"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)

Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng. (Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Hãy làm một người biết chăm sóc tốt hạt giống yêu thương trong tâm hồn mình, và những hoa trái của lòng yêu thương sẽ mang lại cho bạn vô vàn niềm vui và hạnh phúc.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Hạnh phúc giống như một nụ hôn. Bạn phải chia sẻ với một ai đó mới có thể tận hưởng được nó. (Happiness is like a kiss. You must share it to enjoy it.)Bernard Meltzer
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Nếu muốn tỏa sáng trong tương lai, bạn phải lấp lánh từ hôm nay.Sưu tầm

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1 »» Giải thích về thính chúng (tiếp theo) và Biệt tự »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1
»» Giải thích về thính chúng (tiếp theo) và Biệt tự

(Lượt xem: 16)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Giải thích về thính chúng (tiếp theo) và Biệt tự

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

III. Tạp chúng

KINH VĂN

Lúc bấy giờ có Thích-đề-hoàn-nhân và quyến thuộc 20.000 vị thiên tử cùng đến. Lại có Thiên tử Danh Nguyệt, Thiên tử Phổ Hương, Thiên tử Bảo Quang, Tứ đại Thiên vương và quyến thuộc 10.000 thiên tử cùng đến. Thiên tử Tự Tại, Thiên tử Đại Tự Tại và quyến thuộc 30.000 thiên tử cùng đến. Phạm Thiên vương chủ Thế giới Ta-bà, Đại Phạm Thi-khí, Đại Phạm Quang Minh... và quyến thuộc 12.000 thiên tử cùng đến.

Phần thứ ba nói về tạp chúng. Các nhà cựu giải gọi là chúng phàm phu, nhưng trong số này có cả các bậc thánh; lại gọi là tục chúng, nhưng trong số này có cả chúng xuất gia; lại gọi là chúng trời người, nhưng trong số này có cả loài rồng, quỷ, nên những cách gọi ấy đều không thích hợp. Nay gọi là tạp chúng thì ý nghĩa bao gồm được tất cả. Đó là nói [gồm đủ chúng sanh] trong năm đường,[1] hai cõi,[2] tám bộ chúng[3] nên gọi là tạp.

[Trong kinh này có năm đường, hai cõi, nhưng] kinh Phương đẳng[4] lại có thêm [chúng sanh] địa ngục [là đủ sáu đường], kinh Trung ấm[5] lại giáo hóa cả cõi Vô sắc [là ba cõi], những điều ấy đều tùy theo cơ duyên mà thể hiện, không thể có một quy tắc cố định chung, cũng không theo một trật tự nhất định nào.

Các nhà cựu giải nói rằng loài người là chủ ở cõi này, nên nhường cho những loài khác là khách được kể ra trước.[6] So với kinh Vô lượng nghĩa thì [cách sắp xếp] cũng giống như kinh này, lại nêu rõ quốc vương, quốc thần, quốc sĩ, quốc nữ, không bàn đến thứ tự chủ khách nhường nhau. Khuynh hướng của các vị kết tập kinh được thể hiện trong văn kinh, hoặc còn có ý khác chưa biết.[7]

Nay quán xét trong đoạn kinh văn này có tám bộ chúng. Trước tiên nói về Đế thích rồi đến Tứ thiên vương. Sau đó kể đến loài rồng, cuối cùng là loài chim kim sí [tức ca-lâu-la], ở khoảng giữa nhiều lần kể đến các loài quỷ thần [như khẩn-na-la, càn-thát-bà, a-tu-la].[8] Vì nghĩa đó nên gọi là tạp chúng.

Không thể nói rõ trật tự trước sau, đó cũng gọi là tạp chúng. Lại trong chúng này có hạng đã chứng đạo, có hạng chưa chứng đạo, quả báo không giống nhau, hình thể cũng không giống nhau, cho nên gọi là tạp.

Trong chúng này lại có hàng chứng đạo Nhị thừa, có trí tuệ vô lậu lẫn lộn với vô minh phiền não, cho nên gọi là tạp.

Trong chúng này lại có hàng chứng đạo Bồ Tát hòa lẫn với đại chúng, cơ duyên lẫn lộn cho nên gọi là tạp.

Trong chúng này có cả hàng chứng đắc Phật đạo, ngay trong một pháp có đủ hết thảy các pháp, cho nên gọi là tạp.

Ý nghĩa tạp là như vậy, không thể dùng hình thể phàm phu thế tục để phân chia, cũng không thể dựa theo năm đường như loài người, chư thiên v.v. để phân chia, cho nên gọi là tạp. Đây là theo giáo nghĩa mà giải thích. Đại lược là như thế.

Thích-đề-hoàn-nhân Nhân-đà-la (Śakra Devānāmindra), cũng đọc là Chiên-đề-la, Hán dịch là Năng Tác, là vị Thiên chủ ở cõi trời Đao-lợi.

Đao-lợi (Trāyastriṃśa), Hán dịch là Tam thập tam thiên (Cõi trời Ba mươi ba). Cõi trời này, về bốn hướng đều có mỗi hướng 8 thành, hợp với thành Hỷ kiến ở giữa là 33 thành, tất cả cùng ở trên đỉnh núi Tu-di.

Tu-di (Sumeru), Hán dịch là An Minh, do 4 món báu hợp thành, cao và rộng mỗi chiều đều 336 vạn dặm.

Vì [Thích-đề-hoàn-nhân] là vị Thiên chủ cõi trời thuộc Dục giới nên kể ra trước.

Trong kinh Tạp A-hàm, quyển 40, nói rằng: “Có một vị tỳ-kheo thưa hỏi Phật, vì sao có tên là Thích-đề-hoàn-nhân? Đức Phật đáp rằng: ‘[Vị ấy] vốn xưa kia khi làm người thường bố thí một cách cung kính nhiệt thành,[9] có khả năng làm như vậy[10] nên gọi là Thích-đề-hoàn-nhân.’ [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Phú-lan-đà-la? Phật dạy: ‘Vì khi làm người rất nhiều lần bố thí.’ [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Ma-già-bà? Phật dạy: ‘Vì đó là tên cũ từ lúc còn làm người.’ [Lại thưa hỏi,] Vì sao có tên là Sa-bà-la? Phật dạy: ‘Vì khi còn làm người hay bố thí loại y có tên đó.’[11] [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Kiều-thi-ca? Phật dạy: ‘Vì đó là tên họ cũ khi còn làm người.’ [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Xá-chi Bát-đê? Phật dạy: ‘Vì Xá-chi là tên người vợ [của Đế-thích] nên gọi theo như vậy.’[12] [Lại thưa hỏi,] vì sao có tên là Thiên Nhãn? Phật dạy: ‘Vì khi [Đế-thích] còn làm người rất thông minh, trong một lúc ngồi yên có thể đồng thời suy nghĩ đến cả ngàn nghĩa lý, quán sát, cân nhắc, suy lường được hết thảy nên gọi là Thiên Nhãn.’ [Lại thưa hỏi,] vì sao gọi là Nhân-đề-lợi? Phật dạy: ‘Vì là Thiên đế của cả 32 vị thiên chủ.’”

Kinh Anh lạc, quyển 3 nói: “Thiên Đế-thích có tên là Câu-dực.” Đó là nói theo giáo môn. Trong kinh A-hàm, Đế Thích là A-na-hàm. Kinh Bát-nhã nói rõ việc [vị này] thưa hỏi khắp mười phương về nghĩa Bát-nhã, đều gọi tên là Thích-đề-hoàn-nhân.

Biệt giáo và Viên giáo đều nói rõ Thích-đề-hoàn-nhân đạt được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, nhưng nói về chỗ nội chứng thì khác nhau. Vị này trải qua Hiền kiếp 2.024 kiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Trước Thế Tôn. Đại lược là như vậy.

Giải thích theo bản tích thì Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng là ba mươi [tầng trời], Thập địa là ba mươi mốt, Đẳng giác là ba mươi hai, Diệu giác [thứ ba mươi ba] là [Thiên] chủ, cùng cư trú nơi cõi trời Đệ nhất nghĩa, cùng uống nước cam lộ thật tướng, tức là nghĩa bản. Hiện ra hình tích là [các tầng trời] trên đỉnh núi Tu-di.

Theo quán tâm thì giải thích rằng: Tự mình hành Thập thiện, khuyên người khác [hành Thập thiện], và tùy hỷ [với người hành Thập thiện]. Ba mươi điều thiện như vậy, tất cả đều là không, đều là giả, đều là trung đạo. Đó là ba mươi ba pháp quán.

Ba vị thiên tử Danh Nguyệt, [Phổ Hương và Bảo Quang] là các vị nội thần [của Thiên đế], cũng giống như hàng khanh tướng [của vua]. Hoặc cũng nói đây là Tam quang Thiên tử,[13] trong đó thiên tử Danh Nguyệt là Bảo Kiết Tường Nguyệt thiên tử, do Bồ Tát Đại Thế Chí ứng hiện, thiên tử Phổ Hương là Minh Tinh thiên tử, do Bồ Tát Hư Không Tạng ứng hiện, thiên tử Bảo Quang là Bảo Ý Nhật thiên tử, do Bồ Tát Quán Thế Âm ứng hiện. Đây là giải thích theo bản tích.

Giải thích theo quán tâm thì ba pháp quán tức là hai trí,[14] ba trí tức là tam quang.[15] Từ Tam đế sinh ra Tam trí,[16] Cho nên “đế” là thiên, “trí” là tử. Đại lược là như vậy.

Tứ đại Thiên vương là những vị ngoại thần của Đế thích, giống như các võ tướng. Các vị này cư ngụ trên bốn ngọn núi báu, cao bằng một nửa núi Tu-di, rộng 24 vạn dặm.

Phương đông là [Thiên vương] Đề-đầu-lại-trá, Hán dịch là Trì Quốc [Thiên vương], cũng còn gọi là An Dân, cư trú trên ngọn núi vàng ròng, thống lãnh hai loài quỷ là càn-thát-bà và phú-đan-na.

Phương nam là [Thiên vương] Tỳ-lưu-lặc-xoa, Hán dịch là Tăng Trưởng [Thiên vương], cũng còn gọi là Miễn Ly, cư trú trên ngọn núi lưu ly, thống lãnh hai loài quỷ là bệ-lệ-đa và cưu-bàn-trà.

Phương tây là [Thiên vương] Tỳ-lưu-bác-xoa, Hán dịch là Phi Hảo Báo [Thiên vương], cũng gọi là Ác Nhãn, cũng gọi là Tạp Ngữ, cư trú trên ngọn núi bạc trắng, thống lãnh hai loài quỷ là độc long và tỳ-xá-xà.

Phương bắc là [Thiên vương] Tỳ-sa-môn, Hán dịch là Chủng Chủng Văn [Thiên vương], cũng gọi là Đa Văn, cư trú trên ngọn núi thủy tinh, thống lãnh hai loài quỷ là la-sát và dạ-xoa.

Mỗi vị thiên vương như trên đều thống lãnh hai loài quỷ, không để cho gây não hại người, cho nên gọi các vị là Thiên vương Hộ Thế.

Giải thích theo bản tích thì bản là thường, lạc, ngã, tịnh, tức bốn vị Thiên vương hộ trì Phật pháp, không để cho người ngoài lấy đi cành lá hay đốn, chặt phá hoại [cây Phật pháp]. Thường Thiên vương bảo vệ phương đông, có hai cây thường và vô thường. Lạc Thiên vương bảo vệ phương nam, có hai cây lạc và vô lạc. Ngã Thiên vương bảo vệ phương tây, có hai cây ngã và vô ngã. Tịnh Thiên vương bảo vệ phương bắc, có hai cây tịnh và bất tịnh. Cành nhánh là ví như thường, hoa ví như ngã, quả ví như lạc và lá xanh tốt ví như tịnh. Bảo vệ những hoa quả này là vì thường làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Về hình tích hiển lộ là bốn vị Thiên vương bảo vệ giúp đỡ thế gian.

Giải thích theo quán tâm thì trí tuệ quán chiếu tứ đế tức là Tứ thiên vương, Mỗi đế trừ bỏ hai sự mê muội ái kiến, tức là [bốn đế] giúp trừ bỏ tám sự mê muội ái kiến.

Tiếp theo, phía trên cõi trời Đao-lợi có cõi trời Diệm-ma (Yama), Hán dịch là Thiện Thời, trong Đại [Trí độ] luận gọi là cõi trời Diệu Thiện, nằm cách cõi trời Đao-lợi 336 vạn dặm.

Phía trên cõi trời Thiện Thời còn có cõi trời Đâu-suất-đà (Tuṣita), Hán dịch là Diệu Túc, cách xa cõi trời Diệm-ma chỉ như khoảng cách trên mặt đất, nhưng không kể ra mà lược bỏ. Vì sao vậy? Vì cõi trời phía dưới [của Đâu-suất-đà] căn tánh ngu độn, cõi trời phía trên thì đắm say dục lạc mà [cả hai] còn biết đến dự [pháp hội này], huống chi [cõi Đâu-suất-đà] này không ngu độn, không đắm say dục lạc, lẽ nào lại không đến dự. [Cho nên không cần phải kể ra.]

Tự Tại thiên tử là [vị thiên chủ ở] tầng trời thứ năm [của Dục giới], Đại Tự Tại thiên tử là [vị thiên chủ ở] tầng trời thứ sáu. [Hai cõi trời này, một cõi] tự biến hóa ra năm món dục và cõi kia [có thể thỏa mãn với] năm món dục do người khác biến hóa ra.[17] Đại lược là như vậy.

Có người cho rằng Đại Tự Tại là nói [vị thiên chủ của] tầng trời cao nhất thuộc Sắc giới,[18] nhưng theo ý nghĩa ở đây không thể lên đến tận cõi trời ấy.

Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ trong pháp Tam-muội Tự tại và Tam-muội Tự tại vương, còn hình tích biểu hiện là hai cõi trời [Hóa lạc và Tha hóa tự tại].

Giải thích theo quán tâm thì thể nhập vào không là pháp quán Tự Tại, thể nhập vào Trung đạo là pháp quán Đại Tự Tại. Đại lược là như thế.

Tiếp đến nói về cõi trời Sắc giới, [cao nhất trong thế giới Ta-bà].

Thế giới Ta-bà, Hán dịch là Nhẫn [độ]. Chúng sinh trong thế giới này chấp nhận sống yên trong 10 điều ác, chẳng chịu thoát ra khỏi. Theo [tính chất] con người [như vậy] mà đặt tên nên gọi là Nhẫn [độ].

Kinh Bi Hoa nói: “Vì sao gọi là Ta-bà? Chúng sinh ở đây nhẫn chịu ba món độc[19] và các phiền não, cho nên gọi là Nhẫn độ.”[20]

Cũng gọi là nơi chung sống hỗn tạp của chín đường chúng sinh.[21]

Chữ Phạm [trong Đại Phạm Thiên vương], Hán dịch là “ly dục”, [nghĩa là lìa bỏ dục lạc]. Trừ bỏ những trói buộc ở cõi đất bên dưới để vượt lên Sắc giới trên cao, cho nên nói là ly dục. Lại cũng xưng là Cao Tịnh, [nghĩa là cao quý thanh tịnh].

[Danh xưng] Thi-khí, Hán dịch là Đảnh Kế, [nghĩa là búi tóc trên đỉnh đầu]. Lại nữa, trong tiếng Phạn gọi lửa là thọ-đề thi-khí. Vị thiên vương này vốn trước đây tu tập phép định Hỏa quang, phá trừ được những mê hoặc ở Dục giới. Theo phẩm đức ấy mà đặt tên [nên gọi là Thi-khí]. Trong kinh văn [chỗ này] nêu danh xưng Đại Phạm, rồi lại nói đến Thi-khí, có vẻ như là hai vị [khác nhau], nhưng dựa vào Thích luận thì biết Thi-khí cũng chính là Đại Phạm, vì kinh văn nêu địa vị trước rồi nói tên sau, chỉ là một người thôi.

[Người tu tập] trụ nơi thiền định ở khoảng giữa, bên trong có giác quán, bên ngoài có ngôn thuyết, đạt đến chỗ then chốt chủ yếu được làm Thiên vương. Nếu chỉ có riêng việc tu thiền thì làm dân, tức là chư thiên, có tu tập thêm bốn tâm vô lượng thì làm thiên vương.

Ở cõi trời Sơ thiền có Phạm chúng,[22] Phạm phụ[23] và Đại Phạm, nay chỉ nêu [Đại phạm Thi-khí là] vị vua [đứng đầu] để bao hàm tất cả.

Quang Minh tức là các cõi trời Nhị thiền, gồm có Thiểu Quang thiên, Vô Lượng Quang thiên và Quang Âm thiên.

Cõi Tam thiền có Thiểu Tịnh thiên, Vô Lượng Tịnh thiên và Biến Tịnh thiên.

Cõi Tứ thiền có Mật thân thiên, cũng gọi là Vô quái ngại thiên,[24] Vô lượng mật thiên, cũng gọi là Thọ phúc thiên,[25] Mật quả thiên, cũng gọi là Quảng quả vô tưởng mật thiên, lại cũng gọi là Vô tưởng thiên.[26] Lại có Ngũ Na-hàm thiên[27] gồm Bất phiền thiên, Bất nhiệt thiên, Thiện hiện thiên, Thiện kiến thiên, Sắc cứu cánh thiên, cũng gọi là Đại Tự Tại thiên, tức là Ma-hê-thủ-la thiên. Kinh văn lược nói, không nêu ra đầy đủ, chỉ nói thêm “như vậy” tức là còn nhiều chư thiên như vậy, vì là thông lệ nên dù giải thích theo giáo môn, bản tích hay quán tâm đều có thể tự suy xét biết được.

KINH VĂN

Có 8 vị long vương: Long vương Nan-đà, Long vương Bạt-nan-đà, Long vương Sa-già-la, Long vương Hòa-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca, Long vương A-na-bà-đạt-đa, Long vương Ma-na-tư, Long vương Ưu-bát-la, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.

Tiếp theo nói đến 8 vị Long vương.

[Long vương] Nan-đà, nghĩa là hoan hỷ, chữ Bạt [trong Bạt-nan-đà] có nghĩa là thiện. [Hai vị long vương này là] anh em, thường bảo vệ, giúp đỡ nước Ma-kiệt-đề, mưa nắng phải thời, trong nước không năm nào bị đói thiếu, vua Bình Sa nhân đó mỗi năm mở hội một lần, nhân dân trăm họ nghe đến đều hoan hỷ, do vậy mà có tên Hoan Hỷ, chính là hai con rồng sống trong biển mà trước đây ngài Mục-kiền-liên đã hàng phục.[28]

Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ ở Hoan hỷ địa, còn hình tích hiển lộ là [Long vương sống] trong biển.

Theo quán tâm giải thích thì ba pháp quán tức là Trung đạo sinh pháp hỷ.

[Long vương] Sa-già-la là gọi tên theo vùng biển mà vị này cư trú, cũng là tên gọi được dùng trong kinh Hoa nghiêm. Các nhà cựu giải nói là gọi theo tên nước.

[Giải thích theo bản tích thì] bản là trụ trong biển lớn trí tuệ ba-la-mật, còn hình tích hiển lộ là sống trong biển xanh.

[Long vương] Hòa-tu-kiết, Hán dịch là Đa Đầu, nghĩa là có nhiều đầu, lại cũng gọi là Bảo Xưng, sống ở trong nước.

[Giải thích theo bản tích thì] bản là trụ trong Tam-muội Phổ Hiện Sắc Thân, còn hình tích là thị hiện ra [thân rồng] nhiều đầu.

Giải thích theo quán tâm thì nhập vào pháp quán giả nên phân biệt được vô lượng pháp môn. Đại lược là như vậy.

[Long vương] Đức-xoa-ca, Hán dịch là Hiện Độc, cũng gọi là Đa Thiệt (nhiều lưỡi) hoặc Lưỡng Thiệt (hai lưỡi).

[Giải thích theo bản tích thì] bản là trụ trong pháp môn Nhạo thuyết vô ngại biện, còn hình tích là thị hiện ra [thân rồng] nhiều lưỡi.

[Long vương] A-na-bà-đạt-đa là gọi theo tên hồ nước mà vị này cư ngụ, Hán dịch là Vô Nhiệt, tức là hồ Vô Nhiệt.

Kinh Trường A-hàm, quyển 18, nói rằng: “Trên đỉnh Tuyết sơn có hồ nước tên là A-nậu-đạt, trong hồ có một cung điện năm cột trụ. Dựa theo tên hồ mà gọi tên vị Long vương sống trong đó.”

Loài rồng ở trong cõi Diêm-phù-đề có ba mối lo. Một là bị gió nóng thổi cát nóng trúng vào thân, thiêu đốt da thịt cho đến xương tủy, đó là khổ não. Hai là bị gió ác thổi mạnh vào cung điện làm mất đi áo quý che thân, khiến thân rồng tự hiển lộ ra, đó là khổ não. Ba là khi loài rồng đang tụ tập vui chơi thì chim kim sí vào cung, bắt rồng con mới sinh ăn thịt, khiến phải sợ hãi, lo lắng phiền muộn. Hồ nước này không có ba mối lo đó. Nếu chim [kim sí] vừa khởi lên ý nghĩ muốn đến hồ này liền lập tức bỏ mạng. Cho nên gọi tên là hồ Vô Nhiệt Não.

[Giải thích theo bản tích thì] bản là vốn trụ nơi trong trẻo mát mẻ của thường, lạc, ngã, tịnh, còn hình tích hiện ra là sống trong hồ nước mát.

Giải thích theo quán tâm thì ba pháp quán [không, giả, trung] là trí tuệ nhiệm mầu, làm lắng sạch năm trụ địa phiền não,[29] tránh khỏi cát nóng của hai sự chết.[30]

[Long vương] Ma-na-tư, Hán dịch là Đại Thân, hoặc là Đại Ý, Đại Lực... [Khi đánh nhau với Đế-thích, vua] A-tu-la dùng nước biển làm ngập thành Hỷ Kiến, vị Long vương này hiện thân [to lớn] quấn vòng quanh thành ngăn được nước biển [để giúp Đế-thích].

Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ trong pháp môn Vô biên thân, còn hình tích biểu hiện là thân thể to lớn.

Giải thích theo quán tâm thì tánh của pháp quán Trung đạo chân chánh là rộng khắp. Đại lược là như vậy.

[Long vương] Ưu-bát-la,[31] Hán dịch là hồ sen Đại Sắc.[32] Vị này cư trú trong hồ nên gọi theo tên của hồ.

Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ nơi Tam-muội Pháp hoa, còn hình tích biểu hiện là [thân rồng] cư trú trong hồ này.

Giải thích theo quán tâm thì [tu tập] ba pháp quán [không, giả, trung] tức là tu tạo nhân, nhân ở đây là hoa sen.

Kinh Chánh pháp niệm nói: “Loài rồng bảo vệ bờ cõi cho chư thiên. Khi a-tu-la khởi binh [đánh nhau với chư thiên] thì trước tiên phải đánh nhau với rồng. Cho nên biết rằng, loài rồng thuộc sự cai quản của chư Thiên.”

KINH VĂN

Có bốn vị vua khẩn-na-la: Vua Khẩn-na-la Pháp, Vua Khẩn-na-la Diệu Pháp, Vua Khẩn-na-la Đại Pháp, Vua Khẩn-na-la Trì Pháp, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.

Tiếp theo kể đến bốn vị [vua] khẩn-na-la (kiṃnara), cũng đọc là chân-đà-la, Hán dịch là nghi thần, hình dạng giống như loài người nhưng có một cái sừng, cho nên gọi là “nhân phi nhân” (người chẳng phải người). Đây là thần phụ trách Pháp nhạc của Thiên đế, cư trú ở ngọn núi bằng mười món báu, thân thể hình tướng dị thường, chuyên lo việc tấu nhạc. Khi đức Phật thuyết pháp [các vị này theo] chư thiên đàn ca xưng tán, trong đại hội Vu-già[33] [các vị này] tán tụng các pháp môn.

Các nhà cựu giải nói: “[Vua] Khẩn-na-la Pháp tấu xưng pháp Tứ đế, [Vua] Khẩn-na-la Diệu Pháp tấu xưng pháp Thập nhị nhân duyên, [Vua] Khẩn-na-la Đại Pháp tấu xưng pháp Lục độ, [Vua] Khẩn-na-la Trì Pháp tấu xưng tổng quát cả ba pháp vừa kể.” Ngày nay thì nói các pháp tấu xưng đó là pháp môn Tứ giáo.[34]

[Giải thích theo bản tích thì] bản là vốn trụ nơi không thể nghĩ bàn, không ra khỏi Diệt [tận] định, yên ổn trong thiền định mà chắp tay, dùng muôn ngàn lời kệ xưng tán các bậc Pháp Vương, còn hình tích hiển lộ là nhờ vào đàn sáo ca hát để tán vịnh Thập lực.[35]

Giải thích theo quán tâm thì quán hết thảy âm thanh tức là không, tức là giả, tức là trung đạo, tùy thuận theo ba đế[36] tức là xưng tán Phật.

KINH VĂN

Có bốn vị vua càn-thát-bà: Vua Càn-thát-bà Nhạc, Vua Càn-thát-bà Nhạc Âm, Vua Càn-thát-bà Mỹ, Vua Càn-thát-bà Mỹ Âm, mỗi vị đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.

[Tiếp theo nói đến bốn vị vua Càn-thát-bà.] Càn-thát-bà (Gandharva), Hán dịch là Khứu hương (ngửi mùi hương), [loài này] dùng mùi hương làm thức ăn, cũng gọi là Hương ấm, từ thân thể tỏa ra mùi hương. Các vị này là thần chuyên trách Tục nhạc[37] của Thiên đế.

Nhạc Càn-thát-bà chuyên về âm nhạc múa cờ. Nhạc Âm Càn-thát-bà chuyên các loại trống phách đàn sáo. Mỹ Càn-thát-bà cũng chuyên về nhạc múa cờ nhưng vượt trội hơn. Mỹ Âm Càn-thát-bà cũng chuyên các loại trống phách đàn sáo nhưng vượt trội hơn.

KINH VĂN

Có bốn vị vua a-tu-la: Vua A-tu-la Bà-trĩ, Vua A-tu-la Khư-la-kiển-đà, Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la, Vua A-tu-la La-hầu, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.

[Tiếp theo nói đến bốn vị vua A-tu-la.] A-tu-la (Asura), Hán dịch là Vô tửu. [Loài này trước đây] đi hái hoa trong khắp bốn cõi thiên hạ, mang về ủ rượu trong biển lớn, nhưng do nghiệp lực của các loài cá, rồng nên [ủ mãi] không thành mùi vị rượu. Do việc này mà sân hận nổi lên, thề không bao giờ uống rượu nữa, cho nên gọi là thần Vô tửu.

[A-tu-la] lại cũng dịch là Bất Đoan. Ngài Đạo An[38] nói rằng: “[A-tu-la] dịch là ‘chất lượng’ (質諒), nghĩa là ‘thành thật chất phác’, vị thần này dua nịnh chẳng thật thà, không tương xứng với danh xưng đó.”[39]

[A-tu-la] có hai loại. Một loại sống ở ven biển lớn, thuộc loài quỷ, một loại sống dưới đáy biển lớn, thuộc loài súc sinh.

[Vua A-tu-la] Bà-trĩ, Hán dịch là Bị Phược, nghĩa là chịu trói buộc, hoặc gọi là Ngũ Xứ Bị Phược,[40] hoặc cũng gọi là Ngũ Ác. Có vật buộc vào cổ không thể cởi ra được cho nên gọi là Bị Phược. Lại cũng nói là Hữu Phược, vì [từng] bị Đế Thích trói buộc.[41]

Giải thích theo bản tích thì bản là vốn có khả năng dùng năm trói buộc[42] để trói ma ngoại đạo, còn tích là hiện ra hình tượng [a-tu-la] như vậy.

Kinh Chánh Pháp hoa nói pháp quán thù thắng nhất là dùng trí tuệ Tam quán để buộc chặt năm trụ phiền não, thể nhập thực tế.

[Vua A-tu-la] Khư-la-kiển-đà, Hán dịch là Quảng Kiên Giáp,[43] cũng gọi là Ác Âm, từ trong nước biển vọt lên.

Kinh Chánh Pháp hoa[44] gọi tên vị này là Bảo Cẩm.[45]

Giải thích theo bản tích thì bản là vốn trụ nơi quyền trí và thật trí, lòng từ gánh vác chúng sinh, tích là hiện tướng vai rộng.

Giải thích theo quán tâm đây thì ba pháp quán [không, giả, trung] có thể mở rộng che trùm năm trụ địa phiền não trong biển lớn sinh tử.

[Vua A-tu-la] Tỳ-ma-chất-đa, Hán dịch là Tịnh Tâm, cũng dịch là Chủng Chủng Nghi. Từ trong sóng biển phát ra âm thanh nên gọi là Tỳ-ma-chất-đa, tức là cha của [nữ a-tu-la] Xá-chi, [là vợ của Đế-thích].

Kinh Quán Phật Tam-muội[46] nói rằng: “Chư thiên cõi trời Quang Âm bay ngang đất này,[47] do đất khiến cho lòng dục khởi lên,[48] liền xuống biển tắm để rửa sạch chất bất tịnh. [Chất bất tịnh trôi trong nước] chìm xuống bùn, biến thành quả trứng. Qua 8.000 năm trứng ấy nở ra một người con gái, có 999 cái đầu và 24 cánh tay.[49] Người con gái này vui đùa trong nước, tinh của nước nhập vào thân [liền có thai,] qua 8.000 năm sinh một đứa con trai, có 24 đầu và 999 cánh tay,[50] từ trong sóng biển phát ra âm thanh gọi tên là Tỳ-ma-chất-đa. [Tỳ-ma-chất-đa] cưới người con gái càn-thát-bà, sinh ra nữ a-tu-la Xá-chi. Đế-thích [đến xin cầu hôn, theo yêu cầu của Tỳ-ma-chất-đa liền biến hóa,] do thiện nghiệp [của Đế-thích] mà hiện ra cung điện bằng bảy báu để cha [của nàng Xá-chi] cư ngụ, nhờ đó cưới được Xá-chi về làm vợ.[51] Về sau [do Xá-chi nói xấu chồng với cha[52] nên Tỳ-ma-chất-đa tức giận liền] khởi binh [đánh Đế-thích], chân đạp nước biển, [999 cánh] tay cùng lúc vươn tới công phá thành Hỷ Kiến. Đế-thích nhờ uy lực của chú Bát-nhã nên không bị hại.

Kinh Chánh Pháp hoa[53] gọi tên vị này là Yến Cư.

Giải thích theo bản tích thì bản là hình sắc, tâm ý vốn tự thanh tịnh, còn hình tích là thị hiện có tên [Tịnh Tâm].

Giải thích theo quán tâm thì pháp quán Trung đạo chân chánh tức là “tịnh tâm”, là tâm thanh tịnh.

[Vua A-tu-la] La-hầu (Rāhuasura),[54] Hán dịch là Chướng Trì, [nghĩa là che chướng, nắm giữ], vì loài này nắm giữ, che chướng mặt trời, mặt trăng. La-hầu thuộc loài súc sinh, thân dài 84.000 do-tuần, miệng rộng 1.000 do-tuần, dùng châu báu trang sức trên thân hình, thường ngắm các thiên nữ trong vườn rừng của chư thiên.

Nếu loài người trong bốn cõi thiên hạ biết hiếu dưỡng cha mẹ, cúng dường các bậc sa-môn thì chư thiên có uy lực, [có thể làm] mưa đao trong không trung. Nếu không được như vậy thì chư thiên phải vào ở trong cung chẳng ra bên ngoài.

Lại nói rằng mặt trời chiếu sáng khiến mắt của La-hầu chẳng thể nhìn thấy, liền đưa bàn tay lên che. Người đời đều nói là nhật thực (mặt trời bị ăn), cho là quái lạ hung hiểm, đặt ra đủ loại tà thuyết. [La-hầu] che mặt trăng cũng giống như vậy.

Hoặc khi [La-hầu] phát ra âm thanh rất lớn, người đời nói là tiếng thú trời rống, cho là hung hiểm hỗn loạn, là điềm vương triều suy yếu, đặt ra đủ loại tà thuyết.

Vào lúc La-hầu muốn gây hại cho mặt trời mặt trăng thì hiện thân lớn lên gấp nhiều lần, rồi hà hơi thổi vào mặt trời, mặt trăng. Mặt trời, mặt trăng bị mất ánh sáng liền đến thưa với Phật. Phật dạy La-hầu không được nuốt mặt trời, mặt trăng. La-hầu [nghe lời Phật dạy thì] toàn thân rúng động, toát mồ hôi đầm đìa, liền buông mặt trời, mặt trăng ra. [Đó là do] sức của mặt trời, mặt trăng, sức của chúng sinh và oai lực của Phật, đủ các nhân duyên như vậy nên [La-hầu] không thể gây hại.

Xưa có một vị bà-la-môn thông minh, thường bố thí rộng rãi, dùng cả 4.000 chiếc xe chở lương thực ra giữa đồng trống để bố thí [rộng khắp]. [Khi ấy] có một tháp thờ Phật bị kẻ xấu đốt cháy, vị này tức thời dùng cả 4.000 chiếc xe chở nước đến dập lửa, cứu được tháp khỏi cháy. [Nhân làm việc công đức ấy lại] hoan hỷ phát nguyện rằng sau này sẽ được có thân hình to lớn nhất trong Dục giới. Người ấy hoan hỷ làm việc bố thí nhưng đã không có niềm tin chân chánh, lại ưa thích sự đối chọi, đấu tranh, nên tái sinh vào thành Quang Minh, chính là La-hầu, vua A-tu-la.

Kinh Chánh Pháp hoa[55] gọi [tên vị này] là Hấp Khí.

Bản tích, quán tâm, [đại lược cũng đều như vậy]...

KINH VĂN

Có bốn vị vua ca-lâu-la: Vua Ca-lâu-la Đại Uy Đức, Vua Ca-lâu-la Đại Thân, Vua Ca-lâu-la Đại Mãn, Vua Ca-lâu-la Như Ý, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.

Tiếp theo nói đến bốn vị vua Ca-lâu-la. Ca-lâu-la (garuḍa), Hán dịch là kim sí (cánh vàng). Loài chim này có cánh màu vàng, sống trên những cây đại thụ trong khắp bốn cõi thiên hạ. Hai cánh chim nối lại dài đến 336 vạn dặm. Có người nói, [loài chim này] Trang Tử gọi là chim bằng. Chim bằng mỗi khi đi đâu thì các loài chim khác vây quanh hộ vệ, cũng gọi là chim phượng hoàng. Nhưng chỉ nói riêng việc chim phượng hoàng khi đi không giẫm đạp trên cỏ tươi, chỉ ăn bông trúc,[56] đậu trên cây nhũ đồng,[57] trong khi chim kim sí thì ăn thịt loài rồng, làm sao có thể đồng loại với nhau.

[Vua Ca-lâu-la] Đại Uy Đức, nghĩa là có uy đức vượt trội hơn trong đồng loại, lại cũng có nghĩa là uy lực nhiếp phục loài rồng.

Kinh Chánh Pháp hoa gọi tên vị này là Cụ Túc.[58]

[Vua Ca-lâu-la] Đại Thân, nghĩa là thân lớn, đó là nói thân lớn hơn hết trong đồng loại.

[Vua Ca-lâu-la] Đại Mãn, hàm ý là tự mình thường có đủ số rồng để ăn.

[Vua Ca-lâu-la] Như Ý, là do vị này trên cổ có đeo hạt châu như ý [nên gọi tên như vậy].

Kinh Chánh Pháp hoa[59] gọi tên vị này là Bất Khả Động.

Loài chim ca-lâu-la có thần lực, chim trống biến hóa thành thiên tử, chim mái biến hóa thành thiên nữ, lại biến hóa nơi ở của mình có cung điện xây bằng các món báu, đầy đủ trăm món ăn ngon, nhưng do nghiệp báo nên vẫn ăn thịt loài rồng. [Chim ca-lâu-la] sinh ra từ thai mẹ thì ăn thịt được loài rồng cũng sinh ra từ thai, không thể ăn thịt ba loài rồng sinh ra từ trứng, từ ẩm thấp và từ sự biến hóa. [Chim ca-lâu-la] sinh ra từ trứng thì ăn thịt được hai loài rồng sinh ra từ thai và từ trứng. [Chim ca-lâu-la] sinh ra từ sự ẩm thấp thì ăn thịt được ba loài rồng sinh ra từ thai, từ trứng và từ sự ẩm thấp. [Chim ca-lâu-la] sinh ra từ sự biến hóa thì có thể ăn cả bốn loài rồng.

Kinh Quán Phật Tam-muội nói: [Tên chim này] đọc đúng theo Phạn ngữ là ca-lâu, trong một ngày ăn hết một con rồng chúa và 500 rồng con ở phía đông của núi. Ở ba phía tây, nam, bắc cũng ăn hết số rồng như vậy. Xoay quanh hết một vòng thì quay lại từ đầu, cứ như vậy mà sống đến 8.000 năm. Khi lâm chung thế lực không còn, muốn ăn rồng con nhưng bị rồng mẹ hà hơi bảo vệ, không thể ăn được liền nổi cơn sân hận, từ núi Kim Cang lao thấu xuống biển, xuyên qua tầng địa luân, nhưng không thể xuyên qua tầng phong luân,[60] bị sức gió bật ngược lại nên từ đó bay vọt trở lên đến núi Kim Cang. Cứ lao xuống vọt lên như vậy đến bảy lần, về lại trên đỉnh núi thì chết, da thịt rách ra tự nhiên hóa lửa dữ, sắp thiêu cháy cả ngọn núi báu. [Long vương] Nan-đà làm mưa dập tắt lửa. Khi ấy da thịt đều đã bị lửa thiêu chín nhừ, chỉ còn lại trái tim bay xuyên xuống đến tầng phong luân, lại bị dội ngược về, cũng qua bảy lần như thế rồi mới rơi xuống trên núi, hóa thành viên ngọc như ý. Con rồng nào có được viên ngọc này thì thành Long vương. Vua chúa cõi người cũng động lòng đối với viên ngọc quý này.

KINH VĂN

Vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hi cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc, hết thảy đều đảnh lễ sát chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên.

Tiếp đến nói về [hội chúng cõi] người. Vi-đề-hy (Vaidehī) [là nhắc tên người mẹ của vua A-xà-thế], Hán dịch là Tư Duy.[61] Tần-bà-sa-la (Bimbisāra), Hán dịch là Mô Thật, là [nhắc đến tên] cha của vua A-xà-thế. [Hai người này không có trong chúng hội.]

A-xà-thế (Ajātaśatru) có nghĩa là Vị Sinh Oán (oán thù từ lúc chưa sinh ra), hoặc cũng có tên là Bà-lưu-chi (Balaruci), Hán dịch là Vô Chỉ (không có ngón tay).[62] Những người thân quen gần gũi thì gọi là Thiện Kiến.

[Xét theo bản tích thì] tên gọi Thiện Kiến là bản, còn gọi tên Vô Chỉ là biểu hiện hình tích. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “A-xà gọi là chẳng sinh, Thế gọi là oán. Vì tánh Phật không sinh, ắt phiền não oán sinh. Vì phiền não oán sinh, nên không thấy tánh Phật. Phiền não không sinh ắt thấy tánh Phật.”[63]

Lại nữa, A-xà gọi là chẳng sinh, thế là pháp thế gian. Vì tám pháp của thế gian không làm ô nhiễm được nên gọi là A-xà-thế. Đây là nghĩa bản [theo bản tích].[64]

Kinh Phổ Siêu[65] nói: “A-xà-thế sám hối với Bồ Tát Văn-thù nên được pháp nhẫn nhu thuận. Sau khi chết rơi vào địa ngục Tân-trá-la, vừa vào liền ra khỏi ngay, tái sinh lên cõi Phật phương trên, chứng đắc Vô sinh nhẫn. Khi đức Phật Di Lặc ra đời sẽ quay lại thế giới này, hiệu là Bồ Tát Bất Động, về sau sẽ thành Phật, hiệu là Như Lai Tịnh Giới. Hình tích hiển lộ mà còn như thế, há có thể suy lường được căn Nguyên tác môn? Khi [đức Phật] thuyết kinh Pháp hoa, [vua A-xà-thế] dự vào chúng thanh tịnh. Đến lúc [đức Phật] thuyết kinh Niết-bàn lại nêu ra tội nghịch, không khác với việc ngài Ca-diếp trong hội Pháp hoa được thụ ký mà đến khi thuyết kinh Niết-bàn không được nhận sự phó chúc. Cho nên không thể mê muội nơi hình tích mà nghi hoặc chỗ căn Nguyên tác môn.

Giải thích theo quán tâm thì tham ái là mẹ, vô minh là cha, hại diệt cha mẹ ấy nên gọi là nghịch. Nghịch như vậy tức là thuận. [Kinh Duy-ma-cật nói:] “Làm việc trái đạo là thông đạt Phật đạo.”[66]

● Hỏi: Phật thuyết pháp ở cõi người, sao nêu số người trong chúng hội ít như thế?

● Đáp: Văn kinh chỉ lược nêu, không ghi đầy đủ, nhưng số người như thế cũng không phải ít. Kinh nói “cùng với các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương v.v.” [Ở đây cũng tương đương như] trong kinh Vô lượng nghĩa kể ra bốn vị luân vương,[67] quốc vương, đại thần, quốc dân, kẻ nam người nữ... Chúng hội như vậy tất nhiên rất nhiều.

● Hỏi: Tất cả trời, người, quỷ, thần đều đến gặp Phật nghe pháp, nhưng cõi địa ngục và cõi Vô sắc không thấy kể ra là có hàm ý gì?

● Đáp: Nay sẽ giải thích rõ ý nghĩa này. Thông thường, lên hay xuống trong sáu đường[68] là do việc trì giới hay phạm giới; gặp Phật hay không gặp Phật[69] là do theo pháp tu tập chuyên cần tinh tấn hay trì trệ. Nhưng việc trì giới có thô thiển, có tinh tế, cho nên quả báo có hơn kém nhau. Theo pháp tu tập thì có Tiểu thừa, Đại thừa, nên việc gặp Phật cũng có [ý nghĩa] quyền biến hay chân thật.

[Sau đây] có thể tạm phân chia sơ lược việc trì giới và tu tập theo các thừa thành ba bậc [thượng, trung, hạ]. Dựa theo kinh Niết-bàn [lại dùng cách] một câu mở rộng thành 4 câu để giải thích ý nghĩa này thì sẽ rõ ràng.

- Thứ nhất là việc trì giới nghiêm cẩn và sự tu tập theo các thừa cũng tinh tấn gấp rút. (Thừa giới câu cấp.)

- Thứ hai là việc trì giới thiếu nghiêm cẩn nhưng sự tu tập theo các thừa thì tinh tấn. (Thừa cấp giới hoãn.)

- Thứ ba là việc trì giới nghiêm cẩn nhưng sự tu tập theo các thừa thì trì trệ. (Thừa hoãn giới cấp.)

- Thứ tư là việc trì giới thiếu nghiêm cẩn và sự tu tập theo các thừa cũng trì trệ. (Thừa giới câu hoãn.)

Nếu luận về trì giới và pháp tu tập hay các thừa theo Thông giáo thì hết thảy pháp lành, hết thảy các pháp quán trí tuệ đều được gọi là giới, cũng đều xem là thừa, là pháp để tu theo. Cõi người, cõi trời [được xếp chung với Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát thành] Ngũ thừa chính là ý nghĩa này. Đạo chung cùng, giới bình đẳng, tất cả đều là ý nghĩa theo Thông giáo.

[Nhưng] nay sẽ phân chia theo Biệt giáo [để giải thích].

Ba quy y, năm giới, mười điều lành, tám trai giới, các luật nghi của người xuất gia, cho đến giữ tâm ý an định cùng với việc thường ngăn phòng thân, miệng, đều ngăn được việc rơi vào đường ác và sẽ được quả báo sinh trong hai cõi trời, người. Những điều như vậy gọi là giới.

Nếu nghe kinh hiểu nghĩa, rồi quán xét bằng trí tuệ, suy xét các pháp tứ đế, thập nhị nhân duyên, lục độ, sinh diệt, vô sinh diệt v.v. [Nhờ đó] trí tuệ có thể phá trừ phiền não, dần dần ra khỏi ba cõi. Những điều như vậy gọi là tu tập theo các thừa.

Cho nên, Đại phẩm nói: “Việc thiện có hình tướng thì không động, không xuất; việc thiện không hình tướng thì thường động, thường xuất.”[70] Tức là ý nghĩa như vậy.

[Thứ nhất], nếu việc trì giới nghiêm ngặt và sự tu tập theo các thừa tinh tấn gấp rút, [lại có ba trường hợp].

1. Nếu trì giới nghiêm ngặt ở bậc hạ thì được quả báo trong cõi người. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Tiểu thừa[71] thì trong khi được thân người ấy lại được gặp lúc thuyết giảng ba tạng giáo pháp, được gặp Phật nghe Pháp. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Trung thừa[72] thì trong khi được thân người ấy gặp được lúc thuyết giảng Đại thừa Thông giáo cho đến các kinh phương tiện Đại thừa, được gặp Phật nghe Pháp. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Thượng thừa thì trong khi được thân người ấy gặp được các giáo pháp Hoa nghiêm, Pháp hoa v.v. cũng như các giáo pháp Trung đạo của Viên giáo, được gặp Phật nghe Pháp, được dự vào thính chúng cùng nghe thuyết pháp.

2. Nếu trì giới nghiêm ngặt ở bậc trung thì quả báo sinh làm chư thiên ở các cõi trời Dục giới. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Tiểu thừa thì trong khi được thân chư thiên Dục giới đó lại gặp được lúc thuyết giảng ba tạng giáo pháp, được gặp Phật nghe Pháp, ngoài ra như trên đã nói. Đối với việc tu tập theo Trung thừa, Thượng thừa cũng đều giống như trên đã nói.

3. Nếu trì giới nghiêm ngặt ở bậc thượng, cộng thêm tu thiền định thì quả báo được sinh làm chư thiên ở các cõi trời Sắc giới và Vô sắc giới. Nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Tiểu thừa thì trong khi được thân chư thiên ở cõi trời Sắc giới, Vô sắc giới đó lại gặp được lúc thuyết giảng ba tạng giáo pháp, được gặp Phật nghe Pháp. Đối với việc tu tập theo Trung thừa, Thượng thừa cũng đều giống như trên đã nói.

Đến đây giải thích xong điều thứ nhất.

[Thứ hai], việc trì giới thiếu nghiêm ngặt nhưng sự tu tập theo các thừa thì gấp rút. Nếu việc trì giới ở cả ba bậc hạ, trung và thượng đều thiếu nghiêm ngặt thì quả báo là rơi vào ba đường ác: [địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sinh]. Khi ấy nếu tinh tấn gấp rút tu tập theo Tiểu thừa thì trong lúc thọ thân trong ba đường ác được gặp lúc thuyết giảng ba tạng giáo pháp, được gặp Phật nghe Pháp. Đối với việc tu tập theo Trung thừa, Thượng thừa cũng đều giống như trên đã nói.

Đến đây giải thích xong điều thứ hai.

[Thứ ba], việc trì giới nghiêm ngặt nhưng sự tu tập theo các thừa thì trì trệ. Nếu việc trì giới nghiêm ngặt ở cả ba bậc thượng, trung và hạ thì [có thể] thọ thân trong hai cõi trời, người thuộc Dục giới cũng như chư thiên Sắc giới và Vô sắc giới. Do sự tu tập theo cả ba thừa đều trì trệ nên tuy gặp lúc Phật ra đời thuyết giảng giáo pháp ba thừa, nhưng vì tham ái đắm chấp nơi quả báo hoan lạc, đam mê năm món dục mà không được thấy Phật, nghe pháp. [Vào thời Phật] ở ngay trong nước Xá-vệ có ba trăm ngàn gia đình không được gặp Phật, nghe pháp, cũng giống như chư thiên tham đắm dục lạc trong ba cõi.

Đến đây giải thích xong điều thứ ba.

[Thứ tư], nếu việc trì giới thiếu nghiêm ngặt và sự tu tập theo các thừa đều trì trệ thì thọ quả báo trong ba đường ác, không gặp Phật, không được nghe pháp.

Đến đây giải thích xong điều thứ tư.

Trong kinh này không nêu ra chúng sinh địa ngục là vì ngăn cách bởi việc trì giới không nghiêm ngặt phải chịu quả báo khổ não nặng nề, lại tu tập theo Thượng thừa trì trệ nên không thể được gặp Phật, nghe Pháp trong hội Pháp hoa. Những kinh khác có kể đến chúng sinh địa ngục, đó là những chúng sinh biết tu tập tinh tấn gấp rút theo Tiểu thừa, Trung thừa.

Trong kinh này lại cũng không đề cập đến chư thiên cõi Vô sắc, là vì họ trì giới nghiêm ngặt ở bậc thượng nên được thân chư thiên nhưng đắm say mùi vị thiền định, tu tập theo Thượng thừa trì trệ nên không thể được gặp Phật, nghe pháp trong hội Pháp hoa. Những kinh khác có nói đến chư thiên Vô sắc giới, đó là những vị biết tu tập tinh tấn gấp rút theo Tiểu thừa, Trung thừa.

Nếu hiểu rõ được ý nghĩa như trên thì đem áp dụng vào hết thảy tám bộ chúng như trời, rồng... đều sẽ rõ biết được nhân duyên trước đây đã [trì giới và tu tập] nghiêm ngặt hay không nghiêm ngặt, tinh tấn hay trì trệ. Từ đó có thể hiểu được ý nghĩa vì sao có những loài nào đến hoặc không đến [pháp hội này]. Giảng rộng ra thì như trong sớ giải Tịnh danh.[73]

Lại nữa, rõ biết ý nghĩa quyền biến mới dẫn đến nghĩa chân thật, ý nghĩa bản tích trở nên sáng tỏ. Đem ý nghĩa này mà xét các quán hạnh đã qua thì nhân quả ba đời đều sáng tỏ, có thể rõ biết.

“Hết thảy đều đảnh lễ sát chân Phật [rồi lui lại ngồi sang một bên].” Câu cuối cùng này tổng kết lại phần hội chúng vân tập.

Giải thích phần Biệt tự

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn có bốn chúng đi nhiễu quanh, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Phật thuyết kinh ấy xong, ngồi kết già nhập Tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm chẳng động.

Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn...” cho đến hết Phẩm Tựa này gọi là Biệt tự. Phần Biệt tự này trình bày năm ý nghĩa. Thứ nhất là đại chúng vân tập, thứ hai là hiện điềm lành, thứ ba là có niệm nghi ngờ, thứ tư là thưa hỏi và thứ năm là giải đáp.

Theo ngài Quang Trạch[74] thì sự sinh khởi có hai chiều thuận, nghịch. [Chẳng hạn như nói] do đại chúng vân tập cho nên hiện điềm lành, cho đến do thưa hỏi nên có sự giải đáp. [Lại nói nghịch chiều] rằng sự giải đáp là vì thưa hỏi, cho đến hiện điềm lành là do đại chúng vân tập. Đó là xem xét ý nghĩa duyên khởi theo nhiều chiều hướng, [mọi sự việc đều] liên quan gắn bó chặt chẽ với nhau. [Nhưng như vậy thì] ý chính của bài tựa tự nó vẫn chưa được làm rõ. Nói thẳng vào nhân duyên, một cách giải thích mà tự nó còn không rõ, huống nữa là hai, ba, bốn cách, nên rốt cùng không có chủ ý khuynh hướng nào cả.

Nay làm rõ bốn điểm [quan trọng] nhất trong năm ý nghĩa ở phần biệt tự này. Trong ý nghĩa đại chúng vân tập thì quan trọng nhất là chúng hội cõi người. Trong ý nghĩa hiện điềm lành thì quan trọng nhất là lý. Trong ý nghĩa có niệm nghi thì quan trọng nhất là hành. Trong hai ý nghĩa thưa hỏi và giải đáp thì quan trọng nhất là giáo pháp. Đây là giải thích theo nhân duyên.

Giải thích theo ước giáo thì phần biệt tự này là chính, không riêng thuộc về Tạng giáo, không phải Thông giáo cũng chẳng phải Biệt giáo, do vậy có thể xem là thuộc Viên giáo. Lược nói theo bản tích, phần biệt tự này nếu lấy bốn nghĩa chính theo chỗ nhân địa bản lai trong phẩm Tuổi thọ của Như Lai thì có thể tự hiểu, không cần ghi chép ra đây. Theo quán tâm cũng có thể giải thích được. Đại lược là như vậy.

Phần đại chúng vân tập lại có hai phần phụ. Trước là hiển lộ oai nghi của đại chúng, thứ đến là việc đại chúng cúng dường. Luận Pháp hoa ở mục này cho rằng oai nghi nghĩa là an trụ đúng như pháp.

“Bốn chúng đi nhiễu quanh”

Về nghĩa bốn chúng, các nhà cựu giải nói là gồm hai chúng xuất gia và hai chúng tại gia, hợp thành bốn chúng. Như vậy là [chỉ nêu được] ý nghĩa một phần, không bao quát hết.

Nay lấy mỗi một chúng mở rộng thành bốn chúng, đó là chúng phát khởi, chúng đương cơ, chúng ảnh hưởng và chúng kết duyên.

Chúng phát khởi là những vị có trí tuệ soi xét rõ biết, quyền biến khéo léo, biết căn cơ thích hợp, biết thời điểm thích hợp, có thể khua trống dựng cờ, phát động [Phật sự], thành tựu lợi ích đầy đủ [cho chúng sanh], giống như voi mẹ quỵ hai chân xuống cho voi con được [bú] no. Nói phát khởi nghĩa là làm cho đại chúng vân tập lại để phát khởi điềm lành, cho đến phát khởi sự thưa hỏi, giải đáp. Những vị làm được như vậy đều gọi là chúng phát khởi.

Chúng đương cơ là những vị đã từng gieo trồng cội gốc phúc đức, nay hội đủ nhân duyên, đến thời điểm thành thục, ví như ung nhọt đã chín mùi sắp vỡ, nên ngồi yên không đứng dậy mà vừa nghe pháp liền chứng đạo. Những vị như vậy gọi là chúng đương cơ.

Chúng ảnh hưởng là những vị Bồ Tát pháp thân từng tu tập nơi chư Phật quá khứ xa xưa, nay tự giấu kín chỗ viên mãn cùng cực của mình để theo trợ giúp [sự giáo hóa của] đấng Pháp vương, giống như các vì tinh tú vây quanh mặt trăng. Tuy không làm gì nhưng [tự nhiên tạo ra] lợi ích cực kỳ lớn lao. Những vị như vậy gọi là chúng ảnh hưởng.

Chúng kết duyên là những vị không có sức dẫn dắt, cũng chẳng thể tác động đến ai. Nói về đức độ thì cũng không có công năng khuất phục người khác hay gìn giữ sự oai nghiêm. Hơn nữa, những người này trong quá khứ căn cơ cạn cợt, phiền não uế tạp che lấp, ba trí tuệ[75] không thể khởi sinh. Cho nên đời này tuy có được gặp Phật nghe pháp nhưng chẳng được sự lợi ích [tức thời] nào, xét theo cả bốn nghĩa tất đàn, nhưng chỉ [nhờ việc gặp Phật nghe pháp mà] tạo ra nhân duyên sẽ được hóa độ trong tương lai. Những người như vậy gọi là chúng kết duyên.

[Nay phân chia trong] chúng tỳ-kheo [thành bốn chúng] như vậy, đối với các chúng [tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di] cũng đều [phân ra] như thế. Cộng chung tất cả là 16 chúng.

Giống như vào thời Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, [16 vị sa-di] vương tử giảng lại [lời Phật cho đại chúng], đó là chúng phát khởi vào lúc ấy. Những người nghe pháp chứng đạo tức là chúng đương cơ vào lúc ấy. Những người được nghe pháp nhưng chưa được độ thoát, sau đó còn đời đời [tái sinh] gặp nhau, cho đến nay có vị ở trong hàng Thanh văn, tức là chúng kết duyên vào thời ấy. Đức Phật [Đại Thông Trí Thắng] vào thuở ấy đã có đủ 16 chúng,[76] nay cũng cùng là đạo Phật, lẽ nào lại không có đủ như vậy? Đó là nói 16 chúng theo Viên giáo. Đối với Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo cũng xét theo như vậy thì có thể rõ biết, [ý nghĩa] theo bản tích cũng có thể hiểu được.

Theo quán tâm thì xét kỹ nơi cảnh mà thành quán. Bước vào trong danh tự Quán hành vị tức thành chúng kết duyên, thể nhập Tương tự vị tức thành chúng đương cơ, thể nhập Phần chân vị tức thành chúng phát khởi, chúng ảnh hưởng. Đại lược là như vậy.

Về ý nghĩa đi nhiễu quanh đức Phật, khi đức Phật mới ra đời, người đời chưa biết đến giáo pháp, chư thiên cõi trời Tịnh Cư liền giáng hạ, hóa hình giống như loài người, đến [chỗ Phật] rồi liền đi nhiễu quanh về bên phải [để bày tỏ] sự kính lễ. Kính lễ rồi liền ngồi xuống nghe thuyết pháp. Nhân nơi chư thiên kính lễ [theo cách đó] nên loài người cũng lấy đó làm khuôn mẫu noi theo. Đó là giải thích theo nhân duyên.

Đi nhiễu quanh, đó là oai nghi đi vòng quanh [lễ Phật], biểu thị bốn cửa vào đạo[77] tùy cơ duyên linh hoạt đều thấy được chân lý viên mãn. Lấy chỗ viên mãn so với thiên lệch mà có bốn nghĩa,[78] đây là giải thích theo giáo môn. Lại nữa, thân Phật bao quanh đều là tướng hảo trang nghiêm, khi đi vòng quanh chiêm ngưỡng thì tăng thêm sức định niệm Phật, đây tức là giải thích theo quán tâm.

Giải thích theo bản tích thì quán sắc thân của Phật liền thấy được pháp thân.

“Cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán”

Về ý nghĩa cúng dường, [nói chung thì] thông qua ba nghiệp [thân, khẩu, ý] đều gọi là cúng dường. Nói riêng thì cúi mọp lễ lạy gọi là cung kính, chí thành niệm tưởng gọi là tôn trọng, dùng lời tốt đẹp ngợi khen xưng tán gọi là tán thán, mang những gì thuộc y báo[79] của mình mà hiến tặng gọi là cúng dường. Ở đây kinh văn chỉ nói sơ lược, nếu đầy đủ thì phải nói rộng ra như trong kinh Vô lượng nghĩa, dùng thức ăn từ cõi trời, hương thơm cõi trời, bình bát cõi trời để dâng lên gọi là cúng dường. [Trong kinh Vô lượng nghĩa nói rằng],[80] Bồ Tát Đại Trang Nghiêm cùng với 80.000 Đại Bồ Tát cùng nhau chắp tay, tức là cung kính, một lòng chiêm ngưỡng, tức là tôn trọng, đọc bài kệ theo thể thất ngôn,[81] đó gọi là tán thán.

Nay nói về việc đại chúng vân tập là chỉ đến kinh văn trong kinh Vô lượng nghĩa. Trong kinh Vô lượng nghĩa nói việc đại chúng vân tập nghe thuyết pháp xong vẫn nghiêm trang ngồi lại mà không xưng tán Phật, vì cũng tại pháp hội này tiếp tục giảng thuyết kinh Pháp hoa. Cho nên biết rằng ý nghĩa cúng dường thông qua ba nghiệp [thân, khẩu, ý] không có gì sai khác, dùng kinh văn Vô lượng nghĩa để giải thích rộng chỗ nói lược ở kinh này không có gì sai.

“Vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa”

Từ câu “vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại thừa” cho đến hết phần “dùng xá-lợi Phật dựng tháp bảy báu [phụng thờ]”[82] đều là những tướng thị hiện trong phần tựa này. Ngài Pháp Dao[83] giải rõ có 7 điềm lành, tại cõi này mở ra 6 [điềm], nơi cõi khác hợp lại 1 [điềm]. Ngài Quang Trạch thì cho rằng cõi này và cõi khác, mỗi nơi đều hiện đủ 6 điềm lành. Sáu điềm lành ở cõi này, tướng động là thuyết pháp độ người, tướng tịnh là nhập định quán lý, động với tịnh là một cặp theo nhau. Từ trên trời mưa xuống 4 loại hoa quý,[84] dưới đất có 6 loại chấn động, trên với dưới là một cặp theo nhau. Trong tâm đại chúng hoan hỷ, bên ngoài Như Lai phóng hào quang chiếu sáng, trong với ngoài là một cặp theo nhau. Nay cứu xét kinh văn làm có thể tận cùng ý nghĩa như ngài Quang Trạch. Nếu nắm giữ nơi danh tự thì ý nghĩa dễ cứu xét, nhưng hàm ý biểu thị [của điềm lành] thì tự mình hoàn toàn chưa sáng tỏ. [Cho nên] nay sẽ giảng rõ thành 3 cặp theo nhau, gồm trí với định, nhân với quả, cảm với ứng.

Trí là chỉ nơi một [nghĩa] mà nói thành nhiều [nghĩa], định thì xét kỹ nơi ý nghĩa của duyên. Nhân là mưa hoa trời [tán thán] 4 giai vị, quả là cõi đất chấn động 6 nơi. Cảm là sự phát khởi căn cơ Đại thừa, ứng là nơi tướng bạch hào [của Phật] liền phóng quang soi chiếu đến. Sáu điều ấy đều gọi là điềm lành.

Kinh văn nói: “Tướng ngày nay giống điềm lành thuở xưa.”[85] Điềm lành tức là tướng. Do lòng người phân biệt nên đối với những điềm báo ẩn mật cho là điềm lành, đối với sự hiển lộ khác lạ [nhìn thấy được] cho là tướng. Vậy tướng ấy biểu lộ cho biết những gì? Chân lý nhiệm mầu sâu xa uẩn áo, giảng thuyết ra là điều cực kỳ khó khăn, mà lòng người thì phân tán dao động, không thể khởi tâm tôn kính trân trọng [giáo pháp]. Do vậy, trước tiên hiện tướng khác lạ để khiến cho lòng người kính sợ mà thay đổi. Lòng người đã thay đổi rồi mới có thể sinh tâm kính ngưỡng khao khát [Chánh pháp]. Cho nên dùng nghĩa khác lạ để giải thích hiện tướng, dùng nghĩa biểu lộ cho biết để giải thích điềm lành.

[Tiếp theo] lược nói về 6 điềm lành biểu lộ báo trước mười điều vi diệu, hay thập diệu.[86] Trong cảm ứng diệu đã nói,[87] nay lại nói thêm.

1. Điềm lành thuyết pháp là biểu lộ báo trước về thuyết pháp diệu và trí diệu [trong pháp hội này].

2. Điềm lành [Phật] nhập định là biểu lộ báo trước về hành diệu.

3. Điềm lành mưa hoa [trời] là biểu lộ báo trước về vị diệu.

4. Điềm lành cõi đất chấn động là biểu lộ báo trước cảnh giới diệu và thừa diệu.

5. Điềm lành đại chúng hoan hỷ là biểu lộ báo của trước về quyến thuộc diệu và lợi ích diệu.

6. Điềm lành [đức Phật] phóng hào quang là biểu lộ báo trước về cảm ứng diệu và thần thông diệu.

Cho nên 6 loại điềm lành như vậy đều được gọi là tướng biểu hiện của phần tựa này.

[Đức Phật] giảng thuyết kinh Đại thừa, theo kinh Thiện Giới,[88] [kinh điển Đại thừa] có 7 điều lớn lao nên được gọi là đại.

Thứ nhất là pháp lớn lao, nghĩa là lớn lao nhất trong 12 bộ kinh nên được xưng là phương quảng, [nghĩa là rộng lớn].[89]

Thứ hai là tâm lượng lớn lao, là nói việc [phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác] cầu quả vị Bồ-đề [rất lớn lao].

Thứ ba là sự giảng giải lớn lao, là nói việc giảng giải rõ [kinh Phương quảng trong] Bồ Tát tạng.

Thứ tư là sự thanh tịnh lớn lao, là nói Bồ Tát phát tâm rồi luôn giữ tâm thanh tịnh [mãi cho đến khi chứng đạo Bồ-đề, cho nên gọi là thanh tịnh lớn lao].

Thứ năm là sự trang nghiêm lớn lao, là nói Bồ Tát có đầy đủ công đức trang nghiêm và trí tuệ trang nghiêm nên gọi là lớn lao.

Thứ sáu là thời gian lớn lao, là nói Bồ Tát vì cầu đạo Bồ-đề mà khó nhọc tu hành trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp, cho nên gọi là thời gian lớn lao].

Thứ bảy là sự đầy đủ lớn lao, là nói Bồ Tát có đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp để tự trang nghiêm, chứng quả Bồ-đề, [cho nên gọi là sự đầy đủ lớn lao].

Sáu điều lớn lao kể trước là nhân lớn lao, điều thứ bảy là quả lớn lao. Nhân lớn lao và quả lớn lao hợp thành kinh điển Đại thừa [lớn lao].

Nay đem ý nghĩa của thập diệu để giản lược[90] nghĩa kinh thì có thể hiểu được. Ngài Đạo Sinh[91] nói: “Giáo lý về Không và Vô tướng là căn bản của Đại thừa. [Như Lai] giảng nói giáo pháp ba thừa là để chờ đợi, nếu đưa ra ngay giáo pháp Đại thừa thì chúng sinh không thể tin nhận. Cho nên nói vô tướng là tựa của Pháp hoa.” Ngài Tuệ Quán[92] cũng đồng ý như vậy.

Nhưng nếu như vậy thì lẽ ra các kinh Bát-nhã, Tịnh Danh cũng đều có tựa giống như vậy,[93] sao chỉ riêng một kinh Vô lượng nghĩa?

Ngài Đạo Sinh giải thích rằng: “Do có 5 thời thuyết giáo, nên sau cùng mới đưa ra giáo nghĩa này.”[94]

Lại hỏi: “Nếu là như vậy thì kinh Vô lượng nghĩa với các kinh khác đều thông suốt, cùng nhau sinh ra, đâu chỉ giới hạn nơi phần biệt tự này?”

Cơ sư[95] nói: “Lẽ không vốn không hình tướng cho nên nói là vô lượng.” Ý của lời tựa cũng đồng như trước, chỗ chất vấn lại cũng như vậy.

Ấn sư[96] nói: “Điều lành không hình tướng có nghĩa thành Phật,[97] cho nên nói là vô lượng.” Lại cũng nói rằng: “Kinh Vô lượng nghĩa không nói có ba thừa hoặc không có ba thừa, nên có sự khác biệt.”

Đại phẩm [Bát-nhã] không phải tông chỉ của Pháp hoa. Tông chỉ [này khi ấy] chưa truyền đến đất nhà Tần.[98] Nay xét rằng kinh này là vào đời [Lưu] Tống, niên hiệu Nguyên Gia năm thứ ba (426), Tỳ-kheo Tuệ Biểu gặp ngài Đàm-ma-da-xá ở chùa Triều Đình thuộc quận Nam Hải mà nhận được, mang về núi Võ Đang. Đến [đời Nam Tề], niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ ba (485) mới bắt đầu lưu truyền. Kinh đã đến đây rồi, đâu có lẽ nào mang trở lại Thiên Trúc?

Ngài Quang Trạch nói: “Kinh Vô lượng nghĩa lấy việc hợp nhất muôn điều lành có thể thành tựu Phật đạo. Kinh Pháp hoa giảng rõ nghĩa không có hai thừa, không có ba thừa, phá ba thừa để dạy một thừa [duy nhất là Phật thừa], đó là chỗ khác. Cho nên lấy đây làm phần tự.”

Nếu nói muôn điều lành hợp nhất thì hai [thừa], ba [thừa] sao chẳng hợp nhất? Còn nếu hai [thừa], ba [thừa] đều hợp nhất thì lời tựa với chính văn không khác. Nếu nói nghĩa phá hai [thừa], phá ba [thừa], vậy sao không phá cả muôn [điều lành]? Phá hai [thừa], ba [thừa] thì không còn hai [thừa], ba [thừa], nếu phá cả muôn điều lành ắt không có lời tựa này. Dùng [nghĩa] kinh để chứng minh ý khác biệt lại thành ra không khác. Ý khác biệt đã không rõ thì nghĩa của lời tựa cũng không thành.

Lưu Cầu[99] chú giải rằng: “Vô tướng là gốc. Một pháp vô tướng bao hàm ý nghĩa không suy lường. Nếu hàm nghĩa không suy lường tức là hữu tướng, sao nói là vô tướng?”

Tìm hiểu qua các bậc thầy thì mỗi vị nghiêng về một cách khác nhau. Nếu nói điều thiện có hình tướng có nghĩa thành Phật thì đó là giải thích theo Tạng giáo. Nếu nói điều thiện không hình tướng có nghĩa thành Phật thì là theo Thông giáo. Nếu nói pháp hàm nghĩa khôn lường thì là nghĩa của Biệt giáo. Hết thảy đều là làm rõ ý các kinh khác, chẳng phải ý của lời tựa Pháp hoa.

Như trong luận Pháp hoa kể ra 17 tên gọi, đều là những tên khác của kinh Pháp hoa. Vô Lượng Nghĩa là một tên khác của Pháp hoa. Nay luận theo ý Phật trực tiếp nói ra tên kinh này, lại nhập định cũng gọi theo tên này, cho nên được xem là phần tự.

Lại như các kinh Đại Phẩm [Bát-nhã], Kim Quang Minh, Niết-bàn, tất cả đều nêu tên trước, đối với phần tựa này không ngăn ngại gì. Nay trong kinh này Ngài Văn-thù dẫn việc các đức Phật xưa kia cũng gọi tên Vô lượng nghĩa, sau đó cũng nói sẽ thuyết kinh Đại thừa Diệu pháp Liên hoa. Đây cũng lại là nêu tên kinh trong lời tựa, phù hợp với ý nghĩa trong luận [Pháp hoa].

Nay căn cứ theo [nội dung] kinh Vô lượng nghĩa để giải thích. [Kinh văn nói:] “Vô lượng nghĩa ấy là từ một pháp sinh ra. Một pháp đó là nói vô tướng. Vô tướng không có tướng nên gọi là thật tướng.” Từ nơi thật tướng đó sinh ra vô lượng pháp, đó là nói hai pháp, tam đạo, tứ quả.

Bây giờ sẽ giải thích đoạn kinh văn này.

Vô tướng là nói không có tướng sống chết. Không tướng là nói không có tướng Niết-bàn. Niết-bàn lại cũng là không, cho nên nói không có tướng vô tướng, chỉ Trung đạo là thật tướng.

Hai pháp tức là đốn và tiệm. Đốn là nói hết thảy các pháp đốn trong Hoa nghiêm, còn tiệm là nói hết thảy các pháp trong ba tạng [giáo điển] gồm các kinh Phương đẳng, Bát-nhã. Tam đạo là nói Tam thừa, [Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát]. Tứ quả là nói A-la-hán, Phật Bích-chi, Bồ Tát và Phật. Hết thảy những pháp ấy gọi là vô lượng.

Thật tướng là nghĩa xứ, từ một nghĩa xứ này tạo ra vô lượng pháp, đem vô lượng pháp nhập vào một nghĩa xứ để làm [nghĩa của] lời tựa này. Ví như người giỏi toán, từ một phép tính phân chia thành nhiều phép tính, lại loại trừ nhiều phép tính [để gộp lại] thành một phép tính. Có phân chia nên có loại trừ [để gộp lại], thành [nghĩa của] lời tựa. Từ một phân thành nhiều, từ nhiều thâu về một, mở ra rồi hợp lại, [ý nghĩa] phần tự này cũng là như vậy.

Nêu lên như vậy để giải thích, không trái với luận giải kinh Vô lượng nghĩa mà cũng phù hợp với kinh này. Đại lược là như vậy.

Lại nữa, bài kệ tán Phật trong kinh Vô lượng nghĩa nêu rõ pháp thân Phật lìa xa hết thảy mọi hình tướng, động tĩnh, sáng tỏ rõ ràng mà ứng hiện ra thân một trượng sáu thước sáng rực màu vàng tía.

Kinh Quán Phổ Hiền[100] giảng rõ bốn trụ xứ của các ba-la-mật là thường, lạc, ngã, tịnh. Trước sau dẫn hai [bản kinh][101] đều nói là thường, đâu có lý nào ở khoảng giữa nói thọ lượng [của Như Lai] lại không phải thường?

Lại có người chất vấn: “Phần tự đã nói lẽ thường, vậy chánh [văn kinh] còn nói gì nữa?”

Nay xin hỏi ngược lại: “Trong kinh Niết-bàn, phẩm Thuần-đà là phần tự. [Phẩm này] đã khai mở lẽ thường, vậy [hãy xét xem] kinh văn còn nói gì?”[102]

Người kia lại nêu ví dụ, phần tự của kinh Tịnh Danh[103] nêu rõ [pháp thân] kim cang [thường trụ] vô vi vô số, nhưng trong phần kinh văn không nói lẽ thường. Kinh Pháp hoa này lẽ ra cũng là như vậy.

Nay xin hỏi ngược lại: “Phần tự là phẩm Thuần-đà đã nói lẽ thường, [nếu hiểu như trên thì] phần kinh văn Niết-bàn lẽ ra không nói lẽ thường. Nay lập luận rằng phần tự nói lẽ thường, kinh văn cũng nói lẽ thường thì đâu có gì để nghi ngờ.”

“Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm”

Nói về pháp giáo hóa hàng Bồ Tát, vô lượng các nghĩa xứ đều dùng để giáo hóa các Bồ Tát. Nghĩa xứ tức [thật tướng], là lẽ chân thật rốt ráo. Phần sau có nói: “Khiến cho hết thảy chúng sinh đều đạt được đạo này.” Lại nói: “Nếu ta gặp bất cứ chúng sinh nào, đều giáo hóa cho hết thảy trọn thành Phật đạo.” Đều là cùng một ý nghĩa như vậy.

Nói “Phật sở hộ niệm” nghĩa là vô lượng các nghĩa xứ ấy đức Phật đều đã tự mình chứng đắc, cho nên đều là chỗ Như Lai hộ niệm.

Phần sau lại nói: “Đức Phật tự mình trụ nơi Đại thừa, tuy muốn khai thị nhưng chúng sinh căn tánh trì độn [e rằng không hiểu được], nên Phật suy ngẫm chuyện này rất lâu, chưa vội thuyết giảng.” Do vậy nói là hộ niệm.

“Phật thuyết kinh ấy xong, ngồi kết già nhập Tam-muội Vô lượng nghĩa xứ”

Đức Phật thuyết giảng kinh [Vô lượng nghĩa] rồi, liền nhập Tam-muội Vô lượng nghĩa xứ, tức là trí tuệ và định lực cùng thành tựu. Chẳng phải là thiền không trí tuệ, nên trước phải nhập định. Chẳng phải là trí tuệ không có thiền, cho nên trước phải thuyết pháp. Ngay nơi trí mà định, ngay nơi định mà trí, trước hay sau, nhập hay xuất đều chẳng có gì ngăn ngại cách trở.

Có người khởi tâm nghi ngờ hỏi rằng: “Nếu chưa thuyết giảng kinh Vô lượng nghĩa thì có thể nhập phép định này, còn đã thuyết giảng kinh này rồi thì tại sao lại nhập định?

Giải thích rằng: “Như [đức Phật] trước tiên nhập vào định này, sau đó mới thuyết giảng kinh là điều có thể hiểu được. Nhưng thuyết giảng kinh này rồi lại nhập định, chính là vì để tạo thành phần tự cho kinh Pháp hoa. Vì sao vậy? Nếu trước không khai mở thì về sau ắt không có hợp lại. Trước tiên nhập pháp định khai mở vì [để có] pháp định hợp lại về sau mà thành phần tự. Gọi là điềm lành tức là ở nghĩa này. Nếu theo thứ tự thì trước nhập tam-muội Vô lượng nghĩa xong rồi, lẽ ra nên nhập tam-muội Pháp hoa. Nếu kinh văn nêu ra sáng tỏ rõ ràng thì đại chúng đều biết, đâu cần đợi đến khi Bồ Tát Di-lặc ân cần thưa hỏi, ngài Văn-thù thận trọng trình bày. Cho nên biết rằng có phần tự này là để ý nghĩa trở nên sáng tỏ hơn.

“Thân tâm chẳng động”

Thân tâm chẳng động, là nói việc tương ưng với chỗ duyên theo. Cội nguồn của thân vốn rỗng rang như hư không. Tánh lý của tâm rốt ráo thường vắng lặng. Thân thể và tay chân của [đức Phật] Đại Thông Trí Thắng thường tịch tĩnh an nhiên bất động, tâm ngài cũng điềm nhiên vắng lặng, không hề có sự tán loạn. Thân [kiên định] như kim cương, không thể lay động. Tâm như hư không thì không có sự phân biệt. Nhờ pháp tam-muội Vô lượng nghĩa xứ hộ trì thân tâm cho nên bất động.

Gọi là vô lượng, vì pháp định này vắng lặng thường soi chiếu, có thể rõ biết thế gian. Từ một pháp này lưu xuất vô lượng pháp. Nếu nói theo nghĩa của phần tự thì thể pháp của thân là vận động, nay làm cho không vận động, thể pháp của tâm là phân biệt, nay làm cho không phân biệt. Như vậy thì ý nghĩa của phần tự đã sáng tỏ.

l Hỏi: Điềm lành theo lẽ thì phải là những điều khác thường, nhưng việc thuyết pháp, nhập định là những việc thông thường của Phật, sao lại được xem là điềm lành?

l Đáp: Khi thuyết pháp đã xong mà đại chúng không giải tán, tất nhiên có chỗ chờ đợi, cho nên biết rằng phần thuyết pháp trước là để đại chúng vân tập, chờ nghe phần [thuyết pháp] sau. Điều này đặc biệt kỳ lạ, khác với những lần thuyết pháp thông thường, sao có thể nói là chẳng phải điềm lành? Tuy nhập định khai mở mà hàm ý ở nơi định hợp lại, so với những lần nhập định thông thường có khác, sao có thể nói không phải điềm lành?

Lại nữa, ngài Văn-thù dẫn việc các đức Phật xưa kia hiện sáu điềm lành đều có những việc này. Nếu xưa kia chẳng phải điềm lành thì biết lấy gì chứng nghiệm chuyện ngày nay? Chuyện xưa chuyện nay đều giống nhau, có thể dùng sự nhận hiểu của phàm phu mà cho là chẳng phải điềm lành được sao?

KINH VĂN

Lúc bấy giờ trời mưa xuống các loại hoa mạn-đà-la, ma-ha mạn-đà-la, mạn-thù-sa, ma-ha mạn-thù-sa; hoa rơi trên thân Phật và khắp thảy đại chúng.

Trời mưa xuống bốn loại hoa, rơi trên thân Phật và khắp thảy đại chúng

Trời mưa xuống bốn loại hoa, các nhà cựu giải nói hoa màu trắng có hai loại lớn, nhỏ và hoa màu đỏ cũng có hai loại lớn, nhỏ. Theo kinh Chánh Pháp hoa thì đó là bốn loại: ý hoa, đại ý hoa, phổ hưởng hoa và đại phổ hưởng hoa.

Thích luận, quyển 99, nói rằng: “Hoa trời mầu nhiệm, tên là mạn-đà-la.” Lại ở quyển 79 nói rằng: “800 vị tỳ-kheo thành Phật, cõi nước [của các vị ấy] thường có mưa hoa mạn-đà-la năm màu.”

Các nhà cựu giải nói rằng: “Trời mưa xuống hoa màu trắng hai loại lớn, nhỏ là biểu thị cho hai chúng tại gia [nam, nữ], hoa màu đỏ hai loại lớn, nhỏ là biểu thị cho hai chúng xuất gia [tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni]. Nói biểu thị như vậy thì từ xưa nay chỉ có nhân mà chưa thấy quả. Nay cho rằng giải thích như vậy thì ý nghĩa hẹp mà không thích hợp.

Nay luận về ý nghĩa của bốn chúng, xét trong Tam tạng kinh luận nói có 16 chúng thì như vậy cũng đã chưa nói hết, huống chi [trong ba thừa thì phải] đến 48 chúng. Cho nên gọi [bốn chúng] là hẹp.

Thông thường hiện tướng [mưa] hoa là ngấm ngầm báo cho biết về nhân [đã tạo]. Bốn chúng từ xưa đến nay vốn đã là nhân, đâu cần đợi mưa hoa báo hiệu. Còn nếu là báo cho biết về quả thì lẽ ra trời mưa xuống quả hạt, sao lại là mưa hoa? Cho nên nói là không thích hợp.

Nay nói mưa hoa là làm rõ nhân thuở xưa [của đại chúng], không phải nhân thành Phật. [Nhân của đại chúng ấy,] trong Tạng giáo là nhân Nhị thừa, trong Thông giáo là nhân chung cùng,[104] trong Biệt giáo là nhân Bồ Tát. Tất cả [các nhân đó] đều chẳng phải nhân thành Phật. Nay trời mưa hoa, đó là điềm báo [hết thảy đại chúng] rồi sẽ được nhân thành Phật. Nhân thành Phật tức là bốn nhân [biểu thị bằng] bốn bánh xe.

Hoa màu trắng nhỏ tượng trưng cho bánh xe đồng, tức là tập chủng tánh,[105] biểu thị [Thập trụ], khai mở tri kiến Phật.

Hoa màu trắng lớn tượng trưng cho bánh xe bạc, tức là tánh chủng tánh,[106] biểu thị Thập hạnh, chỉ bày hiển lộ tri kiến Phật.

Hoa màu đỏ nhỏ tượng trưng cho bánh xe vàng,[107] tức là đạo chủng tánh, biểu thị Thập hồi hướng, ngộ tri kiến Phật.

Hoa màu đỏ lớn tượng trưng cho bánh xe lưu ly, tức là thánh chủng tánh, biểu thị Thập địa, nhập vào tri kiến Phật.

Bốn bánh xe đều là nhân. Nhân đều do bên trong sinh ra, cho nên [hoa] từ trời mưa xuống. Do [khác biệt] về giai vị của nhân, nên dùng hoa [khác nhau] để biểu thị. Nhân có khuynh hướng tạo thành quả, cho nên rải hoa “rơi trên thân Phật”. Nhân quả như thế, ai là người có thể cảm nhận sâu sắc được? Chỉ là đại chúng trong hội này, cho nên nói là cùng “khắp thảy đại chúng”.

Ở phần sau, ngài Văn-thù giải thích chỗ nghi [cho đại chúng] có nêu ra bốn câu “mưa cơn mưa pháp lớn, thổi tù và pháp lớn, đánh trống pháp lớn, giảng giải nghĩa pháp lớn”.[108] Hơn nữa, trong kinh văn lại nói các nghĩa khai, thị, ngộ, nhập [tri kiến Phật], cùng đưa ra ví dụ dùng xe lớn dạo chơi bốn phương, mỗi mỗi đều tiếp nối ý nghĩa nói về giai vị. Cho nên biết rằng các loại hoa tượng trưng cho giai vị [khác nhau] của nhân.

● Hỏi: Bốn bánh xe là ý nghĩa giai vị của Biệt giáo, đâu thể dùng để giải thích giai vị của Viên giáo?

● Đáp: Danh xưng theo Thông giáo nhưng ý nghĩa theo Viên giáo còn chẳng sai, huống chi danh xưng theo Biệt giáo mà giải nghĩa theo Viên giáo thì có gì là không được?

● Hỏi: Hiền thánh theo nghĩa Biệt giáo cũng có trong Viên giáo sao?

● Đáp: [Điều này đã có] trong [Pháp hoa] huyền nghĩa.[109] Nếu nói bốn loại hoa đều từ trời rơi xuống, đó là biểu thị cho bốn chúng sẽ cùng thành một nhân. Giải thích như vậy là rõ nghĩa của Tạng giáo, chưa rõ được nghĩa của Thông giáo. Nếu nói bốn chúng đều cùng là nhân Bồ Tát thì sự giải thích này làm rõ được ý nghĩa của Thông giáo nhưng chưa làm rõ được nghĩa của Biệt giáo. [Những cách giải thích như vậy] đều chẳng phải nhân thành Phật, cũng chẳng phải ý nghĩa của Pháp hoa. Ý nghĩa của Pháp hoa như trước đã nói là “cõi đất chấn động sáu cách trong khắp thế giới Phật”.[110]

KINH VĂN

Cõi đất chấn động khắp thế giới Phật. Bấy giờ trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân, cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương. Đại chúng gặp việc chưa từng có, hoan hỉ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật.

“Cõi đất chấn động khắp thế giới Phật”

Các nhà cựu giải nói rằng: “Đây là nói chấn động nhân quả của người trong ba thừa, quyết định là sáu sự bám chấp.”[111] Như vậy là phá trừ sáu sự bám chấp của ba thừa theo Tạng giáo, nhưng chưa phá trừ được sáu sự bám chấp của ba thừa theo Thông giáo. Thông giáo cho rằng xét về pháp thì nhân quả của người trong ba thừa đều đồng như nhau, nhưng xét về người thì nhân quả của người trong ba thừa có sai khác. Sự giống và khác như thế [lẽ ra] đều phải phá trừ tất cả. Nhưng theo các nhà cựu giải thì ý nghĩa phá trừ không phá được như vậy.

Biệt giáo không có danh xưng ba thừa, tất nhiên không có 6 sự bám chấp. Đó là chỗ các nhà cựu giải không phá trừ. Nay nói rõ theo Biệt giáo, lúc tạo nhân có 3 pháp, lại chia ra đồng thời và khác thời.[112] Lúc kết thành quả cũng có 3 pháp, chia ra đồng thời và khác thời như vậy. Những điều như vậy đều nên phá trừ.

Nay giải thích 6 cách chuyển động của cõi đất là biểu trưng cho 6 lượt phá trừ vô minh của Viên giáo. Vô minh như khối đá kiên cố to lớn, chưa từng bị tấn công phá hủy, nay sắp bị phá trừ hủy hoại nên dùng sự chấn động cõi đất để biểu trưng. Vô minh nếu chuyển hóa được sẽ thành sáng suốt, cho nên khắp thế giới Phật cõi đất chấn động theo 6 cách. Sáu cách chấn động biểu trưng cho [6 tầng bậc giai vị tuần tự là Thập] trụ, [Thập] hạnh, [Thập] hồi hướng, [Thập] địa, Đẳng [giác] và Diệu [giác].

Kinh Ưu-bà-tắc thanh tịnh hạnh[113] nói rằng: “Lúc Bồ Tát sinh ra, cõi đất chấn động để biểu thị rằng lần sinh này là chấm dứt, không còn trở lại nhận chịu phiền não nữa. [Khi Phật ra đời], hết thảy chúng sinh rồi sẽ được đạo, phiền não sẽ bị diệt trừ cho nên chấn động.” Chính là ý nghĩa này.

Giải thích theo bản tích thì như ngài Văn-thù dẫn việc chư Phật thuở xưa để giải đáp chỗ nghi [của đại chúng], nếu ngầm hiểu được ý nghĩa này tức là nhận hiểu được bản. Không chỉ riêng chư Phật thuở xưa từng hiện những điềm lành này, mà đức Thế Tôn của chúng ta trước đây cũng đã từng hiện điềm lành như vậy, ngày nay cũng chẳng phải là lần thứ nhất quay lại [thế gian]. Đại lược là như vậy.

Giải thích theo quán hạnh thì đó là chấn động 6 căn. Tướng của cõi đất là kiên cố, ví như mức độ bám chấp nơi 6 căn, chưa từng thể nhập đạo Đại thừa. Nay có sự chấn động cõi đất khó chấn động là biểu trưng cho việc làm thanh tịnh các căn chưa thanh tịnh.

[Trong 6 cách chấn động của cõi đất, trước hết nói] phía đông trồi lên phía tây sụt xuống. Phương đông là màu xanh, chủ về gan,[114] gan tác động về con mắt, phương tây là màu trắng, chủ về phổi, phổi tác động về lỗ mũi. Đây là biểu hiện khi công đức của nhãn căn sinh ra thì phiền não của tị căn sẽ theo đó diệt mất. [Tương tự, phía tây trồi lên phía đông sụt xuống là biểu thị] khi công đức của tị căn sinh ra thì phiền não của nhãn căn hỗ tương theo đó diệt mất. Các phương khác [mặt đất] trồi lên sụt xuống là biểu hiện cho sự sinh diệt [của công đức và phiền não] của các căn, cũng đều giống như vậy.

Sáu cách chấn động là động (chuyển động), khởi (khởi lên), dũng (vọt lên), chấn (chấn động), hống (phát tiếng kêu lớn), giác (khiến cho giác ngộ).[115] Trong mỗi cách chấn động này lại xảy ra theo ba cách khác nhau là động (chấn động), biến động (chấn động thay đổi) và đẳng biến động (chấn động thay đổi cùng khắp). Chấn động trực tiếp tại chỗ gọi là động. Chấn động lan khắp bốn thiên hạ gọi biến động. Chấn động khắp cả thế giới đại thiên gọi là đẳng biến động. Đối với năm cách còn lại như [khởi, dũng, chấn, hống, giác] cũng đều như vậy. Cộng tất cả là 18 loại chấn động. Đây là biểu thị cho việc làm thanh tịnh 18 giới. Đại lược là như vậy.

______________________________________________________________


CHÚ THÍCH


[1] Ngũ đạo (五道), thông thường được dùng để chỉ năm cảnh giới tái sinh của tất cả chúng sinh, bao gồm cõi trời, cõi người và các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Tuy nhiên, ở đây là bao gồm cảnh giới a-tu-la và không có chúng sinh địa ngục.

[2] Nhị giới (二界), hai giới ở đây là chỉ Dục giới và Sắc giới.

[3] Nguyên tác dùng bát phiên (八番), Văn Cú Ký giải thích: “八番者, 欲天色天,龍,乾,緊,修,迦,人, 具如下列 - Bát phiên giả, Dục thiên Sắc thiên, long, càn, khẩn, tu, ca, nhân, cụ như hạ liệt.” (Tám phiên, đó là chỉ chư thiên cõi Dục, cõi Sắc, loài rồng, càn-thát-bà, khẩn-na-la, a-tu-la, ca-lầu-la, người,... đầy đủ như [kinh văn] bên dưới kể ra.) Do đó biết rằng đây là chỉ Tám bộ chúng. Văn Cú Ký kể ra như vậy chỉ còn thiếu loài ma-hầu-la-già và loài phi nhân.

[4] Kinh Phương đẳng (方等經), chỉ chung các kinh Đại thừa.

[5] Kinh Trung Ấm (中陰經), 1 quyển, ngài Trúc Phật Niệm (竺佛念) dịch sang Hán ngữ. (ĐCT, T12, 385)

[6] Đây là nói thứ tự liệt kê trong kinh Pháp hoa, sau các vị Bồ Tát thì kể đến chư thiên, long vương, rồi đến các loài khẩn-na-la, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, cuối cùng mới đến loài người.

[7] Ý khác là nói hàm ý trong việc sắp xếp loài người ở về cuối cùng trong thứ tự liệt kê. Ở đây nhận định rằng việc nói là do phân chia chủ khách chưa hẳn đã đúng, nhưng không biết có ý nghĩa nào khác nữa chăng.

[8] Nguyên tác nói “鬼神重出 - quỷ thần trùng xuất”, vì cả ba loài khẩn-na-la, càn-thát-bà, a-tu-la đều được xếp vào loai quỷ thần.

[9] Nguyên tác là “頓施 - đốn thí”, hiểu theo nghĩa đen là bố thí cách nhanh nhẹn, dứt khoát, không chần chừ. Hòa thượng Thích Đức Thắng so sánh với nguyên tác Pali chỗ này là cụm từ “sakkaccaṃ dānaṃ adāsi” nên chuyển dịch là “bố thí một cách nhiệt thành, cung kính”.

[10] Nguyên tác là “堪能作主 - kham năng tác chủ”, có lẽ bị nhầm, vì đoạn này trích từ kinh Tạp A-hàm, quyển 40. Chúng tôi đã đối chiếu kinh văn, chỗ này chỉ nói “以堪能故 - dĩ kham năng cố” (vì có khả năng làm được như vậy), tức là nói việc bố thí. (ĐCT, T2, 99, tr.290c, d.23 - 26)

[11] Trong kinh văn tên gọi này là Sa-bà-bà (娑婆婆), cũng đọc là Bà-sa-bà và gọi tên loại y được mang ra bố thí là bà-sân-tư y (婆詵私衣), không phải cùng tên. Hòa thượng Thích Đức Thắng so sánh với Nguyên tác Pali ở chỗ này là āvasatha, có nghĩa là “nhà ở”, nên cho rằng có thể bản Hán ngữ đã hiểu nhầm thành chữ vasanakā có nghĩa là y phục.

[12] Văn Cú nói “舍脂是妇钵低是夫。 - Xá-chi thị phụ, Bát-đê thị phu.” (Xá-chi là tên người vợ, Bát-đê là tên chồng.) Nhưng xem trong kinh văn được trích dẫn thì không có câu này. Đức Phật chỉ giải thích vì nữ a-tu-la tên Xá-chi (舍脂) là đệ nhất phu nhân của Thiên Đế-thích nên gọi ông theo tên đó.

[13] Tam quang thiên tử: ba vị thiên tử tiêu biểu cho ba loại ánh sáng trong vũ trụ là mặt trời (Nhật quang), mặt trăng (Nguyệt quang) và các vì sao (Tinh quang).

[14] Ba pháp quán là quán giả, quán không và quán trung. Hai trí là căn bản trí và hậu đắc trí.

[15] Ba trí là Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí. Tam quang là Nhật quang (ánh sáng mặt trời), Nguyệt quang (ánh sáng mặt trăng) và Tinh quang (ánh sáng các ngôi sao).

[16] Tam đế là Giả đế, Không đế và Trung đế. Tam trí là Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí.

[17] Tầng trời thứ năm của Dục giới là Hóa lạc thiên (Nirmṇarati), chư thiên có thể tự biến hóa ra các món dục lạc để tự thỏa mãn, cho nên gọi là “hóa lạc”. Tầng trời thứ sáu là Tha hóa tự tại thiên (Para-nirmita-vaśa-vartin), chư thiên có thể thỏa mãn bằng những món dục lạc do chư thiên khác biến hóa ra, cho nên gọi là “tha hóa”.

[18] Tức là nói cõi trời Sắc cứu cánh (Akaniṣṭha), vị thiên chủ ở đó là Đại Phạm Thiên. Sắc giới có 17 tầng trời, cõi trời Sắc Cứu Cánh là cao nhất.

[19] Ba món độc: tham độc, sân độc và si độc.

[20] Đoạn này thật ra không trích từ kinh Bi Hoa, mà trích dẫn lại từ Phiên dịch danh nghĩa tập (sách đã dẫn) và cũng không trích đủ. Nguyên văn trong sách này là: “悲華云。何名娑婆。是諸眾生忍受三毒及諸煩惱, 能忍斯惡, 故名忍土。 - Bi Hoa vân: Hà danh Ta-bà? Thị chư chúng sinh nhẫn thọ tam độc cập chư phiền não, năng nhẫn tư ác, cố danh Nhẫn độ.” (ĐCT, T54, 2131, tr.1096a, d.8 - 9)

[21] Nguyên tác là “九道 - cửu đạo”, chín đường chúng sinh, là cách tính gồm “lục phàm tứ thánh” nhưng trừ ra không tính a-tu-la. Tứ thánh bao gồm: Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác. Lục phàm gồm: chư thiên, loài người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Sở dĩ không tính đến a-tu-la vì có lập luận cho rằng a-tu-la không phải một loài riêng biệt, mà biểu thị cho tính khí nóng nảy, hiếu chiến, nhiều sân hận, vốn có thể biểu hiện trong những cách giới khác như ở chư thiên hay loài người... Do vậy, trong “lục phàm tứ thánh” trừ ra a-tu-la thì còn chín đường.

[22] Phạm chúng: tức chư thiên ở cương vị dân chúng của cõi Phạm thiên, như thường dân ở cõi người.

[23] Phạm phụ: tức các vị thiên tử có vai trò phụ giúp Thiên vương trong việc cai trị, cũng như quan tướng ở cõi người.

[24] Đây là tầng trời thứ nhất của Tứ thiền, tức Vô vân thiên.

[25] Đây là tầng trời thứ hai của Tứ thiền, tức Phúc sinh thiên.

[26] Đây là tầng trời thứ ba của Tứ thiền, tức Quảng quả thiên.

[27] Ngũ Na-hàm thiên, tức Ngũ tịnh cư thiên, gồm 5 tầng trời là nơi các bậc chứng Thánh quả A-na-hàm sinh về. Do vậy mà có danh xưng “Na-hàm” hay “Tịnh cư”.

[28] Xem lại chuyện này ở phần giải thích về ngài Mục-kiền-liên trong quyển 1.

[29] Ngũ trụ địa phiền não, gồm Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa.

[30] Hai sự chết, tức nhị tử, chỉ phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử. Phần đoạn sinh tử là sự sống chết của phàm phu, bỏ thân này thọ thân khác. Biến dịch sinh tử là sự thọ thân của các bậc thánh, không còn trói buộc trong ba cõi nhưng do nguyện lực, định lực mà thọ thân để giáo hóa chúng sinh và tiếp tục tu tập.

[31] Tên vị Long vương này là Utpala, trong kinh Pháp hoa phiên âm là Ưu-bát-la (優鉢羅), Văn Cú khi chép lại đã sử dụng một cách phiên âm khác là Âu-bát-la (漚鉢羅). Chúng tôi theo kinh văn điều chỉnh lại.

[32] Ở đây Utpala (ưu-bát-la) được dịch nghĩa là “黛色蓮華池 - Đại Sắc liên hoa trì” (Hồ sen Đại Sắc). Chữ đại (黛) nghĩa là màu đen, không phải chữ đại (大) là to lớn. Cách giải thích này được thấy trong Huyền ứng âm nghĩa (玄應音義), quyển 3, trong khi hầu hết những nơi khác trong kinh luận đều dịch là hoa sen xanh (青蓮花 - thanh liên hoa). Cũng có nơi nói loại hoa này có hai màu, xanh và đỏ.

[33] Nguyên tác là Ban-già-vu-sắt (般遮于瑟), phiên âm từ chữ Pañca-vārṣika, tức Ban-già-vu-sắt hội (般遮于瑟會), là pháp hội được tổ chức 5 năm một lần nên cũng được gọi là Ngũ tuế hội (五歲會). Pháp hội được tổ chức để bố thí bình đẳng đến mọi tầng lớp trong xã hội, nhưng cũng có phần thuyết giảng giáo pháp.

[34] Ở đây đang nói theo giáo lý tông Thiên Thai nên Tứ giáo bao gồm Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo.

[35] Thập lực, tức Như Lai thập lực hay Như Lai thập trí lực, tức là mười năng lực trí tuệ phi thường mà chỉ chư Phật mới có được, bao gồm: 1. Tri thị xứ phi xứ trí lực: Biết rõ tính khả thi và tính bất khả thi trong mọi trường hợp; 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực hay Nghiệp dị thục trí lực: Biết rõ luật nhân quả, quả báo, tức là nghiệp nào tạo quả nào; 3. Tri nhất thiết sở đạo trí lực: Biết rõ nguyên nhân nào dẫn đến con đường tái sinh nào; 4. Tri chủng chủng giới trí lực: Biết rõ các thế giới với những yếu tố thành lập của nó; 5. Tri chủng chủng giải trí lực: Biết rõ căn tánh riêng biệt của mỗi chúng sinh; 6. Tri nhất thiết chúng sinh tâm tánh trí lực: Biết rõ căn cơ học đạo cao thấp của mọi chúng sinh; 7. Tri chư thiền giải thoát Tam-muội trí lực: Biết tất cả các cách thiền định; 8. Tri túc mệnh vô lậu trí lực: Biết rõ các tiền kiếp của chính mình; 9. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực: Biết rõ sự hoại diệt và tái sinh của chúng sinh; 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực: Biết các pháp ô nhiễm sẽ chấm dứt như thế nào. Danh xưng Thập lực cũng dùng để chỉ đức Phật.

[36] Ba đế: tức là ba kết quả nhận thức đúng đắn có được từ ba pháp quán, tức Không đế, Giả đế và Trung đế.

[37] Các vị Khẩn-na-la và Càn-thát-bà đều chuyên lo về âm nhạc phục vụ Thiên đế, nhưng Khẩn-na-la chuyên về Pháp nhạc, nghĩa là âm nhạc xưng tán giáo pháp Phật, Càn-thát-bà chuyên về Tục nhạc, tức là âm nhạc thế tục, dùng trong những dịp vui chơi, không liên quan đến giáo pháp.

[38] Nguyên tác dùng “彌天安師 - Di Thiên An Sư”, tức ngài Di Thiên Thích Đạo An (彌天釋道安), một cao tăng từ thời Đông Tấn, sinh khoảng năm 312 (hoặc 314) và viên tịch năm 385. Ngài là người được đầu tiên thực hiện việc hệ thống kinh điển đã dịch sang Hán ngữ thành mục lục qua việc biên soạn Đạo An lục. Ngài cũng là người đầu tiên đề xuất việc dùng họ Thích cho tất cả những người xuất gia theo Phật. Tên gọi Đạo An được nhiều người biết đến hơn là Di Thiên An Sư.

[39] Dường như Văn Cú trích dẫn chỗ này không đầy đủ. Nhận xét của ngài Đạo An được ghi lại trong Pháp hoa nghĩa sớ (法華義疏), quyển 1, nguyên văn là: “釋道安, 道行經: 胡音云須羅, 此云質諒, 以其多諂曲故為立此名, 令其質直誠信也。 - Thích Đạo An, Đạo Hành kinh: Hồ âm vân Tu-la, thử vân Chất lượng, dĩ kỳ đa siểm khúc cố vi lập thử danh, linh kỳ chất trực thành tín dã.” (Trong Đạo hành kinh, ngài Đạo An nói: “Ấn Độ nói A-tu-la, Trung Hoa dịch là Chất lượng, đó là vì thần này nhiều sự dua nịnh không thật thà, cho nên đặt tên như vậy để khiến cho phải chân thật thành tín.) (ĐCT, T34, 1721, tr.465c, d.1-3)

[40] Ngũ xứ bị phược: trói buộc ở năm chỗ, nghĩa là bị dây trói vào hai tay, hai chân và cổ.

[41] Pháp hoa nghĩa sớ nói rằng vị vua A-tu-la này trước đây khi đánh nhau với Đế-thích đi tiên phong, bị Đế-thích bắt trói.

[42] Năm trói buộc (ngũ hệ), cũng tương tự như ngũ xứ hệ, nghĩa là trói ở năm chỗ, ý nói trói buộc rất chặt. Ngũ hệ cũng được hiểu theo một nghĩa khác là dùng năm loại xác chết của thú vật để trói ma, gọi là ngũ thi hệ, nhưng nghĩa này không phù hợp ở đây.

[43] Quảng kiên giáp (廣肩胛) có nghĩa là vai rộng, mô tả hình tướng của vị này.

[44] Văn Cú ghi là Chánh bản (正本), tức chỉ Chánh Pháp hoa Kinh (正法華經), 10 quyển, do ngài Trúc Pháp Hộ (竺法護) dịch vào đời Tây Tấn. (ĐCT, T9, 263)

[45] Kinh Chánh Pháp hoa, quyển 1, bản Đại Chánh tạng ghi là “欲錦阿須倫 - Dục Cẩm A-tu-luân”, không phải Bảo Cẩm (寶錦). (ĐCT, T9, 263, tr.63b, d.17)

[46] Tức là kinh Phật thuyết Quán Phật Tam-muội hải (佛說觀佛三昧海經), 10 quyển, do ngài Phật-đà-bạt-đà-la (佛陀跋陀羅) dịch vào thời Đông Tấn. Phần trích dẫn ở đây lấy từ quyển 1 và chỉ lược trích, không đầy đủ.

[47] Văn Cú nói là “生此地 - sinh thử địa” (sinh ở đất này), nhưng trong kinh nói là “飛行世間 - phi hành thế gian” (bay đến thế gian), xét ra hợp lý hơn. Một số chi tiết khác chúng tôi cũng căn cứ kinh văn để nhận hiểu.

[48] Kinh văn không có ý này, chỉ nói khi chư thiên xuống biển tắm rửa, do thân xúc chạm thích thú nên xuất tinh trong nước biển.

[49] Kinh văn mô tả thêm: mỗi đầu có ngàn con mắt, 999 cái miệng, mỗi miệng có 4 răng nanh. Ngoài ra 24 cánh tay, mỗi tay đều có cầm đủ loại vũ khí.

[50] Kinh văn mô tả đứa con trai này có 9 đầu, mỗi đầu có 1.000 mắt, miệng phun ra lửa, có 999 cánh tay và 8 cái chân.

[51] Đoạn này Văn Cú lược trích không đủ ý nên thành tối nghĩa, chúng tôi phải căn cứ kinh văn để bổ sung vào mới hiểu được câu chuyện. Chẳng hạn như việc Tỳ-ma-chất-đa “thách cưới” bằng yêu cầu xây cung điện bảy báu và Đế-thích làm được nhờ thiện nghiệp của ông, nhưng Văn Cú không đề cập đầy đủ.

[52] Chuyện này kinh văn kể chi tiết hơn. Đế-thích mỗi khi đến vườn Hoan Hỷ thì cùng các thể nữ xuống tắm dưới hồ, cùng nhau vui đùa. Nàng Xá-chi ghen tức liền sai người mách chuyện này với cha là Tỳ-ma-chất-đa, nói rằng Đế-thích không còn yêu thương cô nữa. Tỳ-ma-chất-đa nghe như vậy liền nổi giận, mang quân đến đánh.

[53] Văn Cú ghi Chánh bản (正本), tức Chánh Pháp hoa Kinh (正法華經) đã dẫn.

[54] Văn Cú chỗ này ghi La-hầu-la nhưng trong kinh Pháp hoa ghi tên vị này là La-hầu A-tu-la vương (羅睺阿修羅王). Các phần sau Văn Cú cũng gọi là La-hầu.

[55] Văn Cú ghi là Chánh bản (正本), tức Chánh Pháp hoa Kinh (正法華經) đã dẫn.

[56] Nguyên tác dùng “trúc thật”, chỉ bông trúc kết thành hạt giống như bông lúa. Có lẽ chỉ là truyền thuyết, vì các loại tre, trúc tuy có trổ bông kết hạt nhưng thường rất hiếm hoi, không phải hằng năm.

[57] Nguyên tác là “乳桐 - nhũ đồng”, chúng tôi vẫn tồn nghi vì chưa biết đến loại cây này, chỉ nghe nói cây ngô đồng (梧桐), nhưng cây ngô đồng thì không quá lớn.

[58] Văn Cú ghi là “正本 - chánh bản”, tức kinh Chánh Pháp hoa. Trong quyển 1 kinh này ghi là “大具足王 - Đại Cụ Túc Vương”. (ĐCT, T9, 263, tr63b, d.20)

[59] Văn Cú ghi là “正本 - chánh bản”, tức kinh Chánh Pháp hoa, đã dẫn.

[60] Theo Câu-xá luận (俱舍論), quyển 11, thì tầng cấu trúc thấp nhất của một thế giới là phong luân (風輪), có độ dày 100 vạn do-tuần, cứng chắc như kim cương. Bên trên phong luân là thủy luân (水輪), là tầng nước có độ sâu 80 vạn do-tuần. Bên trên thủy luân là kim luân, có độ dày 32 vạn do-tuần, kết cấu bằng kim cương nên gọi là kim luân. Bên trên kim luân là địa luân (地輪), là nơi có núi và biển cùng đất đai hình thành thế giới. Như vậy theo mô tả ở đây là chim ca-lâu-la lao xuống xuyên qua hết thảy nhưng bị cản lại ở tầng phong luân.

[61] Các nhà Cựu dịch dịch là Tư Duy (思惟), về sau dịch là Tư Thắng (思勝).

[62] Theo Từ điển Phật Quang thì danh xưng Balaruci được phiên âm là “婆羅留支 - Bà-la-lưu-chi) và dịch là Chiết Chỉ (折指), nghĩa là gãy ngón tay, do A-xà-thế lúc bị thả từ trên cao xuống chỉ gãy một ngón tay mà không chết nên có tên gọi này.

[63] Nguyên tác nói Đại Kinh (大經), ở đây chỉ kinh Đại Bát Niết-bàn (大般涅槃經), 40 quyển, do ngài Đàm-vô-sấm dịch. Phần trích dẫn thuộc quyển 20, nguyên văn kinh là: “言阿闍者, 名為不生。世者名怨, 以不生佛性故則煩惱怨生。煩惱怨生故不見佛性。以不生煩惱故則見佛性。 - Ngôn A-xà giả, danh vi bất sinh. Thế giả danh oán, dĩ bất sinh Phật tánh cố, tắc phiền não oán sinh. Phiền não oán sinh cố, bất kiến Phật tánh. Dĩ bất sinh phiền não cố, tắc kiến Phật tánh.” (ĐCT, T12, 374, tr.480c, d.11 - 20)

[64] Đoạn này vẫn tiếp tục lấy ý trong kinh Đại Bát Niết-bàn nhưng không trích dẫn theo sát kinh văn.

[65] Kinh Phổ Siêu (普超經), tức Văn-thù-chi-lợi Phổ Siêu Tam-muội Kinh (文殊支利普超三昧經), 3 quyển, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch. (ĐCT, T15, 627)

[66] Duy-ma-cật sở thuyết kinh (維摩詰所說經), 3 quyển, ngài Cưu-ma-la-thập dịch có nói: “維摩詰言:若菩薩行於非道,是為通達佛道 - Nhược Bồ Tát hành ư phi đạo, thị vi thông đạt Phật đạo.” (Nếu Bồ Tát làm việc trái đạo, đó là thông đạt Phật đạo.) (ĐCT, T14, 475, tr.549a, d.1-2)

[67] Bốn vị luân vương: tức kim luân vương, ngân luân vương, đồng luân vương và thiết luân vương. Đây là gọi tên theo phước đức của mỗi vị, biểu hiện ra thành bánh xe vàng, bạc, đồng hay thiết gọi luân bảo của mỗi vị.

[68] Sáu đường ở đây chỉ sáu cảnh giới tái sinh của chúng sinh, bao gồm cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi người, cõi a-tu-la và cõi trời.

[69] Văn Cú dùng “見佛 - kiến Phật” có thể hiểu là thấy Phật hay gặp Phật đều được. Nhưng tham khảo Văn Cú Ký ở chỗ tương đương dùng “值佛 - trực Phật” thì phải hiểu là gặp Phật. Lại xét nghĩa này phù hợp hơn với các giải thích tiếp theo.

[70] Thật ra ý nghĩa một phần trên đây và nguyên vẹn câu này đã được Văn Cú dẫn lại từ Duy-ma kinh nghĩa sớ (維摩經略疏), quyển 2. (ĐCT, T38, 1778).

[71] Ở đây chỉ Thanh văn thừa.

[72] Ở đây chỉ Duyên giác thừa hay Bích-chi Phật thừa.

[73] Nguyên tác nói Tịnh Danh sớ (淨名疏), căn cứ theo những trích dẫn đã được tìm thấy thì biết là đang nói đến Duy-ma kinh nghĩa sớ (維摩經略疏) như đã dẫn ở trước. Kinh Tịnh Danh là tên khác của kinh Duy-ma-cật.

[74] Quang Trạch, tức ngài Thích Pháp Vân (467-529), trụ trì chùa Quang Trạch, từng giảng kinh Pháp hoa tại chùa Quang Trạch vào khoảng những năm đầu thế kỷ 6 (502-505).

[75] Nguyên tác dùng “tam tuệ” (三慧), chỉ văn tuệ (trí tuệ phát khởi nhờ nghe giáo pháp), tư tuệ (trí tuệ phát khởi nhờ suy ngẫm giáo pháp) và tu tuệ (trí tuệ phát khởi nhờ thực hành giáo pháp).

[76] Nguyên tác nói “四四十六眾 - tứ tứ thập lục chúng” để nhấn mạnh ý nghĩa bốn chúng, mỗi chúng lại chia thành bốn, như vừa giải thích trên, tức là 4 x 4 = 16 chúng.

[77] Nguyên tác dùng “四門 - tứ môn”, chỉ bốn cách nhận thức khi tiếp cận giáo pháp nên gọi là tứ môn, bao gồm: hữu môn (有門), không môn (空門), diệc hữu diệc không môn (亦有亦空門) và phi hữu phi không môn (非有非空門).

[78] Bốn nghĩa ở đây chỉ các nghĩa hữu, không, diệc hữu diệc không và phi hữu phi không vừa nói trên.

[79] Y báo (依報) của một người là những gì người ấy nhận được từ môi trường sống chung quanh, do nghiệp đã tạo từ đời trước mang lại. Khác với chánh báo (正報) là thân tâm trong hiện tại.

[80] Văn Cú không nói rõ nhưng đoạn này là bắt đầu trích dẫn những chi tiết được mô tả trong kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa như câu trước vừa nói.

[81] Trong kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa, trọn bài kệ tán thán này có 102 câu, mỗi câu đều có 7 chữ nên gọi là thể kệ thất ngôn. Toàn bộ nội dung bài kệ xưng tán công đức, phẩm đức của Phật.

[82] Tức phần kinh văn theo ĐCT, T9, 262, từ trang 2b, d.7 đến d.24.

[83] Nguyên tác gọi là “瑤師 - Dao Sư”, tức ngài Thích Pháp Dao (釋法瑤), hay Đàm Dao (曇瑤), tăng sĩ vào đời Tống, ở chùa Tiểu Sơn (小山寺) quận Ngô Hưng. Đến đời Tùy quận này đổi thành Hồ Châu, tức huyện Ô Trình.

[84] Đây dẫn theo kinh văn nói từ trời mưa xuống 4 loại hoa quý là hoa mạn-đà-la (曼陀羅華), hoa ma-ha mạn-đà-la (摩訶曼陀羅華), hoa mạn-thù-sa (曼殊沙華), hoa ma-ha mạn-thù-sa (摩訶曼殊沙華).

[85] Đây là trích một câu trong bài kệ trả lời của ngài Văn-thù-sư-lợi: “今相如本瑞 - Kim tướng như bản thụy.”

[86] Mười điều vi diệu hay Thập diệu trong kinh Pháp hoa bao gồm: cảnh diệu, trí diệu, hạnh diệu, vị diệu, tam pháp diệu (hay thừa diệu), cảm ứng diệu, thần thông diệu, thuyết pháp diệu, quyến thuộc diệu và lợi ích diệu.

[87] Văn Cú Ký cho rằng chỗ này e có nhầm lẫn, vì trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa nói là Thần thông diệu trung. (言感應中已說者, 恐文誤也。玄文列在神通妙中 - Ngôn cảm ứng trung dĩ thuyết giả, khủng ngộ văn giả. Huyền văn liệt tại thần thông diệu trung.)

[88] Tức kinh Bồ Tát thiện giới (菩薩善戒經), quyển 7, do ngài Cầu-na-bạt-ma (求那跋摩) dịch sang Hán ngữ (ĐCT, 30, 1582). Phần trích dẫn là bắt đầu từ dòng 24, trang 999c, cho đến dòng 8, trang 1000a. Phần này Văn Cú trích lại quá giản lược nên chúng tôi căn cứ kinh văn để bổ sung cho rõ ý.

[89] Vaipulya (Tỳ-phật-lược).

[90] Văn Cú chỗ này dùng chữ “捒 - thúc”, nghĩa như chữ “束 - thúc”, trong khi Văn Cú Ký thay bằng chữ “揀 - giản”, chúng tôi xét thấy hợp lý hơn. Rất có thể Văn Cú có lỗi khi in ấn vì hai chữ này rất giống nhau.

[91] Nguyên tác dùng “生師 - Sinh sư”, tức là ngài Trúc Đạo Sinh (竺道生), sinh vào khoảng năm 355, mất khoảng năm 434, là cao tăng uyên bác đồng thời với ngài Cưu-ma-la-thập. Ngài có dịch và giảng kinh Pháp hoa nên kiến giải của ngài được dẫn ở đây.

[92] Nguyên tác dùng “觀師 - Quán sư”, tức ngài Tuệ Quán (慧觀), một cao tăng uyên bác và là đệ tử kiệt xuất của ngài Cưu-ma-la-thập, từng soạn Pháp hoa tông yếu tự (法華宗要序) được ngài Cưu-ma-la-thập hết sức ngợi khen.

[93] Văn Cú Ký giải thích chỗ này rõ hơn: Hai kinh Bát-nhã và Tịnh Danh cũng thuyết nghĩa vô tướng nhưng không có phần Tự.

[94] Văn Cú Ký giải thích: Tuy cùng là vô tướng nhưng vì nói ra trước sau nên có khác.

[95] Theo nhiều bản chú sớ khác thì Cơ sư chỉ ngài Khuy Cơ (窺基), một đệ tử của ngài Huyền Trang, còn được gọi là Linh Cơ (靈基), Thừa Cơ (乘基), Đại thừa Cơ (大乘基), Cơ Pháp Sư (基法師), hay Từ Ân Cơ Sư (慈恩基師). Nếu đúng vậy thì ý này hẳn do ngài Huyền Lãng thêm vào sau chứ không phải do Đại sư Trí Khải viết ra.

[96] Văn Cú Ký nói rằng Ấn sư là đệ tử của Long sư, Long sư là đệ tử của ngài Tuệ Viễn (334-416), chúng tôi vẫn chưa rõ đây là vị nào.

[97] Văn Cú Ký giải thích: Trước đây Phật nói giáo nghĩa hữu tướng, rốt ráo không phải nhân thành Phật. Chỉ đến khi thuyết dạy lẽ vô tướng mới có nghĩa thành Phật.

[98] Câu này tối nghĩa, chúng tôi dựa theo Văn Cú Ký giải thích: “Kinh Vô lượng nghĩa chưa được phiên dịch.” Như vậy ở đây nói “không đến đất nhà Tần” (不來秦地 - bất lai Tần địa) có nghĩa là chưa được dịch.

[99] Lưu Cầu (劉虬), cư sĩ Phật giáo người Trung quốc, sống vào đời Nam Tề, người Niết Dương, Nam Dương, (phía nam huyện Trấn bình, tỉnh Hà nam hiện nay). Ông sinh năm 437, mất năm 495, từng giảng kinh Niết-bàn, Bát-nhã, Pháp hoa. Ông có soạn bộ Chú Pháp hoa Kinh nhưng đã thất truyền. Những nội dung trích dẫn ở đây có thể là lấy từ bộ chú giải này.

[100] Tức là kinh Phật thuyết Quán Phổ Hiền Bồ Tát hành pháp (佛說觀普賢菩薩行法經) (ĐCT, T9, 277). Phần nội dung được lược trích ở đây có thể xem chi tiết ở trang 392c, d.15 - 21.

[101] Tức là nói kinh Vô lượng nghĩa ở trước và kinh Quán Phổ Hiền ở sau.

[102] Ở đây phản biện bằng cách chỉ rõ trong kinh Niết-bàn, tức Đại Bát Niết-bàn kinh, tuy phần tự là phẩm Thuần-đà đã khai mở lẽ thường, nhưng kinh văn vẫn tiếp tục nói rộng các lẽ thường, lạc, ngã, tịnh.

[103] Kinh Tịnh Danh, là tên khác của Duy-ma-cật sở thuyết kinh.

[104] Chung cùng ở đây là chung cùng với Nhị thừa. Nguyên tác dùng “共因 - cộng nhân”. Đức Phật có 18 pháp bất cộng là không chung cùng với hai thừa. Hàng Bồ Tát Thông giáo chưa dứt hẳn nhân Nhị thừa nên gọi là chung cùng.

[105] Tập chủng tánh (習種性): chủng tánh có được nhờ huân tập tu hành qua thời gian.

[106] Tánh chủng tánh (性種性): chủng tánh tự nhiên vốn có của chúng sinh từ vô thủy, nay nhờ tu tập mới được phát huy hiển lộ.

[107] Bánh xe vàng: kim luân (金輪), bản Đại Chánh tạng chỗ này chép nhầm là ca luân (迦輪), không có nghĩa. Chúng tôi đã đối chiếu bản khắc gỗ của Càn Long tạng, đúng là chữ kim luân.

[108] Bốn câu này là: “Vũ đại pháp vũ, xuy đại pháp loa, kích đại pháp cổ, diễn đại pháp nghĩa.”

[109] Văn Cú Ký giải thích câu này là trong Pháp hoa huyền nghĩa cũng sử dụng phương thức dùng danh xưng Thông giáo nói nghĩa Viên giáo (名通義圓 - danh Thông nghĩa Viên), nay ở đây hiểu theo nghĩa ấy thì không có gì lạ.

[110] Mỗi thế giới Phật là chỉ cho khắp cõi thế giới do một vị Phật giáo hóa.

[111] Chỉ sự bám chấp của nơi sáu căn với sáu trần cảnh.

[112] Nguyên tác dùng “縱橫 - tung hoành”, Văn Cú Ký dùng “hoành thụ” để thay thế. Như vậy là ý nghĩa như nhau, đều chỉ cách giải thích dựa theo thời gian, “hoành” nghĩa là đồng thời, trong cùng một thời điểm và “tung” hay “thụ” nghĩa là diễn tiến theo trình tự thời gian, có trước sau khác biệt.

[113] Kinh Ưu-bà-tắc thanh tịnh hạnh (優婆塞清淨行經) hiện chúng tôi chưa tìm thấy trong Đại Chánh tạng, có lẽ đã thất truyền hoặc mang một tên khác.

[114] Ở đây giải thích theo y lý Trung Hoa.

[115] Động, khởi, dũng, chấn, hống, giác (動起涌震吼覺), Văn Cú Ký dẫn cách giải thích mới là động, dũng, chấn, kích, hống, bộc (動踊震擊吼爆). Văn Cú Ký cũng giải thích ý nghĩa chi tiết, động là rung động, dao động, khởi là từ thấp lên cao, dũng là từ chỗ thấp vọt mạnh lên cao, chấn là rung động có âm thanh phát ra, hống là phát ra âm thanh lớn có tiếng vọng lại, giác là khiến cho chúng sinh được giác ngộ.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 11 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Về mái chùa xưa


Bát-nhã Tâm kinh Khảo luận


Kinh Dược sư


Phật giáo và Con người

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.170 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...