, cũng trải trên đất làm chỗ ngồi thiền cho vị ấy. Trong đêm, vị tỳ-kheo kia hỏi ngài đang muốn đi đến đâu, liền đáp: “Tôi đi tìm Phật.” Vị tỳ-kheo kia liền vì ngài mà thuyết pháp. Những lời thuyết pháp này có thể tìm xem lại trong kinh A-hàm. [Ngài Kiếp-tân-na nghe pháp rồi] hốt nhiên chứng đạo. Vị tỳ-kheo đến sau ấy chính là đức Phật. [Ngài Kiếp-tân-na] được ở cùng phòng với Phật, được thấy Pháp thân, nên dựa theo nơi chứng đạo trong phòng mà gọi tên là Kiếp-tân-na, là “phòng túc”, nghĩa là một đêm trong phòng.

[Lại nữa, khi Phật thuyết pháp, Thiên vương] Tỳ-sa-môn cầm lọng báu đi sau [che cho ngài] Kiếp-tân-na. Thiên vương Tỳ-sa-môn là chúa tể các tinh tú, vị chúa tể đã theo hầu thì hết thảy các tinh tú cũng đều như thế. Cho nên ngài Kiếp-tân-na giỏi khoa chiêm tinh, khéo rõ biết về các tinh tú, biết rõ các pháp thức, đồ hình [về các ngôi sao], do những hiểu biết đó mà được gọi tên là Kiếp-tân-na.

Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, Phật dạy: “Trong Phật pháp của ta, tỳ-kheo Kiếp-tân-na là bậc nhất trong việc rõ biết về mặt trời, mặt trăng và các tinh tú.”[67]

Giải thích theo giáo nghĩa thì hình tích hiển bày là phá vỡ ngôi nhà căn trần, rồi cùng với Phật ngụ trong ngôi nhà chân đế. Đó là ý nghĩa theo Tạng giáo.

Theo Thông giáo thì thể đạt [ý nghĩa] căn trần, đó là được cùng Như Lai ở chung trong căn phòng chân đế.

Theo Biệt giáo thì phân biệt được căn nhà của căn trần trong mười pháp giới ắt có thể thấy Phật.

Theo Viên giáo thì từ nơi một căn nhà căn trần có thể thấy được hết thảy những căn nhà [khác], thấy được hết thảy chư Phật.

Lược nói theo bản tích thì bản là vốn đã cùng Như Lai trụ nơi thật tướng, tích là hiển thị ra có nhà cửa phòng ốc.

Theo nghĩa quán tâm thì quán căn nhà năm ấm đều không, tức Không đế, cùng ở một nhà với Hóa thân Phật; quán căn nhà năm ấm là giả tạm, tức Giả đế, cùng ở một nhà với Báo thân Phật; quán căn nhà năm ấm là khoảng giữa, tức Trung đạo, cùng ở một nhà với Pháp thân Phật. Đại lược là như vậy.[68]

Kiều-phạm-ba-đề

Kiều-phạm-ba-đề, Hán dịch là Ngưu Si,[69] trong kinh Vô Lượng Thọ gọi là Ngưu Vương,[70] kinh Tăng Nhất A-hàm gọi là Ngưu Tích.[71] Thuở xưa, cách đây 500 đời ngài từng là con trâu chúa. Loài trâu sau khi ăn thì nhai lại, dư báo ấy chưa hết nên miệng ngài thường nhai [ngay cả lúc không ăn gì], người thời bấy giờ gọi là Ngưu Si.

[Lại chuyện] thuở xưa có một bầy ngỗng trời 500 con,[72] trong đó có một con thường kiếm được hoa quả thì cung cấp cho con đầu đàn. [Con ngỗng ấy là tiền thân của ngài Kiều-phạm-ba-đề.] Khi đức Phật nhận lời cung thỉnh của vua A-kỳ-đạt trong một mùa an cư, [do vua quên hẳn việc cúng dường nên đức Phật] cùng với 500 vị tỳ-kheo phải dùng loại lúa xấu dành cho ngựa ăn. Riêng ngài Kiều-phạm-ba-đề khi ấy lại ở trên cõi trời, nơi vườn Thi-lợi-sa, thọ nhận sự cúng dường của Thiên vương.

Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Vui thích ở cõi trời, không thích ở cõi người, tỳ-kheo Ngưu Tích là bậc nhất. Ưa thích ở cõi trời tức là chạy theo dục lạc, là nghĩa thế giới tất đàn. Nhờ cung cấp [thức ăn] cho con ngỗng đầu đàn mà được phước báu ấy, là nghĩa vị nhân [tất đàn. Lại nói lên cung trời để] tránh người cười nhạo [việc nhai lại] là nghĩa đối trị [tất đàn]. Chư thiên không cười nhạo, là đệ nhất nghĩa tất đàn. Đại lược là như vậy.

Lại nói rằng, con người chỉ xem hình tướng [bên ngoài], không biết được đức độ [bên trong], nếu cười nhạo một vị A-la-hán liền có tội. Vì muốn tránh cho người đời sự cười nhạo [đắc tội] ấy nên Ngài thường ở trên cõi trời. Chư thiên rõ biết đức độ [của ngài], không cười nhạo hình tướng, do vậy nên ngài sống trên cõi trời.

Sau khi Đức Phật diệt độ, ngài Ca-diếp triệu tập 1.000 vị Đại A-la-hán [để kết tập kinh điển], liền cử tăng sứ đi tìm Kiều-phạm-ba-đề. Ngài Kiều-phạm-ba-đề hỏi [các vị tăng] về Phật và Hòa Thượng, các vị đáp rằng đều đã tịch diệt. Ngài [Kiều-phạm-ba-đề] liền nói: “Phật ra đời, ta ra đời; Phật trụ thế, ta trụ thế; nay Phật nhập diệt, ta cũng nhập diệt. Bốn dòng đạo đều chảy về chỗ ngài Ca-diếp.” Nói rồi đọc kệ:

Voi lớn đi rồi, voi con theo.
Thế Tôn, Hòa Thượng đã diệt độ,
Ta nay còn ở lại làm gì?

Đây là theo đệ nhất nghĩa tất đàn.

Lược giải theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng việc ở trong vườn trên cõi trời là thị hiện [nhân quả của] điều thiện, tướng trâu nhai lại là thị hiện [nhân quả của] việc ác.

Còn theo Thông giáo thì tuy có tướng nhai lại của trâu nhưng tự thân đắc đạo, đó là thị hiện việc xấu nhưng không phải xấu. Ở tại vườn cõi trời mà có tướng trâu nhai lại là thị hiện việc thiện mà không phải thiện.

Giải thích theo Biệt giáo là thị hiện cảnh giới trong thiện ngoài ác.

Giải thích theo Viên giáo là thị hiện tướng thật của thiện ác.

Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi bốn vô sở úy, làm bậc thánh chúa trụ yên, như đệ nhất nghĩa Ngưu Vương hiện dấu tích nơi cõi trời; tích là thị hiện Ngưu Si vui thích sống trên cõi trời.

Theo nghĩa quán tâm là quán lẽ trung đạo nơi tâm tánh, tức là quán như hình thể trâu chúa, bước đi an ổn, thân hình ngay thẳng thăng bằng, tật [xấu] chỉ như gió thoảng bên ngoài.

Ly-bà-đa

Ly-bà-đa (Revata), cũng đọc là Ly-việt-đa, Hán dịch là Tinh Tú, hoặc Thất Tú, hoặc Giả Hòa Hợp.[73] Kinh Văn-thù vấn[74] gọi [tên ngài] là Thường Tác Thanh.

Cha mẹ ngài cầu khẩn tinh tú có sự chiêu cảm mà sinh được ngài, nhân đó đặt tên là Tinh Tú. Tuy được xuất gia nhưng vẫn giữ theo tên tự khi còn tại gia, đó là Giả Hòa Hợp.

Có người dẫn Thích luận nói rằng: [“Có lần ngài] vào nghỉ tạm qua đêm trong một miếu hoang, gặp hai con quỷ đang tranh nhau một xác chết, chúng bảo ngài phân xử. Ngài nghĩ rằng dù có nói thẳng theo lý hay quanh co tránh né cũng đều không khỏi bị hại, nên cứ theo lẽ thật mà đáp. Con quỷ lớn liền bẻ hết chân tay của ngài, quỷ nhỏ lấy [chân tay] của xác chết gắn lại vào [cho ngài]. Bọn quỷ ăn xong hết [chân tay của ngài] rồi chùi miệng, bỏ đi. Ngài nhân đó sinh lo phiền, không thể biết được thân thể hiện còn là của ai, cho nên gọi là Giả Hòa Hợp.

[Về tên gọi] Thường Tác Thanh, là do nghi ngờ sự việc như thế, [thường suy nghĩ] nếu là thân của ta thì chính mắt đã thấy [quỷ] bẻ gãy [tay chân ăn mất rồi], còn nếu là thân [của xác chết] kia thì sao giờ [tay chân này] có thể theo ta cùng đi cùng đứng? Vì nghi hoặc do dự mãi như vậy nên mỗi khi gặp ai cũng đều hỏi: “Ông có nhìn thấy thân của tôi chăng?” [Thường hỏi như vậy] nên gọi là Thường Tác Thanh.

Chúng tăng [biết chuyện] nói: “Người này dễ độ.” Liền bảo ngài rằng: “Thân ông đó vốn là nhờ di thể của người khác mà có thôi, [không phải thật có.” Ngài nghe qua] liền chứng đạo. Đại lược là như vậy.

Kinh Tăng Nhất A-hàm nói rằng: “Tỳ-kheo Ly-việt-đa là bậc nhất trong việc tọa thiền nhập định, tâm không đảo không loạn.”

Nói theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng: “Chia chẻ phá trừ năm ấm, [thấy rõ] chẳng phải sở hữu của ta.”

Thông giáo giải thích rằng: “Thể đạt năm ấm vốn chẳng phải cái ta có.” Biệt giáo cho rằng, phân biệt mười pháp giới, trong đó năm ấm đều chẳng phải của ta.

Theo giải thích của Viên giáo thì đạt đến chỗ thấy được năm ấm không phải của ta, cũng không phải của người khác, đó là thấy được tướng thật của các ấm.

Hiểu theo bản tích thì bản vốn là đã trụ nơi Tam-muội Nhật Tinh Tú, tích là thị hiện có danh xưng như vậy.

Theo nghĩa quán tâm là quán tâm niệm Phật, thấy được chư Phật trong mười phương rất nhiều, như ban đêm thấy sao trên trời. Đại lược là như thế.

Tất-lăng-già-bà-sa

Tất-lăng-già-bà-sa (Pilindavatsa), Hán dịch là Dư Tập. Ngài vốn trải qua 500 đời sinh trong dòng bà-la-môn, tàn dư tập khí vẫn còn nên thường lộ vẻ cao ngạo. Một lần khi qua sông Hằng, ngài quát mắng [nữ thần sông Hằng]: “Con tiện tỳ, thôi đừng chảy nữa.” Nữ thần sông Hằng phải tách con sông chảy thành hai dòng [để tránh chỗ ngài đang đứng]. Sau đó, nữ thần sông Hằng đem chuyện này thưa lên Phật. Phật dạy ngài Tất-lăng-già-bà-sa phải sám hối tạ lỗi với thần sông. Ngài liền chắp tay nói với nữ thần sông Hằng: “Con tiện tỳ, thôi đừng giận nữa.” Đại chúng đều cười nhạo vì đã sám hối tạ lỗi mà hóa ra là mắng thêm lần nữa.

Đức Phật dạy: “Ông ấy thật không có tâm cao ngạo, chỉ vì tập khí gốc rễ vẫn còn nên biểu hiện ra như vậy mà thôi.”

Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Tỳ-kheo Tất-lăng-già-bà-sa là bậc nhất trong việc ngồi thiền khổ nhọc dưới gốc cây, mưa gió cũng không tránh đi.”

Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo nói rằng ngài đã dứt trừ sự kiêu mạn, không còn kiêu mạn. Theo Thông giáo thì nói rằng, chỗ kiêu mạn của ngài thật ra là không kiêu mạn. Biệt giáo thì giải thích rằng, ngài phân biệt được sự cao thấp trong mười pháp giới. Theo Viên giáo thì chân ngã đầy đủ tám tự tại, tức là đầy đủ Phật Pháp.

Giải thích theo bản tích thì bản là vốn đã trụ nơi thường, lạc, ngã, tịnh, chân ngã bát tự tại, với Phạm âm vi diệu, tích là thị hiện tâm kiêu mạn, lời nói xấu ác.

Giải thích theo quán tâm thì quán chiếu thấy được những lời nói thô ác hay êm dịu ngọt ngào cũng đều quy về đệ nhất nghĩa (ý nghĩa chân thật rốt ráo). Đại lược là như vậy.

Bạc-câu-la

Bạc-câu-la (Bakkula), Hán dịch là Thiện Dung, hoặc dịch ra các tên khác như Vĩ Hình, Đại Phì Thịnh, Nhu Nang, Lăng Đặng, Mại Tánh. Hình sắc diện mạo đoan chánh nên gọi tên là Thiện Dung. Suốt đời ngài không có bệnh, không chết yểu, sống đến 160 tuổi. Ngài được hưởng quả báo có năm điều bất tử, không thể chết. Người mẹ kế từng bỏ ngài vào nồi nung trên lửa, rồi nhận chìm trong nước, bị cá nuốt vào bụng, bị dao chặt, nhưng đều không chết. Do những kiếp trước ngài trì giới không sát sinh nên được như vậy, trong suốt 91 kiếp sống đều không bị chết yểu. Thuở xưa ngài từng cúng dường quả ha-lê-lặc cho một vị tăng [làm thuốc trị bệnh, nên được quả báo nhiều đời] thân thường không có bệnh.

[Về việc trì giới,] có thể giữ nghiêm một giới thì 4 giới khác đều được trang nghiêm.[75] Kiên trì không phạm giới nên không bị lửa, nước làm hại. Những người khác tuy cũng trì năm giới nhưng hủy phạm nhiều lần [nên chẳng được kết quả như ngài]. Đại lược là như vậy.

Ngài ưa thích những nơi tịch tĩnh nên thường ở chỗ vắng vẻ, không thích chỗ đông người, mắt không ưa thích chạy đuổi theo các màu sắc, tai chẳng ưa nghe những âm thanh thế gian, mũi chẳng ưa thích ngửi những mùi thơm hay không thơm của thế gian, lưỡi chưa từng vì người khác mà nói ra dù chỉ một hai câu, ý thường trong thiền định, không tán loạn. Thậm chí tháp thờ xá-lợi của ngài cũng chọn nơi vắng vẻ an tịnh. Khi vua A-dục đi đảnh lễ tháp của các vị A-la-hán, đến tháp của ngài liền nói kệ rằng:

Tự luyện trừ vô minh,
Với đời ít lợi ích.

Rồi vua dâng cúng 20 đồng bạc.

Kinh Tăng Nhất A-hàm [kể lại chuyện này có khác biệt,] nói rằng: “Vua dâng cúng một đồng tiền,[76] nhưng tiền ấy từ trong tháp bay trở ra, rơi trước chân vua. Các quan theo hầu đều kinh quái. Ngài ưa thích chỗ vắng vẻ, ít ham muốn, nên ngay cả tháp của Ngài cũng có thần lực như thế.”

Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Thọ mạng hết sức lâu dài, rốt lại không hề chết yểu, thường ưa thích nơi vắng vẻ, chẳng ở chung trong chúng, xét những phẩm tính này thì ngài Bạc-câu-la là bậc nhất.”

Theo giáo nghĩa thì dứt sự huyên náo nhập vào chân thật là nghĩa tịch tĩnh của Tạng giáo; ngay nơi chỗ huyên náo cũng tức là chân thật, đó là nghĩa tịch tĩnh của Thông giáo; lìa khỏi hai bên [huyên náo và chân thật] nhập vào trung đạo là nghĩa tịch tĩnh của Biệt giáo; ngay nơi hai bên [huyên náo và chân thật] đó tức là trung đạo, đó là nghĩa tịch tĩnh của Viên giáo.

[Theo nghĩa bản tích thì] bản là vốn trụ nơi định Đại tịch diệt; sống lâu là thường, không có bệnh là lạc, không chết yểu là ngã, tịch tĩnh là tịnh. Bản là vốn sống trong bốn phẩm đức [thường, lạc, ngã, tịnh] này, tích là thị hiện ra sáu căn tịch tĩnh.

[Theo nghĩa] quán tâm thì tánh của tâm là trung đạo, ngay nơi không đó tức là giả, cũng tức là trung, đó là quán thường, lạc, ngã, tịnh.

Ma-ha-câu-hy-la

Ma-ha-câu-hy-la (Mahākauṣṭhila), [cũng gọi là Câu-hy-la,] Hán dịch là Đại Tất,[77] là cậu của ngài Xá-lợi-phất. Thông thường mỗi khi tranh luận với chị mình thì ông đều thắng, nhưng khi người chị mang thai [ngài Xá-lợi-phất] thì ông không thắng được nữa, liền nghĩ rằng đứa trẻ còn trong thai mà [ảnh hưởng đến] biện tài [của mẹ] như vậy thì khi sinh ra [hẳn còn tài ba không biết đến dường nào? Vì sợ sau này tranh luận không thắng được người cháu nên ông] tức thời rời khỏi nhà đi đến miền Nam Ấn Độ [để học hỏi thêm]. Khi ông [khởi sự] đọc 18 bộ kinh thì người thời bấy giờ đều cười nhạo, [nói rằng] nhiều kiếp còn khó thông suốt được [18 bộ kinh ấy, huống chi] một đời mà muốn học xong. Ông thấy vậy tự than rằng: “Khi ở nhà thì tranh luận đã phải thua chị, nay ra khỏi nhà thì bị người cười chê.” Từ đó ông thề chuyên tâm đọc sách không ngừng nghỉ, móng tay dài cũng không có thời gian rảnh để cắt, cho nên người đời gọi là Phạm chí Trường Trảo.[78]

Sau khi học xong, ông trở về nhà hỏi về ngài Xá-lợi-phất thì mọi người nói đã theo làm đệ tử Phật. Ông liền khởi tâm kiêu mạn, nghĩ rằng: “Cháu ta khi mới 8 tuổi mà đã nổi danh khắp năm vùng Ấn Độ,[79] sa-môn kia có đạo thuật gì mà dụ dỗ được con của chị ta?”

Ông liền đi đến chỗ Phật [nghe thuyết pháp], suy nghĩ hồi lâu nhưng trong tâm chẳng thâm nhập được bất cứ pháp nào, liền hỏi Phật: “Hết thảy các pháp đều không nhẫn. Vì nhẫn nghĩa là an ổn, [nay Phật lại nói] rằng “hết thảy các pháp ta đều có thể phá trừ”, đó là làm cho không an ổn. [Tôi] nói rằng ‘hết thảy các pháp đều không nhẫn.’”

Đức Phật hỏi: “Chỗ thấy của ông có phải là nhẫn không? [Lập luận như ông thì] hai đường đều thua. Nếu nói ‘chỗ thấy của tôi nhẫn’ thì [mâu thuẫn với] trước đã nói ‘hết thảy các pháp đều không nhẫn’. Nếu nói ‘chỗ thấy của tôi không nhẫn’ thì chẳng có gì để hơn Phật.”

Câu-hy-la liền cúi đầu [bái phục], ngay đó được pháp nhãn thanh tịnh. Ngài Xá-lợi-phất đứng hầu bên cạnh nghe Phật biện luận với cậu liền chứng quả A-la-hán.

Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Đạt được bốn biện tài, gặp câu hỏi khó có thể trả lời, [những việc như vậy] thì Câu-hy-la là bậc nhất.”

Vị thiên vương ở phương nam là Tỳ-lưu-bặc-xoa[80] thường hiện đến theo hầu cận ngài.

Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo giải thích bốn biện tài là về ngoại điển thông hiểu bốn bộ Vi-đà,[81] về nội điển thông hiểu Tam tạng kinh điển. Theo Thông giáo thì [như trong kinh Duy-ma-cật, thiên nữ nói:] “Ta không có chỗ chứng đắc nên mới biện luận được như vậy.” Theo Biệt giáo thì biện tài là dù tên gọi hay ý nghĩa cũng đều biến hiện khắp mười pháp giới. Theo Viên giáo thì biện tài là nương theo thật tướng trong tất cả biện luận.

Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ nơi khẩu mật,[82] khẩu luân,[83] không thể nghĩ bàn, từ đó hóa thành đại định, đại trí tuệ; tích là thị hiện ra ngài Đại Tất, tức Câu-hy-la.

Theo nghĩa quán tâm thì quán ngay nơi tâm đó tức là không, tức là định, tức là giả, tức là tuệ, vốn đã trang nghiêm tự tâm. Đại lược là như vậy.

Nan-đà

Nan-đà, cũng gọi là Phóng Ngưu Nan-đà,[84] Hán dịch là Thiện Hoan Hỷ, cũng dịch là Hân Lạc. Khi vua Tịnh Phạn ép buộc 100.000 người họ Thích xuất gia theo Phật thì ngài là một trong số đó.[85] Có vị thầy nói đây là tỳ-kheo Bạt-nan-đà được nói đến trong Luật tạng.[86]

Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo nói [tên ngài] là hoan hỷ về sự, không hoan hỷ về lý. Theo Thông giáo giải thích thì ngay nơi hoan hỷ về sự tức là hoan hỷ về lý. Theo Biệt giáo thì đó là Hoan hỷ địa. Theo Viên giáo là Hoan hỷ trụ.

Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi chân thật, chẳng phải vui cũng chẳng phải không vui; tích là thị hiện ra tên gọi Hoan Hỷ. Theo nghĩa quán tâm thì quán tâm với lý, hình tướng sẽ tự phù hợp theo, nên gọi là quán hoan hỷ.

Tôn-đà-la Nan-đà

Tôn-đà-la Nan-đà (Sundara-nanda), Hán dịch là Hảo Ái, cũng dịch là Đoan Chánh. Nan-đà thì ý nghĩa như trước đã nói. Về dòng họ thì giống như ngài A-na-luật, đã nói ở trước.[87]

Ngài sinh vào ngày mồng 9 tháng 4, thân hình thấp hơn đức Phật bốn lóng tay,[88] hình dung cử chỉ vượt trội hơn người, khác hẳn người thường. Mỗi khi ngài đi vào trong chúng, có người không biết lầm tưởng là đức Phật đến.[89]

Trong bộ Luật Di-sa-tắc nói: “Ở nước Ma-kiệt-đà có một ngoại đạo lõa thể cực kỳ thông minh, người trong nước đều xưng là bậc trí tuệ, hiểu biết rộng. Ông cùng với ngài Xá-lợi-phất tranh luận, đuối lý không nói được gì nữa liền khởi sinh tâm lành, muốn xuất gia theo học Phật pháp. Lại gặp ngài [Tôn-đà-la] Nan-đà, thấy hình sắc dung mạo đẹp đẽ khác thường nên tấm tắc khen rằng: “Tỳ-kheo thấp bé [như Xá-lợi-phất] mà trí tuệ còn khó lường, huống hồ hình tướng uy nghi rực rỡ như vị này!” Ngài Nan-đà nhân đó liền độ cho xuất gia.

[Khi chưa xuất gia,] vợ ngài là cô Tôn-đà-lợi cực kỳ xinh đẹp, [hai vợ chồng] khi ăn khi nghỉ đều chẳng rời nhau. Một hôm đức Phật cùng ngài A-nan trên đường đi khất thực đến trước nhà Nan-đà, gặp lúc ngài đang cùng vợ ngồi ăn trên lầu cao, liền đứng dậy đi ra trước cửa nghênh đón Phật. Người vợ nói: “Em đợi anh trở lại cùng ăn nhé!” Nan-đà ra đón, bạch Phật rằng: “Ngài là dòng tộc Chuyển luân vương, sao phải tự hạ mình [đi xin ăn].”[90] Nói rồi cầm lấy bình bát của Phật đi vào lấy cơm. Ngay khi ấy đức Phật [không chờ lấy bình bát mà] quay trở lại vườn Ni-câu-loại,[91] dặn ngài A-nan bảo Nan-đà phải mang bình bát đựng cơm đến chỗ Phật.

Ngài A-nan truyền lại lời Phật dạy, nên Nan-đà phải mang cơm đến dâng lên Phật. [Khi Nan-đà đến vườn Ni-câu-loại rồi,] Phật ra lệnh cạo tóc [cho Nan-đà]. Nan-đà cung nắm tay lại dọa người cạo tóc: “Chớ có chạm dao trên đỉnh đầu vua Diêm-phù-đề.”[92] Đức Phật thúc giục không cho dừng lại, cuối cùng cũng cạo hết tóc.

Hôm sau, đức Phật cùng với 500 vị tỳ-kheo đi thọ thỉnh cúng dường, Nan-đà xin được ở lại tinh xá, có ý muốn nhân đó trốn về nhà. Đức Phật dạy phải đóng cửa quét đất cho sạch. Nan-đà đóng cửa phía nam thì cửa phía bắc tự nhiên mở, nên quét sạch chỗ này lại dơ chỗ kia, [quét mãi không xong], nhưng sợ [đã đến giờ] Phật quay về nên vội vã trốn chạy về nhà.

Giữa đường gặp Phật, ông liền trốn sau gốc cây, [đức Phật dùng thần lực làm cho] cây ấy bay lên không trung, không còn chỗ nấp. Phật nhìn thấy ông, liền bảo quay về tinh xá. Phật hỏi duyên cớ vì sao trốn về, Nan-đà đáp: “Hôm qua chia tay, vợ con vẫn còn chờ trở về để cùng ăn cơm. Nay con nhớ vợ quá nên muốn về.”

[Sau đó để hóa độ Nan-đà,] Phật đưa ông lên các cung trời và xuống các địa ngục...[93] Đại lược là như vậy. [Do những việc trên] nên có nêu tên vợ trong tên của ngài.[94]

Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng trong Tục đế còn có niềm vui đúng pháp, còn chân đế thì không có tâm vui mừng. Thông giáo nói: “Ngay nơi niềm vui thế tục đó cũng tức là niềm vui chân thật.” Theo Biệt giáo thì từ nơi pháp hỷ của Thông giáo mà có tục pháp hỷ, có trung pháp hỷ. Theo Viên giáo thì ngay nơi pháp hỷ của Thông giáo đã có đầy đủ hết thảy pháp hỷ.

[Giải thích theo] bản tích và quán tâm thì giống như phần trước. Đại lược là như vậy.

Phú-lâu-na

Phú-lâu-na (Pūrṇa),[95] Hán dịch là Mãn Nguyện. Di-đa-la dịch là Từ, chữ ni [trong Phạn ngữ] là nữ [tính].

Cha ngài đến sông Mãn lập đàn cầu đảo với Phạm thiên để mong được sinh con, gặp đúng lúc nước sông dâng đầy, lại mộng thấy vật chứa bằng bảy món báu đựng đầy châu báu bay vào lòng người mẹ. Rồi khi người mẹ mang thai ngài, bao nhiêu ý nguyện của người cha đều được thỏa mãn. Từ việc được toại nguyện như vậy nên đặt [tên con] là Mãn Nguyện.

Mẹ ngài tên là Di-đa-la-ni (Maitrāyaṇī), Hán dịch là Từ Hạnh, cũng dịch là Tri Thức. Trong bốn bộ Vệ-đà có một phẩm mang tên này, người mẹ thường tụng đọc nên lấy đó làm tên. Chữ ni [trong Phạn ngữ] để chỉ nữ tính, gọi chung những gì thuộc về nữ là “ni”, thuộc về nam là “na”.[96] Do người mẹ tên Từ sinh ra nên gọi tên là Từ tử (con của bà Từ).

Kinh Tăng Nhất A-hàm[97] [chép lại lời ngài nói]: “Cha tôi tên Mãn, mẹ tôi tên Từ, nên những người tu Phạm hạnh gọi tôi là Mãn Từ tử.” Đây là do cả hai duyên tên cha và tên mẹ hợp lại để thành tên, nên gọi là Mãn Từ tử.

Cha ngài[98] thông hiểu kinh sách, cả nội điển, và ngoại điển, không có việc gì không rõ biết. Vì hiểu biết đầy đủ nên gọi tên là Mãn.

Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Mãn Nguyện tử là bậc nhất trong việc khéo léo rộng thuyết phân biệt nghĩa lý.” Phần sau còn nói: “[Ngài là] bậc nhất trong những người thuyết pháp.” Bậc nhất ở đây là chỉ ngài Mãn Từ tử.

[Sau khi tu tập thành tựu, ngài] muốn trở về quê nhà để [giáo hóa] làm lợi ích [cho người dân].

Đức Phật hỏi: “[Người dân] xứ ấy tệ ác lắm, ông làm sao [giáo hóa]?”

Ngài đáp: “Con sẽ tu hạnh nhẫn nhục. Nếu họ hủy báng, nhục mạ thì con sẽ tự thấy mình may mắn vì không bị họ dùng tay đánh đấm. Nếu bị họ dùng tay đánh đấm, con sẽ thấy cũng còn may mắn vì chưa bị họ đánh bằng gậy gộc. Nếu bị họ đánh bằng gậy gộc, con sẽ thấy mình còn may mắn vì chưa bị họ dùng dao đâm chém. Nếu bị đâm chém thì con sẽ thấy mình may mắn vì lìa bỏ được [cái thân là] món đồ chứa đựng năm ấm độc hại.”

Như vậy là thực hành nhẫn nhục trọn vẹn, cho nên gọi tên ngài là Mãn.

Trong kinh Thất xa nói,[99] ngài được Đại trí Xá-lợi-phất ngợi khen xưng tán rằng: “Những người tu Phạm hạnh nên quấn y đội đầu tôn kính lễ bái hiền giả. Được gặp hiền giả thật là lợi ích lớn lao.” Đó là xưng tán đầy đủ, cho nên gọi tên ngài là Mãn.

Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo giải thích về “nguyện mãn” là chuyên cần phân tích giáo pháp, mọi việc cần làm đều đã làm xong. Thông giáo thì cho rằng “nguyện mãn” là thấu đạt đến chỗ hết thảy các pháp đều không, ngay nơi pháp không đó được chứng đắc. Theo Biệt giáo thì “nguyện mãn” là đạt được Pháp nhãn đầy đủ. Theo Viên giáo thì “nguyện mãn” là trụ nơi tạng bí mật.

Giải thích theo bản tích thì bản nguyện vốn đã từ lâu trọn đủ, hình tích biểu hiện là thuyết pháp bậc nhất, thị hiện làm bậc tri thức của chúng sinh.

Theo nghĩa quán tâm thì như trong chỉ quán, quán người có hạnh và lý như nhau là bậc thiện tri thức.

Tu-bồ-đề

Tu-bồ-đề (Subhūti), Hán dịch là Không Sinh.[100] Vào lúc ngài sinh ra thì trong nhà tất cả kho chứa, đồ đựng... đều tự nhiên trống rỗng không có gì. Người nhà hỏi thầy chiêm bốc thì được bảo rằng đó là điềm tốt. Nhân từ chỗ trống không mà sinh ra nên đặt tên là Không Sinh. Do nơi y báo hết thảy vật chứa đều hiện điềm lành rỗng không, nên lấy [không] gọi tên chánh báo.[101] Y báo và chánh báo đều tốt lành, cho nên gọi là Không Sinh.

Ngài thường tu Không hạnh nên cũng gọi tên là Thiện Nghiệp. Những ai cúng dường cho ngài đều được quả báo tốt đẹp ngay trong hiện tại, nên gọi tên ngài là Thiện Cát.

Ngài thường ưa thích ở nơi rừng vắng, hang đá, những chỗ yên tĩnh vắng lặng. Chỗ tu hành của ngài lấy hạnh quán không làm căn bản, thường nhập Không định, trụ yên nơi Tam-muội Vô tránh. Ngài vui giảng thuyết pháp không, mỗi khi có chỗ tuyên thuyết biện luận đều phân biệt nghĩa không.

Ngài thường giúp đỡ, bảo hộ chúng sinh, không để khởi sinh sự ngăn ngại, như với người không thích đi thì đứng, với người không thích đứng thì đi, [luôn tùy thuận chúng sinh như vậy].

Khi Phật từ cung trời Đao-lợi vừa về lại cõi này, khắp nơi đông đảo mọi người đều tranh nhau đến đảnh lễ trước. Ngài ngồi yên trong hang đá, quán niệm các pháp đều không, [cho nên] hình sắc không phải Phật, [các ấm khác như thọ, tưởng, hành,] cho đến thức cũng không phải Phật; con mắt không phải Phật, [các căn khác như tai, mũi, lưỡi, thân] cho đến ý cũng không phải Phật. [Quán xét như vậy rồi liền] hốt nhiên chứng ngộ.

[Khi ấy,] đức Phật bảo Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc: “Con không phải là người đảnh lễ ta trước nhất. Con chỉ đảnh lễ được sắc thân ta, Tu-bồ-đề thì đã gặp được pháp thân của ta trước rồi.”[102]

Theo giáo nghĩa thì tự diệt [sự bám chấp] hình sắc nên trí tuệ về tánh không sinh khởi, thấu hiểu về sắc nên trí tuệ về tánh không sinh khởi. Từ trí tuệ về hiện hữu khởi sinh trí tuệ về tánh không. Từ trí tuệ về tánh không khởi sinh trí tuệ trong Tục đế. Từ trí tuệ Tục đế khởi sinh trí tuệ Trung đạo. Theo Viên giáo thì [nhận thức về] tánh không khởi sinh tức là có trí tuệ, tức là khởi sinh trí tuệ về tánh không. Như [ngài Tu-bồ-đề] hiện nay là sinh khởi trí tuệ về tánh không theo Viên giáo. Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi tướng thật của pháp thân, tích là thị hiện thấy tất cả đều không mà sinh ra.

Theo nghĩa quán tâm thì [pháp thân] chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, chẳng phải ở giữa, cũng không tự hiện hữu. Đây là pháp thân theo nghĩa quán tâm.

A-nan

A-nan, Hán dịch là Hoan Hỷ, hoặc Vô Nhiễm. Vua Tịnh Phạn mong muốn thái tử [Tất-đạt-đa] làm bậc Kim Luân [Thánh Vương] cai trị đất nước, [nhưng thái tử] bỗng dưng từ bỏ [việc nối ngôi cai trị] đất nước, khiến cho đức vua đau buồn lo lắng khôn nguôi. [Khi ấy], ma hiện đến nói dối rằng “con ông đã chết rồi”. Nhà vua khóc than rằng: “Lời nói của A-di[103] không đúng, điềm lành cũng không ứng nghiệm.” Lúc đó lại có chư thiên hiện đến bảo rằng: “Con ngài đã thành Phật.” Nhà vua trong lòng nghi ngờ chưa tin, không bao lâu lại có tin báo: “Đêm qua đất trời chấn động, thái tử đã thành Phật.” Nhà vua hết sức vui mừng. [Bấy giờ], vua Bạch Phạn[104] tâu rằng: “Hạ thần vừa sinh đứa con trai, gặp lúc cả nước đều vui mừng.” Nhân đó liền đặt tên là Hoan Hỷ. Đây là tên do cha mẹ đặt.

Ngài A-nan hình dung tướng mạo đoan chánh, ai gặp cũng thấy vui. [Sau khi xuất gia], Phật dạy phải đắp y che vai.[105] [Chuyện kể rằng] có một cô gái dắt theo đứa trẻ đến giếng lấy nước, thấy ngài A-nan [đi ngang qua] thì nhìn theo chăm chăm không chớp mắt, không còn biết gì chung quanh, đến nỗi quấn sợi dây [kéo nước] vào cổ đứa trẻ [thay vì vào trục kéo nước].

Kinh Trung A-hàm nói rằng: “Bốn chúng[106] khi được nghe ngài A-nan giảng thuyết, dù đông người hay ít người, tất cả đều vui thích. Trước khi muốn nêu câu hỏi gì thì cũng đều nở nụ cười tươi, khiến cho đại chúng thảy đều hoan hỷ. Bốn chúng cũng luôn hoan hỷ khi nhìn thấy ngài, dù trong lúc im lặng hay khi đi, đứng, nằm, ngồi hoặc những lúc sai khiến, phân xử, cũng như trong mọi hành vi, cử động.

Ngài A-nan sinh ngày mồng 8 tháng 4,[107] cùng ngày Phật thành đạo, làm thị giả Phật được 25 năm. Theo đó suy ra, lúc đức Phật 55 tuổi, ngài A-nan 25 tuổi, Phật muốn tìm người làm thị giả, 500 vị tỳ-kheo đều thỉnh ngài A-nan làm như đã nói ở phần trước.[108] [Cuối cùng] ngài A-nan thuận theo lời khuyên của đại chúng, 500 vị tỳ-kheo đều vui mừng.

Ngài Mục-kiền-liên đề đạt [lên với Phật] ba điều thỉnh nguyện của ngài A-nan.[109] Phật dạy: “[A-nan] phòng ngừa trước sự ganh ghét [của người khác] nên xin được không nhận y cũ [của Như Lai], không cùng đi thọ thỉnh cúng dường với Như Lai. Lại vì muốn tự mình làm lợi ích [cho bốn chúng] nên xin được vào ra [chỗ của Phật] bất kỳ lúc nào.”[110] Phật đồng ý cho phép [cả ba điều].

Phật lại nói: “A-nan vượt trội hơn các thị giả [của chư Phật] trong quá khứ. Các thị giả trong quá khứ nghe [Phật] thuyết rồi mới hiểu, ngày nay Phật còn chưa nói ra thì A-nan đã rõ ý Như Lai. Những việc nên làm hay không nên làm, [A-nan] đều rõ biết.” Cho nên đức Như Lai hoan hỷ đem Chánh pháp giao phó cho A-nan.

Bốn vị Thiên vương mỗi vị đều dâng cúng lên Phật một bình bát [bằng đá quý]. Phật để chồng tất cả lên rồi ấn xuống liền hóa thành một bình bát duy nhất có bốn đường gờ trên mép rõ ràng, nên bình bát này rất nặng.[111] A-nan hoan hỷ mang [bình bát này theo hầu Phật] không nề mệt nhọc. Trung A-hàm, quyển 7 nói rằng: “A-nan làm thị giả theo hầu Phật 25 năm, nghe qua 80.000 bài kệ[112] đều tụng lại được không sót bài nào, không phải hỏi lại [Phật] một câu nào, luôn hoan hỷ gắng sức ghi nhớ.”

A-nan theo hầu Phật, vào các cung điện của vua chúa, chư thiên, long vương, nhìn thấy các cung nữ, thiên nữ, long nữ [cực kỳ xinh đẹp] mà tâm không hề nhiễm ô bám chấp, tuy chưa dứt hết được tư hoặc nhưng vẫn có thể [giữ tâm] không nhiễm ô bám chấp, nên hết thảy chư thiên, loài người, loài rồng, thần [được gặp ngài] đều hoan hỷ.

Sau khi đức Phật diệt độ trên giường sư tử,[113] ngài Ca-diếp và đại chúng xưng tán rằng:

Mặt như trăng tròn đẹp,
Mắt như hoa sen xanh.
Phật pháp như biển lớn,
Chảy vào tâm A-nan.[114]

Ngài tự thệ nguyện sẽ ngồi mà nhập Niết-bàn. [Vào lúc ngài sắp nhập Niết-bàn,] dừng lại thì sợ người Ly-xa oán hận, đi tới nữa thì sợ vua A-xà-thế oán hận,[115] ngài liền [bay lên] ở giữa sông Hằng nhập Tam-muội Phong phấn tấn,[116] [tự thiêu thân] rồi phân chia [xá-lợi] thành bốn phần, một phần cho chư thiên, một phần cho long cung, một phần cho nước Tỳ-xá-ly và một phần cho vua A-xà-thế.

Khi vua A-dục lễ tháp [thờ xá-lợi] của ngài A-nan, dâng cúng ngàn vạn lượng vàng và đọc kệ xưng tán rằng:

Pháp thân nhờ ngài được giữ gìn,
Đèn pháp thắp sáng, pháp trụ thế.
Ghi nhớ lời Phật như biển lớn,
Nên con nay thiết lễ cúng dường.

Nghe nhiều, ghi nhớ và gìn giữ,
Nên miệng nói ra lời vi diệu.
Thế Tôn từng ngợi khen, tán thán.
Trời, người hai cõi đều kính yêu.

Kinh Tăng Nhất A-hàm nói:

Biết thời điểm thích hợp,
Sáng suốt hiểu sự vật,
Đường tu không nghi ngại,
Chỗ ghi nhớ không quên,
Nghe nhiều thấu hiểu rộng,
Kính vâng giữ Chánh pháp,
A-nan là bậc nhất.

Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo gọi là A-nan Hoan Hỷ, Thông giáo gọi là A-nan [Hoan Hỷ] Hiền, Biệt giáo gọi là A-nan Điển Tạng, Viên giáo gọi là A-nan [Hoan Hỷ] Hải.

Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi chỗ chẳng phải hoan hỷ, chẳng phải không hoan hỷ, Pháp thân vốn như hư không, trí tuệ như mây mưa [giữa hư không], có thể giữ gìn, có thể thọ nhận, còn tích là thị hiện ra [ngài A-nan] Hoan Hỷ.

Theo nghĩa quán tâm cũng tương tự, ngay nơi không tức là giả, tức là Trung đạo, thảy đều tương ưng. Đó là hoan hỷ theo nghĩa quán tâm, cho đến quán chân thật cũng tương ưng.

La-hầu-la

La-hầu-la (Rāhula), Hán dịch là Phú Chướng. Do thuở xưa lấp hang chuột, lại [có nơi nói là do khi làm vua,] trong sáu ngày không thăm viếng cúng dường một [tiên nhân] bà-la-môn, [khiến vị ấy phải chịu đói khát, nên chịu quả báo phải ở trong thai mẹ sáu năm]. Do duyên cớ như vậy nên gọi là Phú Chướng.

Khi thái tử [Tất-đạt-đa] xin được xuất gia, vua cha không cho phép, ngài vẫn theo nài nỉ không thôi. Vua [Tịnh Phạn] nói: “Nếu sinh con, sẽ cho phép xuất gia. Bồ Tát [thái tử] liền chỉ vào bụng vương phi [Da-du-đà-la] và nói: “Sáu năm nữa nàng sẽ sinh một đứa con trai.” Vì ở trong thai mẹ sáu năm nên gọi là Phú Chướng.

Ngài Chân Đế Tam Tạng nói: “La-hầu vốn tên là Tu-la, [loài a-tu-la] có thể dùng tay che ánh sáng mặt trời, mặt trăng, lẽ ra nên dịch là Chướng [Nhật] Nguyệt.”

Phật nói: “Pháp của ta như mặt trăng, đứa bé này gây chướng ngại việc xuất gia của ta. Nhiều đời gây chướng ngại, ta nhiều đời đều có thể xả bỏ, nên gọi tên là Phú Chướng.”

Sau khi Phật xuất gia, [sáu năm sau mọi người mới biết] Da-du-đà-la có thai.[117] Người trong họ Thích đều tức giận, [nghi ngờ không biết] do đâu mà có đứa con này? Kẻ muốn trừng trị, người muốn giết bỏ, tiếng xấu lan truyền khắp nơi. Người bảo nữ[118] là Cù-tỳ-la đứng ra làm chứng[119] nhưng cũng không thay đổi được gì. Do vậy, [mọi người] liền đốt một hầm lửa [để chuẩn bị ném Da-du-đà-la vào. Khi ấy, Da-du-đà-la] liền phát lời thệ nguyện lớn: “Nếu tôi có gì sai trái thì xin mẹ con đều chết, còn nếu như [đứa con này] đúng thật là [của thái tử để lại] thì xin trời chứng giám.” Nói rồi ôm con nhảy vào hầm lửa, hầm lửa lập tức biến thành hồ sen, có hoa sen nâng đỡ cả hai mẹ con nàng. [Khi ấy,] vua [Tịnh Phạn] và người dân trong nước mới không còn nghi ngờ.

Về sau, khi Đức Phật trở lại quê hương, Da-du-đà-la sai La-hầu-la dâng loại thuốc viên hoan hỷ lên Phật.[120] La-hầu-la vì nhỏ tuổi chưa hiểu biết nên băng ngang trước mặt đại chúng đi thẳng đến chỗ Phật dâng lên. Da-du-đà-la nhân đó dứt sự chê bai. Bị chê bai vì có con nên mới gọi tên con là Phú Chướng.

Vua [Tịnh Phạn khi ấy] hoan hỷ, tuy mất đứa con [không nối ngôi vua] nhưng nay lại được đứa cháu này sẽ là bậc Kim Luân [Thánh vương], nên chẳng có gì buồn giận. Trong lòng vua suy nghĩ khi cháu lớn lên kỳ vọng sẽ có các món báu hiện đến.[121]

Nhưng rồi đức Phật xin cho La-hầu-la xuất gia. Vua Tịnh Phạn không đồng ý. Da-du-đà-la vội dắt La-hầu-la [đi tránh] lên lầu cao, ngài Mục-kiền-liên bay lên hư không đón xuống. Phật liền độ La-hầu-la xuất gia và giao cho ngài Xá-lợi-phất nhận làm đệ tử. Đã xuất gia rồi thì ngôi vua cũng mất, cho nên nói là Phú Chướng.

La-hầu-la ở độ tuổi sa-di nhiều lần thích nói dối. Khi có vua chúa, đại thần, bà-la-môn, cư sĩ đến xin gặp Phật thì La-hầu-la nói dối là Phật đi vắng, khiến cho rất nhiều người không được gặp Phật. Đó là gây chướng ngại cho người khác, lại phạm tội nói dối. Đức Phật liền quở trách. [Một hôm] Phật đi về, sai La-hầu-la lấy nước rửa chân. Phật dùng chân hất chậu đựng nước úp lại rồi ngửa ra, ba lần như vậy, sau đó lại úp chậu xuống đất và bảo La-hầu-la rót nước vào. La-hầu-la thưa: “Chậu úp, rót nước vào không thể giữ lại.” Phật dạy: “Con [thường nói dối nên] cũng giống như cái chậu úp này, ở trong Phật pháp nhưng nước Pháp rót vào không thể giữ lại. Nay con phải nói lời chân thật, đừng nói dối nữa.”

Sau đó, [La-hầu-la] nỗ lực chuyên cần tu tập nhưng không chứng quả, liền thưa hỏi Phật. Phật hỏi: “Con đã vì người khác giảng thuyết về năm ấm hay chưa?” La-hầu-la đáp: “Dạ chưa.” Phật dạy: “Nên vì người khác thuyết giảng như vậy.”

[La-hầu-la theo lời dạy] thuyết pháp rồi [vẫn chưa chứng quả,] lại đến thưa hỏi. Phật dạy: “Con đã thuyết giảng về mười hai nhập hay chưa? Đã thuyết giảng về mười tám giới hay chưa? Thuyết pháp là pháp môn để chứng đắc đạo quả, nếu muốn chứng đắc đạo quả thì nên vì người khác thuyết pháp.”

Vì ngài [La-hầu-la] rộng thuyết giáo pháp rồi sau đó mới [tự mình] đắc đạo, nên gọi là Phú Chướng.

Sau khi chứng đắc đạo quả rồi liền dứt trừ hết thảy kiến phiền não và ái phiền não.[122] Chấm dứt sự tái sinh trong ba cõi nên gọi là Phú Chướng. Do đã dứt sự tái sinh trong ba cõi, dù nguyện lực cũng không thể lôi kéo nên gọi là Phú Chướng.

Đức Phật khuyên bốn vị Đại A-la-hán[123] không nên diệt độ sớm, hãy đợi đến khi nào Phật pháp đã dứt mất. Do vậy ngài La-hầu-la vẫn còn ở lại duy trì Chánh pháp, cho đến nay vẫn chưa vào Niết-bàn vô dư, cho nên nói là Phú Chướng. Đại lược là như vậy.

Theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng, phân tích suy xét giáo pháp đạo đế nên ngăn trở được bốn trụ địa.[124] Theo Thông giáo thì thể nhập, thấu hiểu giáo pháp đạo đế nên ngăn trở được bốn trụ địa. Theo Biệt giáo thì tuần tự tu tập[125] chứng đắc ba trí[126] nên ngăn trở được năm trụ địa.[127] Theo Viên giáo thì “nhất tâm tam trí”, tức trong một tâm đồng thời chứng đắc cả ba trí nên ngăn trở được năm trụ địa.

Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi trung đạo ngăn lấp cả hai bên,[128] [tích là thị hiện có mười ngăn chướng], tám loại chướng ngăn trở Niết-bàn, một loại ngăn trở [khiến phải đi vào] sinh tử, một loại không ngăn sinh tử, không ngăn Niết-bàn, mà ngăn [nhập] Vô dư [Niết-bàn].[129]

Về ý nghĩa quán tâm thì có thể giải thích như trước. Đại lược là như vậy.

6. Kết lại

KINH VĂN

Đó là các vị đại A-la-hán được nhiều người biết đến.

Những vị như nêu trên được tôn xưng là “chúng sở tri thức” (眾所知識), nghĩa là mọi người đều biết đến. Hoặc có người nói “tri” cũng là “thức”, hoặc có người nói nghe danh là “tri”, được gặp gỡ, nhìn thấy gọi là “thức”, hoặc nói nhìn thấy hình thể là “tri”, rõ biết trong tâm là “thức”.

Theo nghĩa bản tích thì bản là vốn đã vì chúng sinh làm bậc tri thức rốt ráo, tích [là phương tiện] thị hiện làm bậc tri thức quyền thừa.[130] Đại lược là như vậy.

Tri thức quán hạnh thì giống như trong chỉ quán.

Phần trên đã nói về [các vị Thanh văn] được nhiều người biết đến. Tiếp theo sẽ nói về những vị được ít người biết đến.


_____________________________________________________

CHÚ THÍCH

[1] Mộc Qua lâm (木瓜林): rừng Mộc Qua. Từ điển Phật Quang giải thích rằng nhà ngài ở gần khu rừng này nên lấy đó làm tên gọi.

[2] Hà (河) hoặc Giang (江) đều có nghĩa là con sông. Từ điển Phật Quang giải thích rằng nhà ngài ở gần sông nên gọi tên như vậy.

[3] Nguyên tác là sát trụ (剎柱), chỉ phần trụ cột chính để xây dựng tháp thờ Phật, nên cũng được dùng chỉ chung kiến trúc tháp thờ Phật. Về sau chữ này dùng chỉ cây cột cờ dựng trước sân chùa hay thiền viện, cũng gọi là sát can (剎竿). Từ điển Phật Quang bản Việt dịch, không biết vì sao chỉ chuyển dịch nghĩa này, không có nghĩa chính ở trước, là nghĩa phù hợp ở đây.

[4] Vua Bình Sa (Bình Sa vương) tức vua Tần-bà-sa-la (Bimbisāra), cai trị nước Ma-kiệt-đà (Magadha) vào thời đức Phật.

[5] Ưu-lưu-tỳ (優留毘), tức ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp.

[6] Bốn chúng ở đây nghĩa là bốn chúng xuất gia, gồm tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, sa-di, sa-di ni, bởi vì hai chúng cư sĩ nam và cư sĩ nữ thì không phải đối tượng có thể nhận cúng dường.

[7] Bốn sự thiết yếu: bao gồm thức ăn, y phục, thuốc mên trị bệnh và chỗ ngủ nghỉ.

[8] Đề-hồ là món ăn ngon nhất và quý nhất được làm ra từ sữa. Kinh Phật thường dùng năm món được làm từ sữa để ví dụ với các tầng bậc giáo pháp từ thấp lên cao, như sữa tươi (nhũ) là căn bản nhất, tiến lên nữa là sữa đặc (lạc), tiếp theo là váng sữa sống (sinh tô), rồi đến váng sữa chín (thục tô) và cuối cùng cao quý nhất là đề-hồ.

[9] Các đoạn giải thích này đều lấy theo ý nghĩa tên gọi của ba vị Ca-diếp như đã dịch trên là Lâm (rừng), Hà (sông, nước) và Thành (thành quách).

[10] Về cách dịch Thân tử, Từ điển Phật Quang cho rằng các vị Cựu dịch có thể đã nhầm lẫn chữ śarī (xá-lợi) là tên loài chim thu có đôi mắt đẹp, với chữ śarīra (xá-lợi-la) có nghĩa là thân thể.

[11] Sinh kinh (生經), do ngài Trúc Pháp Hộ (竺法護) dịch vào đời Tây Tấn. (ĐCT, T3, 154) Phần trích dẫn ở đây là quyển 2, kinh 12: Phật thuyết Cữu Sinh Kinh (佛說舅甥經) (Phật thuyết Câu chuyện hai cậu cháu). Văn Cú kể chuyện này tóm tắt rất khó hiểu vì thiếu nhiều chi tiết. Chúng tôi tôi căn cứ nguyên tác kinh văn để bổ sung các chi tiết cho rõ nghĩa phần này.

[12] Điều-đạt, tức Đề-bà-đạt-đa.

[13] Nguyên tác là “鐵鍱其腹頭戴火冠 – thiết diệp kỳ phúc, đầu đái hỏa quan”, chỉ hành vi của người học rộng có tài luận nghị vào thời xưa, làm như vậy để phô bày sự tự mãn rằng không ai hơn mình. “Thiết diệp kỳ phúc” là dùng lá thép mỏng (hoặc lá đồng) quấn chặt quanh bụng, hàm ý rằng do học quá nhiều sợ kiến thức trong bụng vỡ ra nên phải dùng lá thép quấn quanh để bảo vệ. “Đầu đái hỏa quan” là trên đầu đội mũ có ngọn đèn, hàm ý rằng khắp thiên hạ tối tăm không có người sáng suốt hơn mình nên đội đèn trên đầu để đi tìm. Đây là thái độ biểu hiện thường gặp ở những luận sư cao ngạo thời xưa.

[14] Năm vùng Thiên Trúc (ngũ Thiên Trúc), tức là năm vùng Ấn Độ thời xưa, bao gồm Bắc Ấn, Nam Ấn, Tây Ấn, Đông Ấn và Trung Ấn.

[15] Phạm chí Sa-nhiên (沙然), tức San-xà-da-tì-la-chi tử (刪闍耶毘羅胝子- Sañjayavairaṭṭiputra), một trong sáu luận sư ngoại đạo đương thời.

[16] Át-bệ (Aśvajit), tức là ngài A-thuyết-thị, cũng gọi là tỳ-kheo Mã Thắng, là một trong 5 đệ tử đầu tiên của đức Phật, thuộc nhóm 5 anh em ngài Kiều-trần-như.

[17] Xem chi tiết sự việc này ở kinh Hiền ngu (賢愚經), quyển 10, phần 48, phẩm thứ 41 (第四十一), Tu-đạt khởi tinh xá phẩm (須達起精舍品), ĐCT, T4, 202, tr.420b, d.14.

[18] Kinh Trung A-hàm, quyển 2, xem kinh Thất xa (七車經), ĐCT, T1, 26, tr.429c, d.28.

[19] Sinh xứ (生處), trong Trung A-hàm như được trích dẫn ở đây ghi là Sinh địa (生地), đều có nghĩa như nhau. Theo kinh Đại Bát Niết-bàn thì thành Câu-thi-na-yết-la là nơi sinh của các lực sĩ, thuộc họ tộc Ly-xa, thường được gọi là Lực sĩ Sinh địa, cũng gọi tắt là Sinh địa.

[20] Mãn Từ tử (滿慈子), tức là ngài Phú-lâu-na (富樓那 - Pūrṇa), một trong mười vị đại đệ tử của đức Phật, được Phật ngợi khen là Thuyết pháp Đệ nhất.

[21] Văn Cú chép là “白哲隆鼻鸚鵡嘴 - bạch triết long tỵ anh vũ chủy”, chữ triết ở đây không hợp nghĩa, đối chiếu văn bản được trích dẫn là Trung A-hàm, quyển 2, thì chỗ này đúng ra là “白皙隆鼻如鸚鵡嘴 - bạch tích long tỵ như anh vũ chủy”, nghĩa là “nước da trắng, mũi cao giống như mỏ chim anh vũ”. Do 2 chữ giống nhau nên bị chép nhầm và lại thiếu một chữ “như” làm câu tối nghĩa.

[22] An-đà lâm hay Thắng lâm cũng tức là Kỳ viên hay Kỳ thụ, nơi có tinh xá Kỳ viên mà trong kinh điển thường gọi là Kỳ thụ Cấp Cô Độc viên.

[23] Phạm hạnh (梵行): thường được hiểu là hạnh thanh tịnh, trong đó điểm quan trọng nhất là đoạn trừ dâm dục, sống thanh tịnh không gia đình. Tuy nhiên, Phạm hạnh còn được hiểu rộng hơn là sống nghiêm trì tất cả những giới luật do Phật chế định.

[24] Câu văn này Văn Cú cũng trích dẫn tối nghĩa, chúng tôi căn cứ văn bản gốc được trích dẫn là Trung A-hàm, quyển 2 để chuyển dịch mới rõ nghĩa. Xem chi tiết ở ĐCT, T1, 26, tr.430b, d.26.

[25] Đây là một ví dụ rất hay nhưng Văn Cú trích dẫn quá vắn tắt đến mức không đủ nghĩa, chẳng hạn như mất hẳn một phần trong câu: “以何方便令一日行從舍衛國至婆雞帝 - dĩ hà phương tiện linh nhất nhật hành tùng Xá-vệ quốc chí Bà-kê-đế” (dùng cách nào để đi trong một ngày từ thành Xá-vệ đến Bà-kê-đế). Chúng tôi căn cứ bản văn gốc được trích dẫn là Trung A-hàm để bổ sung cho đầy đủ và đúng nghĩa. Việc bố trí 7 chiếc xe giúp nhà vua có thể đi với tốc độ nhanh nhất mà một xe không thể nào đạt được trên suốt đoạn đường dài. Nhờ vậy mới có thể đến nơi trong một ngày. Điểm quan trọng thứ hai là trong 7 xe, không thể bỏ đi bất cứ xe nào mà hoàn tất được chuyến đi, cũng như 7 pháp được nói trên đều là thiết yếu để đạt đến Niết-bàn vô dư.

[26] Trong kinh Trung A-hàm có thêm một đoạn liên kết bảy chiếc xe trong ví dụ này với bảy pháp tu tập tuần tự như trên, nhằm làm rõ ý không thể bỏ bất cứ pháp nào, không thể bám chấp riêng một pháp nào, cũng không thể lìa bảy pháp này mà được thành tựu.

[27] Văn cú trích dẫn là “我父名滿 - ngã phụ danh Mãn”, không đúng. Kinh văn ghi “我號滿也 - ngã hiệu Mãn dã” và các tư liệu khác cũng ghi tên ngài Phú-lâu-na là Mãn, không phải tên cha. Chúng tôi điều chỉnh theo nghĩa đúng.

[28] Văn cú chép nhầm là “縈衣頂載 - oanh y đỉnh tái”, không có nghĩa, trong khi ở đoạn sau chép đúng là “縈衣頂戴 - oanh y đỉnh đái”. Kinh văn cũng nói chi tiêt hơn về việc “隨時往見,隨時禮拜” (nên thường gặp gỡ, nên thường lễ bái...”

[29] Văn cú trích dẫn là “我父字優波提舍 - ngã phụ tự Ưu-ba-đề-xá”, không đúng, vì kinh văn ghi “ngã tự Ưu-ba-đề-xá. Chúng tôi đã điều chỉnh.

[30] Văn cú lược bớt nội dung này bằng cách dùng chữ “乃至 - nãi chí” để bỏ đi phần giữa, chúng tôi chuyển dịch đủ.

[31] Văn Cú chỗ này chép là quyển 20, có lẽ nhầm, vì câu chuyện trích dẫn được tìm thấy trong kinh Tăng Nhất A-hàm (增壹阿含經), quyển 29. Hơn nữa, những chi tiết trong kinh có một số điểm khác biệt. (ĐCT, T2, 125, tr.708c, d.28)

[32] Ngũ nạp y (五納衣), cũng gọi là nạp y, là tấm y được khâu lại từ vải vụn nhặt được. Gọi là “ngũ nạp” là ý vải vụn có năm màu, nhưng không nhất định như vậy.

[33] Câu này Văn Cú đã bỏ sót và thêm vào một đoạn vô nghĩa, nói đến tòa ngồi của chư Phật trong mười phương thế giới. Chúng tôi căn cứ kinh văn để điều chỉnh trong bản dịch cho hợp lý.

[34] Bốn thần lực: kinh Tăng Nhất A-hàm kể ra bao gồm: Tự tại tam muội thần lực, Tinh tấn tam muội thần lực, Tâm tam muội thần lực và Thí tam muội thần lực.

[35] Văn Cú dùng Thích luận để chỉ Đại Trí độ luận. Văn Cú nói “Hữu diện Đại tướng” nhưng thật ra trong sách này nói “Hữu diện đệ tử”.

[36] Năm vị của sữa: chỉ năm món chế biến từ sữa là: nhũ (sữa tươi), lạc (sữa nấu đặc, cũng gọi là cao sữa), sinh tô (váng sữa sống), thục tô (váng sữa chín) và đề-hồ.

[37] Đoạn này tham khảo sách Pháp hoa nghĩa sớ (法華義疏) của ngài Cát Tạng ghi chép đầy đủ, rõ nghĩa hơn nên chúng tôi căn cứ vào đó để bổ sung cho trọn ý.

[38] Ngài Xá-lợi-phất là Hữu diện, ngài Mục-kiền-liên là Tả diện. Cách xưng tán này cũng có nghĩa là xem hai vị như cánh tay mặt và cánh tay trái, cùng hỗ trợ cho đức Phật trong việc hoằng hóa.

[39] Cù-già-ly, cũng tức là Cù-ba-ly hay Cù-hòa-ly, là một trong các tỳ-kheo sai lầm ủng hộ Đề-bà-đạt-đa trong việc làm chia rẽ Tăng đoàn.

[40] Văn Cú ở đây nói là dẫn từ kinh Tạp A-hàm, quyển 29, có lẽ bị nhầm, vì chúng tôi đã xem kỹ lại, câu chuyện được trích dẫn này không có trong Tạp A-hàm mà được tìm thấy trong Tăng Nhất A-hàm, quyển 44 (ĐCT, T2, 125, tr.786a, d.26). Tuy cùng một câu chuyện nhưng được ghi chép chi tiết hơn phần trích dẫn ở đây.

[41] Duy na, cũng gọi là Quản chúng hay Duyệt chúng, tức là vị tăng giữ việc quản trị hết thảy mọi việc trong tự viện.

[42] Tức y sư Kỳ-bà, là quan Ngự y của vua Tần-bà-sa-la, từng lo việc chăm sóc sức khỏe cho đức Phật và chư tăng.

[43] Theo ngài Huyền Trang ghi chép trong Tây vực ký thì từ xưa người Ấn Độ đã áp dụng rất phổ biến phương pháp trị bệnh bằng cách tuyệt thực một thời gian ngắn.

[44] Câu chuyện này trích lại từ Phiên dịch danh nghĩa tập (翻譯名義集) (ĐCT, T54, 2131, tr.1078a, d.26). Khi so sánh có một số chữ trong Văn Cú bị sai lệch, như Cố Hoạt (故活) thay vì 固活, hoặc như “xa nãi đắc khứ - 車乃得去” (xe mới đi được) bị chép sai thành “車乃得前 - xa nãi đắc tiền” rất tối nghĩa. Ý chính của đoạn trích này để nói về sức thần thông của ngài Mục-kiền-liên.

[45] Đoạn này trích dẫn câu chuyện từ kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 40, phẩm Kiều-trần-như, nhưng Văn Cú giản lược đến mức không nhắc đến ngài Mục-kiền-liên. Ý chính ở đây là khả năng nhập định quán sát của ngài Mục-kiền-liên, vào lúc đó là người duy nhất biết được ý muốn của đức Phật.

[46] Đây là luận theo giáo pháp Tiểu thừa, cũng gọi là Thập tứ biến hóa tâm, bao gồm Sơ thiền có 2, Nhị thiền có 3, Tam thiền có 4 và Tứ thiền có 5 tâm biến hóa, cộng cả thảy là 14 tâm biến hóa.

[47] Thập nhất thiết xứ: 10 cảnh giới mà hành giả khi tu tập thành tựu có thể tùy ý thâm nhập, bao gồm: địa nhất thiết xứ, thủy nhất thiết xứ, hỏa nhất thiết xứ, phong nhất thiết xứ, thanh nhất thiết xứ, hoàng nhất thiết xứ, xích nhất thiết xứ, bạch nhất thiết xứ, không nhất thiết xứ và thức nhất thiết xứ.

[48] Mười tám pháp biến hóa bao gồm: (1) hông bên phải tuôn ra nước, (2) hông bên trái tuôn ra lửa, (3) hông bên trái tuôn ra nước, (4) hông bên phải tuôn ra lửa, (5) phía trên thân tuôn ra nước, (6) phía dưới thân tuôn ra lửa, (7) phía dưới thân tuôn ra nước, (8) phía trên thân tuôn ra lửa, (9) đi trên nước như mặt đất (10) đi trên đất như mặt nước (11) biến mất trên không hiện ra dưới đất (12) biến mất dưới đất hiện ra trên không (13) đi giữa không trung, (14) trụ yên giữa không trung, (15) ngồi giữa không trung, (16) nằm giữa không trung, (17) hiện thân lớn tràn khắp hư không, (18) hiện thân lớn rồi trở lại nhỏ.

[49] Tam đế: tức ba phép quán Không, Giả và Trung đạo.

[50] Năm giai đoạn: Nguyên tác là ngũ vị (五味), tức năm mùi vị, ở đây là các mùi vị của sữa (nhũ), sữa đặc (lạc), bơ sống (sinh tô), bơ chín (thục tô) và đề hồ, được dùng để chỉ các giai đoạn tu tiến qua các giai vị Thanh văn (nhũ), Duyên giác (lạc), Bồ Tát (sinh tô, thục tô), chư Phật (đề hồ).

[51] Về ý phản biện này, Pháp hoa văn cú ký giải thích: Thân thể là hình sắc, có thể nhìn thấy; thần thức không hình sắc, không thể nhìn thấy. Cũng vậy, vỏ ốc được dùng làm tù và có thể tạo ra âm thanh, nhưng vỏ ốc có thể nhìn thấy, còn âm thanh không thể nhìn thấy, nay lật cái vỏ sò để tìm âm thanh thì không thể tìm được, cũng như lục soát nơi thân thể để tìm thần thức thì không thể thấy được. (ĐCT, T34, 1719, tr.176b, d.10)

[52] Pháp hoa văn cú ký giải thích về ý nghĩa đoạn này rằng: Lúa, cỏ mang theo trên xe ví như tri thức thế gian, vất bỏ hết sẽ thành người ngu si thì hai cõi trời người còn không thể đến, nói gì Niết-bàn? Lúa, cỏ ở nơi mới đến ví như tri thức xuất thế gian, một khi có được thì phải vất bỏ hết tri thức thế gian, mới có thể đạt được giải thoát. Người có trí chỉ sau khi đạt được tri thức xuất thế mới từ bỏ tri thức thế gian.

[53] Văn Cú trong câu này nêu tên một người là Cù-mật-thích (瞿蜜釋), thật ra không có tên người này. Câu chuyện có nguồn gốc được trích dẫn từ Tăng Nhất A-hàm, quyển 8, và 2 người được nêu tên là đức Phật Cù-đàm và tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc. Tên đức Phật được nhắc đến trong câu này: “二名瞿曇釋種如來, 至真 等正覺 – nhị danh Cù-đàm, Thích chủng Như Lai, chí chân, đẳng chánh giác” (người thứ hai tên là Cù-đàm, là đức Như Lai dòng họ Thích, là bậc chí chân, đẳng chánh giác). (ĐCT, T2, 125, tr.585c, d.12) Như vậy có thể thấy rằng Văn Cú đã chép nhầm những chữ Cù-đàm Thích (瞿曇釋) thành Cù-mật Thích (瞿蜜釋).

[54] Theo Tăng Nhất A-hàm (đã dẫn trên) thì những người họ Thích hứa sẽ cúng dường chu cấp mọi thứ và còn thêm 1.000 dật vàng ròng (千鎰純金 – thiên dật thuần kim). Dật là đơn vị thời cổ, mỗi dật bằng 20 lượng.

[55] Văn Cú trong phần này thường dùng Sơ giáo để chỉ Tạng giáo, với ý nghĩa là giáo pháp ban đầu, khởi đầu.

[56] Tứ biện (四辯) hay Tứ biện tài, bao gồm Pháp vô ngại biện, Nghĩa vô ngại biện, Từ vô ngại biện và Nhạo thuyết vô ngại biện.

[57] Nguyên tác là ngũ vị (五味), chỉ 5 tầng bậc giáo nghĩa từ thấp lên cao, được ví như 5 vị của sữa là nhũ, lạc, sinh tô, thục tô và đề hồ.

[58] Lúa bại: một giống lúa hạt rất nhỏ, ăn không ngon.

[59] Văn Cú chỗ này chép nhầm chữ vô bần (無貧) thành vô tham (無貪), trong khi ở đoạn trước thì ghi đúng.

[60] Theo quan điểm ngày xưa thì các vị vua cai trị tùy theo quyền hạn và lãnh thổ mà phân chia ra từ lớn đến nhỏ hơn là Kim luân, Ngân luân, Thiết luân và Đồng luân.

[61] Tức kinh Phật thuyết Thập nhị du (佛說十二遊經), do ngài Ca-lưu-đà-già dịch vào đời Đông Tấn. (ĐCT, T4, 195, tr.146a)

[62] Văn Cú chép là cam giá (甘蔗), Nguyên tác trong kinh Thập nhị du chép là cam quả (甘果) (trang 146a, d.16), do vậy biết đây không phải tên riêng mà chỉ chung là vườn trái cây ngọt. Cam giá là vườn cây mía, nhưng như vậy dường như không hợp ngữ cảnh ở đây nên có lẽ Văn Cú chép nhầm. Chúng tôi dựa theo kinh văn.

[63] Câu này lấy ý trích một phần từ Hàn thi ngoại truyện (韓詩外傳) của Hàn Anh (韓嬰) đời Hán. Sách này chép lời Chu công rằng: “Ta là con Văn vương, em Vũ vương, chú Thành Vương, lại nắm quyền trị thiên hạ, ta ở trong thiên hạ cũng không phải hạng kém cỏi, vậy mà gội đầu phải nắm tóc ba lần, bữa ăn phải nhả cơm ra ba lần, chỉ vì sợ để mất người hiền trong thiên hạ.” Đây là nói việc Chu công lúc đang gội đầu nếu có người xin vào gặp thì lập tức dừng lại, tiếp người ấy xong mới tiếp tục gội đầu, cho nên nói “phải ba lần nắm tóc lại” mới gội đầu xong; lại khi đang ăn nếu có người xin vào gặp, ông lập tức nhả miếng cơm đang nhai để ra tiếp người ấy, xong mới vào ăn tiếp, cho nên nói “nhả cơm ra ba lần” mới ăn xong bữa. Tuy vẫn còn chưa biết người muốn gặp mình là ai, nhưng nếu không làm vậy thì ông sợ để lỡ mất đi bậc hiền tài. Văn cú dẫn chuyện này để so sánh, ý muốn nói rằng xuất thân của ngài A-na-luật cũng giống như vậy.

[64] Tức là nói do nghiệp lực, tạo thiện nghiệp nên được mắt sáng, tạo ác nghiệp phải chịu đui mù.

[65] Nghĩa là tu tập để mắt nhìn sáng tỏ, phân biệt được những việc tốt xấu, thiện ác.

[66] Sao Phòng (房星), một trong Nhị thập bát tú theo thiên văn cổ.

[67] Các trích dẫn ở đây và các phần bên trên về ngài Kiếp-tân-na không tìm thấy trong các Nguyên tác kinh văn, mà thật ra là được dẫn lại từ sách Đại Phương Quảng Phật Hoa nghiêm Kinh tùy sớ diễn nghĩa sao (大方廣佛華嚴經隨疏演義鈔), quyển 84 (ĐCT, T36, 1736). Trong sách đã dẫn, xem chi tiết ở trang 658b, bắt đầu từ dòng 20.

[68] Trong nguyên tác đến đây là hết phần hạ quyển thứ nhất, bắt đầu phần thượng quyển thứ hai.

[69] Ngưu Si (牛呞), tức là con trâu nhai lại. Chữ si (呞) ngày nay ít gặp, từ điển Quảng vận giải thích: “吐而噍也 – thổ nhi tiếu dã”, nghĩa là “nôn ra rồi nhai”, mô tả cách loài trâu đưa thức ăn từ dạ dày ngược lên miệng rồi nhai lại.

[70] Ngưu Vương (牛王), con trâu chúa, con trâu đầu đàn. Gọi tên theo tiền thân của ngài.

[71] Ngưu Tích (牛跡), tích là dấu tích, dấu vết của sự vật gì trong quá khứ còn lại. Gọi tên Ngưu Tích ý nói ngài vẫn còn lại dấu tích của đời trước làm thân trâu.

[72] Nhạn (雁), chim nhạn, ở đây chỉ là loài ngỗng trời, một loài chim hoang dã sống theo bầy đàn, biết di trú theo mùa trong năm.

[73] Tinh Tú (星宿), Thất Tú (室宿), Giả Hòa Hợp (假和合), đều là các tên gọi dựa theo ý nghĩa mà hình thành.

[74] Tức Văn-thù-sư-lợi vấn kinh (文殊師利問經), 2 quyển, ngài Tăng-già-bà-la dịch vào đời Lương, hiện có trong ĐCT, T14, 468.

[75] Ở đây chỉ nói trong phạm vi 5 giới dành cho người cư sĩ.

[76] Nguyên văn dùng bối tử (貝子), chỉ đồng tiền, vì tiền ngày xưa làm bằng vỏ sò. Vì dùng với nghĩa chỉ đồng tiền nên trong đoạn văn này vua dâng cúng “nhất tiền - 一錢” nhưng lại nói “bối tử tùng tháp phi xuất - 貝子從塔飛出”. Do đó biết rằng bối tử và tiền đều dùng để chỉ đồng tiền.

[77] Đại Tất (大膝), nghĩa là đầu gối lớn.

[78] Trường Trảo (長爪) nghĩa là móng tay dài.

[79] Năm vùng Ấn Độ: tức Đông Ấn, Tây Ấn, Nam Ấn, Bắc Ấn và Trung Ấn.

[80] Tỳ-lưu-bặc-xoa (毘留匐叉), phiên âm từ Phạn ngữ Virūḍhaka, cũng đọc là Tỳ-lâu-lặc-ca (毘樓勒迦), Tỳ-lâu-lặc-xoa (毘樓勒叉), là vị thiên vương hộ thế cai quản ở phương nam, một trong bốn thiên vương hộ thế, Hán dịch là Tăng Trưởng Thiên vương (增長天王).

[81] Vi-đà (韋陀), phiên âm Phạn ngữ là Veda, thường đọc là Phệ-đà (吠陀), tức bốn bộ cổ thư của Ấn Độ, là kinh điển căn bản của đạo Bà-la-môn.

[82] Khẩu mật (口密), cũng gọi là ngữ mật (語密), là một trong Tam mật (三密) của chư Phật. Do những công năng cũng như phẩm tính này không thể dùng sự hiểu biết của phàm nhân mà nhận hiểu đo lường được nên gọi là mật. Về ngữ mật, khi Phật thuyết pháp thì người nghe trong vòng một dặm, mười dặm cho đến trăm ngàn vạn dặm đều có thể nghe rõ âm thanh thuyết pháp của Phật. Hơn nữa, cùng trong một Pháp hội, trong số thính chúng có người nghe thuyết về bố thí, có người nghe về trì giới v.v. Mỗi người đều tùy theo căn tánh mà được nghe pháp thích hợp với mình. Đó là công năng không thể nghĩ bàn, nên gọi là ngữ mật.

[83] Khẩu luân (口輪) Cũng gọi Giáo giới luân, Chánh giáo luân, Thuyết pháp luân. Giáo pháp từ kim khẩu Phật nói có khả năng diệt trừ phiền não, giúp chúng sinh bỏ tà theo chánh, nương theo chánh giáo tu hành giải thoát, cho nên gọi là Khẩu luân.

[84] Phóng Ngưu Nan-đà (放牛難陀), trong nhiều kinh luận khác gọi là Mục Ngưu Nan-đà (牧牛難陀), đều do ý nghĩa trước đây ngài làm nghề chăn bò. Vua Tần-bà-sa-la có lần thỉnh Phật và Tăng chúng an cư ba tháng. Khi ấy ngài Nan-đà là người chăn bò ở gần đó, mỗi ngày đều mang sữa bò đến dâng cúng, trong suốt ba tháng không hề bê trễ. Vua nhận thấy tâm thành như vậy nên tạo điều kiện cho được gặp Phật. Ngài Nan-đà tự nghĩ, đức Phật được tôn xưng là bậc Nhất thiết trí, chuyện gì cũng biết, nhưng là người xuất thân từ cung vua chắc không thể biết những chuyện của dân quê như việc nuôi trâu bò. Do vậy nên khi được gặp Phật liền mang chuyện nuôi trâu bò ra thưa hỏi. Đức Phật nhân đó thuyết bài pháp nói về 11 điều cần biết trong việc nuôi trâu bò, tức là kinh Phật thuyết Phóng ngưu (佛說放牛經). Ngài Nan-đà được nghe pháp khởi tâm cung kính, nhân đó xuất gia trở thành đệ tử Phật.

[85] Chỗ này e rằng Văn Cú đã bị nhầm, vì như chú thích trên vừa nói rõ xuất thân của ngài Mục Ngưu Nan-đà, không phải thuộc họ Thích, và cũng không bị ép xuất gia mà có nhân duyên rõ ràng. Người thuộc dòng họ Thích và bị ép phải xuất gia là ngài Tôn-đà-la Nan-đà (H. 孫陀羅難陀, S. Sundara-nanda), em cùng cha khác mẹ với thái tử Tất-đạt-đa.

[86] Điều này không đúng, vì Bạt-nan-đà được nhắc đến trong Luật tạng tuy cũng là người họ Thích xuất gia nhưng thuộc về nhóm Lục quần tỳ-kheo, không phải ngài Nan-đà trong Pháp hội này. Trong Luật tạng có kể lại, chính vì Bạt-nan-đà mà Phật chế định 15 pháp Xả đọa (từ pháp thứ 6 đến pháp 20); 6 pháp Đơn đọa (từ pháp 37 đến pháp 42) và pháp Chúng học thứ 95.

[87] Tức là nói ngài cũng thuộc dòng họ Cù-đàm (Gotama), sự phát tích của dòng họ đã nói rõ trong phần nói về ngài A-na-luật.

[88] Nguyên tác dùng tứ chỉ (四指), là cách dùng cổ đại, theo đó lấy độ dài của lóng giữa ngón tay giữa làm một tấc, nên gọi đủ là chỉ xích (指尺).

[89] Trong kinh luận nói ngài có đủ 30 tướng tốt, chỉ kém Phật 2 tướng là tướng bạch hào (lông trắng giữa hai chân mày) và lỗ tai ngắn hơn tai của Phật. Do ngài có nhiều tướng tốt như vậy nên nhiều người không phân biệt rõ mà nhầm lẫn giữa ngài với đức Phật.

[90] Nguyên tác là “vân hà tự nhục - 云何自辱“ hàm ý cho rằng việc đức Phật đi khất thực, xin ăn từng nhà, là tự làm nhục mình, không xứng với d.tộc đế vương.

[91] Vườn Ni-câu-loại (尼俱類), tức là vườn Ni-câu-luật (尼拘律), do cách đọc khác nhau, đều là phiên âm từ chữ Nyagrodhārāma.

[92] Ngài Nan-đà khi ấy chưa xuất gia, là một trong các vương tử có thể sẽ được nối ngôi vua, nên mang việc ấy ra dọa người cạo tóc.

[93] Văn Cú chỉ nói tóm gọn trong câu này. Để giáo hóa Nan-đà, đức Phật đã đưa ông lên các cung trời với vô số những cảnh dục lạc và thiên nữ xinh đẹp. Sau đó Phật hỏi, các thiên nữ này so với Tôn-đà-lợi vợ ông thì như thế nào, Nan-đà phải thừa nhận là vợ ông không thể sánh bằng. Phật dạy, nếu chịu tu tập thì việc hưởng dục lạc cõi trời không có gì khó. Sau đó, Phật đưa ông xuống các tầng địa ngục với vô số cảnh khổ đau khủng khiếp và dạy rằng, nếu không tu tập thì sớm muộn về sau cũng không tránh khỏi sẽ rơi vào những chốn này. Nan-đà vì sợ cảnh khổ địa ngục và tham muốn dục lạc cõi trời nên quyết tâm tu tập. Đến khi thực sự chứng được quả A-la-hán thì tham dục dứt trừ, không còn tham muốn gì nữa.

[94] Ý nói tên gọi Tôn-đà-la là xuất phát từ tên cô Tôn-đà-lợi. Tên này cũng được dùng trong ý nghĩa để phân biệt với ngài Mục Ngưu Nan-đà như đã kể ở trên.

[95] Tên đầy đủ của vị này là Phú-lâu-na Di-đa-la-ni tử (富樓那彌多羅尼子), phiên âm từ Phạn ngữ Pūrṇa-maitrāyaṇīputra, Hán dịch là Mãn Từ tử. Mãn là tên ngài, Từ là nêu theo họ người mẹ. Do lấy họ mẹ nên gọi là Mãn Từ tử (con của bà họ Từ). Tên ngài cũng được dịch là Mãn Nguyện tử, Mãn Chú tử.

[96] Đây là quy tắc trong Phạn ngữ, chẳng hạn như śramaṇa (sa-môn-na) chỉ chung các vị tu sĩ nam, nhưng nữ tu sĩ là bhikṣuṇī (tỳ-kheo-ni).

[97] Kinh Trung A-hàm, quyển 2, xem kinh Thất xa (七車經), ĐCT, T1, 26, tr.429c, d.28. Phần nội dung này đã trích dẫn trong phần nói về ngài Xá-lợi-phất và cuộc gặp gỡ giữa hai người. Văn cú nhầm lẫn như đã chỉ rõ, kinh văn nói “我名滿“ (tôi tên Mãn), không phải “我父名滿“ (cha tôi tên Mãn).

[98] Nguyên tác dùng “thị nhân - 是人“ (người này) trong ngữ cảnh chỉ đến cha ngài Phú-lâu-na.

[99] Nguyên tác nói là kinh Thất xa dụ (七車喻經), chính là kinh Thất xa như chúng tôi đã dẫn.

[100] Tên gọi của ngài Tu-bồ-đề còn có nhiều cách dịch khác là Thiện Nghiệp (善業), Thiện Cát (善吉), Thiện Hiện (善現), Thiện Thật (善實), Thiện Kiến (善見).

[101] Y báo (依報) là hoàn cảnh, môi trường mà một chúng sinh được sinh vào đó; chánh báo (正報) là thân tâm hiện có của một chúng sinh. Cả y báo và chánh báo đều tùy thuộc vào nghiệp quả đã tạo ra từ đời trước.

[102] Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc vì muốn là người lễ Phật trước tiên nên dùng thần thông biến hóa thành Chuyển luân vương, có quân binh theo hộ vệ, nhờ vậy có thể đi nhanh đến chỗ đức Thế Tôn trước tiên, rồi mới hiện thân trở lại thành tỳ-kheo-ni đảnh lễ Phật.

[103] A-di (阿夷), tức tiên nhân A-tư-đà (阿私陀), phiên âm từ Phạn ngữ Asita. Ông là người đã xem tướng cho thái tử Tất-đạt-đa lúc ngài mới đản sinh.

[104] Vua Bạch Phạn là em vua Tịnh Phạn, cha của ngài A-nan.

[105] Nguyên tác là phú kiên y (覆肩衣), tức là y tăng-kì-chi (僧祇支), phiên âm từ Phạn ngữ saṃkakṣikā. Ý chính của câu này là vì ngài A-nan dung mạo quá đẹp, nên Phật dạy khi đắp y phải che kín cả hai vai, thay vì để lộ một vai như các vị tỳ-kheo khác. Như vậy để hạn chế bớt sự chú ý của nữ giới.

[106] Bốn chúng trong ngữ cảnh này là bốn chúng xuất gia, bao gồm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, sa-di và sa-di-ni.

[107] Chúng tôi dịch sát theo nguyên tác “阿難四月八日佛成道日生 – A-nan tứ ngoạt bát nhật Phật thành đạo nhật sanh”. Đây là một trong hai thuyết khác biệt về ngày Phật thành đạo được ghi trong Câu-xá luận sớ (俱舍論疏), quyển 1 (ĐCT, T41, 1822, tr.453c, d.3 và 4): “佛成道日雖有二說不同, 或二月八日, 或四月八日– Phật thành đạo nhật tuy hữu nhị thuyết bất đồng, hoặc nhị ngoạt bát nhật, hoặc tứ ngoạt bát nhật...” (Phật thành đạo tuy có hai thuyết khác nhau, hoặc nói mồng 8 tháng 2, hoặc nói mồng 8 tháng 4...) Như vậy ở đây dựa theo thuyết mồng 8 tháng 4 Phật thành đạo.

[108] Chuyện này có đề cập đến ở phần nói về ngài Mục-kiền-liên. Xin xem chi tiết trong kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 40.

[109] Kinh Đại Bát Niết-bàn nói chi tiết về ba thỉnh nguyện của ngài A-nan: “Một là, nếu Như Lai dùng áo cũ của ngài mà ban cho con, xin cho phép con không nhận; hai là, nếu Như Lai nhận lời thọ thỉnh cúng dường riêng tại nhà đàn-việt, xin cho phép con không đi cùng; ba là, xin cho con được vào ra chỗ của Như Lai bất kỳ lúc nào.”

[110] Kinh Đại Bát Niết-bàn ghi lại lời khen của Phật: “Tỳ-kheo A-nan có đủ trí tuệ nên biết rằng, nếu vào ra có giờ giấc ắt không thể rộng làm lợi ích cho bốn chúng, mới xin được vào ra chỗ của Như Lai bất kỳ lúc nào.”

[111] Câu chuyện này được ngài Huyền Trang kể trong sách Tây Vực ký như sau: “Khi các thương chủ dâng cúng cốm mật, đức Thế Tôn đang nghĩ sẽ dùng vật gì để đựng thì Tứ Thiên Vương từ bốn phương hiện lại, mỗi vị đều mang bình bát vàng đến dâng cúng. Đức Thế Tôn lặng thinh không thọ nhận, vì người xuất gia dùng bát quý này không thích hợp. Tứ Thiên Vương liền bỏ bình bát vàng, dâng bình bát bạc, cho đến pha lê, lưu ly, mã não, xa cừ, trân châu các loại, nhưng đức Thế Tôn đều không nhận. Tứ Thiên Vương phải quay về cung trời, mang đến bình bát bằng đá có màu sáng xanh lấp lánh, cùng nhau dâng lên. Lúc ấy đức Thế Tôn dứt trừ sự phân biệt mà nhận tất cả các bát này rồi đặt chồng lên nhau, ấn xuống thành một bát, cho nên bên ngoài mép bát có bốn đường gờ nổi.” (Tây Vực Ký, Pháp sư Huyền Trang, bản Việt dịch của Thích Như Điển và Nguyễn Minh Tiến, NXB Liên Phật Hội, trang 423, California, 2022)

[112] Nguyên tác là “揵度 - kiền độ”, phiên âm từ chữ skandha, có nghĩa là một nhóm câu chữ tương đồng, cùng loại, nên có thể hiểu là một phẩm, một tiết mục hay một bài kệ. Trong ngữ cảnh này ý nghĩa bài kệ thích hợp hơn.

[113] Đây là cách nói để tỏ lòng tôn kính. Tòa ngồi thuyết pháp của đức Phật được gọi là tòa sư tử, giường nằm của Phật được gọi là giường sư tử (sư tử sàng). Chú ý là cách gọi tôn kính như thế không liên quan đến cấu tạo của tòa ngồi hay giường nằm đó, như khi Phật ngồi trên đệm cỏ khô vẫn gọi là tòa sư tử.

[114] Về 4 câu kệ xưng tán này, hiện thấy trong luận Đại Trí độ (大智度論), quyển 3, nằm trong bài kệ 8 câu, nguyên văn là: “於是造論者讚言:面如淨滿月,眼若青蓮華;佛法大海水,流入阿難心!能令人心眼,見者大歡喜;諸來求見佛,通現不失宜!- Ư thị tạo luận giả tán ngôn: Diện như tịnh mãn nguyệt, nhãn nhược thanh liên hoa; Phật pháp đại hải thủy, lưu nhập A-nan tâm! Năng linh nhân tâm nhãn, kiến giả đại hoan hỉ, chư lai cầu kiến Phật, thông hiện bất thất nghi.“ (ĐCT, T25, 1509, tr.84a, d.18-d.21). “Tạo luận giả” (người tạo luận) chính là ngài Long Thụ, tác giả bộ luận này. Do Văn Cú không nói rõ xuất xứ 4 câu kệ này nên chỉ có thể lưu ý nơi đây để tồn nghi về tác giả.

[115] Người Ly-xa (Licchavi) tức là dân nước Phệ-xá-ly (hay Tỳ-xá-ly - Vaiśāli), còn A-xà-thế là vua nước Ma-yết-đà (Magadha). Câu chuyện ngài A-nan nhập Niết-bàn được ngài Huyền Trang kể lại chi tiết hơn trong sách Tây Vực Ký như sau: “Khi ngài A-nan rời khỏi nước Ma-yết-đà, đi đến thành Phệ-xá-ly, qua sông Căng-già, thuyền lênh đênh giữa dòng. Khi ấy, vua nước Ma-yết-đà nghe tin ngài A-nan bỏ đi, trong lòng quyến luyến đức độ của ngài hết sức sâu nặng, lập tức chuẩn bị xa giá nghiêm trang, vội vã đuổi theo để thỉnh ngài [ở lại], có đến mấy trăm ngàn quân vừa kéo đến đóng trên bờ sông phía nam. Bên kia sông, vua Phệ-xá-ly vừa nghe tin ngài A-nan đến nước mình để nhập Niết-bàn thì trong tâm buồn vui lẫn lộn, lập tức điểm binh, hối hả kéo ra nghinh đón, mấy trăm ngàn quân cùng tập trung đóng trên bờ sông phía bắc. Hai bên dàn quân đối nhau, cờ hiệu như rừng, che khuất cả mặt trời. Ngài A-nan thấy vậy, sợ hai bên giao đấu sát hại lẫn nhau, liền từ trên thuyền đứng dậy, bay lên hư không, thị hiện thần biến, nhập tịch diệt, hóa lửa thiêu thân rồi tự chia đôi, một phần rơi về bờ nam, một phần rơi về bờ bắc. Như vậy, hai vua đều được mỗi người một phần xá-lợi, toàn quân đều buồn đau gào khóc, rồi mỗi bên đều lui về nước, xây tháp để thờ phụng cúng dường.” (Tây Vực Ký, sách đã dẫn, trang 371-372)

[116] Phong phấn tấn Tam-muội (風奮迅三昧), cũng gọi là Phong Tam-muội, là loại thiền định tự làm cho gió mạnh nổi lên, làm phân tán các phần của thân thể.

[117] Vì La-hầu-la ở trong thai mẹ đến sáu năm, nên khi sinh ra mọi người mới biết. Do sự khác thường này, không ai tin rằng đó là con của thái tử Tất-đạt-đa.

[118] Bảo nữ (寶女), người con gái đẹp không do người sinh ra mà do phước báu của Chuyển luân vương nên hiện ra, là một trong các báu vật của vị Chuyển luân vương. Thái tử Tất-đạt-đa khi ra đời đầy đủ phước báu của một vị Chuyển luân vương nên chiêu cảm hiện ra bảo nữ này để hầu hạ. Khi ngài xuất gia thì bảo nữ theo hầu Da-du-đà-la.

[119] Pháp hoa văn cú ký nói rõ hơn về lời chứng này. Cô Cù-tỳ-la nói: “我常與耶輸進止共俱未曾有過 – Ngã thường dữ Da-du tấn chỉ cộng câu vị tằng hữu quá.” (Tôi cùng với Da-du-đà-la không lúc nào rời nhau, chưa từng thấy cô ấy có lỗi lầm gì.)

[120] Pháp hoa văn cú ký nói là dâng lên Phật một bình bát có đủ các món ăn ngon cùng với loại thuốc viên hoan hỷ. Đây có thể là một loại thuốc bổ, vì không thấy liên quan đến bệnh tật gì.

[121] Các món báu hiện đến, tức là biểu hiện phước báu của một vị Chuyển luân Thánh vương.

[122] Nguyên tác dùng “kiến ái”, tức là kiến phiền não và ái phiền não. Kiến phiền não chỉ chung tất cả những phiền não do mê lầm về lý, như ngã kiến, biên kiến, tà kiến... còn ái phiền não chỉ chung tất cả những phiền não do phân biệt mê lầm về sự như tham dục, ganh ghét, sân hận...

[123] Ở đây có lẽ căn cứ theo Tăng Nhất A-hàm, quyển 44, trong đó kể ra bốn vị này là Đại Ca-diếp (Mahā-kāśyapa), Quân-đồ-bát-hán (Kuṇḍa-dhāna), Tân-đầu-lô (Piṇḍola-bhāradvāja) và La-hầu-la (Rāhula).

[124] Nguyên tác dùng “tứ trụ - 四住“ tức tứ trụ địa (四住地), bao gồm Kiến nhất thiết trụ địa (tức là hết thảy kiến hoặc trong ba cõi), Dục ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Dục giới), Sắc ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Sắc giới), Hữu ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Vô sắc giới). Bốn yếu tố này là căn bản khởi sinh của tất cả phiền não nên gọi là trụ địa.

[125] Tuần tự tu tập, tức là theo trình tự quán chiếu Không, Giả, Trung, nương theo đó lần lượt chứng đắc ba trí.

[126] Ba trí là Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí.

[127] Năm trụ địa: giống như bốn trụ địa vừa kể trên, thêm vào Vô minh trụ địa, tức là hết thảy vô minh trong ba cõi.

[128] Nguyên tác dùng nhị biên, có thể hiểu theo nhiều cách nhưng trong ngữ cảnh nói về giáo lý Thiên Thai nên được hiểu là lìa cả hai bên Không và Giả, đi vào Trung đạo, ở đây hàm ý là vốn không có ngăn chướng.

[129] Ở đây nhắc lại những ngăn che chướng ngại đã lược kể ở trước về tên gọi Phú Chướng của ngài La-hầu-la, tám ngăn chướng đầu là từ việc ở trong thai sáu năm v.v. đều ngăn trở việc tu tập chứng đắc Niết-bàn, ngăn chướng thứ chín là chuyên cần tu tập nhưng không chứng quả, ngăn chướng thứ mười khiến ngài không nhập Vô dư Niết-bàn là vâng lời Phật dạy để trụ thế cho đến khi Phật pháp dứt mất. Mười ngăn chướng này đều là hình tích thị hiện.

[130] Nguyên tác dùng “滿字 - mãn tự” và “半字 - bán tự”, để chỉ ý nghĩa rốt ráo và chưa rốt ráo. Chưa rốt ráo có nghĩa là phương tiện quyền thừa, tùy thuận chúng sinh.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 11 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Phù trợ người lâm chung


Giai nhân và Hòa thượng


Nguồn chân lẽ thật


Giải thích Kinh Địa Tạng

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.170 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...