Trong sự tu tập nhẫn nhục, kẻ oán thù là người thầy tốt nhất của ta. (In the practice of tolerance, one's enemy is the best teacher.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Kẻ yếu ớt không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh mẽ. (The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong.)Mahatma Gandhi
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hạnh phúc là khi những gì bạn suy nghĩ, nói ra và thực hiện đều hòa hợp với nhau. (Happiness is when what you think, what you say, and what you do are in harmony.)Mahatma Gandhi
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Trong sự tu tập nhẫn nhục, kẻ oán thù là người thầy tốt nhất của ta. (In the practice of tolerance, one's enemy is the best teacher.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» »» Kinh Diệu Pháp Liên Hoa »» Xem đối chiếu Anh Việt: 27. Phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của vua Diệu Trang Nghiêm »»
Xem Mục lục


Lúc bấy giờ, đức Phật bảo đại chúng: “Vào đời quá khứ, cách nay vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp, có Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri… cõi nước tên là Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hý Kiến. Trong phạm vi giáo hóa của Phật có vị vua[1] tên là Diệu Trang Nghiêm, hoàng hậu là Tịnh Đức, hai người con trai là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn.
“Hai người con trai này có sức thần thông lớn, có phước đức, trí tuệ, từ lâu đã theo con đường tu tập hạnh của hàng Bồ Tát như các pháp ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, phương tiện, bốn tâm vô lượng từ, bi, hỷ, xả, cho đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tất cả đều thông suốt sáng tỏ; lại đạt được các pháp tam-muội của Bồ Tát như tam-muội Tịnh, tam-muội Nhật tinh tú, Tịnh quang, Tịnh sắc, Tịnh chiếu minh, Trường trang nghiêm, Đại oai đức tạng... đối với các pháp tam-muội như vậy đều thấu đạt thông suốt.
“Bấy giờ, đức Phật muốn dẫn dắt vua Diệu Trang Nghiêm cũng như thương xót nhớ nghĩ đến chúng sanh nên thuyết kinh Pháp Hoa này.
“Khi ấy, hai hoàng tử là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn cùng đi đến chỗ mẹ, chắp tay thưa rằng: ‘Xin mẹ hãy đến chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, chúng con cũng theo hầu, gần gũi, cúng dường, lễ bái. Vì sao vậy? Vị Phật này ở giữa hết thảy trời người mà thuyết giảng kinh Pháp Hoa, nên đến nghe và thọ nhận.’
“Người mẹ bảo các con: ‘Cha con tin theo ngoại đạo, bám chấp sâu nơi pháp bà-la-môn, các con nên đến thưa cha xin người cùng đi.’
“Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn cùng chắp tay thưa mẹ: ‘Chúng con là đệ tử đấng Pháp vương, lại sinh vào nhà tà kiến.’[2]
“Người mẹ nói: ‘Các con nên nghĩ đến cha, hãy vì cha hiện các phép thần thông biến hóa; nếu nhìn thấy rồi tâm được thanh tịnh, biết đâu cha sẽ thuận theo các con cùng đến chỗ Phật.’
“Liền đó hai vị vương tử vì nghĩ thương đến cha liền nhảy vọt lên không trung, cao bảy cây đa-la, hiện đủ mọi phép thần thông biến hóa, ở giữa không trung đi đứng nằm ngồi, phía trên thân vọt ra nước, dưới thân tuôn ra lửa; hoặc trên thân tuôn lửa, dưới thân vọt nước; hoặc hiện thân to lớn choán đầy hư không, rồi hiện nhỏ lại; từ nhỏ lại hiện lớn; ở giữa không trung biến mất, hốt nhiên lại hiện ra trên mặt đất; đi vào lòng đất như lặn xuống nước, đi trên mặt nước như đi trên đất…[3] Hiện đủ mọi phép thần thông biến hóa, khiến tâm vua cha trở nên thanh tịnh, tin hiểu.
“Khi ấy, vua cha nhìn thấy hai con có sức thần thông như vậy, trong lòng hết sức vui mừng, được việc chưa từng có, chắp tay hướng về hai con hỏi rằng: ‘Ai là thầy của các con, các con là đệ tử của ai?’
“Hai vị vương tử đáp: ‘Thưa phụ vương, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, hiện nay đang ngồi trên pháp tòa dưới cội cây bồ-đề bằng bảy báu, ở giữa đại chúng hết thảy trời người trong thế gian mà rộng thuyết kinh Pháp Hoa, đó chính là thầy của chúng con; chúng con là đệ tử của Phật.’
“Đức vua bảo hai con: ‘Nay ta cũng muốn gặp thầy các con, chúng ta có thể cùng đi đến đó.’
“Liền khi ấy, hai vị vương tử từ không trung hạ xuống, đến chỗ mẹ chắp tay thưa rằng: ‘Nay cha con đã tin hiểu, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chúng con vì cha đã làm Phật sự, xin mẹ cho phép chúng con xuất gia theo Phật tu tập đạo pháp.’
“Bấy giờ, hai vị vương tử muốn lặp lại ý nghĩa trên nên đọc kệ thưa với mẹ:
‘Nguyện cho phép chúng con,
Xuất gia làm sa-môn,
Chư Phật rất khó gặp,
Chúng con theo Phật học.
Như gặp hoa ưu-đàm,
Gặp Phật khó như vậy,
Thoát nạn khổ cũng khó,
Nguyện cho con xuất gia.’
“Người mẹ liền nói: ‘Mẹ cho phép các con xuất gia. Vì sao vậy? Vì rất khó được gặp Phật.’
“Liền đó, hai vị vương tử thưa với cha mẹ: ‘Lành thay, thưa cha mẹ! Xin cùng đến chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, gần gũi cúng dường. Vì sao vậy? Vì rất khó được gặp Phật, cũng như hoa ưu-đàm-bát-la, lại cũng như con rùa chột mắt [ở giữa biển nổi lên] gặp được khúc cây có lỗ bộng trôi ngang qua.[4] Chúng ta nhờ phước đức sâu dày từ nhiều đời trước mà sinh ra được gặp Phật pháp, cha mẹ nên thuận theo ý chúng con, cho phép được xuất gia. Vì sao vậy? Chư Phật rất khó gặp, lại cũng rất khó có cơ hội gặp Phật.’
“Khi ấy, trong hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm có tám mươi bốn ngàn người, tất cả đều có thể đủ sức thọ trì kinh Pháp Hoa này.
“Bồ Tát Tịnh Nhãn từ lâu đã thông đạt đối với pháp tam-muội Pháp Hoa.
“Bồ Tát Tịnh Tạng từ vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp đã thông đạt pháp tam-muội Ly chư ác thú, vì muốn giúp cho hết thảy chúng sanh đều được lìa xa các đường ác.
“Phu nhân của vua đã đạt được pháp tam-muội Chư Phật Tập, có thể biết được kho tàng giáo pháp sâu kín của chư Phật.
“Hai vị vương tử dùng sức phương tiện như vậy, khéo léo hóa độ vua cha, khiến cho khởi tâm tin hiểu, ưa thích Phật pháp.
“Liền đó, vua Diệu Trang Nghiêm dẫn theo quần thần, quyến thuộc; phu nhân Tịnh Đức dẫn theo các cung nữ trong hậu cung và quyến thuộc; hai vị vương tử dẫn theo bốn mươi hai ngàn người, tất cả cùng nhau đi đến chỗ đức Phật. Đến nơi, tất cả cùng cúi đầu áp mặt lễ kính dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi đứng sang một bên.
“Khi ấy, đức Phật vì vua mà thuyết pháp, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích lợi ích, khiến cho đạt được niềm vui chân thật.[5] Nhà vua hết sức hân hoan vui mừng.
“Lúc bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng phu nhân liền cởi chuỗi ngọc chân châu giá trị trăm ngàn lượng vàng, tung rải lên để cúng dường Phật. Chuỗi ngọc được tung lên giữa không trung liền hóa thành một tòa đài báu có bốn cột, bên trong đài có giường báu lớn, trải bằng trăm ngàn muôn tấm vải cõi trời, bên trên có đức Phật ngồi kết già, phóng hào quang sáng chói. Khi ấy, vua Diệu Trang Nghiêm tự nghĩ: ‘Thân Phật thật hy hữu, đặc biệt lạ lùng đoan nghiêm, thành tựu hình sắc vi diệu bậc nhất.’
“Khi ấy, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói với bốn chúng: ‘Mọi người nhìn thấy vua Diệu Trang Nghiêm đang chắp tay đứng trước ta đây chăng? Đức vua này sẽ làm tỳ-kheo trong giáo pháp của ta, tinh cần tu tập các pháp trợ đạo, rồi sẽ thành Phật hiệu là Sa-la Thụ Vương, ở cõi nước tên là Đại Quang, vào kiếp tên là Đại Cao Vương. Đức Phật Sa-la Thụ Vương có vô số chúng Bồ Tát cùng vô số Thanh văn. Cõi nước ấy bằng phẳng ngay ngắn… công đức như thế.’
“Khi ấy vua Diệu Trang Nghiêm liền đem việc nước giao cho người em, rồi cùng với phu nhân, hai vương tử và quyến thuộc xuất gia tu tập trong Phật pháp.
“Sau khi xuất gia, đức vua thường xuyên chuyên cần tinh tấn tu hành theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa trong suốt tám mươi bốn ngàn năm. Trải qua thời gian đó rồi, đạt được pháp tam-muội Nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm, liền bay lên không trung, cao bảy cây đa-la, rồi thưa với Phật: ‘Bạch Thế Tôn! Hai người con của con, vì làm Phật sự nên đã dùng thần thông biến hóa, chuyển hóa tâm tà kiến của con, khiến con được trụ yên trong pháp Phật, được gặp đức Thế Tôn. Hai người con ấy là bậc thiện tri thức, vì muốn khơi dậy căn lành đời trước, muốn làm lợi ích cho con nên mới sinh vào gia đình con.’
“Khi ấy, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí bảo vua Diệu Trang Nghiêm: ‘Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào gieo trồng căn lành thì đời đời sẽ được gặp thiện tri thức. Thiện tri thức ấy có thể làm Phật sự, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích lợi ích, khiến cho đạt được niềm vui chân thật, giúp cho thể nhập Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Này Đại vương! Nên biết rằng thiện tri thức là nhân duyên lớn lao, là vì giáo hóa dẫn dắt khiến cho được gặp Phật, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Đại vương! Ông có nhìn thấy hai người con này chăng? Hai người này vốn đã từng cúng dường chư Phật nhiều như số cát của sáu mươi lăm trăm ngàn muôn ức na-do-tha sông Hằng, gần gũi cung kính, ở nơi chư Phật ấy thọ trì kinh Pháp Hoa, thương xót những chúng sanh tà kiến nên khiến cho trụ vào chánh kiến.’
“Lúc bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm liền từ không trung hạ xuống rồi bạch Phật: ‘Thế Tôn! Như Lai thật là hy hữu, do trí tuệ và công đức nên tướng nhục kế trên đỉnh đầu hào quang sáng tỏa; mắt đẹp dài rộng với màu xanh biếc; tướng bạch hào giữa hai chân mày sáng màu tươi mát;[6] răng đều khít bằng phẳng, thường trắng sáng; môi đỏ tươi như màu trái tần-bà…’[7]
“Khi ấy, vua Diệu Trang Nghiêm ngợi khen xưng tán vô số trăm ngàn muôn ức công đức của Phật như vậy, rồi ở trước đức Như Lai một lòng chắp tay bạch Phật: ‘Thế Tôn! Thật chưa từng có! Chánh pháp của Như Lai thành tựu đầy đủ công đức vi diệu không thể nghĩ bàn, dạy bảo việc thiện, răn ngừa việc bất thiện[8] khiến cho được an ổn tốt đẹp. Kể từ hôm nay con sẽ không còn trở lại chạy theo các tâm hành,[9] không khởi sinh các tâm xấu ác như tà kiến, kiêu căng, ngạo mạn, sân hận.’ Nhà vua nói như vậy rồi lễ Phật, lui ra.”[10]
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo đại chúng: “Các ông nghĩ sao? Vua Diệu Trang Nghiêm nào phải ai xa lạ, nay chính là Bồ Tát Hoa Đức. Phu nhân Tịnh Đức của vua, nay chính là Bồ Tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng đang ở trước Phật, thuở xưa vì thương xót vua Diệu Trang Nghiêm và quyến thuộc nên sinh ra ở đó. Còn hai vị vương tử, nay chính là Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng.
“Hai vị Bồ Tát Dược Vương và Dược Thượng này đã thành tựu những công đức lớn lao như vậy, từng ở nơi vô số trăm ngàn muôn ức các đức Phật mà trồng sâu các gốc công đức, thành tựu những công đức hiền thiện không thể nghĩ bàn. Nếu có người biết đến danh hiệu của hai vị Bồ Tát này thì hết thảy chư thiên cùng nhân dân trong thế gian cũng nên lễ bái người ấy.”[11]
Khi Phật thuyết phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của vua Diệu Trang Nghiêm, có tám mươi bốn ngàn người xa lìa phiền não cấu nhiễm, ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh.[12]
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.97 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập