Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Kẻ ngốc nghếch truy tìm hạnh phúc ở xa xôi, người khôn ngoan gieo trồng hạnh phúc ngay dưới chân mình. (The foolish man seeks happiness in the distance, the wise grows it under his feet. )James Oppenheim
Chúng ta không làm gì được với quá khứ, và cũng không có khả năng nắm chắc tương lai, nhưng chúng ta có trọn quyền hành động trong hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Cuộc sống xem như chấm dứt vào ngày mà chúng ta bắt đầu im lặng trước những điều đáng nói. (Our lives begin to end the day we become silent about things that matter. )Martin Luther King Jr.
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Hạnh phúc giống như một nụ hôn. Bạn phải chia sẻ với một ai đó mới có thể tận hưởng được nó. (Happiness is like a kiss. You must share it to enjoy it.)Bernard Meltzer
Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Giảng giải Kinh Phổ Môn »» Xem đối chiếu Anh Việt: Bài giảng thứ ba »»

Giảng giải Kinh Phổ Môn
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Bài giảng thứ ba

(Lượt xem: 2.238)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  Vietnamese || Chinese || Tải về bảng song ngữ


       

Điều chỉnh font chữ:

Bài giảng thứ ba

第三集

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM PHỔ MÔN - BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

妙法蓮華經觀世音菩薩普門品(第三集) 
diệu pháp liên hoa kinh quan thế âm bồ tát phổ môn phẩm ( đệ tam tập )  
Hoa Tạng Đồ Thư Quán, Cảnh Mỹ, [Đài Bắc], Đài Loan
1983/12台灣景美華藏圖書館檔名:08-004-0003
1 9 8 3 / 1 2 đài loan cảnh mĩ hoa tạng đồ thư quán đáng danh : 0 8 - 0 0 4 - 0 0 0 3
Bài giảng thứ ba - Tháng 12 năm 1983

Số lưu trữ: 08-004-0003  

Mời quý vị mở [sách Pháp Hoa Kinh Đại Thành] quyển hạ, trang 799. [Hôm nay] chúng ta lại tiếp tục xem xét đề mục [của phẩm kinh: “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh – Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm - Phẩm thứ 25.”] Bắt đầu từ dòng thứ 5 chép rằng:
請掀開經本七百九十九面,我們還是繼續看品題,從第五行看起:
thỉnh hiên khai kinh bản thất bá cửu thập cửu diện , ngã môn hoàn thị kế tục khán phẩm đề , tùng đệ ngũ hành khán khởi :
Kinh Đại Bi nói: “Sức oai thần của vị Bồ Tát này không thể nghĩ bàn, đã thành Phật từ vô số kiếp trong quá khứ, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Do nguyện lực đại bi muốn làm cho chúng sinh an vui nên hiện thân làm Bồ Tát.”
「《大悲經》云:此菩薩不可思議威神之力,已於過去無量劫中作佛,號正法明如來。大悲願力,安樂眾生,故現為菩薩耳。」
「 《 đại bi kinh 》 vân : thử bồ tát bất khả tư nghị uy thần chi lực , dĩ ư quá khứ vô lượng kiếp trung tác phật , hiệu chính pháp minh như lai 。 đại bi nguyện lực , an lạc/nhạc/nhạo chúng sinh , cố hiện vi bồ tát nhĩ 。 」
Đoạn kinh này cho thấy rằng Bồ Tát [Quán Thế Âm] là tạo nhân khi đang hưởng quả, nghĩa là đã thoát khỏi luân hồi nhưng quay thuyền từ lại [tiếp độ chúng sinh], vì ngài vốn đã thành Phật từ nhiều kiếp lâu xa.
這一段經文就是說明,菩薩是屬於帶果行因,所謂是倒駕慈航,他久遠劫已經成佛了。
giá nhất đoạn kinh văn tựu thị thuyết minh , bồ tát thị thuộc ư đái quả hành nhân , sở vị thị đảo giá từ hàng , tha cửu viễn kiếp dĩ kinh thành phật liễu 。
Vậy tại sao ngài không dùng thân Phật để cứu độ chúng sinh mà lại hạ thấp xuống địa vị Bồ Tát? Điều này chúng ta vẫn thường thấy trong kinh luận. Phật là địa vị của bậc thầy. Bậc thầy có vị thế rất tôn nghiêm nên chúng ta nhất định phải tìm đến để cầu học. Cứ y theo lễ nghĩa từ xưa của người Trung Quốc thì chỉ có người học đi cầu thầy, chưa từng có thầy đi tìm học trò để dạy. Cho nên, đạo thầy trò là hết sức tôn nghiêm. Ngay như các bậc đế vương của thế gian, cũng không dám quay mặt về hướng nam để tiếp kiến, đó là theo lễ nghĩa từ xưa, phải hết sức tôn trọng. Khi hoàng đế tiếp kiến thầy phải tự mình đứng ở hướng đông, vị thầy đứng ở hướng tây, dùng lễ chủ khách mà tiếp, không dám theo lễ vua tôi. Đó là vì sự tôn trọng đối với bậc thầy. Cho nên việc học cần phải cầu học.
為什麼不以佛身來度眾生,而降到菩薩的地位?這是我們在經論當中常常看到。佛是老師的地位,老師必定是尊嚴的,老師,我們一定向他請教,跟我們中國古禮一樣,只聞來學,未聞往教。所以師道是非常尊嚴的。即使世間帝王,對於老師也不敢南面臨之,這是古禮,都非常尊重的。皇帝接見老師,皇帝自己站在東面,老師站在西面,以賓主之禮來對待,不敢以君臣之禮,這是對老師的尊重。所以學要求學。
vi thập ma bất dĩ phật thân lai độ chúng sinh , nhi giáng đáo bồ tát đích địa vị ? giá thị ngã môn tại kinh luận đương trung thường thường khán đáo 。 phật thị lão sư đích địa vị , lão sư tất định thị tôn nghiêm đích , lão sư , ngã môn nhất định hướng tha thỉnh giáo , căn ngã môn trung quốc cổ lễ nhất dạng , chỉ văn lai học , vị văn vãng giáo 。 sở dĩ sư đạo thị phi thường tôn nghiêm đích 。 tức sứ thế gian đế vương , đối ư lão sư dã bất cảm nam diện lâm chi , giá thị cổ lễ , đô phi thường tôn trùng đích 。 hoàng đế tiếp kiến lão sư , hoàng đế tự kỉ trạm tại đông diện , lão sư trạm tại tây diện , dĩ tân chủ chi lễ lai đối đãi , bất cảm dĩ quân thần chi lễ , giá thị đối lão sư đích tôn trùng 。 sở dĩ học yếu cầu học 。
Hiện nay địa vị của người thầy bị hạ thấp, đó là vì sao? Vì thầy bây giờ làm gia sư, đến tận nhà dạy học, nên học sinh đối với vị thầy không tôn trọng. Thầy làm gia sư, tôi muốn mời thầy đến dạy học, muốn thầy đến giờ nào thì gọi điện thoại, thầy đến; hôm nào tôi không muốn học, [không gọi,] thầy không đến. Khi cần, gọi là đến, không cần, bảo đi là đi, như vậy làm gì có đạo thầy trò? Học sinh cầu học mà đối với bậc thầy không có lòng kính trọng, xin thưa với quý vị, dù là học điều gì cũng không thể học được.
現在老師的身分降低了,為什麼?有家庭老師,所以學生對老師不尊重了。家庭老師,我請你來教,什麼時候打個電話,你來,我今天不想上課,你就不要來。呼之即來,揮之即去,這哪有師道?學生求學,對於老師要沒有尊重的心,給諸位說,那什麼都學不到。
hiện tại lão sư đích thân phân giáng đê liễu , vi thập ma ? hữu gia đình lão sư , sở dĩ học sinh đối lão sư bất tôn trùng liễu 。 gia đình lão sư , ngã thỉnh nễ lai giáo , thập ma thời hậu đả cá điện thoại , nễ lai , ngã kim thiên bất tưởng thượng khoá , nễ tựu bất yếu lai 。 hô chi tức lai , huy chi tức khứ , giá ná hữu sư đạo ? học sinh cầu học , đối ư lão sư yếu một hữu tôn trùng đích tâm , cấp chư vị thuyết , na thập ma đô học bất đáo 。
Ngày nay nói là cầu học, chẳng phải cầu đạo. Cũng không phải cầu học vấn, vậy thì cầu những gì? Chẳng qua cầu một chút hiểu biết về kỹ thuật, khoa học kỹ thuật, như vậy thì tạm được, còn muốn cầu đạo, cầu học thì không được.
今天講求學,不是求道,不是求學問,求的是什麼?求的是一點技術、科技,這個行;求道、求學不行。
kim thiên giảng cầu học , bất thị cầu đạo , bất thị cầu học vấn , cầu đích thị thập ma ? cầu đích thị nhất điểm kĩ thuật 、 khoa kĩ , giá cá hành ; cầu đạo 、 cầu học bất hành 。
Bậc cổ đức nói rằng: “Việc cầu học, trong lòng có một phần cung kính thì học được một phần, hai phần cung kính thì học được hai phần, không có tâm cung kính thì không học được gì cả.” Phật pháp rất thực tiễn. [Về việc này] Phật pháp nói là học đạo. Không có tâm cung kính thì không thể được đạo. Ví như có đến nghe, cũng không thể nghe ra được đạo.
那就是古德所謂一分恭敬心就能得一分,兩分恭敬心就能得兩分,沒有恭敬心什麼都得不到。佛法非常現實,佛法講的是道,沒有恭敬心就不會得道,縱然來聽,也聽不出門道。
na tựu thị cổ đức sở vị nhất phân cung kính tâm tựu năng đắc nhất phân , lưỡng phân cung kính tâm tựu năng đắc lưỡng phân , một hữu cung kính tâm thập ma đô đắc bất đáo 。 phật pháp phi thường hiện thật , phật pháp giảng đích thị đạo , một hữu cung kính tâm tựu bất hội đắc đạo , túng nhiên lai thính , dã thính bất xuất môn đạo 。
Vì nguyên nhân nói trên, đức Phật thật sự hết sức từ bi nên tự hạ thấp địa vị của mình xuống, chỉ làm Bồ Tát. Địa vị Bồ Tát thì đối với chúng ta cũng giống như bạn đồng học, cũng giống như học sinh cùng học một trường, ngài đã tốt nghiệp từ trước, chúng ta là học sinh khóa sau, cùng gặp nhau trong trường học mà thôi. Trò chuyện cùng nhau ở trường học thì có thể tự nhiên, tùy tiện, không giống như đối với bậc thầy tôn nghiêm, cho nên có thể tùy triện trao đổi. Đối với bậc thầy thì không thể nói năng tùy tiện. Cũng không thể có chuyện học sinh không thỉnh cầu mà đến dạy. Nhưng với [đàn anh] học cùng trường thì có thể, có thể làm người bạn không mời mà đến. Các bạn không mời tôi, tôi vẫn có thể đến chỉ dạy; các bạn không chịu học, tôi có thể lôi kéo, thúc đẩy các bạn học. Như vậy có thể được, vì là bạn đồng học nên có thể được, đối với bậc thầy thì không được. Sự tôn nghiêm của bậc thầy nhất định phải được duy trì, gìn giữ.
因此,佛真正是慈悲至極,把自己的身分貶低,我在菩薩地位上。菩薩的身分跟我們是同學的身分,菩薩是同學,好像一個學校的校友一樣,他是前期畢業的,我們是後期的,遇到是學長而已。學長說話就比較隨便,不像老師那麼尊嚴,可以隨便說話。老師不能說隨便,學生沒有請求就去教他,沒有這個道理;但是學長、同學就可以,同學可以做不請之友,你不請我,我也可以來教你,你不願意學,我拖著你來學,行。同學可以,老師不行,老師的尊嚴一定要保持住。
nhân thử , phật chân chính thị từ bi chí cực , bả tự kỉ đích thân phân biếm đê , ngã tại bồ tát địa vị thượng 。 bồ tát đích thân phân căn ngã môn thị đồng học đích thân phân , bồ tát thị đồng học , hảo tượng nhất cá học hào đích hào hữu nhất dạng , tha thị tiền kì tất nghiệp đích , ngã môn thị hậu kì đích , ngộ đáo thị học trường nhi dĩ 。 học trường thuyết thoại tựu tỉ giác tùy tiện , bất tượng lão sư na ma tôn nghiêm , khả dĩ tùy tiện thuyết thoại 。 lão sư bất năng thuyết tùy tiện , học sinh một hữu thỉnh cầu tựu khứ giáo tha , một hữu giá cá đạo lí ; đãn thị học trường 、 đồng học tựu khả dĩ , đồng học khả dĩ tố bất thỉnh chi hữu , nễ bất thỉnh ngã , ngã dã khả dĩ lai giáo nễ , nễ bất nguyện ý học , ngã đà trước nễ lai học , hành 。 đồng học khả dĩ , lão sư bất hành , lão sư đích tôn nghiêm nhất định yếu bảo trì trụ 。
Cho nên, ngài từ địa vị của Phật, tức là một bậc thầy, hạ thấp xuống làm một vị Bồ Tát, nghĩa là không làm một bậc thầy đến giáo hóa chúng sinh, mà làm bạn đồng học, làm một bậc đàn anh để giáo hóa chúng sinh. Làm như vậy để tiếp dẫn chúng sinh thì có nhiều thuận lợi hơn, có nhiều phương tiện hơn.
所以,以佛的身分就是老師的身分,降低身分作菩薩,就是不以老師的身分來教化眾生,而以同學、學長的身分來教化眾生,這樣對接引眾生來說有許許多多的方便。
sở dĩ , dĩ phật đích thân phân tựu thị lão sư đích thân phân , giáng đê thân phân tác bồ tát , tựu thị bất dĩ lão sư đích thân phân lai giáo hoá chúng sinh , nhi dĩ đồng học 、 học trường đích thân phân lai giáo hoá chúng sinh , giá dạng đối tiếp dẫn chúng sinh lai thuyết hữu hứa hứa đa đa đích phương tiện 。
Cho nên, bất kể là vị Phật nào, các ngài thành Phật ở một thế giới, khi đến một thế giới khác sẽ thị hiện làm Bồ Tát để giáo hóa. Điều này có thể so sánh rất giống như trong trường học hiện nay, đức Phật có thể ví như vị hiệu trưởng, nhất định phải giữ gìn sự tôn nghiêm của mình, trong khi các vị giáo sư có thể ví như các vị Bồ Tát, có thể tùy tiện, linh hoạt hơn [trong việc dạy dỗ]. Vị ấy làm hiệu trưởng ở trường này, có thể đến một trường khác làm giáo sư, tức là làm Bồ Tát. Trong Phật pháp, chư Phật, Bồ Tát thị hiện như vậy có thể nói là rất nhiều, nhiều đến vô số.
所以,無論哪一尊佛,他在這個世界成佛,他到那個世界,他就以菩薩身分來教化。這種情形好比我們現在的學校,佛就好比校長,他一定要保持他的尊嚴,這些教授就好比是菩薩,那就隨便多了。他在這個學校做校長,他可以到另外一個學校去做教授,去作菩薩。佛法,諸佛菩薩如是示現,可以說非常的普遍,無量無邊。
sở dĩ , vô luận ná nhất tôn phật , tha tại giá cá thế giới thành phật , tha đáo na cá thế giới , tha tựu dĩ bồ tát thân phân lai giáo hoá 。 giá chủng tình hình hảo tỉ ngã môn hiện tại đích học hào , phật tựu hảo tỉ hào trường , tha nhất định yếu bảo trì tha đích tôn nghiêm , giá ta giáo thụ tựu hảo tỉ thị bồ tát , na tựu tùy tiện đa liễu 。 tha tại giá cá học hào tố hào trường , tha khả dĩ đáo lánh ngoại nhất cá học hào khứ tố giáo thụ , khứ tác bồ tát 。 phật pháp , chư phật bồ tát như thị thị hiện , khả dĩ thuyết phi thường đích phổ biến , vô lượng vô biên 。
Do đó có thể biết rằng Bồ Tát [Quán Thế Âm] đã thành Phật rồi thị hiện trở lại, tại Pháp hội Lăng Nghiêm thị hiện làm vị Bồ Tát sơ địa. Hôm nay có tặng cho quý vị một bản Hoa Nghiêm soát độc, trong đó cũng có một chương tên là “Quán Thế Âm Bồ Tát”, trong đó ngài thị hiện là Bồ Tát ở địa vị Hồi hướng thứ bảy. Có thể thấy rằng địa vị mà ngài thị hiện đều là địa vị Bồ Tát, từ Bồ Tát Sơ trụ cho đến Bồ Tát Đẳng giác, gồm 41 giai vị Bồ Tát ngài đều có thị hiện, như vậy mới có thể rộng độ chúng sinh.
由此可知,菩薩已經是成佛再來之人,在楞嚴會上所示現的是初住菩薩。今天送一本《華嚴選讀》給諸位,這裡面也有一章是觀世音菩薩章,他所示現的是第七迴向位的菩薩。可見得他示現的身分,就是菩薩的身分,從初住到等覺,四十一個位次的菩薩他統統都示現,這樣才能普度眾生。
do thử khả tri , bồ tát dĩ kinh thị thành phật tái lai chi nhân , tại lăng nghiêm hội thượng sở thị hiện đích thị sơ trụ bồ tát 。 kim thiên tống nhất bản 《 hoa nghiêm soát độc 》 cấp chư vị , giá lí diện dã hữu nhất chương thị quan thế âm bồ tát chương , tha sở thị hiện đích thị đệ thất hồi hướng vị đích bồ tát 。 khả kiến đắc tha thị hiện đích thân phân , tựu thị bồ tát đích thân phân , tùng sơ trụ đáo đẳng giác , tứ thập nhất cá vị thứ đích bồ tát tha thống thống đô thị hiện , giá dạng tài năng phổ độ chúng sinh 。
Đến phần sau chúng ta sẽ thấy được 32 ứng hóa thân của ngài. 32 ứng hóa thân lại thị hiện ra vô lượng vô biên thân, điều này chúng ta cần phải hiểu rõ. Quý vị nói xem, rốt lại thì Bồ Tát Quán Thế Âm là địa vị nào? Địa vị nào cũng có cả, không một chủng loại nào mà ngài không hiện thân [để giáo hóa chúng sinh].
到後面我們能看到,看到他三十二應,三十二應那是示現無量無邊的身分,這是我們要曉得的。你說觀音菩薩究竟是什麼身分?什麼身分都有,無類不現身。
đáo hậu diện ngã môn năng khán đáo , khán đáo tha tam thập nhị ưng , tam thập nhị ưng na thị thị hiện vô lượng vô biên đích thân phân , giá thị ngã môn yếu hiểu đắc đích 。 nễ thuyết quan âm bồ tát cứu cánh thị thập ma thân phân ? thập ma thân phân đô hữu , vô loại bất hiện thân 。
Tiếp theo nói“Biệt hành huyền vân - 別 行玄云”. Biệt hành là một phẩm kinh, riêng một phẩm kinh này, được các vị đại đức xưa kia trích ra từ kinh Pháp Hoa và lưu hành riêng biệt nên gọi là “biệt hành”. Phẩm kinh [Phổ môn] này được in để lưu hành riêng biệt có thể nói là rất nhiều.
「別行玄云」,別行就是這一品經,這一品經,古大德把它從《法華經》裡面提出來單獨流通,就叫別行。單獨流通這一品可以說太多太多了。
「 biệt hành huyền vân 」 , biệt hành tựu thị giá nhất phẩm kinh , giá nhất phẩm kinh , cổ đại đức bả tha tùng 《 pháp hoa kinh 》 lí diện đề xuất lai đạn độc lưu thông , tựu khiếu biệt hành 。 đạn độc lưu thông giá nhất phẩm khả dĩ thuyết thái đa thái đa liễu 。
Chữ “huyền” là “huyền nghĩa - 玄義”, tức là nói huyền nghĩa trong bản “Biệt hành sớ - 別行疏”. Trong bản sớ giải này nói rằng: “Quán Thế Âm, theo tên gọi trong tiếng Phạn là A-na-bà-lũ-cát-để-du.” Đó là nói phiên âm từ tiếng Phạn Avalokiteśvara, Hán dịch theo ý nghĩa là Quán Thế Âm. “Quán là nói trí của người quán sát, Thế Âm là nói trần cảnh, đối tượng của sự quán sát đó.” Trần cảnh là đối tượng quán sát lại có bốn loại, trong đó đều gồm đủ.
玄是玄義,就是《別行疏》玄義裡面說,「觀世音者,西方正音名阿那婆婁吉底輸」,這是梵語,梵語音譯的,翻成中國的意思叫觀世音,「觀者能觀之智,世音者所觀之境」。所觀之境裡面又有四種,這裡頭都有。
huyền thị huyền nghĩa , tựu thị 《 biệt hành sơ 》 huyền nghĩa lí diện thuyết , 「 quan thế âm giả , tây phương chính âm danh a na bà lũ cát để du 」 , giá thị phạm ngữ , phạm ngữ âm dịch đích , phiên thành trung quốc đích ý tư khiếu quan thế âm , 「 quan giả năng quan chi trí , thế âm giả sở quan chi cảnh 」 。 sở quan chi cảnh lí diện hựu hữu tứ chủng , giá lí đầu đô hữu 。
Về trí năng quán, tức là ý nghĩa “nhập lưu vong sở” mà hôm qua đã giảng giải, cũng tức là công phu “phản văn”. Điều này là hết sức quan trọng thiết yếu.
能觀之智就是在昨天晚上所講的「入流亡所」,也就是反聞的功夫,這是非常非常的重要。
năng quan chi trí tựu thị tại tạc thiên vãn thượng sở giảng đích 「 nhập lưu vong sở 」 , dã tựu thị phản văn đích công phu , giá thị phi thường phi thường đích trùng yếu 。
Trí (智) có khác biệt, không phải là thức (識). Trí ở đây là trí vô phân biệt. Có phân biệt thì gọi là thức, tức là thức thứ sáu, ý thức, có sự phân biệt. Có phân biệt, có bám chấp thì là thức thứ sáu (ý thức), thức thứ bảy (mạt-na thức), không gọi là trí.
智揀別不是識,智是無分別智,有分別就叫識,就是第六意識,有分別、有執著是第六識、第七識,那不叫智。
trí giản biệt bất thị thức , trí thị vô phân biệt trí , hữu phân biệt tựu khiếu thức , tựu thị đệ lục ý thức , hữu phân biệt 、 hữu chấp trước thị đệ lục thức 、 đệ thất thức , na bất khiếu trí 。
Trí là trí vô phân biệt, hay nói cách khác, đó là tác dụng được khởi lên từ tâm thanh tịnh. Các bậc cổ đức thường lấy nước để làm ví dụ so sánh. Mặt nước khi lặng yên không xao động, không gợn sóng, sẽ giống như mặt kính [phản chiếu rõ ràng hình ảnh], được ví như tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh khởi lên tác dụng, có thể soi chiếu, rất giống như công năng của một tấm kính, bên ngoài có bao nhiêu cảnh vật đều phản chiếu vào trong kính, hiện ra rõ ràng, nên so sánh giống như trí tuệ vô phân biệt, soi chiếu mọi thứ đều rõ ràng.
智是無分別智,換句話說,就是清淨心所起的作用,清淨心能照,照的作用就是觀智。古德常常用水做比喻,水在平靜的時候,沒有風浪,像一面鏡子一樣,把它比作清淨心。它起的作用,它能照,正像一面鏡子,把外面所有的境界都照在裡面,照得清清楚楚,比作什麼?比作無分別智,照得清楚。
trí thị vô phân biệt trí , hoán cú thoại thuyết , tựu thị thanh tịnh tâm sở khởi đích tác dụng , thanh tịnh tâm năng chiếu , chiếu đích tác dụng tựu thị quan trí 。 cổ đức thường thường dụng thuỷ tố tỉ dụ , thuỷ tại bình tĩnh đích thời hậu , một hữu phong lang , tượng nhất diện kính tử nhất dạng , bả tha tỉ tác thanh tịnh tâm 。 tha khởi đích tác dụng , tha năng chiếu , chính tượng nhất diện kính tử , bả ngoại diện sở hữu đích cảnh giới đô chiếu tại lí diện , chiếu đắc thanh thanh sở sở , tỉ tác thập ma ? tỉ tác vô phân biệt trí , chiếu đắc thanh sở 。
Nếu tâm của quý vị dao động thì sẽ giống như mặt nước có sóng gợn, vậy có tác dụng gì không? Cũng có tác dụng, cũng có năng lực soi chiếu, nhưng chỉ có điều là không được hoàn toàn. Vì sao vậy? Vì có giới hạn. Khi mặt nước có sóng gợn thì sự soi chiếu chỉ được một phần, hơn nữa cũng không được rõ ràng.
你心要是動了,就好比水起了波浪,水起了波浪它有沒有作用?也有作用,它也能照,但是能照就照得不完全,為什麼?它有界限,它有波浪的時候它照的是局部,局部也不清楚。
nễ tâm yếu thị động liễu , tựu hảo tỉ thuỷ khởi liễu ba lang , thuỷ khởi liễu ba lang tha hữu một hữu tác dụng ? dã hữu tác dụng , tha dã năng chiếu , đãn thị năng chiếu tựu chiếu đắc bất hoàn toàn , vi thập ma ? tha hữu giới hạn , tha hữu ba lang đích thời hậu tha chiếu đích thị cục bộ , cục bộ dã bất thanh sở 。
Tâm chúng ta nếu được tĩnh lặng, thanh tịnh, thì khi khởi lên tác dụng gọi là trí, quả thật là không có phân biệt. Tuy không phân biệt nhưng hết thảy đều sáng suốt rõ ràng, không phải nói không có phân biệt là không biết gì cả. Không phân biệt nhưng so với có phân biệt còn sáng tỏ rõ ràng hơn, chân thật hơn, cho nên gọi là trí tuệ.
我們的心在不動的時候、清淨的時候,所起的作用就叫智,的確無分別。雖無分別,一切明瞭,不是說無分別什麼都不知道,無分別比有分別還要明瞭、還要真實,所以這叫智。
ngã môn đích tâm tại bất động đích thời hậu 、 thanh tịnh đích thời hậu , sở khởi đích tác dụng tựu khiếu trí , đích xác vô phân biệt 。 tuy vô phân biệt , nhất thiết minh liệu , bất thị thuyết vô phân biệt thập ma đô bất tri đạo , vô phân biệt tỉ hữu phân biệt hoàn yếu minh liệu 、 hoàn yếu chân thật , sở dĩ giá khiếu trí 。
Tâm của phàm phu sử dụng là vọng tâm, chính là tâm phân biệt, chính là tâm bám chấp, cho nên gọi là thức. Ngày hôm qua tôi có nói với quý vị, Pháp sư Giao Quang trong sách Lăng-nghiêm chính mạch đã đề xướng việc “bỏ thức dùng căn”, có nghĩa là buông bỏ sự bám chấp, buông bỏ sự phân biệt, vận dụng trí vô phân biệt. Phải dùng trí này làm căn bản để tu nhân thì mới có thể thành tựu được Vô thượng Bồ đề.
凡夫所用的心是妄心,用的是分別心、用的是執著心,所以那叫識。昨天跟諸位提過,交光法師在《楞嚴正脈》裡面一再的提倡捨識用根,就是把執著、分別捨棄掉,用無分別智,用這個作本修因才能得成無上菩提。
phàm phu sở dụng đích tâm thị vọng tâm , dụng đích thị phân biệt tâm 、 dụng đích thị chấp trước tâm , sở dĩ na khiếu thức 。 tạc thiên căn chư vị đề quá , giao quang pháp sư tại 《 lăng nghiêm chính mạch 》 lí diện nhất tái đích đề xương xả thức dụng căn , tựu thị bả chấp trước 、 phân biệt xả khí điệu , dụng vô phân biệt trí , dụng giá cá tác bản tu nhân tài năng đắc thành vô thượng bồ đề 。
Ở Trung Quốc từ xưa đến nay, trong pháp thế gian cũng như trong Phật pháp, việc học đều bắt đầu từ căn bản trí, điều này chúng ta nên hiểu rõ. Cư sĩ Đường Đại Viên trong sách Duy thức tân tài hiệt vị đã đề cập đến vấn đề này, hơn nữa còn trình bày rất xúc động. Ông nói rằng, từ thời Dân quốc đến nay, hệ thống giáo dục sau khi cải cách đã không còn khởi đầu từ căn bản trí nữa. Không có căn bản trí thì cũng không có hậu đắc trí, như vậy sự tu học của quý vị, theo như Đại sư Thanh Lương nói thì không rơi vào vô minh ắt cũng rơi vào tà kiến.
我們中國自古以來,世間法裡面、佛法裡面的教學都是從根本智下手,這是我們應當要明白的。唐大圓居士在《唯識新裁擷彙》裡面就提出這個問題,而且非常的感嘆,說民國以來,教育制度改革了,不在根本智上下功夫。沒有根本智就沒有後得智,你所修學的,正是清涼所說的,不是墮在無明,就是墮在邪見。
ngã môn trung quốc tự cổ dĩ lai , thế gian pháp lí diện 、 phật pháp lí diện đích giáo học đô thị tùng căn bản trí hạ thủ , giá thị ngã môn ưng đương yếu minh bạch đích 。 đường đại viên cư sĩ tại 《 duy thức tân tài hiệt vị 》 lí diện tựu đề xuất giá cá vấn đề , nhi thả phi thường đích cảm thán , thuyết dân quốc dĩ lai , giáo dục chế độ cải cức liễu , bất tại căn bản trí thượng hạ công phu 。 một hữu căn bản trí tựu một hữu hậu đắc trí , nễ sở tu học đích , chính thị thanh lương sở thuyết đích , bất thị đoạ tại vô minh , tựu thị đoạ tại tà kiến 。
Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho ngày nay việc tu học của chúng ta rất khó thành tựu, hơn nữa còn là một nguyên nhân quan trọng. Sự tu tập căn bản trí là phải học thuộc lòng. Cho nên, không chỉ trong Phật pháp mà ngày xưa ngay cả sự học [của Nho gia] cũng khởi đầu từ việc học thuộc lòng. Quý vị có thể thấy bậc tiểu học ở Trung Quốc ngày xưa không giống với bậc tiểu học hiện nay. Bậc tiểu học thời xưa nhằm mục tiêu [rèn luyện học sinh] đạt được căn bản trí, tức là trí vô phân biệt. Đứa trẻ bảy tuổi bắt đầu học, gọi là “tựu ngoại phó”. Phó là sư phó, tức là vị thầy. Bảy tuổi bắt đầu gần gũi vị thầy, bắt đầu tách rời cha mẹ để theo thầy.
這也是今日之下我們修學很難成就的原因之一,這是一個重要的因素。根本智的修學就是在背誦,所以背誦,不但佛法裡面,從前念書都是從背誦下手。你看中國的小學跟現在小學不相同,古代的小學是以求根本智為目標,就是求無分別智。小孩七歲上學,「就外傅」,傅是師傅,就是老師,七歲就親近老師,離開父母跟老師。
giá dã thị kim nhật chi hạ ngã môn tu học ngận nan thành tựu đích nguyên nhân chi nhất , giá thị nhất cá trùng yếu đích nhân tố 。 căn bản trí đích tu học tựu thị tại bội tụng , sở dĩ bội tụng , bất đãn phật pháp lí diện , tùng tiền niệm thư đô thị tùng bội tụng hạ thủ 。 nễ khán trung quốc đích tiểu học căn hiện tại tiểu học bất tướng đồng , cổ đại đích tiểu học thị dĩ cầu căn bản trí vi mục tiêu , tựu thị cầu vô phân biệt trí 。 tiểu hài thất tuế thượng học , 「 tựu ngoại phó 」 , phó thị sư phó , tựu thị lão sư , thất tuế tựu thân cận lão sư , li khai phụ mẫu căn lão sư 。
Nhà ở Trung Quốc từ xa xưa là kiểu nhà lớn, khác với kiểu nhà thu nhỏ hiện nay. Theo kiểu nhà lớn thì ngôi nhà được phân chia thành các khu vực bên trong, bên ngoài. Có một lần đến thăm Trung tâm hoạt động thanh niên Khẩn Đinh, tôi đã thấy kiến trúc ở đây đúng là cách thức kiến trúc của Trung Quốc vào thời xưa. Nhưng nơi ấy cũng chỉ có thể tiêu biểu cho kiến trúc phương nam thôi, quy mô của kiến trúc phương bắc Trung Quốc ngày xưa còn lớn hơn thế nhiều. Một ngôi nhà lớn thường xây theo kiểu “tứ hợp viện”, [nghĩa là một nhà chính ở giữa với bốn phía đều có kiến trúc phòng ốc], có rất nhiều lối đi vì được phân chia thành hai khu vực trong, ngoài. Khu vực nhà ở là bên trong, từ phòng khách trở ra đều được xem là bên ngoài. Khi mời thỉnh thầy dạy học đến, thầy ở căn phòng phía tây, phía tây là dùng để tiếp khách, đặt phòng khách, người khách đến nhà cũng ngồi phía tây. Chủ nhà ở phòng phía đông, khi tiếp khách cũng ngồi về phía đông.
中國的家庭,自古以來是大家庭制度,不像現在的小家庭,大家庭制度,大家庭有內外之分的。中國古時候建築的式樣,我們上一次到墾丁青年活動中心,它那個建築是我們中國古代的建築。諸位到那個地方去一參觀,它那只能夠代表中國南方的一個地區,北方的規模比那個還要大。大家庭制度,四合院,有好幾進的,所以它有內外。家室在內,客廳以外的都算是外。請來的老師,老師住西廂,西邊是招待賓客的,客房,西席;主人住在東廂,東道主,接待客人的。
trung quốc đích gia đình , tự cổ dĩ lai thị đại gia đình chế độ , bất tượng hiện tại đích tiểu gia đình , đại gia đình chế độ , đại gia đình hữu nội ngoại chi phân đích 。 trung quốc cổ thời hậu kiến trúc đích thức dạng , ngã môn thượng nhất thứ đáo khẩn đinh thanh niên hoạt động trung tâm , tha na cá kiến trúc thị ngã môn trung quốc cổ đại đích kiến trúc 。 chư vị đáo na cá địa phương khứ nhất sâm quan , tha na chỉ năng cú đại biểu trung quốc nam phương đích nhất cá địa khu , bắc phương đích quy mô tỉ na cá hoàn yếu đại 。 đại gia đình chế độ , tứ hợp viện , hữu hảo kỉ tấn đích , sở dĩ tha hữu nội ngoại 。 gia thất tại nội , khách sảnh dĩ ngoại đích đô toán thị ngoại 。 thỉnh lai đích lão sư , lão sư trụ tây sương , tây biên thị kiều đãi tân khách đích , khách phòng , tây tịch ; chủ nhân trụ tại đông sương , đông đạo chủ , tiếp đãi khách nhân đích 。
Cho nên, khi mời thỉnh thầy đến dạy học thì thầy ở căn phòng phía tây, đó cũng là phòng học. Học trò gồm hết thảy con cháu trong nhà, đều theo học với thầy, không được quay vào trong nhà nữa, chỉ trừ những ngày được nghỉ học. Khi nghỉ học thì mới được vào nhà gặp gỡ cha mẹ, anh chị...
所以請老師,老師住在西面的客房,那一邊就是教室。學生、家裡的子弟都跟著老師,就不再往裡面去了,只有放假,放假的時候才可以到裡面去看看母親、看看兄弟姐妹。
sở dĩ thỉnh lão sư , lão sư trụ tại tây diện đích khách phòng , na nhất biên tựu thị giáo thất 。 học sinh 、 gia lí đích tử đệ đô căn trước lão sư , tựu bất tái vãng lí diện khứ liễu , chỉ hữu phóng giả , phóng giả đích thời hậu tài khả dĩ đáo lí diện khứ khán khán mẫu thân 、 khán khán huynh đệ tả muội 。
[Như vậy,] từ năm bảy tuổi thì [đứa trẻ] hằng ngày đã sống với thầy, đương nhiên thầy phải có sự quan tâm chăm sóc, dạy dỗ. Học trò trước hết học cách theo hầu thầy. Học những điều gì? Học những việc thường nhật, cách ứng xử, đối đáp, học những điều như vậy. Lại học lễ phép, học cách giao tiếp, biết tôn trọng người lớn tuổi hơn, biết cách hầu cận, phụng sự bậc tôn trưởng, học những điều như vậy.
七歲就要跟老師在一起過生活了,老師當然要照顧他,學生要學著侍候老師,學什麼?學灑掃應對,學這個;學禮節,學知道尊敬長輩,知道如何侍奉尊長,學這些。
thất tuế tựu yếu căn lão sư tại nhất khởi quá sinh hoạt liễu , lão sư đương nhiên yếu chiếu cố tha , học sinh yếu học trước thị hậu lão sư , học thập ma ? học sái tảo ưng đối , học giá cá ; học lễ tiết , học tri đạo tôn kính trường bối , tri đạo như hà thị phụng tôn trường , học giá ta 。
Đứa trẻ học cách theo hầu thầy rồi, khi về nhà liền tự biết cách thức theo hầu cha mẹ, biết cách chăm sóc, phụng sự cha mẹ. Nói cách khác, việc giáo dục [khi ấy] là giáo dục cách sống thường ngày, không phải dạy kiến thức sách vở, mà là giáo dục cuộc sống hằng ngày. Học sinh ngày nay thậm chí không biết quét nhà. Quét xong nền nhà thì bụi bay khắp phòng, đó là không biết quét nhà. Người biết quét nhà thì quét đến đâu sạch sẽ đến đó mà không làm cho bụi bay lên, quý vị đã học qua điều này chưa? [Ngày xưa] từ bậc tiểu học đã học những điều như vậy. Nền nhà ngày xưa không giống như bây giờ, bây giờ đa phần đều là nền lát gạch đá mài, rất sạch sẽ. Trước đây nền nhà dùng bùn đất đắp lên, chỉ có các nhà giàu có mới lát gạch. Cho nên thuở ấy nền nhà rất nhiều bụi, nhưng khi người ta quét nhà đúng cách không làm cho bụi bay lên. Như vậy, [có thể thấy] việc giáo dục cách sống thường ngày hiện nay không còn được xem trọng.
他學會侍候老師了,他回到裡面就曉得怎樣侍候父母、怎樣奉事父母;換句話說,所教的是生活教育,不是書本,是生活教育。現在的學生連掃地都不會掃,你看地一掃,掃得滿房子的灰塵,這就是不會掃地。會掃地的,地掃得乾乾淨淨,灰塵不會起來,你學過了沒有?從前小學學這個。以前的地不像現在,現在磨石子地乾淨多了。以前的地是泥土地,大家庭講究的,富有的家庭,地上鋪磚,所以灰塵我們比現在多,人家掃地的時候灰塵不會飛起來。所以生活教育現在已經不重視了。
tha học hội thị hậu lão sư liễu , tha hồi đáo lí diện tựu hiểu đắc chẩm dạng thị hậu phụ mẫu 、 chẩm dạng phụng sự phụ mẫu ; hoán cú thoại thuyết , sở giáo đích thị sinh hoạt giáo dục , bất thị thư bản , thị sinh hoạt giáo dục 。 hiện tại đích học sinh liên tảo địa đô bất hội tảo , nễ khán địa nhất tảo , tảo đắc mãn phòng tử đích hôi trần , giá tựu thị bất hội tảo địa 。 hội tảo địa đích , địa tảo đắc kiền kiền tịnh tịnh , hôi trần bất hội khởi lai , nễ học quá liễu một hữu ? tùng tiền tiểu học học giá cá 。 dĩ tiền đích địa bất tượng hiện tại , hiện tại ma thạch tử địa kiền tịnh đa liễu 。 dĩ tiền đích địa thị nê độ địa , đại gia đình giảng cứu đích , phú hữu đích gia đình , địa thượng phô chuyên , sở dĩ hôi trần ngã môn tỉ hiện tại đa , nhân gia tảo địa đích thời hậu hôi trần bất hội phi khởi lai 。 sở dĩ sinh hoạt giáo dục hiện tại dĩ kinh bất trùng thị liễu 。
Ngoài việc dạy dỗ những điều như trên, vị thầy còn có một mục tiêu giáo dục quan trọng khác, đó là rèn luyện căn bản trí cho người học trò. Phương pháp rèn luyện căn bản trí là cho học thuộc lòng kinh điển. Vị thầy chỉ dạy đọc từng câu, mỗi từ ngữ đều được phát âm rất chính xác, cứ từng câu, từng câu đọc lên hết sức rõ ràng, không để cho đọc sai. Tuần tự dạy như thế, dạy cho học sinh học thuộc nằm lòng. Vì vậy, đứa trẻ từ năm bảy tuổi đến khoảng chừng mười hai tuổi thì đã thuộc lòng hết thảy những sách quan trọng như Tứ thư, Ngũ kinh cho đến tác phẩm của nhiều tác giả xưa nay. Nhưng nếu quý vị hỏi về ý nghĩa, người học trò ấy không biết gì cả, vì chỉ được dạy học thuộc lòng thôi. Nghĩa là [khi học như vậy] không hề có sự phân biệt, và vị thầy cũng không hề giảng giải.
除這個之外,老師再有一個重要的科目,就是訓練學生的根本智。根本智訓練的方法就是背誦經典,老師只教句讀,字的讀音讀得很正確,一句一句念得很清楚,不會把句子念錯,教這個,教學生背誦。所以,他從七歲大概到十二歲,把這些四書五經、諸子百家重要的東西全都背過了。你問他什麼意思他不曉得,他只會背,就是他沒有分別,老師也不講。
trừ giá cá chi ngoại , lão sư tái hữu nhất cá trùng yếu đích khoa mục , tựu thị huấn luyện học sinh đích căn bản trí 。 căn bản trí huấn luyện đích phương pháp tựu thị bội tụng kinh điển , lão sư chỉ giáo cú độc , tự đích độc âm độc đắc ngận chính xác , nhất cú nhất cú niệm đắc ngận thanh sở , bất hội bả cú tử niệm thác , giáo giá cá , giáo học sinh bội tụng 。 sở dĩ , tha tùng thất tuế đại khái đáo thập nhị tuế , bả giá ta tứ thư ngũ kinh 、 chư tử bá gia trùng yếu đích đông tây toàn đô bội quá liễu 。 nễ vấn tha thập ma ý tư tha bất hiểu đắc , tha chỉ hội bội , tựu thị tha một hữu phân biệt , lão sư dã bất giảng 。
Vị thầy này được gọi là bậc thầy “khải mông” (啟蒙), tức là người khai mở, phá trừ sự tối tăm [trong đầu óc người học trò], cũng gọi là bậc thầy căn bản. Vai trò của vị thầy này là quan trọng, thiết yếu nhất [đối với đứa trẻ].
這個老師叫啟蒙的老師,叫根本的老師,這個老師最重要。
giá cá lão sư khiếu khải mông đích lão sư , khiếu căn bản đích lão sư , giá cá lão sư tối trùng yếu 。
Trong giai đoạn học tập này thì có được sách vở nào cũng đều học thuộc lòng, hơn nữa còn học thuộc rất kỹ. Trách nhiệm của vị thầy là đôn đốc, thúc đẩy học trò học thuộc lòng. Có một số trẻ rất thông minh, dạy cho điều gì chỉ đọc qua một vài lần đã thuộc lòng. Trong trường hợp đó, vị thầy lại tăng thêm nội dung học nhiều hơn.
這個階段當中,所有東西都背過,而且背得很熟,老師的責任就是督促他背誦。有些小孩很聰明,教他的東西他念個幾遍就會背,老師把課程就要給他加重。
giá cá giai đoạn đương trung , sở hữu đông tây đô bội quá , nhi thả bội đắc ngận thục , lão sư đích trách nhâm tựu thị đốc xúc tha bội tụng 。 hữu ta tiểu hài ngận thông minh , giáo tha đích đông tây tha niệm cá kỉ biến tựu hội bội , lão sư bả khoá trình tựu yếu cấp tha gia trùng 。
Một đứa trẻ có căn cơ trung bình thì đại khái trong một ngày có thể học thuộc khoảng ba trăm chữ, mức độ phổ biến nhất là từ ba đến bốn trăm chữ. Nếu như với ba, bốn trăm chữ đó mà đọc qua ba lần đã thuộc thì vị thầy sẽ gia tăng nhiều hơn, sẽ cho học đến sáu, bảy trăm chữ.
一般中等根性的人,大概一天可以背三百個字,普通的,三、四百個字。如果這三、四個百字他三遍就會背了,那老師必須要多上他的課,就是加重分量,要他背六、七百個字。
nhất ban trung đẳng căn tính đích nhân , đại khái nhất thiên khả dĩ bội tam bá cá tự , phổ thông đích , tam 、 tứ bá cá tự 。 như quả giá tam 、 tứ cá bá tự tha tam biến tựu hội bội liễu , na lão sư tất tu yếu đa thượng tha đích khoá , tựu thị gia trùng phân lượng , yếu tha bội lục 、 thất bá cá tự 。
Về nguyên tắc thì một đứa trẻ thường sẽ học thuộc trong vòng mười lần đọc. Từ mười đến hai mươi lần đọc thì nhất định sẽ phải thuộc. Học thuộc được như vậy rồi, vị thầy lại tiếp tục cho đứa trẻ đọc thêm nhiều lần nữa. Phải đọc đến bao nhiêu lần? Phải tiếp tục đọc từ khoảng một trăm lần trở lên.
原則上,十遍之內他要能夠背,十遍到二十遍一定要能夠背得出來。能背出來之後,再督促他遍數,要背多少遍?要背一百遍以上。
nguyên tắc thượng , thập biến chi nội tha yếu năng cú bội , thập biến đáo nhị thập biến nhất định yếu năng cú bội đắc xuất lai 。 năng bội xuất lai chi hậu , tái đốc xúc tha biến số , yếu bội đa thiểu biến ? yếu bội nhất bá biến dĩ thượng 。
Trong Đồ thư quán của chúng ta hiện có sách Ngũ chủng di quy. Đây là một bản sách đời nhà Thanh, do Tổng đốc Trần Hoằng Mưu soạn thành. Nội dung sách dành cho bậc học vỡ lòng. Cách dạy học vỡ lòng cho trẻ từ thời xưa cho đến triều nhà Thanh vẫn như vậy.
我們圖書館有《五種遺規》,那是清朝,也是一個總督叫陳弘謀,他作的,裡面就講童蒙教學,古時候的童蒙教學,清朝也是如此。
ngã môn đồ thư quán hữu 《 ngũ chủng di quy 》 , na thị thanh triêu , dã thị nhất cá tổng đốc khiếu trần hoằng mưu , tha tác đích , lí diện tựu giảng đồng mông giáo học , cổ thời hậu đích đồng mông giáo học , thanh triêu dã thị như thử 。
Nếu gặp đứa trẻ hơi kém thông minh, vị thầy có thể đốc thúc trẻ phải đọc từ hai đến ba trăm lần. Vì sao phải cho trẻ đọc nhiều lần như vậy? Vì học thuộc như vậy rồi thì từ đó về sau, cho đến suốt đời cũng không quên mất. Cho đến khi đứa trẻ trưởng thành, tương lai bước vào xã hội, trước tác văn chương hoặc đối đáp ứng xử, khi cần trích dẫn kinh điển sách vở đều tự nhiên sẵn có, tùy ý viết ra, không phải mất nhiều công sức, không phải tìm kiếm sách tham khảo.
根性要是鈍一點的,老師要督促他背兩百遍到三百遍。為什麼背這麼多遍數?這樣背下去之後,他一生都不會忘掉。到他成年之後,將來入社會上作文章、應對,引經據典隨手拈來,他不費力氣,不要去找參考書。
căn tính yếu thị độn nhất điểm đích , lão sư yếu đốc xúc tha bội lưỡng bá biến đáo tam bá biến 。 vi thập ma bội giá ma đa biến số ? giá dạng bội hạ khứ chi hậu , tha nhất sinh đô bất hội vô điệu 。 đáo tha thành niên chi hậu , tương lai nhập xã hội thượng tác văn chương 、 ưng đối , dẫn kinh cứ điển tùy thủ niêm lai , tha bất phí lực khí , bất yếu khứ hoa sâm khảo thư 。
Quý vị thử nói xem, hiện nay nếu bảo quý vị viết ra một áng văn chương thì phải lật tìm sách vở tham khảo, có khi lục tìm đến đuối sức mà vẫn tìm chưa ra, như vậy có phải khổ sở lắm không? Người xưa nâng bút lên, đặt bút xuống thì [văn chương] tự nhiên tìm đến. Có được công phu như vậy đều là nhờ rèn luyện từ thuở nhỏ.
你說現在叫你寫篇文章,去翻了好多參考書,翻累死了,找都找不到,你說多苦。從前人家提起筆拈手就來了,這個功夫都是從小做的。
nễ thuyết hiện tại khiếu nễ tả thiên văn chương , khứ phiên liễu hảo đa sâm khảo thư , phiên luy tử liễu , hoa đô hoa bất đáo , nễ thuyết đa khổ 。 tùng tiền nhân gia đề khởi bút niêm thủ tựu lai liễu , giá cá công phu đô thị tùng tiểu tố đích 。
Trong Phật pháp, điều này cũng giống như Đồng tử Thiện Tài trong Pháp hội của Bồ Tát Văn Thù, cũng chính là học việc căn bản như vậy.
在佛法裡面,就像善財童子在文殊菩薩會下,就是學這個本事。
tại phật pháp lí diện , tựu tượng thiện tài đồng tử tại văn thù bồ tát hội hạ , tựu thị học giá cá bản sự 。
Học được điều căn bản này rồi thì bao nhiêu kinh sách thư tịch đều thuộc nằm lòng, chỉ cần nêu ra một câu thì biết ngay câu ấy nằm ở trong sách nào, tại trang mấy, hàng thứ mấy, tất cả đều nhớ được rõ ràng, có đủ tư cách tham học, như vậy mới đủ tư cách đi tham học.
這個本事學會了,就是這些經書統統都背熟了,只要提一句就曉得在哪個書裡頭、在第幾頁第幾行,都背得這麼清楚,於是有資格參學了,這才有資格參學。
giá cá bản sự học hội liễu , tựu thị giá ta kinh thư thống thống đô bội thục liễu , chỉ yếu đề nhất cú tựu hiểu đắc tại ná cá thư lí đầu 、 tại đệ kỉ hiệt đệ kỉ hành , đô bội đắc giá ma thanh sở , ư thị hữu tư cách sâm học liễu , giá tài hữu tư cách sâm học 。
Tham học là [tìm đến] những nơi nào có các bậc tông sư. Nho học tôn là tông sư, tức là những bậc thầy [có hiểu biết] thông suốt về một bộ kinh sách, hoặc thông thạo một lãnh vực học vấn, học thuật nào đó... Vị ấy giảng dạy ở một nơi nào đó, quý vị [liền tìm đến để] có thể gần gũi học hỏi. [Chẳng hạn như] vị ấy giảng sách Luận ngữ, quý vị đã thuộc lòng sách Luận ngữ thì quý vị có thể tìm đến để gần gũi, lắng nghe vị ấy giảng giải. Cho nên, việc giảng giải là một giai đoạn khác. Tìm học thầy, theo hỏi bạn, đi ra bên ngoài để tìm nơi tham vấn học hỏi. Tham vấn như vậy là muốn hiểu rõ được ý nghĩa kinh sách.
參學就是哪個地方有宗師,儒家稱為宗師,他通一部經,或者他通某種學問、學術,他在某個地方講學,你就可以親近他。他講《論語》,《論語》你會背了,你可以親近他,去聽他講解。所以,講解是另外一個階段。親師訪友,到外面去參訪,參訪就是要了解經義。
sâm học tựu thị ná cá địa phương hữu tông sư , nho gia xưng vi tông sư , tha thông nhất bộ kinh , hoặc giả tha thông mỗ chủng học vấn 、 học thuật , tha tại mỗ cá địa phương giảng học , nễ tựu khả dĩ thân cận tha 。 tha giảng 《 luận ngữ 》 , 《 luận ngữ 》 nễ hội bội liễu , nễ khả dĩ thân cận tha , khứ thính tha giảng giải 。 sở dĩ , giảng giải thị lánh ngoại nhất cá giai đoạn 。 thân sư phóng hữu , đáo ngoại diện khứ sâm phóng , sâm phóng tựu thị yếu liễu giải kinh nghĩa 。
Vị thầy khi giảng giải không sử dụng đến quyển sách, không giống như chúng ta ngày nay, mỗi khi giảng kinh phải có quyển kinh đặt trước mặt. Vì sao vậy? Vị thầy cũng đã thuộc lòng, học sinh cũng đã thuộc lòng, nên không cần đến quyển sách. Nếu quý vị chưa học thuộc lòng thì quý vị chưa đủ trình độ để đến nghe giảng. Khi giảng giải kinh văn chính là khơi dậy hậu đắc trí, đó là trí tuệ có công năng ứng dụng lớn lao không ràng buộc, ích lợi thọ dụng không cùng tận.
講學的時候老師不用書本的,不像我們現在講經要把經本擺在面前。為什麼?老師也是背過的,學生也是背過的,所以沒有書本。你要不會背,那你就沒有資格去聽。講解的時候是啟發後得智,從根本智裡面啟後得智,這是大用無方,受用無窮。
giảng học đích thời hậu lão sư bất dụng thư bản đích , bất tượng ngã môn hiện tại giảng kinh yếu bả kinh bản bãi tại diện tiền 。 vi thập ma ? lão sư dã thị bội quá đích , học sinh dã thị bội quá đích , sở dĩ một hữu thư bản 。 nễ yếu bất hội bội , na nễ tựu một hữu tư cách khứ thính 。 giảng giải đích thời hậu thị khải phát hậu đắc trí , tùng căn bản trí lí diện khải hậu đắc trí , giá thị đại dụng vô phương , thụ dụng vô cùng 。
Vị thầy giảng giải thường cũng không theo một phương thức nhất định nào, đến giờ giảng thì vào giảng đường. Giảng đường ngày xưa không có bàn ghế, đa số sử dụng bồ đoàn [ngồi trên mặt đất], giống như ở Niệm Phật đường của chúng ta. Ngồi trên bồ đoàn nghe giảng giải mà không cần nhìn vào sách, rồi cùng nhau nghiên cứu, thảo luận.
老師講學又沒有一定的方式,有的時候在講堂,從前講堂沒有桌子,都是用蒲團,就像我們念佛堂一樣,坐在蒲團聽講,不用書本,在一起研究討論。
lão sư giảng học hựu một hữu nhất định đích phương thức , hữu đích thời hậu tại giảng đường , tùng tiền giảng đường một hữu trác tử , đô thị dụng bồ đoàn , tựu tượng ngã môn niệm phật đường nhất dạng , toạ tại bồ đoàn thính giảng , bất dụng thư bản , tại nhất khởi nghiên cứu thảo luận 。
Vị thầy có lúc cao hứng thì cùng học trò dạo chơi, chuẩn bị ít trà ngon, thức ăn ngon, vừa đi du ngoạn phong cảnh núi sông, vừa giảng giải cho học trò, cho nên việc học rất vui thú. Ngày nay thì việc học rất khó nhọc, nói đến học thì đa số [học sinh] đều khiếp sợ, trong khi trước đây việc học là vui thích nhất.
老師要高興了,帶大家去郊遊,準備一些好茶、好菜,一路遊山玩水一路在講學,所以讀書樂!現在讀書苦,提到讀書都害怕,從前讀書是最樂的。
lão sư yếu cao hưng liễu , đái đại gia khứ giao du , chuẩn bị nhất ta hảo trà 、 hảo thái , nhất lộ du sơn ngoạn thuỷ nhất lộ tại giảng học , sở dĩ độc thư lạc/nhạc/nhạo ! hiện tại độc thư khổ , đề đáo độc thư đô hại phạ , tùng tiền độc thư thị tối lạc/nhạc/nhạo đích 。
Chúng ta không may sinh ra trong thời đại mà việc học trở nên khó nhọc, không được hưởng niềm vui học tập như người xưa.
我們不幸而生在這個讀書苦的時代,沒有享受到古人那種讀書樂的滋味。
ngã môn bất hạnh nhi sinh tại giá cá độc thư khổ đích thời đại , một hữu hưởng thụ đáo cổ nhân na chủng độc thư lạc/nhạc/nhạo đích tư vị 。
Việc học ngày xưa khó nhọc ở chỗ nào? Là khó trong giai đoạn tiểu học, phải học thuộc lòng là khó nhọc, [suốt những năm] từ bảy tuổi cho đến mười hai tuổi. Đến mười ba, mười bốn tuổi thì đã hết sức thảnh thơi thoải mái rồi, việc tham học rất thảnh thơi, thực sự có thể gọi là niềm vui học tập.
從前苦在哪裡?就是小學苦,背誦苦,從七歲到十二歲。十三、四歲那就非常瀟灑了,參學非常瀟灑,真正叫讀書樂。
tùng tiền khổ tại ná lí ? tựu thị tiểu học khổ , bội tụng khổ , tùng thất tuế đáo thập nhị tuế 。 thập tam 、 tứ tuế na tựu phi thường tiêu sái liễu , sâm học phi thường tiêu sái , chân chính khiếu độc thư lạc/nhạc/nhạo 。
Việc tham học trong nhà Phật cũng vậy. Một người mới xuất gia phải mất năm năm học giới. Học giới là gì? Đó không phải là bảo quý vị học giới luật. Năm năm đó chỉ là học Sa-di luật nghi, tức là mười giới [sa-di], hai mươi bốn môn uy nghi, phép tắc sinh hoạt hằng ngày trong tự viện, cũng giống như việc huấn luyện sinh viên mới trong trường học. Nhưng việc huấn luyện sinh viên mới chỉ trong khoảng chừng một, hai tháng, còn người mới xuất gia trong nhà Phật thì thời gian huấn luyện đó là năm năm. Trong năm năm đó học những gì? Học phụng sự đại chúng, học phục vụ. Các tự viện trước đây rất đông người, tất cả công việc nặng nhọc đều do những người mới xuất gia làm, như nấu ăn, trồng rau, đốn củi, gánh nước, đó là phục vụ đại chúng. Những việc như vậy đều do người mới xuất gia làm, đó là giáo dục cách sống.
佛門裡面的參學也是如此,所以佛門一出家是五年學戒,學戒是什麼?那個戒不是叫你學戒律,五年學的是《沙彌律儀》,就是十戒二十四門威儀,生活教育,等於新生訓練。你們學校裡新生訓練只有幾個月,大概是一、兩個月,佛門裡面新出家的訓練是五年。這個五年學什麼?就是學侍候大眾,學服務。在從前寺院裡住的人多,所有粗重的活都是初出家人做,像燒飯、種菜、砍柴、挑水,這是侍候大眾,都是新出家的人做,這是生活教育。
phật môn lí diện đích sâm học dã thị như thử , sở dĩ phật môn nhất xuất gia thị ngũ niên học giới , học giới thị thập ma ? na cá giới bất thị khiếu nễ học giới luật , ngũ niên học đích thị 《 sa di luật nghi 》 , tựu thị thập giới nhị thập tứ môn uy nghi , sinh hoạt giáo dục , đẳng ư tân sinh huấn luyện 。 nễ môn học hào lí tân sinh huấn luyện chỉ hữu kỉ cá nguyệt , đại khái thị nhất 、 lưỡng cá nguyệt , phật môn lí diện tân xuất gia đích huấn luyện thị ngũ niên 。 giá cá ngũ niên học thập ma ? tựu thị học thị hậu đại chúng , học phục vụ 。 tại tùng tiền tự viện lí trụ đích nhân đa , sở hữu thố trùng đích hoạt đô thị sơ xuất gia nhân tố , tượng thiêu phạn 、 chủng thái 、 khảm sài 、 thiêu thuỷ , giá thị thị hậu đại chúng , đô thị tân xuất gia đích nhân tố , giá thị sinh hoạt giáo dục 。
Ngoài việc rèn luyện cách sống như vậy, [thời gian còn lại] là học thuộc lòng kinh điển. Mỗi một tự viện đều có học phong, đạo phong riêng biệt. Đạo phong là hành môn, học phong là giải môn. Chẳng hạn như tông Thiên Thai tu học dựa trên kinh Pháp Hoa, nói cách khác, người mới xuất gia trong vòng năm năm phải học thuộc lòng kinh Pháp Hoa. Nếu không học thuộc lòng được thì trong tương lai sẽ không đủ tư cách vào giảng đường nghe giảng kinh, chỉ có thể đứng phía sau chờ phục vụ đại chúng, như có người gọi bưng chén nước thì mau mau chạy đi lấy, hoặc có người cần chiếc khăn lông thì lập tức mang khăn lông đến. Chỉ có thể theo hầu phục vụ như vậy, không có tư cách ngồi xuống nghe giảng kinh.
除這個生活教育之外,就是背誦經典。每個寺廟它都有學風、有道風,道風是行門,學風是解門。譬如天台的,它是依《法華經》,換句話說,你在這五年當中,你要把《法華經》背過,你要不能夠背誦,你將來沒有資格在講堂裡聽經,只有在講堂裡站在後面侍候大眾。人家說給我拿一杯水來,你趕快要端過來,給我拿個毛巾來,你也得侍候他,沒有資格坐下來聽經。
trừ giá cá sinh hoạt giáo dục chi ngoại , tựu thị bội tụng kinh điển 。 mỗi cá tự miếu tha đô hữu học phong 、 hữu đạo phong , đạo phong thị hành môn , học phong thị giải môn 。 thí như thiên đài đích , tha thị y 《 pháp hoa kinh 》 , hoán cú thoại thuyết , nễ tại giá ngũ niên đương trung , nễ yếu bả 《 pháp hoa kinh 》 bội quá , nễ yếu bất năng cú bội tụng , nễ tương lai một hữu tư cách tại giảng đường lí thính kinh , chỉ hữu tại giảng đường lí trạm tại hậu diện thị hậu đại chúng 。 nhân gia thuyết cấp ngã nã nhất bôi thuỷ lai , nễ cản khoái yếu đoan quá lai , cấp ngã nã cá mao cân lai , nễ dã đắc thị hậu tha , một hữu tư cách toạ hạ lai thính kinh 。
Người học theo tông Thiên Thai không chỉ thuộc lòng kinh Pháp Hoa, mà còn phải học các bộ sớ giải, chẳng hạn như Pháp Hoa kinh văn cú do Đại sư Trí Giả biên soạn, nhất định phải học thuộc lòng. Ngoài bộ sách này ra, nghĩa là Thiên Thai tam đại bộ, còn có sách Pháp Hoa huyền nghĩa thích tiêm, là bộ sách đóng bìa cứng nằm trên giá sách đằng kia, gồm ba quyển lớn, cũng phải học thuộc lòng. Lại còn một bộ Ma-ha Chỉ Quán, độ dày cũng tương tự như vậy, cũng đóng thành ba quyển.
天台家不但要背誦《法華經》,還要背誦註解,那就是智者大師所作的《法華經文句》,一定要背。除這個之外,所謂天台三大部,《法華玄義釋籤》,我們那邊書架上精裝本的就是的,三大冊,那個要背。還有一部《摩訶止觀》,分量跟這個差不多,也有這樣三大冊。
thiên đài gia bất đãn yếu bội tụng 《 pháp hoa kinh 》 , hoàn yếu bội tụng chú giải , na tựu thị trí giả đại sư sở tác đích 《 pháp hoa kinh văn cú 》 , nhất định yếu bội 。 trừ giá cá chi ngoại , sở vị thiên đài tam đại bộ , 《 pháp hoa huyền nghĩa thích tiêm 》 , ngã môn na biên thư giá thượng tinh trang bản đích tựu thị đích , tam đại sách , na cá yếu bội 。 hoàn hữu nhất bộ 《 ma ha chỉ quan 》 , phân lượng căn giá cá sai bất đa , dã hữu giá dạng tam đại sách 。
Cho nên, tất cả những sách của tông Thiên Thai phải học thuộc lòng hết trong vòng năm năm, như vậy mới đủ điều kiện theo học tông Thiên Thai.
所以天台宗的東西五年當中全要背過,才有資格學天台。
sở dĩ thiên đài tông đích đông tây ngũ niên đương trung toàn yếu bội quá , tài hữu tư cách học thiên đài 。
Thành tựu của người xưa là nhờ thực sự bắt tay vào công phu tu tập. Chúng ta ngày nay công phu gì cũng không thực hiện mà cứ nghĩ đến thành tựu, làm sao có chuyện dễ dàng như vậy. Quý vị thử nghĩ xem, chúng ta ngày nay có điểm nào có thể so sánh được với người xưa? Chỉ có một điểm là được sống sung túc tốt đẹp hơn nhiều, sự hưởng thụ của chúng ta vượt quá xa so với người xưa. Ngoài điểm đó ra thì không còn gì có thể sánh kịp người xưa.
古人的成就是真正下了功夫,我們現在什麼功夫都不下就想成就,哪有這麼便宜的事情!我們想想,我們今天哪一樁能夠比得上古人?只有一樁,享福超過了古人,我們的享受比古人超過太多了,除此之外沒有一樣能比得上古人。
cổ nhân đích thành tựu thị chân chính hạ liễu công phu , ngã môn hiện tại thập ma công phu đô bất hạ tựu tưởng thành tựu , ná hữu giá ma tiện nghi đích sự tình ! ngã môn tưởng tưởng , ngã môn kim thiên ná nhất thung năng cú tỉ đắc thượng cổ nhân ? chỉ hữu nhất thung , hưởng phúc siêu quá liễu cổ nhân , ngã môn đích hưởng thụ tỉ cổ nhân siêu quá thái đa liễu , trừ thử chi ngoại một hữu nhất dạng năng tỉ đắc thượng cổ nhân 。
Người xưa tu học như thế đó mà vẫn còn sợ rơi vào ba đường ác. Câu bên dưới tôi không cần đề cập, quý vị có thể tự mình hiểu rõ được.
古人那樣的修學,還怕墮三惡道,底下的話我就不要說了,你們自己心裡明瞭。
cổ nhân na dạng đích tu học , hoàn phạ đoạ tam ác đạo , để hạ đích thoại ngã tựu bất yếu thuyết liễu , nễ môn tự kỉ tâm lí minh liệu 。
Đoạn này nói việc quán chiếu nhất định phải vận dụng căn bản trí. Mong rằng quý vị biết xem trọng sự quan trọng thiết yếu của căn bản trí, tức là trí vô phân biệt, chúng ta nhất thiết phải nỗ lực rèn luyện.
這是講觀照一定要用根本智,希望諸位重視根本智的重要,就是無分別智我們必須要認真的去訓練。
giá thị giảng quan chiếu nhất định yếu dụng căn bản trí , hi vọng chư vị trùng thị căn bản trí đích trùng yếu , tựu thị vô phân biệt trí ngã môn tất tu yếu nhận chân đích khứ huấn luyện 。
“Năng quán” (chủ thể quán sát) tức là trí quán sát, tức là căn bản trí, “thì sáng suốt không si mê, thường biết rõ ràng, vững vàng tỉnh giác, xoay lại chiếu soi, nên gọi là quán”, tức là như phần trước đã giảng với quý vị về ý nghĩa “nhập lưu”.
「能觀」,就是觀智,就是根本智,「則明明不昧,了了常知,卓然獨存,返觀獨照,故稱觀也」,就是上面跟諸位講的入流。
「 năng quan 」 , tựu thị quan trí , tựu thị căn bản trí , 「 tắc minh minh bất muội , liễu liễu thường tri , trác nhiên độc tồn , phản quan độc chiếu , cố xưng quan dã 」 , tựu thị thượng diện căn chư vị giảng đích nhập lưu 。
“Sở quán” (đối tượng quán sát) tức là cảnh giới, vì Bồ Tát Quán Thế Âm vận dụng phương pháp này là từ nhĩ căn mà vào, đối tượng của tai là âm thanh, [nên cảnh giới ở đây] là nói âm thanh đi vào tai. Bồ Tát Quán Thế Âm vận dụng pháp môn này.
「所觀」,這是境界,境界裡,因為觀世音菩薩他用這個方法是從耳根而入,耳是對音聲來說的,是音聲所入,他是用這個法門。
「 sở quan 」 , giá thị cảnh giới , cảnh giới lí , nhân vi quan thế âm bồ tát tha dụng giá cá phương pháp thị tùng nhĩ căn nhi nhập , nhĩ thị đối âm thanh lai thuyết đích , thị âm thanh sở nhập , tha thị dụng giá cá pháp môn 。
So với pháp môn mà Bồ Tát Đại Thế Chí vận dụng thì khác biệt. Bồ Tát Đại Thế Chí vận dụng pháp môn “nhiếp hết sáu căn”, Bồ Tát Quán Thế Âm thì trong sáu căn chỉ dùng một căn, chỉ dùng nhĩ căn, đó là một điểm không giống nhau, thế nhưng nói về quán chiếu, nhập lưu, thì chắc chắn là như nhau.
與大勢至菩薩用的法門不一樣,大勢至菩薩用的是「都攝六根」,觀世音菩薩六根裡頭用一根,單用耳根,這一點不相同,但是觀照、入流決定是一樣的。
dữ đại thế chí bồ tát dụng đích pháp môn bất nhất dạng , đại thế chí bồ tát dụng đích thị 「 đô nhiếp lục căn 」 , quan thế âm bồ tát lục căn lí đầu dụng nhất căn , đạn dụng nhĩ căn , giá nhất điểm bất tướng đồng , đãn thị quan chiếu 、 nhập lưu quyết định thị nhất dạng đích 。
Hai vị Bồ Tát này đều là gương sáng cho người niệm Phật noi theo, là mẫu mực của việc thực hành công phu. Chúng ta noi theo pháp môn nhiếp hết sáu căn của Bồ Tát Đại Thế Chí mà tu hành, đó là một phương pháp tốt. Chúng ta chọn theo pháp môn chuyên nhiếp nhĩ căn của Bồ Tát Quán Thế Âm để tu tập, cũng là một phương pháp tốt. Cả hai pháp môn đều sẽ đạt thành tựu rất lớn lao.
這兩位菩薩都是我們念佛人的榜樣,是做功夫的一個模範。我們取大勢至菩薩都攝六根行,是好辦法,取觀世音菩薩專攝耳根也行,也是好辦法,都有很了不起的成就。
giá lưỡng vị bồ tát đô thị ngã môn niệm phật nhân đích bảng dạng , thị tố công phu đích nhất cá mô phạm 。 ngã môn thủ đại thế chí bồ tát đô nhiếp lục căn hành , thị hảo biện pháp , thủ quan thế âm bồ tát chuyên nhiếp nhĩ căn dã hành , dã thị hảo biện pháp , đô hữu ngận liễu bất khởi đích thành tựu 。
Nói về “âm”, tức âm thanh, [có nhiều loại âm thanh], ở đây nói đến “chánh giác chi âm”, tức âm thanh chánh giác, tức là pháp âm. Hôm nay chúng ta ở trong giảng đường này giảng kinh thuyết pháp, [âm thanh này] cũng là thuộc về “chánh giác chi âm”.
說到「音」,這個地方有了,有「正覺之音」,正覺之音就是法音。我們今天在講堂裡面講經說法,這是屬於正覺之音。
thuyết đáo 「 âm 」 , giá cá địa phương hữu liễu , hữu 「 chính giác chi âm 」 , chính giác chi âm tựu thị pháp âm 。 ngã môn kim thiên tại giảng đường lí diện giảng kinh thuyết pháp , giá thị thuộc ư chính giác chi âm 。
Lại có “chúng sinh chi âm”, là âm thanh của chúng sinh, đó là tiếng nói, ngôn ngữ mà người thường chúng ta dùng để trao đổi, trò chuyện.
有「眾生之音」,眾生之音就是我們一般談話,言語。
hữu 「 chúng sinh chi âm 」 , chúng sinh chi âm tựu thị ngã môn nhất ban đàm thoại , ngôn ngữ 。
Lại có “khí thế giới chi âm”, là âm thanh các loại trong thế giới, chẳng hạn như gió có âm thanh, mưa cũng có âm thanh, thậm chí nói chung hết các loại nhạc khí, nhạc cụ, cũng là thuộc về “khí thế giới”. Chuông, mõ của chúng ta cũng thuộc về khí thế giới, mỗi khi đánh, gõ, khua lên đều phát ra âm thanh, đó gọi là “khí thế giới chi âm”. Có thể nói một cách tổng quát, hết thảy những âm thanh diễn tấu phát ra từ các loại nhạc cụ đều thuộc về âm thanh “khí thế giới”. Có rất nhiều người thích nghe nhạc giao hưởng, đó là âm thanh “khí thế giới”. Nhưng khi chúng ta ca hát, thì đó là thuộc về âm thanh của chúng sinh.
有「器世界之音」,器世界,譬如風有音聲,雨也有音聲,甚至於包括一些樂器,樂器是器世界的。譬如我們這裡磬、木魚都是器世界的,在打擊、撞擊的時候都有音聲,這叫器世界之音。可以說包括我們現在所有樂器演奏的音聲,都是屬於器世界的音聲。很多人喜歡交響樂,那都是器世界的音聲。我們唱歌,歌唱那是眾生之音。
hữu 「 khí thế giới chi âm 」 , khí thế giới , thí như phong hữu âm thanh , vũ dã hữu âm thanh , thậm chí ư bao quát nhất ta lạc/nhạc/nhạo khí , lạc/nhạc/nhạo khí thị khí thế giới đích 。 thí như ngã môn giá lí khánh 、 mộc ngư đô thị khí thế giới đích , tại đả kích 、 tràng kích đích thời hậu đô hữu âm thanh , giá khiếu khí thế giới chi âm 。 khả dĩ thuyết bao quát ngã môn hiện tại sở hữu lạc/nhạc/nhạo khí diễn tấu đích âm thanh , đô thị thuộc ư khí thế giới đích âm thanh 。 ngận đa nhân hỉ hoan giao hưởng lạc/nhạc/nhạo , na đô thị khí thế giới đích âm thanh 。 ngã môn xướng ca , ca xướng na thị chúng sinh chi âm 。
Ngoài ra còn có “tạp loại chi âm”, tức là âm thanh của tạp loại, của nhiều loài hỗn tạp, tức là bao quát hết thảy những âm thanh của quỷ thần trong sáu đường. Những âm thanh “tạp loại” này có thể tìm thấy ở đâu? Hiện nay chúng ta có rất nhiều loại thần chú, đó đều thuộc về những âm thanh “tạp loại”. Những âm thanh đó không phải là ngôn ngữ của thế gian chúng ta, cho dù được dịch từ tiếng Phạn nhưng chính người Ấn Độ nghe cũng không hiểu.
還有「雜類之音」,雜類就包括一些六道鬼神裡面的音聲。雜類之音從哪裡見到?我們現在有許多神咒,都是雜類之音。那不是我們世間的言語,雖然是梵文譯過來的,印度人也聽不懂。
hoàn hữu 「 tạp loại chi âm 」 , tạp loại tựu bao quát nhất ta lục đạo quỷ thần lí diện đích âm thanh 。 tạp loại chi âm tùng ná lí kiến đáo ? ngã môn hiện tại hữu hứa đa thần chú , đô thị tạp loại chi âm 。 na bất thị ngã môn thế gian đích ngôn ngữ , tuy nhiên thị phạm văn dịch quá lai đích , ấn độ nhân dã thính bất đổng 。
Trong số các thần chú có rất nhiều âm thanh quỷ thần, nếu quý vị niệm chú với âm thanh thật chính xác thì có thể triệu hồi được quỷ thần. Khi quý vị gọi thì họ đến, lại niệm một câu chú khác có thể mời họ đi, xô đuổi họ đi. Cho nên, thần chú có năng lực sai khiến quỷ thần, cũng có thể nói [thần chú] là những tín hiệu để ra lệnh cho quỷ thần. Nhưng quý vị phải phát âm thật chính xác. Nếu phát âm không chính xác thì quỷ thần nghe không hiểu được, họ sẽ không đến, như vậy không có tác dụng.
咒子裡面很多是鬼神的音聲,你音聲念得很正確,能夠把鬼神召來。你把他召來,念另外一種咒可以把他請走,把他送走。所以神咒能夠役使鬼神,等於說為鬼神發號施令。但是你這個音一定要正確,你不正確,你說的他聽不懂,他就不會來,那就沒有效果。
chú tử lí diện ngận đa thị quỷ thần đích âm thanh , nễ âm thanh niệm đắc ngận chính xác , năng cú bả quỷ thần triệu lai 。 nễ bả tha triệu lai , niệm lánh ngoại nhất chủng chú khả dĩ bả tha thỉnh tẩu , bả tha tống tẩu 。 sở dĩ thần chú năng cú dịch sứ quỷ thần , đẳng ư thuyết vi quỷ thần phát hiệu thí linh 。 đãn thị nễ giá cá âm nhất định yếu chính xác , nễ bất chính xác , nễ thuyết đích tha thính bất đổng , tha tựu bất hội lai , na tựu một hữu hiệu quả 。
Cho nên việc phát âm cần hết sức chính xác. Nhưng để phát âm thật chính xác quả thực là điều rất khó, không dễ chút nào. Chỉ nói thôi thì rất đơn giản, nhưng thần chú tuy là phiên dịch theo đúng âm thanh gốc [của quỷ thần], nhất định phải có người trực tiếp truyền dạy. Không có người dạy, quý vị dựa theo chữ viết mà đọc thì sẽ không chính xác. Nếu không tin điều này, quý vị có thể thử lấy một đoạn tiếng Anh hoặc tiếng Nhật, rồi dùng chữ Trung Quốc để phiên âm ra. Sau đó, quý vị lại đọc theo đoạn chữ Trung Quốc [phiên âm] đó, như vậy có giống với âm thanh nguyên ngữ không? Quý vị dựa theo âm [của chữ Trung Quốc] mà đọc, chúng ta là người Trung Quốc, đọc âm [của chữ Trung Quốc] không sai, không một chữ nào bị phát âm sai, thế nhưng người Anh hay người Nhật nghe không thể hiểu được, không biết đoạn văn ấy nói gì. [Việc niệm] thần chú cũng giống như vậy.
所以發音要很正確,但是正確的確就相當之難,很不容易。說起來實在很簡單,咒雖然是翻譯保持它的原音,一定要有人傳授,沒有人傳授,我們照這個字去念,不會正確。你如果要不相信,你就拿英語或者是日語,你用中國字翻它的音,翻一段,然後你照中國字這樣念,你看看是不是它原來的音?你照這個音念,我是中國人,念得沒錯,一個字都沒念錯,可是他聽不懂,他莫知所云;咒語就是如此。
sở dĩ phát âm yếu ngận chính xác , đãn thị chính xác đích xác tựu tướng đương chi nan , ngận bất dong dị 。 thuyết khởi lai thật tại ngận giản đạn , chú tuy nhiên thị phiên dịch bảo trì tha đích nguyên âm , nhất định yếu hữu nhân truyền thụ , một hữu nhân truyền thụ , ngã môn chiếu giá cá tự khứ niệm , bất hội chính xác 。 nễ như quả yếu bất tướng tín , nễ tựu nã anh ngữ hoặc giả thị nhật ngữ , nễ dụng trung quốc tự phiên tha đích âm , phiên nhất đoạn , nhiên hậu nễ chiếu trung quốc tự giá dạng niệm , nễ khán khán thị bất thị tha nguyên lai đích âm ? nễ chiếu giá cá âm niệm , ngã thị trung quốc nhân , niệm đắc một thác , nhất cá tự đô một niệm thác , khả thị tha thính bất đổng , tha mạc tri sở vân ; chú ngữ tựu thị như thử 。
Chúng ta hiện nay niệm chú [trong đạo Phật] là theo ý nghĩa để ghi nhớ. Chỉ đem hết tâm thành mà niệm, còn âm thanh không thể chính xác. Bởi vì sự truyền dạy của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, theo ghi chép của Trung Quốc thì đến nay đã 3.010 năm. Điều này được ghi lại trong lịch sử Trung Quốc. Sự truyền thừa qua một thời gian quá lâu xa như vậy thì ngữ âm hẳn đã sớm biến đổi rồi, không còn chính xác nữa.
我們現在念咒也就是紀念的意思,誠心誠意去念,音不會正確的。因為釋迦牟尼佛所傳的,照中國的記載,釋迦牟尼佛到今年是三千零十年,這是我們中國歷史上記載的。這麼長遠的年代傳下來,那個音早就變了,不準確了。
ngã môn hiện tại niệm chú dã tựu thị kỉ niệm đích ý tư , thành tâm thành ý khứ niệm , âm bất hội chính xác đích 。 nhân vi thích ca mâu ni phật sở truyền đích , chiếu trung quốc đích kí tái , thích ca mâu ni phật đáo kim niên thị tam thiên linh thập niên , giá thị ngã môn trung quốc lịch sử thượng kí tái đích 。 giá ma trường viễn đích niên đại truyền hạ lai , na cá âm tảo tựu biến liễu , bất chuẩn xác liễu 。
Cho nên nói về thần chú thì cách phát âm của tiếng Tây Tạng so ra chính xác hơn đôi chút, vì tiếng Tây Tạng là trực tiếp dùng tiếng Phạn biến đổi mà thành. Trong tiếng Tây Tạng có rất nhiều âm bảo lưu được âm gốc từ tiếng Phạn, nên so sánh thì chính xác hơn. Nhưng nếu nói hoàn toàn chính xác thì chúng ta không tin được. Ngữ âm Trung Quốc thời cổ hiện chỉ còn bảo lưu được đôi phần trong tiếng Quảng Đông, hoặc ngay cả trong tiếng Mân Nam [ở miền nam tỉnh Phúc Kiến], còn trên cả nước thì hầu như đã không còn nữa. Lấy ví dụ khi chúng ta niệm chữ “nam-mô”. Nam-mô là một âm thời cổ vốn là “nã-ma”, ngày nay chúng ta niệm là “nam-mô”, đã biến đổi khác biệt rất xa. Ngày nay chúng ta đọc chữ “nam”, chữ “mô”, căn cứ trên chữ viết thì hoàn toàn không sai, quý vị tra cứu trong từ điển cũng thấy rất chính xác, không sai. Thế nhưng người thời xưa nếu nghe như vậy thì không hiểu. Bởi vì ngữ âm thời đó so với chúng ta bây giờ có rất nhiều âm đã thay đổi.
所以咒,西藏藏語的發音比較上正確一點,因為藏文是直接從梵文變過來的。藏文裡面有很多的音保存著梵文的原音,所以比較上正確。說完全正確,我都不敢相信。我們中國的古音,在廣東話裡面,甚至於閩南語裡頭還保存一些,國語裡面幾乎都沒有了。譬如我們念南無(拿摩),南無(拿摩)是古音,現在念南無,這個音變很多了。我們今天念南念無,照這個字念沒念錯,你查查國語字典很正確的,沒錯,可是古人就聽不懂。所以那時候的音,跟我們現在有許多的音都變了。
sở dĩ chú , tây tạng tạng ngữ đích phát âm tỉ giác thượng chính xác nhất điểm , nhân vi tạng văn thị trực tiếp tùng phạm văn biến quá lai đích 。 tạng văn lí diện hữu ngận đa đích âm bảo tồn trước phạm văn đích nguyên âm , sở dĩ tỉ giác thượng chính xác 。 thuyết hoàn toàn chính xác , ngã đô bất cảm tướng tín 。 ngã môn trung quốc đích cổ âm , tại quảng đông thoại lí diện , thậm chí ư mân nam ngữ lí đầu hoàn bảo tồn nhất ta , quốc ngữ lí diện kỉ hồ đô một hữu liễu 。 thí như ngã môn niệm nam vô ( nã ma ) , nam vô ( nã ma ) thị cổ âm , hiện tại niệm nam vô , giá cá âm biến ngận đa liễu 。 ngã môn kim thiên niệm nam niệm vô , chiếu giá cá tự niệm một niệm thác , nễ tra tra quốc ngữ tự điển ngận chính xác đích , một thác , khả thị cổ nhân tựu thính bất đổng 。 sở dĩ na thời hậu đích âm , căn ngã môn hiện tại hữu hứa đa đích âm đô biến liễu 。
Ví dụ như tên sách “Đại Học” trong bộ Tứ thư, khi tôi nói “Đại Học” thì quý vị đều nghe hiểu được. Thế nhưng trong ngữ âm cổ, chữ “đại” (大) không đọc là đại mà đọc là thái, còn chữ “học” (學) thì đọc là giáo, cho nên [đại học] đọc là thái giáo. Chúng ta hiện nay nếu nghe người xưa đọc là “thái giáo” thì không hiểu, trong khi ngày nay chúng ta đọc là “đại học” thì người thời xưa nếu nghe cũng không hiểu. Có thể thấy rằng, chữ viết dù không thay đổi, nhưng cách phát âm luôn thay đổi theo từng triều đại.
四書裡的《大學》,我們講大學你們都曉得。可是古音那個大不念大,念太,學念教,念太教。我們現在聽古人叫太教,我們不懂;我們現在念大學,他也不懂。可見得文字沒有變,語音是每個朝代都會變。
tứ thư lí đích 《 đại học 》 , ngã môn giảng đại học nễ môn đô hiểu đắc 。 khả thị cổ âm na cá đại bất niệm đại , niệm thái , học niệm giáo , niệm thái giáo 。 ngã môn hiện tại thính cổ nhân khiếu thái giáo , ngã môn bất đổng ; ngã môn hiện tại niệm đại học , tha dã bất đổng 。 khả kiến đắc văn tự một hữu biến , ngữ âm thị mỗi cá triêu đại đô hội biến 。
Cho nên, chúng ta ngày nay trì tụng thần chú chỉ hết lòng cung kính mà niệm, không nên có sự phân biệt, vận dụng việc [niệm chú] này để rèn luyện trí vô phân biệt thì đây là một công cụ rất tốt. Có nghĩa là quý vị không được phân biệt, không được bám chấp, cũng không cần phải hiểu được ý nghĩa thần chú, chỉ vận dụng [việc niệm chú] để rèn luyện căn bản trí. Đây là một công cụ rất tốt.
今天我們對於神咒就是恭恭敬敬的去念,不要有分別,拿它來訓練我們的無分別智,那是很好的工具。就是不許你分別,不許你執著,也不要求它什麼意思,拿它來訓練根本智,是個非常好的工具。
kim thiên ngã môn đối ư thần chú tựu thị cung cung kính kính đích khứ niệm , bất yếu hữu phân biệt , nã tha lai huấn luyện ngã môn đích vô phân biệt trí , na thị ngận hảo đích công cụ 。 tựu thị bất hứa nễ phân biệt , bất hứa nễ chấp trước , dã bất yếu cầu tha thập ma ý tư , nã tha lai huấn luyện căn bản trí , thị cá phi thường hảo đích công cụ 。
Hết thảy những âm thanh “tạp loại” đó, gọi chung là “thế âm”. Còn về phương pháp quán sát thì hôm qua đã nói rõ với quý vị rồi, ở đây không cần lặp lại nữa.
這叫雜類之音,總稱為「世音」。至於怎麼個觀法,昨天已經跟諸位說過了,在此地我們就不必再囉嗦。
giá khiếu tạp loại chi âm , tổng xưng vi 「 thế âm 」 。 chí ư chẩm ma cá quan pháp , tạc thiên dĩ kinh căn chư vị thuyết quá liễu , tại thử địa ngã môn tựu bất tất tái la sách 。
Câu kế tiếp là: “Năng và sở đều nêu lên, cảnh và trí cùng nói đến, cho nên gọi là Quán Thế Âm.” [Từ trước] đến đây là giải thích vì sao Bồ Tát có danh hiệu Quán Thế Âm, nói về nguyên do ý nghĩa của danh xưng này.
「能所合標,境智雙舉,故云觀世音。」到這個地方,這都是解釋菩薩為什麼取個名字叫觀世音,是說他名字意義的來源。
「 năng sở hợp tiêu , cảnh trí song cử , cố vân quan thế âm 。 」 đáo giá cá địa phương , giá đô thị giải thích bồ tát vi thập ma thủ cá danh tự khiếu quan thế âm , thị thuyết tha danh tự ý nghĩa đích lai nguyên 。
Phần tiếp theo giảng về “Phổ Môn phẩm”.
下面則是講「普門品」。
hạ diện tắc thị giảng 「 phổ môn phẩm 」 。
“Phổ nghĩa là cùng khắp”, tức là phổ biến, “công hạnh trùm pháp giới, tùy tâm lợi ích vật, ứng theo thể mà hiện khắp, cho nên gọi là phổ”. Công hạnh là nói sự nghiệp của Bồ Tát làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Công hạnh tức là sự nghiệp. [Công hạnh đó] quả thật là quá phổ biến. Trong cùng tận hư không trùm khắp pháp giới, bất cứ nơi nào có chúng sinh là Bồ Tát đều hiện đến đó để phụng sự chúng sinh, giúp đỡ chúng sinh, thỏa mãn mọi nguyện vọng của chúng sinh, có sự cầu xin thì đều ứng nghiệm. Đó là ý nghĩa của chữ “phổ”.
「普是遍義」,就是普遍,「行彌法界,隨心益物,稱體而周,故為普」。行,就是菩薩利益眾生的事業,行就是事業。實在講太普遍了,盡虛空遍法界哪個地方有眾生,菩薩就到哪個地方去,為眾生服務,幫助這些眾生,滿眾生的願望,有求必應,這是普的意思。
「 phổ thị biến nghĩa 」 , tựu thị phổ biến , 「 hành di pháp giới , tùy tâm ích vật , xưng thể nhi chu , cố vi phổ 」 。 hành , tựu thị bồ tát lợi ích chúng sinh đích sự nghiệp , hành tựu thị sự nghiệp 。 thật tại giảng thái phổ biến liễu , tận hư không biến pháp giới ná cá địa phương hữu chúng sinh , bồ tát tựu đáo ná cá địa phương khứ , vi chúng sinh phục vụ , bang trợ giá ta chúng sinh , mãn chúng sinh đích nguyện vọng , hữu cầu tất ưng , giá thị phổ đích ý tư 。
“Tùy tâm ích vật”, ích là lợi ích, vật đây là nói hết thảy người và vật, bao gồm hết thảy chúng sinh hữu tình trong chín pháp giới. Nếu nói làm lợi ích cho người thì ý nghĩa không bao gồm chư thiên các cõi trời, cũng không bao gồm các cảnh giới ngạ quỷ, súc sinh. [Ở đây] nói một chữ “vật” (物) bao gồm được hết thảy, như khi chúng ta nói đến động vật, thực vật, khoáng vật, thì cũng đều được bao gồm trong chữ “vật”. Cho nên, phạm vi [đề cập] của chữ “vật” lớn hơn rất nhiều so với chữ “người”.
「隨心益物」,益是利益,物是一切人物,物包括了九法界的有情眾生。如果說利益人,人不包括天,也不包括餓鬼,也不包括畜生。說一個物就統統都包括了,我們講動物、植物、礦物,說個物全都包括了。所以,物的範圍比人的範圍大得太多了。
「 tùy tâm ích vật 」 , ích thị lợi ích , vật thị nhất thiết nhân vật , vật bao quát liễu cửu pháp giới đích hữu tình chúng sinh 。 như quả thuyết lợi ích nhân , nhân bất bao quát thiên , dã bất bao quát ngạ quỷ , dã bất bao quát súc sinh 。 thuyết nhất cá vật tựu thống thống đô bao quát liễu , ngã môn giảng động vật 、 thực vật 、 khoáng vật , thuyết cá vật toàn đô bao quát liễu 。 sở dĩ , vật đích phạm vi tỉ nhân đích phạm vi đại đắc thái đa liễu 。
Ý nghĩa của hai chữ “tùy tâm” rất sâu xa, nhưng ở đây không thể nói sâu vào chi tiết. Nếu quý vị muốn hiểu rõ thì nên nghiên cứu kinh Lăng-nghiêm. [Nói rõ hơn là] tùy theo tâm [chúng sinh] mà có sự ứng hiện [phù hợp], làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh.
隨心兩個字的意義很深,但是在此地不能細說,諸位如果要了解,去研究《楞嚴經》,隨心應量,利益一切眾生。
tùy tâm lưỡng cá tự đích ý nghĩa ngận thâm , đãn thị tại thử địa bất năng tế thuyết , chư vị như quả yếu liễu giải , khứ nghiên cứu 《 lăng nghiêm kinh 》 , tùy tâm ưng lượng , lợi ích nhất thiết chúng sinh 。
“Xứng thể như chu”, thể là tánh pháp, chu là chu biến. Chỉ khi “xứng thể” (hợp với tánh pháp) rồi thì mới có thể “chu biến” (hiện khắp). Bốn chữ này chúng ta thật ra không dễ dàng nhận hiểu được, chúng ta chỉ có thể nói được một chút ý nghĩa cạn cợt, nếu quý vị vận dụng tâm bình đẳng thì cũng có thể chu biến, không có sự phân biệt. Nếu có sự phân biệt thì khi ta làm một việc tốt chỉ mang lại lợi ích cho một người nào đó, nếu không phân biệt thì một việc lành [có thể làm lợi ích] đến tận cùng hư không, trùm khắp pháp giới, cho nên gọi là “phổ”.
「稱體而周」,體是法性,周是周遍,唯有稱體才周遍。這四個字我們還是不容易體會,我們說得淺近一點,你用平等心就周遍了,沒有分別。有分別,我做這樁好事只利益某一個人;沒有分別,一樁善事就盡虛空遍法界,所以叫普。
「 xưng thể nhi chu 」 , thể thị pháp tính , chu thị chu biến , duy hữu xưng thể tài chu biến 。 giá tứ cá tự ngã môn hoàn thị bất dong dị thể hội , ngã môn thuyết đắc tiên cận nhất điểm , nễ dụng bình đẳng tâm tựu chu biến liễu , một hữu phân biệt 。 hữu phân biệt , ngã tố giá thung hảo sự chỉ lợi ích mỗ nhất cá nhân ; một hữu phân biệt , nhất thung thiện sự tựu tận hư không biến pháp giới , sở dĩ khiếu phổ 。
“Môn” được dùng với ý nghĩa thông đạt, [nên trong sách giải thích] là “môn thị thông nghĩa, xuất nhập vô ủng” (môn là ý nghĩa thông suốt, ra vào không tắc nghẽn); “pháp pháp toàn chương”, chương nghĩa là hiển lộ rõ ràng, không có gì ẩn giấu bên trong, tất cả đều hiển lộ ra bên ngoài sáng tỏ rõ ràng, “sự sự vô ngại”, mọi việc đều không ngăn ngại, cho nên gọi là “môn”.
門是通達的意思,「門是通義,出入無壅」,就是沒有障礙,「法法全彰」,彰是明顯,沒有藏在裡面,全部都露出來,「事事無礙,故為門」。
môn thị thông đạt đích ý tư , 「 môn thị thông nghĩa , xuất nhập vô Ủng 」 , tựu thị một hữu chướng ngại , 「 pháp pháp toàn chương 」 , chương thị minh hiển , một hữu tạng tại lí diện , toàn bộ đô lộ xuất lai , 「 sự sự vô ngại , cố vi môn 」 。
“Bồ Tát này”, tức là đang nói đến Bồ Tát Quán Thế Âm, “sức thần thông không thể nghĩ bàn, soi chiếu khắp cùng pháp giới”, là nói trí tuệ của ngài, tâm thanh tịnh của ngài, có thể đem toàn cõi pháp giới soi chiếu vào trong tâm thanh tịnh, giống như một tấm gương sáng phản chiếu tất cả, không có gì không soi chiếu.
「此菩薩」,就是觀世音菩薩,「不思議神力,照窮法界」,他的智慧、他的清淨心,將整個法界全體照在他清淨心中,就像一面鏡子一樣,無有不照。
「 thử bồ tát 」 , tựu thị quan thế âm bồ tát , 「 bất tư nghị thần lực , chiếu cùng pháp giới 」 , tha đích trí tuệ 、 tha đích thanh tịnh tâm , tương chỉnh cá pháp giới toàn thể chiếu tại tha thanh tịnh tâm trung , tựu tượng nhất diện kính tử nhất dạng , vô hữu bất chiếu 。
“Muôn hình tượng trôi chảy chuyển động”, là nói đến muôn hình vạn tượng dày đặc trong pháp giới, cũng tức là y báo và chánh báo trang nghiêm của mười pháp giới, nói “trôi chảy chuyển động” là chỉ cho hiện tượng không ngừng sinh diệt của hết thảy các pháp.
「萬像流動」,這是指境界裡面森羅萬象,就是十法界依正莊嚴,流動是指這一切法的生滅現象。
「 vạn tượng lưu động 」 , giá thị chỉ cảnh giới lí diện sâm la vạn tượng , tựu thị thập pháp giới y chính trang nghiêm , lưu động thị chỉ giá nhất thiết pháp đích sinh diệt hiện tượng 。
“Âm thanh khác nhau, các loài khác nhau”, là như phần trước đã giảng về bốn tổng loại âm thanh khác nhau, mỗi loại đều có sự khác biệt.
「殊音異類」,前面講四大類的音聲不一樣,各個不相同。
「 thù âm dị loại 」 , tiền diện giảng tứ đại loại đích âm thanh bất nhất dạng , các cá bất tướng đồng 。
Bồ Tát Quán Thế Âm có thể “thị hiện thân hình sắc ở khắp nơi, tùy căn cơ [chúng sinh] mà thuyết pháp, công hạnh nhiệm mầu ứng hiện trọn vẹn”. [Ở đây nói “viên ứng”], viên là viên mãn, ứng là khi chúng sinh có sự chiêu cảm thì Bồ Tát liền ứng hiện, đáp ứng, có sự cảm ứng đạo giao giữa hai bên, “không có gì chướng ngại, cho nên gọi tên [phẩm kinh này] là Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm.
他能夠「普現色身,隨機說法,妙行圓應」,圓是圓滿,應是眾生有感,菩薩就有應,感應道交,「無所障礙,故云觀世音菩薩普門品」。
tha năng cú 「 phổ hiện sắc thân , tùy cơ thuyết pháp , diệu hành viên ưng 」 , viên thị viên mãn , ưng thị chúng sinh hữu cảm , bồ tát tựu hữu ưng , cảm ưng đạo giao , 「 vô sở chướng ngại , cố vân quan thế âm bồ tát phổ môn phẩm 」 。
Như trên là giới thiệu ngắn gọn về tiêu đề của phẩm kinh này.
這是把品題也簡單的介紹出來了。
giá thị bả phẩm đề dã giản đạn đích giới thiệu xuất lai liễu 。
Bên dưới trong phần chú giải có một đoạn giải thích chữ “lai ý” (來意), ý nghĩa chỗ này là “ý tứ” (意思), do bị viết sai, quý vị nên sửa lại cho đúng.
下面,在表解裡面有一段講的「來意」,這個意是意思的意,此地這個字寫錯了,意思的意,諸位改一改。
hạ diện , tại biểu giải lí diện hữu nhất đoạn giảng đích 「 lai ý 」 , giá cá ý thị ý tư đích ý , thử địa giá cá tự tả thác liễu , ý tư đích ý , chư vị cải nhất cải 。
Đoạn văn nói về “lai ý” này cũng là đoạn văn ngay theo sau, tôi đã có đưa vào phần tiết mục, chúng ta đọc qua đoạn văn này thì sẽ thấy rõ ràng ý nghĩa.
這一段來意就是底下這段文,我在這裡頭節錄的,我們念這段文就更清楚了。
giá nhất đoạn lai ý tựu thị để hạ giá đoạn văn , ngã tại giá lí đầu tiết lục đích , ngã môn niệm giá đoạn văn tựu canh thanh sở liễu 。
“Lại có [Bồ Tát] Diệu Âm hiện hình thuyết pháp”, Diệu Âm tức là trong phẩm “Diệu Âm Bồ Tát”, [thứ 24,] ngay trước phẩm này. Bồ Tát Diệu Âm với Bồ Tát Quán Thế Âm có mối quan hệ hết sức thân thiết, giống như anh chị em trong một nhà, bởi vì hai vị cùng tu tập một pháp môn. Bồ Tát Diệu Âm cũng hiện thân thuyết pháp khắp nơi, “cứu giúp chúng sinh khổ nạn, cùng với Bồ Tát Quán Âm không khác biệt”. Nếu quý vị đem phẩm Diệu Âm Bồ Tát (thứ 24) so sánh đối chiếu với phẩm Phổ Môn (thứ 25) này, thì quý vị sẽ hiểu rõ, [hai phẩm kinh này] giống nhau về đại thể, chỉ có những khác biệt nhỏ.
「又妙音現形說法」,妙音是前面一品「妙音菩薩品」。妙音跟觀世音菩薩關係非常密切,就好像兄弟姐妹一樣,是一家人,因為他們是同修一個法門。妙音也是普遍的現身說法,「救濟眾難,與觀音無異」。諸位把前面妙音菩薩這一品跟「普門品」一對看,你就了解,大同小異。
「 hựu diệu âm hiện hình thuyết pháp 」 , diệu âm thị tiền diện nhất phẩm 「 diệu âm bồ tát phẩm 」 。 diệu âm căn quan thế âm bồ tát quan hệ phi thường mật thiết , tựu hảo tượng huynh đệ tả muội nhất dạng , thị nhất gia nhân , nhân vi tha môn thị đồng tu nhất cá pháp môn 。 diệu âm dã thị phổ biến đích hiện thân thuyết pháp , 「 cứu tế chúng nan , dữ quan âm vô dị 」 。 chư vị bả tiền diện diệu âm bồ tát giá nhất phẩm căn 「 phổ môn phẩm 」 nhất đối khán , nễ tựu liễu giải , đại đồng tiểu dị 。
Khác biệt ở chỗ nào? [Trong sách nói: “Chỉ là rộng nhưng chưa khắp, nhiệm mầu mà chưa trọn vẹn.” Nói cách khác, Bồ Tát Diệu Âm cứu độ hết thảy chúng sinh, nhưng phạm vi còn nhỏ, chưa rộng khắp. Trong thực tế, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là từ nơi Bồ Tát Diệu Âm mà phát huy lớn rộng, rộng khắp cả pháp giới.
異在什麼地方?「但略而未普,妙而未圓」,換句話說,妙音菩薩救度一切眾生,他的範圍小,不普遍。觀世音菩薩實際上就是把妙音菩薩的發揚光大,周遍法界。
dị tại thập ma địa phương ? 「 đãn lược nhi vị phổ , diệu nhi vị viên 」 , hoán cú thoại thuyết , diệu âm bồ tát cứu độ nhất thiết chúng sinh , tha đích phạm vi tiểu , bất phổ biến 。 quan thế âm bồ tát thật tế thượng tựu thị bả diệu âm bồ tát đích phát dương quang đại , chu biến pháp giới 。
Cho nên trong kệ xưng tán Phật đều dùng “Diệu Âm Quán Thế Âm”, tức là hợp cả hai danh hiệu lại để cùng xưng tán.
所以你看在讚佛偈裡面,都是用「妙音觀世音」,把他合起來一起來讚歎。
sở dĩ nễ khán tại tán phật kệ lí diện , đô thị dụng 「 diệu âm quan thế âm 」 , bả tha hợp khởi lai nhất khởi lai tán thán 。
“Bồ Tát Quán Thế Âm cũng không xa rời công hạnh này.” Hành môn của Bồ Tát Quán Thế Âm so với Bồ Tát Diệu Âm cũng đều như nhau, nhưng phạm vi rộng lớn hơn, “nên có thể ứng hiện đầy khắp đại thiên”, đại thiên tức là đại thiên thế giới.
「觀音不離是行」,觀世音菩薩這個行門跟妙音菩薩是一樣的,就是他的範圍大,「而能大千圓應」,大千是講大千世界。
「 quan âm bất li thị hành 」 , quan thế âm bồ tát giá cá hành môn căn diệu âm bồ tát thị nhất dạng đích , tựu thị tha đích phạm vi đại , 「 nhi năng đại thiên viên ưng 」 , đại thiên thị giảng đại thiên thế giới 。
“Không có hình tướng đến đi, gọi là hành nghiệp tự tại, thị hiện rộng khắp, nên tiến xa hơn Bồ Tát Diệu Âm.” Tiến là bước tiến, nghĩa là [Bồ Tát Quán Thế Âm] tiến xa hơn một bước, dùng pháp môn tu hành như Bồ Tát Diệu Âm nhưng phát huy lớn rộng, trải khắp pháp giới, rộng làm lợi ích chúng sinh.
「無去來相,所謂自在之業,普門示現,則進於妙音矣。」進是進步,比妙音菩薩更進一步,將妙音菩薩的行法發揚光大,周遍法界,普利眾生。
「 vô khứ lai tướng , sở vị tự tại chi nghiệp , phổ môn thị hiện , tắc tấn ư diệu âm hĩ 。 」 tấn thị tấn bộ , tỉ diệu âm bồ tát canh tấn nhất bộ , tương diệu âm bồ tát đích hành pháp phát dương quang đại , chu biến pháp giới , phổ lợi chúng sinh 。
“Thật ra hai vị thánh này cùng chung một đường,” hai vị thánh tức là nói Bồ Tát Diệu Âm và Bồ Tát Quán Thế Âm. Hai vị Bồ Tát này cùng tu tập một pháp môn, cùng đi chung trên một con đường, “tương vi chung thủy” (khai mở và phát triển cho nhau), Bồ Tát Diệu Âm là người khai mở (thủy), Bồ Tát Quán Thế Âm là người phát huy lớn rộng, đạt đến mức cùng cực, tức là đến mức cuối cùng không còn gì hơn được nữa (chung).
「其實二聖一道」,這個二聖就是妙音、觀世音,這兩位菩薩是同一個門、同一個道路,「相為終始」,妙音菩薩是開端,觀音菩薩則是發揚光大達到極處,達到一個終極,一個是開端,一個是表終極。
「 kì thật nhị thánh nhất đạo 」 , giá cá nhị thánh tựu thị diệu âm 、 quan thế âm , giá lưỡng vị bồ tát thị đồng nhất cá môn 、 đồng nhất cá đạo lộ , 「 tướng vi chung thuỷ 」 , diệu âm bồ tát thị khai đoan , quan âm bồ tát tắc thị phát dương quang đại đạt đáo cực xứ , đạt đáo nhất cá chung cực , nhất cá thị khai đoan , nhất cá thị biểu chung cực 。
“Nên bài kệ sau đó xưng tán”, [đây là nói câu] mở đầu bài kệ, nói tiếp việc xưng tán “công đức Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng kết hợp nói cả về Bồ Tát Diệu Âm, nên biết rằng cả hai vị thánh cùng một con đường, tức là công hạnh Diệu Âm mà thi triển rộng thành Phổ Môn”, Bồ Tát Quán Thế Âm dựa trên công hạnh của Bồ Tát Diệu Âm mà phát huy lớn rộng, thành pháp môn thông suốt rộng khắp (phổ môn), “thị tri tương vi chung thủy” (nên biết rằng [hai vị] khai mở và phát triển cho nhau). Chữ chung thủy đem so với thủy chung thì ý nghĩa dài rộng hơn nhiều. Khi nói “thủy chung” tức là từ mở đầu cho đến cuối cùng, đến đó xem như kết thúc, nhưng nói “chung thủy” thì vĩnh viễn không có điểm kết thúc. Ví dụ như nói năm bảy mươi hai tuổi đã hết (chung), thì [có nghĩa là] ngày hôm sau bắt đầu (thủy) năm bảy mươi ba tuổi. Cho nên, “chung thủy” là tướng tương tục, nối tiếp không dứt, còn “thủy chung” là tướng đoạn diệt, kết thúc, ý nghĩa không giống nhau.
「故後頌」,偈頌裡頭,頌「觀音之德,而兼云妙音。是知二聖一道,即妙音之行,而演為普門」,觀世音菩薩把它發揚光大,成為普門這個法門。「是知相為終始」,終始比始終意思要長得多。說始終,從開始到結束,這一個段落就過去了;說終始,就永遠沒有完的時候。譬如說今年七十二年年終,到第二天,七十三年開始了。所以,終始是相續不斷的相,始終是個斷滅相,意義不相同。
「 cố hậu tụng 」 , kệ tụng lí đầu , tụng 「 quan âm chi đức , nhi kiêm vân diệu âm 。 thị tri nhị thánh nhất đạo , tức diệu âm chi hành , nhi diễn vi phổ môn 」 , quan thế âm bồ tát bả tha phát dương quang đại , thành vi phổ môn giá cá pháp môn 。 「 thị tri tướng vi chung thuỷ 」 , chung thuỷ tỉ thuỷ chung ý tư yếu trường đắc đa 。 thuyết thuỷ chung , tùng khai thuỷ đáo kết thúc , giá nhất cá đoạn lạc tựu quá khứ liễu ; thuyết chung thuỷ , tựu vĩnh viễn một hữu hoàn đích thời hậu 。 thí như thuyết kim niên thất thập nhị niên niên chung , đáo đệ nhị thiên , thất thập tam niên khai thuỷ liễu 。 sở dĩ , chung thuỷ thị tướng tục bất đoạn/đoán đích tướng , thuỷ chung thị cá đoạn/đoán diệt tướng , ý nghĩa bất tướng đồng 。
“Muốn hiểu rõ pháp môn [Diệu Âm ở] trước thì phải kết hợp tu cả hai công hạnh.” Điều này chính là dạy cho chúng ta, muốn học được [pháp môn] ứng hiện tròn đầy rộng khắp của Bồ tát Quán Thế Âm thì phải bắt đầu công phu từ [pháp môn của] Bồ Tát Diệu Âm. Vì sao vậy? [Trong sách nói:] “Tùng diệu nhi phổ, hữu thủy hữu chung, nhiên hậu viên bị, cố kế diệu âm nhi thuyết phổ môn yên.” (Từ chỗ nhiệm mầu đi đến rộng khắp, có khởi đầu, có chung cuộc, sau đó mới trọn vẹn đầy đủ, cho nên vì tiếp nối Diệu Âm mà giảng thuyết Phổ Môn.)
「欲體前法,須兼二行」,這就是教給我們,你要想學觀世音菩薩普門圓應,要從妙音菩薩下手,為什麼?「從妙而普,有始有終,然後圓備,故繼妙音而說普門焉。」
「 dục thể tiền pháp , tu kiêm nhị hành 」 , giá tựu thị giáo cấp ngã môn , nễ yếu tưởng học quan thế âm bồ tát phổ môn viên ưng , yếu tùng diệu âm bồ tát hạ thủ , vi thập ma ? 「 tùng diệu nhi phổ , hữu thuỷ hữu chung , nhiên hậu viên bị , cố kế diệu âm nhi thuyết phổ môn yên 。 」
Phẩm Phổ Môn chính là được thuyết ra như vậy, từ nơi [pháp môn] Diệu Âm mà phát huy lớn rộng mới thuyết ra phẩm Phổ Môn. Ý nghĩa nguyên do này cũng là làm rõ ý nghĩa nguyên do của trọn phẩm kinh.
普門品就是這麼來的,是由妙音而發揚光大才說普門品,這個來意就是說明這一品的來意。
phổ môn phẩm tựu thị giá ma lai đích , thị do diệu âm nhi phát dương quang đại tài thuyết phổ môn phẩm , giá cá lai ý tựu thị thuyết minh giá nhất phẩm đích lai ý 。
Bên dưới có hai đoạn văn, quý vị xem trong phần chú giải, đoạn đầu tiên là giới thiệu sơ lược nội dung phẩm kinh này.
底下有兩段,諸位看表解上,丙的這一段略略的介紹這一品的內容。
để hạ hữu lưỡng đoạn , chư vị khán biểu giải thượng , bính đích giá nhất đoạn lược lược đích giới thiệu giá nhất phẩm đích nội dong 。
Nói về Bồ tát Quán Thế Âm có ba bộ kinh, trong ba bộ kinh đó có phần nói về Bồ Tát chứ không phải những bộ kinh riêng biệt nói về ngài. Phần thứ nhất nằm trong kinh Hoa Nghiêm, quý vị có thể tìm đọc được trong sách Hoa Nghiêm soát độc. Phần này là một chương nằm trong phẩm Nhập Pháp Giới, nói về việc Đồng tử Thiện Tài đến tham vấn Bồ Tát Quán Thế Âm.
觀音菩薩一共有三經,有三部經,三部經都不是獨立的。第一部經在《華嚴經》裡面,諸位在《華嚴選讀》裡面看到,是在「入法界品」當中的一章,就是善財童子參訪觀世音菩薩。
quan âm bồ tát nhất cộng hữu tam kinh , hữu tam bộ kinh , tam bộ kinh đô bất thị độc lập đích 。 đệ nhất bộ kinh tại 《 hoa nghiêm kinh 》 lí diện , chư vị tại 《 hoa nghiêm soát độc 》 lí diện khán đáo , thị tại 「 nhập pháp giới phẩm 」 đương trung đích nhất chương , tựu thị thiện tài đồng tử sâm phóng quan thế âm bồ tát 。
Bồ Tát Quán Thế Âm là tiêu biểu cho vị Bồ Tát hồi hướng thứ bảy. Chương kinh này trước đây tôi cũng đã từng giảng giải.
觀世音菩薩代表是第七迴向的菩薩,這一章我們過去講過。
quan thế âm bồ tát đại biểu thị đệ thất hồi hướng đích bồ tát , giá nhất chương ngã môn quá khứ giảng quá 。
Phần thứ nằm trong kinh Lăng Nghiêm. Chúng ta theo thứ tự mà Đức Phật đã thuyết giảng các bộ kinh. Sau khi đức Phật Thích-ca Mâu-ni thành đạo thì trước tiên ngài thuyết giảng kinh Hoa Nghiêm. Sau kinh Hoa Nghiêm là các kinh thuộc bộ A-hàm. Sau A-hàm là các kinh Phương đẳng. Kinh Lăng nghiêm thuộc về kinh Phương đẳng, được thuyết giảng trước kinh Pháp Hoa. Cho nên tôi đề cập đến phần thứ hai nói về Bồ Tát Quán Thế Âm là nằm trong quyển thứ sáu của Kinh Lăng Nghiêm, chương Bồ Tát Quán Thế Âm nhĩ căn viên thông. Phần thứ ba nói về Bồ Tát Quán Thế Âm là trong kinh Pháp Hoa, đó là phẩm Phổ Môn.
第二部經就在《楞嚴》上,我們是按照佛講經的順序,釋迦牟尼佛成道是第一部講《華嚴》,《華嚴》以後就是阿含,阿含之後就是方等,《楞嚴經》是屬於方等,在《法華》之前。所以,第二部講觀世音菩薩就是在《楞嚴經》第六卷「觀世音菩薩耳根圓通章」。第三部就是在法華會上,這個「普門品」。
đệ nhị bộ kinh tựu tại 《 lăng nghiêm 》 thượng , ngã môn thị án chiếu phật giảng kinh đích thuận tự , thích ca mâu ni phật thành đạo thị đệ nhất bộ giảng 《 hoa nghiêm 》 , 《 hoa nghiêm 》 dĩ hậu tựu thị a hàm , a hàm chi hậu tựu thị phương đẳng , 《 lăng nghiêm kinh 》 thị thuộc ư phương đẳng , tại 《 pháp hoa 》 chi tiền 。 sở dĩ , đệ nhị bộ giảng quan thế âm bồ tát tựu thị tại 《 lăng nghiêm kinh 》 đệ lục quyển 「 quan thế âm bồ tát nhĩ căn viên thông chương 」 。 đệ tam bộ tựu thị tại pháp hoa hội thượng , giá cá 「 phổ môn phẩm 」 。
Hai phần nằm trong hai kinh trước là nói về quá trình tu tập của Bồ Tát, phương thức mà ngài tu tập để đạt được thành tựu tự thân. Đặc biệt, trong kinh Hoa Nghiêm gọi tên ngài là Quán Tự Tại, chính là nhấn mạnh đến sự thành tựu của bản thân. Danh xưng Quán Thế Âm thì nhấn mạnh đến phương diện làm lợi ích cho chúng sinh. Theo ý nghĩa “tự thọ dụng” thì gọi là Tự Tại, theo ý nghĩa “tha thọ dụng” thì gọi là “Quán Âm”, là nghĩa đại từ bi đại bi.
前面兩經都說到菩薩的修行,他自己怎麼成就的,尤其是在《華嚴》上,《華嚴》稱為「觀自在」,稱觀自在,偏重在自己的成就,偏重在自成就;稱觀世音,偏重在利益眾生這方面。自受用稱之為自在,他受用稱之為觀音,大慈大悲。
tiền diện lưỡng kinh đô thuyết đáo bồ tát đích tu hành , tha tự kỉ chẩm ma thành tựu đích , vưu kì thị tại 《 hoa nghiêm 》 thượng , 《 hoa nghiêm 》 xưng vi 「 quan tự tại 」 , xưng quan tự tại , thiên trùng tại tự kỉ đích thành tựu , thiên trùng tại tự thành tựu ; xưng quan thế âm , thiên trùng tại lợi ích chúng sinh giá phương diện 。 tự thụ dụng xưng chi vi tự tại , tha thụ dụng xưng chi vi quan âm , đại từ đại bi 。
Cho nên trong phẩm Phổ môn không đề cập đến quá trình tu tập mà ngài đã tự thân trải qua, hoàn toàn chỉ nói đến những công hạnh làm lợi ích chúng sinh của Bồ Tát. Nội dung phẩm kinh này hoàn toàn chỉ nói đến sự ứng hiện rộng khắp của ngài trong thế giới đại thiên, đem tất cả những khổ nạn của chúng sinh phân chia khái quát thành mười loại lớn, dựa theo trong kinh Hoa Nghiêm mà dùng số mười, đó là có ý nghĩa biểu thị. Hết thảy tai nạn của chúng sinh đến từ bên ngoài có bảy loại lớn, nên nói “miễn thất nạn” (tránh được bảy nạn), trong khi những khổ nạn nội tâm chính là phiền não thì có ba loại lớn: tham, sân và si. Cho nên nói “miễn thất nạn, ly tam độc” (tránh bảy nạn, lìa ba độc).
所以「普門品」裡面就沒有講到他自己修學的經過,沒有說這個,完全說菩薩利益眾生的事業。它的內容完全是圓應大千,把眾生的苦難歸納為十大類,跟《華嚴經》裡面用十來表法是一個意思。外面的災難有七大類,「免七難」,內在的災難,就是煩惱,有三大類,貪瞋痴,菩薩能夠幫助你「免七難,離三毒」。
sở dĩ 「 phổ môn phẩm 」 lí diện tựu một hữu giảng đáo tha tự kỉ tu học đích kinh quá , một hữu thuyết giá cá , hoàn toàn thuyết bồ tát lợi ích chúng sinh đích sự nghiệp 。 tha đích nội dong hoàn toàn thị viên ưng đại thiên , bả chúng sinh đích khổ nan quy nạp vi thập đại loại , căn 《 hoa nghiêm kinh 》 lí diện dụng thập lai biểu pháp thị nhất cá ý tư 。 ngoại diện đích tai nan hữu thất đại loại , 「 miễn thất nan 」 , nội tại đích tai nan , tựu thị phiền não , hữu tam đại loại , tham sân si , bồ tát năng cú bang trợ nễ 「 miễn thất nan , li tam độc 」 。
Hết thảy chúng sinh đều vẫn còn nhiều tham muốn, khổ não vì cầu mong không được thỏa mãn, nên Bồ Tát Quán Thế Âm mới “ứng nhị cầu”. Nói về hai điều cầu mong, trong thực tế bất kể quý vị có mong cầu gì cũng không vượt ra ngoài “hai điều mong cầu” đó, không nhất thiết chỉ là hai điều mong cầu ghi trong phẩm kinh Phổ môn này là cầu sinh con trai, con gái. Chẳng qua vào thời đại đức Phật thuyết giảng kinh thì người đời xem trọng nhất là có con nối dõi, ai ai cũng mong cầu có con trai ngoan, con gái đẹp. Cho nên nếu những điều này mà cầu được thì những điều khác đương nhiên không thành vấn đề. Cho nên trong tất cả những chuyện mong cầu thì chỉ nêu lên việc quan trọng nhất, những điều ít quan trọng hơn thì đương nhiên được bao gồm trong đó.
一切眾生還有許多的欲望,求不得苦,所以觀音菩薩有「應二求」,二求實際上講無論你想求什麼都包括在這裡面,不要看到觀世音菩薩應二求,只是求男、求女。佛當年講經,大概也最重視,世間人最重視就是後代,總想後代有好兒子、好女兒,連這個都可以求,其他的當然不成問題。所以是在一切求裡面舉重的,其餘這些輕的當然都包括在其中。
nhất thiết chúng sinh hoàn hữu hứa đa đích dục vọng , cầu bất đắc khổ , sở dĩ quan âm bồ tát hữu 「 ưng nhị cầu 」 , nhị cầu thật tế thượng giảng vô luận nễ tưởng cầu thập ma đô bao quát tại giá lí diện , bất yếu khán đáo quan thế âm bồ tát ưng nhị cầu , chỉ thị cầu nam 、 cầu nữ 。 phật đương niên giảng kinh , đại khái dã tối trùng thị , thế gian nhân tối trùng thị tựu thị hậu đại , tổng tưởng hậu đại hữu hảo nhi tử 、 hảo nữ nhi , liên giá cá đô khả dĩ cầu , kì tha đích đương nhiên bất thành vấn đề 。 sở dĩ thị tại nhất thiết cầu lí diện cử trùng đích , kì dư giá ta khinh đích đương nhiên đô bao quát tại kì trung 。
[Tránh được bảy nạn, lìa được ba độc, thỏa mãn được hai điều mong cầu, cả thảy là 12 điều.] 12 điều đó tương ứng với 12 đại nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, cũng giống như 48 đại nguyện của Phật A-di-đà tiếp dẫn chúng sinh. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng 12 đại nguyện để cứu khổ cứu nạn, rộng độ chúng sinh, lưu truyền giáo pháp nhiệm mầu. Giáo pháp nhiệm mầu chính là “diệu pháp” trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Cho nên phẩm kinh này thuộc phần Lưu thông trong kinh Pháp Hoa, không xếp vào phần Chánh tông.
這十二個就是觀世音菩薩十二大願,像阿彌陀佛四十八願接引眾生一樣,他是以十二大願來救苦救難,普度眾生,流傳妙法,妙法就是《妙法蓮華經》。所以這一品在《法華經》裡面屬於流通分,不是正宗分,屬於流通分。
giá thập nhị cá tựu thị quan thế âm bồ tát thập nhị đại nguyện , tượng a di đà phật tứ thập bát nguyện tiếp dẫn chúng sinh nhất dạng , tha thị dĩ thập nhị đại nguyện lai cứu khổ cứu nan , phổ độ chúng sinh , lưu truyền diệu pháp , diệu pháp tựu thị 《 diệu pháp liên hoa kinh 》 。 sở dĩ giá nhất phẩm tại 《 pháp hoa kinh 》 lí diện thuộc ư lưu thông phân , bất thị chính tông phân , thuộc ư lưu thông phân 。
Tiếp theo bên dưới nói “khuyến phát”, nghĩa là khuyên mọi người phát tâm. Vậy nên phát tâm như thế nào? Phần tiếp theo đề cập đến năm điều, cả năm điều này đều nằm trong kinh Pháp Hoa, cũng đều được xếp trong phần Lưu thông.
底下有「勸發」,就是勸勉大家要發心,發什麼樣的心?底下有五條,這五條都是《法華經》裡面的,而且都是《法華經》裡面的流通分。
để hạ hữu 「 khuyến phát 」 , tựu thị khuyến miễn đại gia yếu phát tâm , phát thập ma dạng đích tâm ? để hạ hữu ngũ điều , giá ngũ điều đô thị 《 pháp hoa kinh 》 lí diện đích , nhi thả đô thị 《 pháp hoa kinh 》 lí diện đích lưu thông phân 。
[Điều thứ nhất] “vị pháp”, là nói vì cầu pháp, “nên như Bồ Tát Dược Vương khổ hạnh phân thân”. Dược Vương Bồ Tát là phẩm kinh nằm ngay trước phẩm Diệu Âm Bồ Tát.
「為法」,就是為了求法,「當如藥王苦行分身」,「妙音菩薩品」前面就是藥王菩薩這一品。
「 vi pháp 」 , tựu thị vi liễu cầu pháp , 「 đương như dược vương khổ hành phân thân 」 , 「 diệu âm bồ tát phẩm 」 tiền diện tựu thị dược vương bồ tát giá nhất phẩm 。
Từ xưa đến nay, hết thảy chư Phật, Bồ Tát, các bậc tổ sư, đại đức, không một vị nào là không vì pháp quên thân, sẵn sàng hy sinh bản thân mình vì đạo pháp.
自古以來,諸佛菩薩、祖師大德沒有一個不是為法忘軀,自己肯犧牲。
tự cổ dĩ lai , chư phật bồ tát 、 tổ sư đại đức một hữu nhất cá bất thị vi pháp vô khu , tự kỉ khẳng hi sinh 。
Đại sư Huyền Trang năm xưa đến Ấn Độ cầu pháp, nếu vẫn quan tâm đến tính mạng và sự an toàn của bản thân, không chịu hy sinh sự hưởng thụ của mình, thì làm sao có thể chịu đựng được gian khổ như thế? Đó là một chuyến đi bằng đường bộ. Từ Trung Quốc đến Ấn Độ phải đi mất ba năm, không phải là một quãng đường ngắn, phải băng qua sa mạc rộng lớn, phải xuyên qua rừng rậm, rồi là núi cao, cao hơn gấp nhiều lần so với núi Alishan [ở Đài Loan] của chúng ta. Trong Thế chiến thứ hai, máy bay không thể bay qua núi ấy mà phải bay vòng để tránh, như vậy quý vị thử nói xem là cao đến mức nào! Cho nên những người ở Trung Quốc phát tâm đi sang Ấn Độ thỉnh kinh Phật, trăm người đi chỉ có khoảng mười mấy người về được, còn lại đều gặp nạn mà chết trên đường. Những người đi ấy cũng đều biết rõ sự nguy hiểm như thế, nhưng vẫn phát tâm đi, hy sinh vì cầu pháp.
玄奘大師當年到印度去求法,如果還顧及到自己身命、顧及自己的安危,不肯犧牲享受,怎麼能吃那個苦?那是徒步走去的!從中國到印度要走三年,不是短距離,當中要經過大的沙漠、要通過叢林,那是高山,比我們這個阿里山不知道要高多少倍。二次大戰的時候,飛機都不能夠飛越,要從山當中繞過,你說那個山多高。所以去的人,我們中國這些發心到印度去取經的,有一百多個人發心去,回來的呢?回來只有十幾個人,都是在途中遇難,喪失了生命。哪一個人都知道這個危險,他還是要發心去,為法犧牲。
huyền trang đại sư đương niên đáo ấn độ khứ cầu pháp , như quả hoàn cố cập đáo tự kỉ thân mệnh 、 cố cập tự kỉ đích an nguy , bất khẳng hi sinh hưởng thụ , chẩm ma năng cật na cá khổ ? na thị đồ bộ tẩu khứ đích ! tùng trung quốc đáo ấn độ yếu tẩu tam niên , bất thị đoản cự li , đương trung yếu kinh quá đại đích sa mạc 、 yếu thông quá tùng lâm , na thị cao sơn , tỉ ngã môn giá cá a lí sơn bất tri đạo yếu cao đa thiểu bội 。 nhị thứ đại chiến đích thời hậu , phi cơ đô bất năng cú phi việt , yếu tùng sơn đương trung nhiễu quá , nễ thuyết na cá sơn đa cao 。 sở dĩ khứ đích nhân , ngã môn trung quốc giá ta phát tâm đáo ấn độ khứ thủ kinh đích , hữu nhất bá đa cá nhân phát tâm khứ , hồi lai đích ni ? hồi lai chỉ hữu thập kỉ cá nhân , đô thị tại đồ trung ngộ nan , tang thất liễu sinh mệnh 。 ná nhất cá nhân đô tri đạo giá cá nguy hiểm , tha hoàn thị yếu phát tâm khứ , vi pháp hi sinh 。
Cũng giống như các vị Bồ Tát [tiền thân] được kể lại trong kinh Bản sanh. Không cần nói nhiều, cứ tự hỏi xem chúng ta có được tinh thần như vậy hay không? Nếu chỉ khó khăn một chút đã không chịu được thì làm sao mà làm, làm sao được thành tựu? Quý vị phải biết rằng người xưa cầu pháp khó khăn như thế nào, đức Phật Thích-ca Mâu-ni vì cầu nửa bài kệ mà phải xả bỏ thân mạng. Chuyện này quý vị đều biết rõ. Chúng ta ngày nay đối với pháp khí, kinh điển chà đạp không quý tiếc, thật là sai lầm! Cho dù việc in ấn ngày nay rất phát triển, nhưng vì sao chúng ta phải tôn trọng kinh điển? Bởi vì thời xưa cổ nhân cầu thỉnh về được không dễ dàng. Ngày nay chúng ta có được rất dễ dàng nhưng vẫn phải tôn trọng, phải nhớ nghĩ đến sự khó khăn của người xưa trong việc cầu pháp.
像諸菩薩,在本生經裡所講的,更不必說了,我們有沒有這個精神?稍稍受一點點苦就不肯幹了,那還能行嗎?還能有成就嗎?要知道古人求法之難,釋迦牟尼佛為半偈而捨全身,這個故事諸位都曉得。我們今天對於法物、對於經典糟蹋、不愛惜,這是過失!雖然今天印刷術這麼發達,我們對經典為什麼要尊重?古時候人求來不易!我們今天雖然容易得到,我們要尊重,要想到從前人求法之難。
tượng chư bồ tát , tại bản sinh kinh lí sở giảng đích , canh bất tất thuyết liễu , ngã môn hữu một hữu giá cá tinh thần ? sảo sảo thụ nhất điểm điểm khổ tựu bất khẳng cán liễu , na hoàn năng hành mạ ? hoàn năng hữu thành tựu mạ ? yếu tri đạo cổ nhân cầu pháp chi nan , thích ca mâu ni phật vi bán kệ nhi xả toàn thân , giá cá cố sự chư vị đô hiểu đắc 。 ngã môn kim thiên đối ư pháp vật 、 đối ư kinh điển tao đạp 、 bất ái tích , giá thị quá thất ! tuy nhiên kim thiên ấn loát thuật giá ma phát đạt , ngã môn đối kinh điển vi thập ma yếu tôn trùng ? cổ thời hậu nhân cầu lai bất dị ! ngã môn kim thiên tuy nhiên dong dị đắc đáo , ngã môn yếu tôn trùng , yếu tưởng đáo tùng tiền nhân cầu pháp chi nan 。
[Để có được] kinh Lăng-nghiêm, ngài Bát-lạt-mật-đế đã phải rạch thịt nơi cánh tay mình giấu kinh vào trong rồi may lại, mới có thể mang đến [Trung Quốc]. Bởi vì thời đó quân canh biên phòng không cho phép đưa kinh này ra khỏi nước, xem đó là quốc bảo, cấm không được mang sang nước khác. Ngài phải bí mật dùng phương thức như vậy để mang kinh đến Trung Quốc. Quý vị thử nói xem, khổ nhọc biết dường nào! Ngày nay chúng ta cầm đến quyển kinh, làm sao có thể không trân trọng! Đó gọi là vì pháp, tức là vì cầu pháp.
《楞嚴經》,般剌蜜帝法師把手臂剖開,經典藏在這裡面帶來,因為他那邊那時候海關這部經不准出去,是國家的國寶,禁止帶到別的地方去。他偷偷的用這種方法帶到中國來,你說那樣的苦心,我們今天拿到經典怎麼能不重視!這是講為法,為了求法。
《 lăng nghiêm kinh 》 , ban lạt mật đế pháp sư bả thủ tí phẫu khai , kinh điển tạng tại giá lí diện đái lai , nhân vi tha na biên na thời hậu hải quan giá bộ kinh bất chuẩn xuất khứ , thị quốc gia đích quốc bảo , cấm chỉ đái đáo biệt đích địa phương khứ 。 tha thâu thâu đích dụng giá chủng phương pháp đái đáo trung quốc lai , nễ thuyết na dạng đích khổ tâm , ngã môn kim thiên nã đáo kinh điển chẩm ma năng bất trùng thị ! giá thị giảng vi pháp , vi liễu cầu pháp 。
[Điều thứ hai] là “việc hoằng pháp nên giống như Diệu Âm, Quán Âm, ứng hiện đầy đủ khắp mọi nơi”. Chỉ có việc hoằng pháp mới có thể báo đáp ân đức của Phật. Hoằng pháp phải trên tinh thần giống như Bồ Tát Quán Thế Âm, trên tinh thần như Bồ Tát Diệu Âm, giảng dạy không phân biệt. Cho nên nói rằng, chúng sinh “có cảm lập tức có ứng”, cảm ứng giao hòa trong mối đạo, tuyệt đối không có sự phân biệt hai bên. Không hề phân biệt đây là người Trung Quốc, tôi sẽ giảng nhiều hơn, kia là người ngoại quốc, tôi sẽ giảng ít hơn. Như thế thì không phải là [tinh thần của] Bồ Tát Quán Thế Âm, cũng không phải [tinh thần của] Bồ Tát Diệu Âm. Phải đem hết những gì mình hiểu biết ra giảng giải, làm lợi ích chúng sinh, giúp đỡ người khác, giúp đỡ mà không có bất kỳ điều kiện nào.
「弘法當如妙音觀音,普門圓應」,唯有弘法才能報佛恩。弘法要有觀世音菩薩的精神、有妙音菩薩的精神,有教無類。所以說眾生有感立刻就有應,感應道交,絕不分彼此。不分:你是中國人,我應當對你多說一點,他是外國人,那給他少說一點。那就不是觀世音菩薩,也不是妙音菩薩。盡自己所知道的完全說出來,利益眾生,幫助別人,幫助別人沒有任何條件。
「 hoằng pháp đương như diệu âm quan âm , phổ môn viên ưng 」 , duy hữu hoằng pháp tài năng báo phật ân 。 hoằng pháp yếu hữu quan thế âm bồ tát đích tinh thần 、 hữu diệu âm bồ tát đích tinh thần , hữu giáo vô loại 。 sở dĩ thuyết chúng sinh hữu cảm lập khắc tựu hữu ưng , cảm ưng đạo giao , tuyệt bất phân bỉ thử 。 bất phân : nễ thị trung quốc nhân , ngã ưng đương đối nễ đa thuyết nhất điểm , tha thị ngoại quốc nhân , na cấp tha thiểu thuyết nhất điểm 。 na tựu bất thị quan thế âm bồ tát , dã bất thị diệu âm bồ tát 。 tận tự kỉ sở tri đạo đích hoàn toàn thuyết xuất lai , lợi ích chúng sinh , bang trợ biệt nhân , bang trợ biệt nhân một hữu nhâm hà điều kiện 。
Nếu như giảng kinh thuyết pháp mà đòi hỏi điều kiện, quý vị thỉnh tôi thuyết pháp một lần thì phải cúng dường tôi một số tiền, như vậy là thương lượng mua bán trao đổi, gọi là “buôn bán Phật”, mang giáo pháp của Phật ra làm vật mua bán, đó là tội lỗi phải vào địa ngục A-tỳ.
如果講經說法還要講條件,你請我講一座經,你得要供養我多少錢,這就是商場上談生意買賣,這叫「裨販如來」,把佛法當作貨物去販賣,這個罪過是阿鼻地獄的罪業。
như quả giảng kinh thuyết pháp hoàn yếu giảng điều kiện , nễ thỉnh ngã giảng nhất tòa kinh , nễ đắc yếu cung dưỡng ngã đa thiểu tiền , giá tựu thị thương trường thượng đàm sinh ý mãi mại , giá khiếu 「 tì phiến như lai 」 , bả phật pháp đương tác hoá vật khứ phiến mại , giá cá tội quá thị a tị địa ngục đích tội nghiệp 。
Cho nên trong tương lai nếu quý vị có phát tâm làm pháp sư để hoằng pháp, lợi lạc cho đời, thì phải biết rằng nếu làm không đúng sẽ phải chịu quả báo ở địa ngục A-tỳ, kẻo có khi vào đó rồi mà vẫn chưa biết tại sao. [Lại tự nghĩ] tôi một đời hoằng pháp lợi sinh, làm nhiều việc tốt đẹp, tại sao tôi phải vào địa ngục? Đó là vì quý vị hoằng pháp lợi sinh nhưng thật ra lại là buôn bán Phật pháp. Phật pháp cần phải được rộng truyền, làm sao có thể mang ra mua bán như hàng hóa?
所以法師,你們諸位將來要發心當法師弘法利生,要曉得,搞得不好的時候將來果報在阿鼻地獄,你還不曉得怎麼去的。我一生弘法利生,做這麼多好事情,我怎麼還墮地獄?你弘法利生,原來你是在賣佛法,你是在買賣佛法。佛法是要弘揚的,怎麼可以當商品去賣?
sở dĩ pháp sư , nễ môn chư vị tương lai yếu phát tâm đương pháp sư hoằng pháp lợi sinh , yếu hiểu đắc , cảo đắc bất hảo đích thời hậu tương lai quả báo tại a tị địa ngục , nễ hoàn bất hiểu đắc chẩm ma khứ đích 。 ngã nhất sinh hoằng pháp lợi sinh , tố giá ma đa hảo sự tình , ngã chẩm ma hoàn đoạ địa ngục ? nễ hoằng pháp lợi sinh , nguyên lai nễ thị tại mại phật pháp , nễ thị tại mãi mại phật pháp 。 phật pháp thị yếu hoằng dương đích , chẩm ma khả dĩ đương thương phẩm khứ mại ?
Đặc biệt với những bản kinh đã in hiện nay, quý vị nhìn vào trang bản quyền sẽ thấy ghi, “Bản quyền được bảo vệ, sao chép in lại là phạm pháp”, mấy chữ này là đủ để đưa vào địa ngục A-tỳ rồi, lấy kinh bảo đảm cho việc vào địa ngục A-tỳ, đây là báo trước việc vào địa ngục.
尤其現在你看印的經,版權頁一看,「版權所有,翻印必究」,這八個字就送到阿鼻地獄去,阿鼻地獄已經掛號、已經註冊了,等他去報到去。
vưu kì hiện tại nễ khán ấn đích kinh , bản quyền hiệt nhất khán , 「 bản quyền sở hữu , phiên ấn tất cứu 」 , giá bát cá tự tựu tống đáo a tị địa ngục khứ , a tị địa ngục dĩ kinh quải hiệu 、 dĩ kinh chú sách liễu , đẳng tha khứ báo đáo khứ 。
Phật pháp phải lưu hành rộng, phải hoan nghênh việc in ấn lại, in ra càng nhiều càng tốt, sao có thể nói là không được phép in lại? Ví như quý vị là pháp sư, tự trước tác ra, chú thích, chú giải kinh điển, thì sau đó cũng nên lưu hành rộng, phải hoan nghênh việc [người khác] in ấn lại. Quý vị tự mình chú thích [kinh điển], không cho phép tự do lưu hành, nói rằng “giữ bản quyền, không được phép in lại”, như vậy là buôn bán Phật pháp, cho dù chú thích của quý vị có hay đến đâu thì đó vẫn là tạo nhân để vào địa ngục A-tỳ.
佛法要流通,歡迎翻印,印得愈多愈好,怎麼可以說不准翻印?這還得了!佛經不可以,不可以這樣用這個字樣,他叫你流通的,流通的功德無量無邊,怎麼可以說版權所有,不准翻印?縱然你是法師,你自己的著作,我註的註解,後面也應當要流通,要歡迎翻印。我自己註的,我不准流通,我這個「版權所有,不准翻印」,你這就是買賣佛法,你註得再好,你還是造阿鼻地獄的種子。
phật pháp yếu lưu thông , hoan nghênh phiên ấn , ấn đắc dũ đa dũ hảo , chẩm ma khả dĩ thuyết bất chuẩn phiên ấn ? giá hoàn đắc liễu ! phật kinh bất khả dĩ , bất khả dĩ giá dạng dụng giá cá tự dạng , tha khiếu nễ lưu thông đích , lưu thông đích công đức vô lượng vô biên , chẩm ma khả dĩ thuyết bản quyền sở hữu , bất chuẩn phiên ấn ? túng nhiên nễ thị pháp sư , nễ tự kỉ đích trước tác , ngã chú đích chú giải , hậu diện dã ưng đương yếu lưu thông , yếu hoan nghênh phiên ấn 。 ngã tự kỉ chú đích , ngã bất chuẩn lưu thông , ngã giá cá 「 bản quyền sở hữu , bất chuẩn phiên ấn 」 , nễ giá tựu thị mãi mại phật pháp , nễ chú đắc tái hảo , nễ hoàn thị tạo a tị địa ngục đích chủng tử 。
Khi tôi đi giảng kinh, cũng có nhiều nơi không hoan nghênh. Vì sao vậy? Vì nghe tôi nói giống như đang quở trách họ, dù rằng tôi chỉ nói lời chân thật. Lẽ ra họ nên thấu hiểu viết, xé bỏ trang bản quyền đi, in vào dòng chữ “hoan nghênh việc tái bản” thì sẽ được công đức vô lượng. Khi thấy việc [giữ bản quyền là] tạo nghiệp như vậy, tôi cố khuyên can thì họ cho rằng tôi sách nhiễu, tôi nhiều chuyện. Họ nói rằng nếu không bán sách thì làm sao có tiền để tái bản? Tiền in kinh sẽ có mọi người đóng góp, không cần phải bán. Chúng sinh có phước báo thì chư Phật và Bồ Tát tự nhiên cảm ứng, cần gì phải làm như thế? Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn đâu có thương lượng điều kiện với ta? Nhưng chúng sinh đều lấy tâm phàm phu mong cầu Bồ Tát Quán Thế Âm giúp đỡ thì phát nguyện với Bồ Tát thế này thế khác, tương lai nhất định sẽ làm, đó là đặt điều kiện: “Bồ Tát Quán Thế Âm, xin phù hộ cho con, con được giàu có rồi sẽ cúng dường Bồ Tát.” Nếu Bồ Tát Quán Thế Âm đã có khả năng giúp quý vị làm giàu thì cần chi phải đợi quý vị cúng dường? Bồ Tát giúp cho quý vị phát tài được một triệu, quý vị cúng dường lại một trăm ngàn, thế thì Bồ Tát Quán Thế Âm lỗ vốn nặng, có lý nào lại như vậy? Đây đều là đem tâm phàm phu để đo lường tâm lượng Bồ Tát, hết sức sai lầm! Chư Phật, Bồ Tát cứu giúp chúng sinh hoàn toàn không có điều kiện.
我講經,有很多地方都不歡迎我的,為什麼?聽到我的,好像我在罵人,我句句說真話!他要覺悟,把那個版權頁撕掉,後頭印個「歡迎翻印」,他功德無量。所以我看到這些人造業,你要勸他,他還說是我囉嗦、是我多事。他說我這個書要不賣,我哪有錢再印?印經的錢來自十方,不必去賣。眾生有福,佛菩薩自然有感應,求這些幹什麼?觀世音菩薩救苦救難,還跟我們談條件?而是我們眾生總是以凡夫心,希望觀世音菩薩幫忙,向觀世音菩薩許個願,將來一定要還願,這就是談條件:「觀世音菩薩你保佑我,我發了財之後我來供養你。」觀世音菩薩有能力幫助你發財,何必要你供養?他幫你發一百萬,你拿十萬塊錢供養他,觀世音菩薩蝕了大本,哪有這種道理?這都完全用凡夫心測度菩薩的心量,大錯大錯!諸佛菩薩對待一切眾生沒有條件的。
ngã giảng kinh , hữu ngận đa địa phương đô bất hoan nghênh ngã đích , vi thập ma ? thính đáo ngã đích , hảo tượng ngã tại mạ nhân , ngã cú cú thuyết chân thoại ! tha yếu giác ngộ , bả na cá bản quyền hiệt tề điệu , hậu đầu ấn cá 「 hoan nghênh phiên ấn 」 , tha công đức vô lượng 。 sở dĩ ngã khán đáo giá ta nhân tạo nghiệp , nễ yếu khuyến tha , tha hoàn thuyết thị ngã la sách 、 thị ngã đa sự 。 tha thuyết ngã giá cá thư yếu bất mại , ngã ná hữu tiền tái ấn ? ấn kinh đích tiền lai tự thập phương , bất tất khứ mại 。 chúng sinh hữu phúc , phật bồ tát tự nhiên hữu cảm ưng , cầu giá ta cán thập ma ? quan thế âm bồ tát cứu khổ cứu nan , hoàn căn ngã môn đàm điều kiện ? nhi thị ngã môn chúng sinh tổng thị dĩ phàm phu tâm , hi vọng quan thế âm bồ tát bang mang , hướng quan thế âm bồ tát hứa cá nguyện , tương lai nhất định yếu hoàn nguyện , giá tựu thị đàm điều kiện : 「 quan thế âm bồ tát nễ bảo hữu ngã , ngã phát liễu tài chi hậu ngã lai cung dưỡng nễ 。 」 quan thế âm bồ tát hữu năng lực bang trợ nễ phát tài , hà tất yếu nễ cung dưỡng ? tha bang nễ phát nhất bá vạn , nễ nã thập vạn khối tiền cung dưỡng tha , quan thế âm bồ tát thực liễu đại bản , ná hữu giá chủng đạo lí ? giá đô hoàn toàn dụng phàm phu tâm trắc độ bồ tát đích tâm lượng , đại thác đại thác ! chư phật bồ tát đối đãi nhất thiết chúng sinh một hữu điều kiện đích 。
Cho nên việc hoằng pháp phải giống như Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Diệu Âm. Các ngài là những khuôn mẫu để noi theo.
所以弘法要如觀音、妙音,他們是榜樣。
sở dĩ hoằng pháp yếu như quan âm 、 diệu âm , tha môn thị bảng dạng 。
[Điều thứ ba] là “hộ pháp nên giống như thần chú hàng phục yêu ma.” Ngay tiếp theo sau phẩm Phổ Môn là phẩm Đà-la-ni (thần chú). Thần chú, như tôi đã có giảng với quý vị rồi, đó là gọi quỷ thần đến để bảo vệ Phật pháp, hàng phục yêu ma. Nhưng năng lực hàng phục yêu ma, giao tiếp với quỷ thần chỉ là một khía cạnh của thần chú, còn một khía cạnh quan trọng hơn là hàng phục yêu ma trong tâm của chính mình. Quý vị nên biết rằng, những yêu ma làm hại quý vị cũng giống như đối với một đất nước, có kẻ thù từ bên ngoài tấn công thì nhất định trong nước cũng có những kẻ phản bội, làm gián điệp, làm tình báo, trong ngoài cấu kết với nhau thì chúng mới dám ra tay. Nếu như người trong nước đoàn kết một lòng, bọn yêu ma bên ngoài dù có mạnh đến đâu cũng không dám xâm phạm quý vị.
「護法當如神咒降魔」,緊接著「普門品」下面是「陀羅尼品」。神咒,剛才跟諸位說過,是招呼鬼神請他們來護法、來降魔。而神咒能夠降魔,與鬼神打交道是一方面,可是更重要的一面,是要降服自己的心魔。諸位要曉得,魔來害你,就好比一個國家,外面有敵人要來攻擊你,你內裡面一定有漢奸、有奸細,有為他做情報人員,內外勾結,他才敢動手;如果你內面能夠團結一致,魔力量再大,他不敢侵犯你。
「 hộ pháp đương như thần chú giáng ma 」 , khẩn tiếp trước 「 phổ môn phẩm 」 hạ diện thị 「 đà la ni phẩm 」 。 thần chú , cương tài căn chư vị thuyết quá , thị kiều hô quỷ thần thỉnh tha môn lai hộ pháp 、 lai giáng ma 。 nhi thần chú năng cú giáng ma , dữ quỷ thần đả giao đạo thị nhất phương diện , khả thị canh trùng yếu đích nhất diện , thị yếu giáng phục tự kỉ đích tâm ma 。 chư vị yếu hiểu đắc , ma lai hại nễ , tựu hảo tỉ nhất cá quốc gia , ngoại diện hữu địch nhân yếu lai công kích nễ , nễ nội lí diện nhất định hữu hán gian 、 hữu gian tế , hữu vi tha tố tình báo nhân viên , nội ngoại câu kết , tha tài cảm động thủ ; như quả nễ nội diện năng cú đoàn kết nhất trí , ma lực lượng tái đại , tha bất cảm xâm phạm nễ 。
Yêu ma bên ngoài là những gì? Quý vị hãy xem trong kinh Bát đại nhân giác, có giảng về bốn loại ma, trong đó chỉ có một loại ma bên ngoài là thiên ma, còn lại đều là bọn nội ứng trong tâm thật đáng sợ. Ma nội ứng có ba loại lớn, đó là ma năm ấm, ma phiền não và ma sinh tử. Một khi bọn ma bên trong với bên ngoài cấu kết nhau, thế lực của chúng sẽ mạnh mẽ hơn, quý vị sẽ gặp vô số tai họa khôn lường. Không có ma trong tâm, thiên ma ngoại đạo bên ngoài không thể làm gì được quý vị. Khi trong tâm quý vị không có ma, bọn ma bên ngoài sẽ rất kinh sợ, sẽ thấy quý vị thật là bậc chính nhân quân tử, chẳng những không dám xem thường quý vị mà ngược lại còn kính phục, sẽ phát tâm theo bảo vệ quý vị. Nếu như quý vị thay đổi tâm ý, trở thành giống như ma, bọn ma sẽ khinh thường quý vị. Bản chất của bọn yêu ma là như vậy. Cho nên, khi việc làm của quý vị là chân chánh, quý vị không cần quan tâm đến yêu ma, tự nhiên bọn chúng sẽ kính trọng, sẽ đi theo bảo vệ quý vị. Còn như quý vị ngày ngày theo cầu khẩn, cúng bái bọn ma, chúng sẽ nhìn quý vị như người đáng thương hại, có thể xem thường, ức hiếp quý vị. Nói cách khác, trước sau quý vị đều luôn bị bọn ma khống chế, không cách gì thoát khỏi được.
外面的魔是什麼?你看《八大人覺經》裡面講四種魔,外頭魔只有一種,天魔,那是外面的。其餘的內應可了不得,內應有三大類,有五陰魔、有煩惱魔、有生死魔。內外一勾結,魔的勢力才大,你才有無量無邊的災難。內裡面沒有魔,外面天魔外道對你無能為力。到那個時候,你內裡沒有魔,外面魔很奇怪,外魔一看到你是個正人君子,他不但不欺侮你,反而佩服你,他發心來保護你。如果你一變心,跟他一樣,他就欺侮你,魔的性情就是如此。所以,我們行得正,你不要理會他,他自然對你恭敬,他來保護你。你天天要求他、拜他,要去拜託他,他看到你這個人很可憐,我可以欺侮你;換句話說,你始終就被他控制了,沒有辦法離開他。
ngoại diện đích ma thị thập ma ? nễ khán 《 bát đại nhân giác kinh 》 lí diện giảng tứ chủng ma , ngoại đầu ma chỉ hữu nhất chủng , thiên ma , na thị ngoại diện đích 。 kì dư đích nội ưng khả liễu bất đắc , nội ưng hữu tam đại loại , hữu ngũ âm ma 、 hữu phiền não ma 、 hữu sinh tử ma 。 nội ngoại nhất câu kết , ma đích thế lực tài đại , nễ tài hữu vô lượng vô biên đích tai nan 。 nội lí diện một hữu ma , ngoại diện thiên ma ngoại đạo đối nễ vô năng vi lực 。 đáo na cá thời hậu , nễ nội lí một hữu ma , ngoại diện ma ngận kì quái , ngoại ma nhất khán đáo nễ thị cá chính nhân quân tử , tha bất đãn bất khi vũ nễ , phản nhi bội phục nễ , tha phát tâm lai bảo hộ nễ 。 như quả nễ nhất biến tâm , căn tha nhất dạng , tha tựu khi vũ nễ , ma đích tính tình tựu thị như thử 。 sở dĩ , ngã môn hành đắc chính , nễ bất yếu lí hội tha , tha tự nhiên đối nễ cung kính , tha lai bảo hộ nễ 。 nễ thiên thiên yếu cầu tha 、 bái tha , yếu khứ bái thác tha , tha khán đáo nễ giá cá nhân ngận khả lân , ngã khả dĩ khi vũ nễ ; hoán cú thoại thuyết , nễ thuỷ chung tựu bí tha khống chế liễu , một hữu biện pháp li khai tha 。
Cho nên Phật dạy: “Có thể làm việc của thế gian nhưng không được theo ý của thế gian.” Hai câu này nằm trong kinh “A-nan vấn sự Phật cát hung”, quý vị đều đã đọc qua, hết sức quan trọng. Thế nào là ý của thế gian? Đó là cùng với ma quỷ giao tiếp, chẳng hạn như đoán vận mệnh, xem tướng, xem phong thủy, giao tiếp với những quỷ thần như vậy, cầu khẩn quỷ thần ban phúc cho, phù hộ cho. Đó chính là trói buộc quan hệ với ma quỷ, cũng giống như người ta tạo ra mối quan hệ móc ngoặc với bọn đầu đảng trong xã hội đen. Quan hệ móc ngoặc ấy cũng có được chút lợi thế, bọn chúng có thế lực để nâng đỡ quý vị, nhưng quý vị phải chịu sự khống chế của chúng trọn đời, chỗ được không bằng chỗ mất.
所以佛教給我們,「可得為世間事,不可得為世間意」,這兩句話在《阿難問事佛吉凶經》裡頭,諸位都念過,非常重要。世間意是什麼?就是跟鬼神打交道,像算命、看相、看風水,跟這些鬼神打交道,求這些鬼神能夠降福,求他保佑,跟他打交道。那就是跟魔套關係,猶如我們人的社會上跟黑社會的頭目拉關係。拉關係有一點好處,他有勢力能幫你忙,但是你一生得受他控制,得不償失。
sở dĩ phật giáo cấp ngã môn , 「 khả đắc vi thế gian sự , bất khả đắc vi thế gian ý 」 , giá lưỡng cú thoại tại 《 a nan vấn sự phật cát hung kinh 》 lí đầu , chư vị đô niệm quá , phi thường trùng yếu 。 thế gian ý thị thập ma ? tựu thị căn quỷ thần đả giao đạo , tượng toán mệnh 、 khán tướng 、 khán phong thuỷ , căn giá ta quỷ thần đả giao đạo , cầu giá ta quỷ thần năng cú giáng phúc , cầu tha bảo hữu , căn tha đả giao đạo 。 na tựu thị căn ma sáo quan hệ , do như ngã môn nhân đích xã hội thượng căn hắc xã hội đích đầu mục lạp quan hệ 。 lạp quan hệ hữu nhất điểm hảo xứ , tha hữu thế lực năng bang nễ mang , đãn thị nễ nhất sinh đắc thụ tha khống chế , đắc bất thường thất 。
Việc của thế gian thì chúng ta có thể làm tất cả. Việc gì thấy thích đều có thể làm, tự mình cảm thấy làm điều gì thoải mái thì cứ làm, việc gì phải hỏi quỷ thần, phải cầu ma quỷ? Không cần như vậy. Khi quý vị phát tâm Bồ-đề, thực hành Bồ Tát đạo, quỷ thần gặp quý vị sẽ phải quỳ mọp sát đất, đảnh lễ cung kính. Quý vị là bậc thánh, là đệ tử của đức Phật, họ sao có thể không tôn trọng quý vị? Ngược lại nếu quý vị cung kính sợ sệt họ, họ sẽ khinh thường quý vị. Cho dù quý vị là đệ tử Phật nhưng họ biết đó chỉ là hư danh, là quý vị mạo nhận chứ không chân chánh là đệ tử Phật, nên quỷ thần càng khinh thường quý vị. Quý vị cần phải hiểu rõ ý nghĩa đó.
世間事,樣樣事我們都能做,喜歡怎麼做就怎麼做,自己做怎麼舒服就怎麼做,何必要去問神,要去求這些魔鬼?用不著。你發菩提心,你修菩薩道,那些鬼神見到你,對你就五體投地,頂禮膜拜。你是聖人,你是佛的弟子,他怎麼不尊重你?你再去尊重他,他瞧不起你。雖然你是佛門弟子,他曉得你是掛名的、你是冒充的,你不是真的,他更欺侮你。這些道理要懂。
thế gian sự , dạng dạng sự ngã môn đô năng tố , hỉ hoan chẩm ma tố tựu chẩm ma tố , tự kỉ tố chẩm ma thư phục tựu chẩm ma tố , hà tất yếu khứ vấn thần , yếu khứ cầu giá ta ma quỷ ? dụng bất trước 。 nễ phát bồ đề tâm , nễ tu bồ tát đạo , na ta quỷ thần kiến đáo nễ , đối nễ tựu ngũ thể đầu địa , đỉnh lễ mô bái 。 nễ thị thánh nhân , nễ thị phật đích đệ tử , tha chẩm ma bất tôn trùng nễ ? nễ tái khứ tôn trùng tha , tha tiều bất khởi nễ 。 tuy nhiên nễ thị phật môn đệ tử , tha hiểu đắc nễ thị quải danh đích 、 nễ thị mạo sung đích , nễ bất thị chân đích , tha canh khi vũ nễ 。 giá ta đạo lí yếu đổng 。
Cho nên, muốn dùng thần chú để hàng phục yêu ma thì trước hết phải hàng phục ma phiền não trong tâm của chính mình, khi ấy quỷ thần bên ngoài tự nhiên không dám xâm phạm. Đây chính là hộ pháp. Trước đây trên giảng đường tôi vẫn thường giảng rằng, người hộ pháp thì trước hết là hộ pháp của chính mình. Muốn hộ pháp của chính mình thì trước hết phải gìn giữ tâm Bồ-đề của mình, không được quên mất tâm Bồ-đề của mình, giữ gìn tâm thanh tịnh của chính mình. Phải bắt đầu từ chỗ đó mà khởi làm.
所以降魔,用神咒降魔,先降自己的煩惱魔,外面鬼神自然不敢侵犯。這是護法,我們過去在講席當中常常提到,護法先要護自己的法,護自己的法先要護自己的菩提心,不能忘失菩提心,護自己的清淨心,從這裡做起。
sở dĩ giáng ma , dụng thần chú giáng ma , tiên giáng tự kỉ đích phiền não ma , ngoại diện quỷ thần tự nhiên bất cảm xâm phạm 。 giá thị hộ pháp , ngã môn quá khứ tại giảng tịch đương trung thường thường đề đáo , hộ pháp tiên yếu hộ tự kỉ đích pháp , hộ tự kỉ đích pháp tiên yếu hộ tự kỉ đích bồ đề tâm , bất năng vô thất bồ đề tâm , hộ tự kỉ đích thanh tịnh tâm , tùng giá lí tố khởi 。
Nói về thần chú thì niệm một câu “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” là thần chú, niệm một câu “Nam-mô A-di-đà Phật” cũng là thần chú, không cần phải dùng đến thần chú nào khác. Niệm càng nhiều chỉ càng khiến cho quý vị loạn tâm mà thôi. Thần chú này linh nghiệm, thần chú kia không linh nghiệm, khởi tâm phân biệt như vậy rồi thì không thần chú nào linh nghiệm cả. Vì sao vậy? Vì tâm quý vị không thanh tịnh. Nói “bảo vệ” tức là bảo vệ tâm thanh tịnh của chính mình. Loại thần chú nào làm cho tâm thanh tịnh thì thần chú đó sẽ linh nghiệm. Dùng đến hai loại, ba loại... tâm thanh tịnh liền rối loạn thì những thần chú ấy không linh nghiệm nữa, chẳng có câu nào linh nghiệm cả.
神咒,一句「南無觀世音菩薩」就是神咒,一句「南無阿彌陀佛」就是神咒,不要再去搞其他的咒子,搞得太多你心都亂了。這個咒子靈,那個咒子不靈,起了分別執著是一個都不靈。為什麼?你心不清淨,護就護清淨心,一個咒能得清淨心,這個咒就靈;兩個、三個,清淨心搞亂了,那咒都不靈了,沒有一個靈。
thần chú , nhất cú 「 nam vô quan thế âm bồ tát 」 tựu thị thần chú , nhất cú 「 nam vô a di đà phật 」 tựu thị thần chú , bất yếu tái khứ cảo kì tha đích chú tử , cảo đắc thái đa nễ tâm đô loạn liễu 。 giá cá chú tử linh , na cá chú tử bất linh , khởi liễu phân biệt chấp trước thị nhất cá đô bất linh 。 vi thập ma ? nễ tâm bất thanh tịnh , hộ tựu hộ thanh tịnh tâm , nhất cá chú năng đắc thanh tịnh tâm , giá cá chú tựu linh ; lưỡng cá 、 tam cá , thanh tịnh tâm cảo loạn liễu , na chú đô bất linh liễu , một hữu nhất cá linh 。
Cho nên quý vị phải biết rằng, một câu thì linh nghiệm, hai câu không còn linh nghiệm. Dù học thần chú nào, càng đơn giản càng tốt, mới có sự linh nghiệm. Càng nhiều càng phân tâm, trong số nhiều làm sao khỏi khởi tâm phân biệt bám chấp, hủy hoại tâm thanh tịnh của chính mình, cho nên thần chú sẽ không còn tác dụng.
所以諸位要曉得,一就靈,二就不靈,學東西愈簡單愈好,才有靈驗。多了分心,多了在裡面起許多無謂的分別執著,破壞了自己的清淨心,這個咒都失去效力。
sở dĩ chư vị yếu hiểu đắc , nhất tựu linh , nhị tựu bất linh , học đông tây dũ giản đạn dũ hảo , tài hữu linh nghiệm 。 đa liễu phân tâm , đa liễu tại lí diện khởi hứa đa vô vị đích phân biệt chấp trước , phá hoại liễu tự kỉ đích thanh tịnh tâm , giá cá chú đô thất khứ hiệu lực 。
[Điều thứ tư] là “tu hành nên như Nghiêm Vương chuyển hóa tà ác”, đó là nói phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương [ngay sau phẩm Đà-la-ni], đều có đủ trong bộ sách của chúng ta. Như tôi đã nói, năm điều đề cập ở đây đều có trong quyển hạ, trong một quyển sách này. Vị Bồ Tát [Diệu Trang Nghiêm Vương] này là mẫu mực tu hành. Trong việc tu hành điểm nào trọng yếu nhất? Chính là chuyển hóa tà kiến thành chánh kiến, chuyển hạnh xấu ác thành hiền thiện. Nói cách khác, Diệu Trang Nghiêm Vương tức là dũng mãnh sửa đổi sai lầm, tự hoàn thiện mình. Chuyển hóa tà ác, nói theo cách ngày nay là sửa lỗi làm mới, hoàn thiện chính mình. Biết mình có lỗi thì lập tức sửa ngay, chúng ta tu hành cũng phải noi theo giống như ngài. Chúng tu hành sở dĩ không thể thành tựu đều là vì tuy biết rõ mình có rất nhiều thói hư tật xấu nhưng lại không thể sửa chữa. Ví dụ như thói xấu lớn nhất là tâm tham lam, đối với danh lợi, năm thứ dục lạc trong sáu trần cảnh đều không buông bỏ được. Dù biết rõ ràng là cần phải buông bỏ, nhưng lại không buông bỏ được, không sửa lỗi được.
「修行當如嚴王轉邪」,就是「妙莊嚴王品」,也都在我們這一冊,我講這五種統統在下冊,都在這一冊。他是修行的模範,修行要緊的在哪裡?轉邪見為正見,轉邪行為清淨行;換句話說,妙莊嚴王是勇於改過自新。轉邪,拿現在話講就是改過自新。知道自己有過失,他馬上就能改正過來,我們修行要像他。我們修行所以不能成就,就是曉得自己有很多毛病,改不過來。譬如頭一個大的毛病,貪心,名聞利養、五欲六塵放不下,明明知道應當要放下,就放不下,不能改過。
「 tu hành đương như nghiêm vương chuyển tà 」 , tựu thị 「 diệu trang nghiêm vương phẩm 」 , dã đô tại ngã môn giá nhất sách , ngã giảng giá ngũ chủng thống thống tại hạ sách , đô tại giá nhất sách 。 tha thị tu hành đích mô phạm , tu hành yếu khẩn đích tại ná lí ? chuyển tà kiến vi chính kiến , chuyển tà hành vi thanh tịnh hành ; hoán cú thoại thuyết , diệu trang nghiêm vương thị dũng ư cải quá tự tân 。 chuyển tà , nã hiện tại thoại giảng tựu thị cải quá tự tân 。 tri đạo tự kỉ hữu quá thất , tha mã thượng tựu năng cải chính quá lai , ngã môn tu hành yếu tượng tha 。 ngã môn tu hành sở dĩ bất năng thành tựu , tựu thị hiểu đắc tự kỉ hữu ngận đa mao bệnh , cải bất quá lai 。 thí như đầu nhất cá đại đích mao bệnh , tham tâm , danh văn lợi dưỡng 、 ngũ dục lục trần phóng bất hạ , minh minh tri đạo ưng đương yếu phóng hạ , tựu phóng bất hạ , bất năng cải quá 。
Còn thói xấu nào khác nữa không? Như là buông thả, lười nhác, chúng ta đều biết rằng nên chuyên cần tinh tấn, nhưng rồi ngày ngày cứ thích buông xuôi lười nhác. Như vậy thì không thể thành tựu. Nhất định phải tự biết lỗi lầm của mình, phải tìm phương cách sửa đổi. Nếu không sửa được thì nhất định suốt đời không thể thành tựu.
還有一個什麼?懈怠、懶惰,明明知道我們要勤奮,可是偏偏就喜歡懶惰。這個就不能成就。自己的毛病自己一定要曉得,要想辦法去改,如果要不改,一生決定不能成就。
hoàn hữu nhất cá thập ma ? giải đãi 、 lại noạ , minh minh tri đạo ngã môn yếu cần phấn , khả thị thiên thiên tựu hỉ hoan lại noạ 。 giá cá tựu bất năng thành tựu 。 tự kỉ đích mao bệnh tự kỉ nhất định yếu hiểu đắc , yếu tưởng biện pháp khứ cải , như quả yếu bất cải , nhất sinh quyết định bất năng thành tựu 。
Thói hư tật xấu nào của chúng ta là nghiêm trọng nhất thì trước hết phải bắt đầu từ đó. Bởi vì thói xấu nghiêm trọng nhất mà có thể sửa được thì những việc khác nhỏ nhặt hơn sẽ có thể sửa đổi dễ dàng.
我們哪個毛病最重,先要從最重的下手,因為最重的能夠改了,其餘那個輕的小毛病很容易改。
ngã môn ná cá mao bệnh tối trùng , tiên yếu tùng tối trùng đích hạ thủ , nhân vi tối trùng đích năng cú cải liễu , kì dư na cá khinh đích tiểu mao bệnh ngận dong dị cải 。
Trong quá khứ, khi tôi mới bắt đầu học Phật, tôi tự biết tật xấu lớn nhất của tôi là buông thả, lười nhác. Tự mình biết rõ, nhưng không dễ sửa đổi. Dù có người khác khuyên bảo, có noi theo người khác nhưng vẫn không hiệu quả. Cuối cùng tôi phải dùng cách nào? Tôi dùng việc giảng kinh để sửa đổi được thói xấu này. Khi tôi mới bắt đầu học giảng kinh, để giảng trong một giờ phải chuẩn bị trước khoảng 20 giờ. Mỗi tuần chỉ giảng một lần thì tôi phải dành ít nhất hơn 20 giờ cho việc chuẩn bị. Nếu không có sự chuẩn bị đầy đủ thì lên bục giảng rồi không thể đi xuống.
我過去初學佛的時候,我自己曉得,我的毛病就是懈怠、懶惰。自己知道,很不容易改,別人勸我,跟著人家還是不行。最後用什麼方法?講經,把這個毛病改過來了。我講經,剛剛開始學講經,講一個鐘點要準備二十個鐘點,一個星期講一次,我至少要用二十多個鐘點的時間來預備,沒有充分的預備,到講台上下不了台。
ngã quá khứ sơ học phật đích thời hậu , ngã tự kỉ hiểu đắc , ngã đích mao bệnh tựu thị giải đãi 、 lại noạ 。 tự kỉ tri đạo , ngận bất dong dị cải , biệt nhân khuyến ngã , căn trước nhân gia hoàn thị bất hành 。 tối hậu dụng thập ma phương pháp ? giảng kinh , bả giá cá mao bệnh cải quá lai liễu 。 ngã giảng kinh , cương cương khai thuỷ học giảng kinh , giảng nhất cá chung điểm yếu chuẩn bị nhị thập cá chung điểm , nhất cá tinh kì giảng nhất thứ , ngã chí thiểu yếu dụng nhị thập đa cá chung điểm đích thời gian lai dự bị , một hữu sung phân đích dự bị , đáo giảng đài thượng hạ bất liễu đài 。
Cho nên, khi có một vị thầy đốc thúc, tôi vẫn cứ lười nhác, nhưng một khi lên bục giảng thì bao nhiêu là bậc thầy, có đến mấy trăm cặp mắt cùng chú ý nhìn vào, tôi không cách gì có thể lười nhác được nữa. Quả là biện pháp hay! Cho nên có người nói, sao thầy thích giảng kinh thế? Tôi nào có thích đâu? Chỉ là để sửa đổi tật xấu thôi. Tôi nói, tôi lên bục giảng mà làm học sinh thôi. Bên dưới bục giảng đều là các bậc thầy, đều là các vị giám học, người nào cũng đến để đốc thúc tôi, ngày nào cũng ngồi đó lắng nghe xem tôi có tiến bộ không. Tôi có giảng kinh đâu? Đó là tôi lên bục giảng để báo cáo, báo cáo với các bậc thầy. Tôi dùng phương pháp này để đối trị tật xấu của mình. Cho nên quý vị phải tự mình suy nghĩ tìm cách đối trị. Nếu quý vị không nghiêm túc suy nghĩ tìm phương cách tốt để đối trị, cứ tiếp tục lười nhác như vậy, thì tương lai về sau sẽ không có việc gì thành tựu cả.
所以說一個老師督促我,我還是懈怠,到講台上,這麼多老師,幾百個人眼晴都盯著你,沒有辦法懈怠了。好辦法!所以有些人說,你怎麼那麼喜歡講經?我哪有喜歡?對治毛病!我說我在講台上做學生,講台下面都是我的老師、都是我的監學,一個個人都在督促我,天天在這裡聽,看看我有沒有進步。我哪裡在講經?我是在這裡提出報告,向老師報告。我用這個方法對治我這個毛病。所以你自己要想方法來對治,你要是不認真想個好方法來對治的話,這樣懈怠下去,將來以後一事無成。
sở dĩ thuyết nhất cá lão sư đốc xúc ngã , ngã hoàn thị giải đãi , đáo giảng đài thượng , giá ma đa lão sư , kỉ bá cá nhân nhãn tình đô đinh trước nễ , một hữu biện pháp giải đãi liễu 。 hảo biện pháp ! sở dĩ hữu ta nhân thuyết , nễ chẩm ma na ma hỉ hoan giảng kinh ? ngã ná hữu hỉ hoan ? đối trị mao bệnh ! ngã thuyết ngã tại giảng đài thượng tố học sinh , giảng đài hạ diện đô thị ngã đích lão sư 、 đô thị ngã đích giam học , nhất cá cá nhân đô tại đốc xúc ngã , thiên thiên tại giá lí thính , khán khán ngã hữu một hữu tấn bộ 。 ngã ná lí tại giảng kinh ? ngã thị tại giá lí đề xuất báo cáo , hướng lão sư báo cáo 。 ngã dụng giá cá phương pháp đối trị ngã giá cá mao bệnh 。 sở dĩ nễ tự kỉ yếu tưởng phương pháp lai đối trị , nễ yếu thị bất nhận chân tưởng cá hảo phương pháp lai đối trị đích thoại , giá dạng giải đãi hạ khứ , tương lai dĩ hậu nhất sự vô thành 。
Vấn đề của mỗi người đều khác nhau, không thể có một phương pháp để áp dụng cho tất cả mọi người, điều đó là không thể. Hơn nữa, vấn đề phát sinh trong mỗi thời kỳ cũng khác nhau, vài năm nay quý vị có tật xấu này, vài ba năm trước lại có tật xấu khác, không giống nhau và cũng sẽ thay đổi. Nên phương pháp đối trị cũng phải thường xuyên thay đổi. Giống như bệnh tật vậy, năm trước có bệnh một lần, năm nay lại có bệnh, nhưng bệnh không giống nhau, nếu chỉ dùng cùng một loại thuốc thì có thể hại chết người. Toa thuốc phải tùy lúc mà điều chỉnh, loại thuốc phải thường xuyên thay đổi, như vậy mới có thể chữa khỏi bệnh.
每個人的毛病不一樣,不是一個方法能夠治一切人,不可能的。而且每個時期的毛病又不一樣,這幾年有這個毛病,前幾年有那個毛病,不一樣的,會變的。方法也得常常變,就好像害病一樣,去年害一場病,今年又有病,病不一樣,一個方子,吃一個藥,那會害死人的。藥方要隨時去調整,藥物也常常要換,這樣才能把病治好。
mỗi cá nhân đích mao bệnh bất nhất dạng , bất thị nhất cá phương pháp năng cú trị nhất thiết nhân , bất khả năng đích 。 nhi thả mỗi cá thời kì đích mao bệnh hựu bất nhất dạng , giá kỉ niên hữu giá cá mao bệnh , tiền kỉ niên hữu na cá mao bệnh , bất nhất dạng đích , hội biến đích 。 phương pháp dã đắc thường thường biến , tựu hảo tượng hại bệnh nhất dạng , khứ niên hại nhất trường bệnh , kim niên hựu hữu bệnh , bệnh bất nhất dạng , nhất cá phương tử , cật nhất cá dược , na hội hại tử nhân đích 。 dược phương yếu tùy thời khứ điều chỉnh , dược vật dã thường thường yếu hoán , giá dạng tài năng bả bệnh trị hảo 。
Tu hành chính là trị bệnh, hành vi của chúng ta có phát sinh tật xấu gì thì phải sửa đổi, phải làm cho trở nên đúng đắn. Cho nên nguyên tắc chung là sửa đổi sai lầm, hoàn thiện chính mình. Ví như nói, tất cả chúng ta đều biết rằng tu hành phải bắt đầu từ việc nghiêm giữ giới luật, từ đó mà điều chỉnh hành vi, ý nghĩ của thân tâm. Thế nhưng quý vị hãy xem các bản ghi lỗi, từ mấy năm nay chúng ta đã in ra bao nhiêu vạn bản, tính chung phải đến mấy chục vạn bản rồi, liệu có bao nhiêu người làm theo được? Có người nhận được bản ghi lỗi ấy rồi, rất quyết tâm làm, làm được hai ngày, ba ngày rồi thôi, sau đó lại buông thả, không làm nữa.
修行就是治病,我們的行為發生了毛病,要把它修正過來,所以說總綱領就是改過自新。譬如說大家都曉得修行一定從戒律下手,來修正我們身心行為。可是功過格,你看這些年印了多少多少萬本,總有幾十萬本了,幾個人照這個去做?有人拿到,很發心去做,做個兩天、三天,完了,就懈怠了,不再做下去。
tu hành tựu thị trị bệnh , ngã môn đích hành vi phát sinh liễu mao bệnh , yếu bả tha tu chính quá lai , sở dĩ thuyết tổng cương lĩnh tựu thị cải quá tự tân 。 thí như thuyết đại gia đô hiểu đắc tu hành nhất định tùng giới luật hạ thủ , lai tu chính ngã môn thân tâm hành vi 。 khả thị công quá cách , nễ khán giá ta niên ấn liễu đa thiểu đa thiểu vạn bản , tổng hữu kỉ thập vạn bản liễu , kỉ cá nhân chiếu giá cá khứ tố ? hữu nhân nã đáo , ngận phát tâm khứ tố , tố cá lưỡng thiên 、 tam thiên , hoàn liễu , tựu giải đãi liễu , bất tái tố hạ khứ 。
Sách Tự tri lục của Đại sư Liên Trì là một “bản ghi lỗi” của người xuất gia. Đại sư Liên Trì ở cương vị một bậc Tổ sư nhưng suốt một đời vẫn thực hành y theo đó. Chúng ta ngày nay thực sự xấu hổ khi mở sách này ra xem và rất muốn làm theo như vậy, chúng ta làm theo được một ngày, đến ngày thứ hai đã quên mất, từ ngày thứ ba trở đi thì quên hẳn luôn chẳng nhớ gì đến nữa. Ngài có thể trở thành một bậc Tổ sư, chúng ta làm sao có thể trở thành Tổ sư? Chỉ một điểm này đã không được như ngài, còn nói gì đến những điều khác? Ghi chép việc mỗi ngày, ghi được ba ngày, đến hôm nay bận quá nên thôi, hôm nay không cần ghi. Ngày mai, lại quên thêm một ngày nữa, thôi cứ quên đi, không cần ghi nữa. Không có tâm kiên trì, không theo đuổi dài lâu thì làm sao làm được? Làm sao có thể thành tựu? Cho nên nói: “Kiên trì là nền tảng của thành công.” Không có tâm kiên trì là một căn bệnh nghiêm trọng, cần phải sửa đổi. Chúng ta phải có sự kiên trì, phải nhẫn nại, phải theo đuổi lâu dài. Đó là điều chúng ta phải học theo Bồ Tát Diệu Trang Nghiêm Vương trong sự tu tập.
蓮池大師《自知錄》那是出家人的功過格,蓮池大師祖師位上,他一生就照那個修行。我們今天打開來真正慚愧,也很想做,做了一天,第二天就忘掉了,第三天就丟到腦後去了。他能成祖師,我們怎麼能成為祖師?就這一點就不如他,其餘的還談什麼?記個日記,記個三天,今天忙,算了,今天不要記了。到了明天,又忘了一天,乾脆算了,別記了。沒有恆心,沒有長遠心,那怎麼行?怎麼能成就?所謂是「有恆為成功之本」,無恆是大病,要改過來,要有恆,要有耐心,要有長遠心,這是我們應當要學妙莊嚴王修行。
liên trì đại sư 《 tự tri lục 》 na thị xuất gia nhân đích công quá cách , liên trì đại sư tổ sư vị thượng , tha nhất sinh tựu chiếu na cá tu hành 。 ngã môn kim thiên đả khai lai chân chính tàm quý , dã ngận tưởng tố , tố liễu nhất thiên , đệ nhị thiên tựu vô điệu liễu , đệ tam thiên tựu đâu đáo não hậu khứ liễu 。 tha năng thành tổ sư , ngã môn chẩm ma năng thành vi tổ sư ? tựu giá nhất điểm tựu bất như tha , kì dư đích hoàn đàm thập ma ? kí cá nhật kí , kí cá tam thiên , kim thiên mang , toán liễu , kim thiên bất yếu kí liễu 。 đáo liễu minh thiên , hựu vô liễu nhất thiên , kiền thuý toán liễu , biệt kí liễu 。 một hữu cắng tâm , một hữu trường viễn tâm , na chẩm ma hành ? chẩm ma năng thành tựu ? sở vị thị 「 hữu cắng vi thành công chi bản 」 , vô cắng thị đại bệnh , yếu cải quá lai , yếu hữu cắng , yếu hữu nại tâm , yếu hữu trường viễn tâm , giá thị ngã môn ưng đương yếu học diệu trang nghiêm vương tu hành 。
[Điều thứ năm] là “khuyên phát tâm phải giống như yêu cầu của ngài Phổ Hiền”. Khuyên phát tâm nghĩa là khuyên hết thảy chúng sinh phát tâm. Việc này phải học theo ngài Phổ Hiền.
「勸發必如普賢要祈」,勸發就是勸一切眾生發心,要學普賢。
「 khuyến phát tất như phổ hiền yếu kì 」 , khuyến phát tựu thị khuyến nhất thiết chúng sinh phát tâm , yếu học phổ hiền 。
Ngài Phổ Hiền khuyên chúng ta những gì? Trong kinh văn có bốn điều, thứ nhất là “chư Phật hộ niệm”. Quý vị không phát tâm thì thôi, nếu đã phát tâm chắc chắn được chư Phật hộ niệm. Quý vị không nên sợ sệt, không nên nghi hoặc. Nói chung đa số người tu hành học Phật, hoặc là có lòng nghi, hoặc là có tâm sợ sệt, nên không có cách nào tinh tấn được.
普賢勸我們什麼?經文上有四條,第一個「諸佛謢念」,你不發心則已,你發心必定得諸佛護念,你不要害怕,不要有疑惑。大凡學佛修行人,就是一個是疑,一個是怕,所以他沒有辦法精進。
phổ hiền khuyến ngã môn thập ma ? kinh văn thượng hữu tứ điều , đệ nhất cá 「 chư phật 謢 niệm 」 , nễ bất phát tâm tắc dĩ , nễ phát tâm tất định đắc chư phật hộ niệm , nễ bất yếu hại phạ , bất yếu hữu nghi hoặc 。 đại phàm học phật tu hành nhân , tựu thị nhất cá thị nghi , nhất cá thị phạ , sở dĩ tha một hữu biện pháp tinh tấn 。
[Họ thường] nghi điều gì? Nghi lời Phật dạy không biết có thật đáng tin chăng? [Phật dạy] tôi không đừng mong cầu bất cứ điều gì, buông bỏ tất cả, ngày mai tôi không có cơm ăn thì biết làm sao? Ngày mai biết có ai đến cúng dường tôi không? Có ai cho tôi món gì để ăn không? Quý vị còn hoài nghi như vậy cho nên không tin Phật. Không tin Phật thì phải làm sao? Thì phải quay sang cầu người giúp đỡ.
疑怎麼?佛講的話真可靠嗎?我什麼都不求,什麼都放下,明天我沒飯吃怎麼辦?明天誰來供養我?誰送東西給我吃?你就懷疑了,對佛不相信。不相信怎麼辦?還得求人!
nghi chẩm ma ? phật giảng đích thoại chân khả kháo mạ ? ngã thập ma đô bất cầu , thập ma đô phóng hạ , minh thiên ngã một phạn cật chẩm ma biện ? minh thiên thùy lai cung dưỡng ngã ? thùy tống đông tây cấp ngã cật ? nễ tựu hoài nghi liễu , đối phật bất tướng tín 。 bất tướng tín chẩm ma biện ? hoàn đắc cầu nhân !
Điều thứ hai là tâm sợ sệt. Vì có nghi ngờ nên tâm sợ sệt, cho nên [nghĩ rằng] phải dành dụm một ít tiền, phải xây dựng được một ngôi chùa nho nhỏ, phải chuẩn bị cho tuổi già sau này. Cứ làm như thời gian ở thế giới Ta-bà này hãy còn lâu lắm, không nghĩ đến chuyện rời đi. Đã niệm một câu A-di-đà Phật cầu được vãng sanh thế giới Cực Lạc càng sớm càng tốt, nhưng bên cạnh đó lại còn lo toan chuẩn bị rất, rất nhiều việc, chuẩn bị như vậy cho mấy chục năm, mấy trăm năm, mấy ngàn năm sắp tới. Quý vị thấy đó, như vậy là nói một đường làm một nẻo, trong tâm mong cầu so với hành vi bên ngoài hoàn toàn khác biệt, làm sao có thể thành tựu?
第二個就是恐懼,因為有疑就有恐懼,所以必須還要存一點錢,還要搞個小道場,還準備自己還得養老。好像在這個娑婆世界日子還很長,還不想走。念這一句「阿彌陀佛」又希望趕快往生極樂世界,這一邊還準備很多很多事情,還準備再過個幾十年、幾百年、幾千年的樣子,你看心口相違。心裡想的跟你自己所行的完全是兩樁事情,不一樣,這怎麼會有成就?
đệ nhị cá tựu thị khủng cụ , nhân vi hữu nghi tựu hữu khủng cụ , sở dĩ tất tu hoàn yếu tồn nhất điểm tiền , hoàn yếu cảo cá tiểu đạo trường , hoàn chuẩn bị tự kỉ hoàn đắc dưỡng lão 。 hảo tượng tại giá cá sa bà thế giới nhật tử hoàn ngận trường , hoàn bất tưởng tẩu 。 niệm giá nhất cú 「 a di đà phật 」 hựu hi vọng cản khoái vãng sinh cực lạc/nhạc/nhạo thế giới , giá nhất biên hoàn chuẩn bị ngận đa ngận đa sự tình , hoàn chuẩn bị tái quá cá kỉ thập niên 、 kỉ bá niên 、 kỉ thiên niên đích dạng tử , nễ khán tâm khẩu tướng vi 。 tâm lí tưởng đích căn nễ tự kỉ sở hành đích hoàn toàn thị lưỡng thung sự tình , bất nhất dạng , giá chẩm ma hội hữu thành tựu ?
Thuở xưa, người xuất gia chỉ có ba tấm y, một bình bát, mỗi ngày ôm bát đi khất thực, cũng có khi khất thực không được gì. Dù khất thực không được gì để ăn cũng không oán trời trách người, lúc đó chỉ quay về niệm Phật suốt ngày hôm đó, hôm sau lại đi khất thực, không cầu cạnh ai. Quý vị không cầu ai thì tự nhiên được Phật hộ trì, sẽ có hộ pháp đến gia hộ. Vì sao vậy? Vì hộ pháp có trách nhiệm phải hộ trì những người tu hành. Nếu người tu hành thiếu thốn thức ăn, hộ pháp phải nghĩ cách đưa đến cho họ. Nếu như quý vị cầu cạnh người giúp đỡ, hộ pháp sẽ nghĩ rằng: “Vui thay, ta rảnh việc rồi. Ông ấy đã có cách, không cần đến ta gia hộ.” Và hộ pháp sẽ bỏ đi. [Khi ấy] Phật không có, Bồ Tát không có, hộ pháp cũng không còn nữa, người đến giao tiếp với quý vị sẽ là những ai? Đều là bọn yêu ma quỷ quái, đều là những tà thần, quý vị giao tiếp với bọn họ rồi sẽ gặp toàn những rắc rối lớn.
出家人在從前是三衣一缽,每天到外面托缽,有的時候也托不到。托不到不怨天不尤人,托不到的時候,回來好好的念一天佛,明天出去再去托,不求人!你不求人,佛就來護持,護法神就來保佑,為什麼?他有責任,他要護持這些修行人。這些修行人如果缺道糧,他要想辦法送來。如果你要去求信徒,護法神「我樂得自在,他有辦法,用不著我幫忙」,護法神都走了。佛也跑掉了,菩薩也沒有了,護法神也沒有了,跟你往來打交道的是什麼?都是些魔鬼,都是些邪神,你跟他打上交道,你麻煩大了。
xuất gia nhân tại tùng tiền thị tam y nhất bát , mỗi thiên đáo ngoại diện thác bát , hữu đích thời hậu dã thác bất đáo 。 thác bất đáo bất oán thiên bất vưu nhân , thác bất đáo đích thời hậu , hồi lai hảo hảo đích niệm nhất thiên phật , minh thiên xuất khứ tái khứ thác , bất cầu nhân ! nễ bất cầu nhân , phật tựu lai hộ trì , hộ pháp thần tựu lai bảo hữu , vi thập ma ? tha hữu trách nhâm , tha yếu hộ trì giá ta tu hành nhân 。 giá ta tu hành nhân như quả khuyết đạo lương , tha yếu tưởng biện pháp tống lai 。 như quả nễ yếu khứ cầu tín đồ , hộ pháp thần 「 ngã lạc/nhạc/nhạo đắc tự tại , tha hữu biện pháp , dụng bất trước ngã bang mang 」 , hộ pháp thần đô tẩu liễu 。 phật dã bào điệu liễu , bồ tát dã một hữu liễu , hộ pháp thần dã một hữu liễu , căn nễ vãng lai đả giao đạo đích thị thập ma ? đô thị ta ma quỷ , đô thị ta tà thần , nễ căn tha đả thượng giao đạo , nễ ma phiền đại liễu 。
Khoảng mười mấy năm trước, khi tôi chừng bốn mươi lăm tuổi, Lão Hòa thượng Linh mời tôi đến chùa Đại Giác ở thành phố Cơ Long (Keelung) cùng dự an cư kết hạ và giảng kinh Lăng-nghiêm cho đại chúng. Giảng đường nằm cách điện Thiên Vương một bức tường, trong điện có thờ Bồ Tát Vi Đà. Lúc đó tôi có khuyên đại chúng rằng, người tu hành chúng ta không cần cầu cạnh tín đồ, chỉ cần tu tập cho thật tốt. Nếu chúng ta mà không đủ lương thực thì Bồ Tát Vi Đà sẽ lập tức bị cách chức điều tra, vì ông ta hộ pháp kiểu gì [mà xảy việc như thế]. [Còn nếu] chúng ta cứ mỗi ngày tìm tín đồ để hóa duyên, thì Bồ Tát Vi Đà chỉ còn hình tượng đó thôi, nhưng Bồ Tát thật không đến. Vì sao vậy? Vì Bồ Tát thấy rằng quý vị mỗi người đều có cách lo liệu, Bồ Tát không cần phải hộ trì nữa. Cho nên, chư Phật hộ niệm là khi quý vị chân chánh phát tâm, tâm địa hoàn toàn thanh tịnh thì chư Phật hộ niệm, quý vị không có gì phải lo.
我在大概十幾年前,我四十五歲的那年,在基隆大覺寺,靈老和尚請我在那裡結夏安居,給他們大眾講《楞嚴經》。講堂就在天王殿的隔壁,天王殿裡供的韋馱菩薩,我那個時候就勸大眾,我們修行人不求信徒,好好的辦道,如果我們道糧斷了,韋馱菩薩馬上要撤職查辦,他護的什麼法!我們要天天找信徒去化緣,韋馱菩薩塑的像在,韋馱菩薩神不在,他不來,為什麼?他一看到你們這些人都有辦法,那用不著護持了。所以諸佛護念,你真發心,心地清淨,諸佛護念,不要操一點心。
ngã tại đại khái thập kỉ niên tiền , ngã tứ thập ngũ tuế đích na niên , tại cơ long đại giác tự , linh lão hòa thượng thỉnh ngã tại na lí kết hạ an cư , cấp tha môn đại chúng giảng 《 lăng nghiêm kinh 》 。 giảng đường tựu tại thiên vương điện đích cách bích , thiên vương điện lí cung đích vi đà bồ tát , ngã na cá thời hậu tựu khuyến đại chúng , ngã môn tu hành nhân bất cầu tín đồ , hảo hảo đích biện đạo , như quả ngã môn đạo lương đoạn/đoán liễu , vi đà bồ tát mã thượng yếu triệt chức tra biện , tha hộ đích thập ma pháp ! ngã môn yếu thiên thiên hoa tín đồ khứ hoá duyên , vi đà bồ tát tố đích tượng tại , vi đà bồ tát thần bất tại , tha bất lai , vi thập ma ? tha nhất khán đáo nễ môn giá ta nhân đô hữu biện pháp , na dụng bất trước hộ trì liễu 。 sở dĩ chư phật hộ niệm , nễ chân phát tâm , tâm địa thanh tịnh , chư phật hộ niệm , bất yếu thao nhất điểm tâm 。
Khi tôi mới vừa học Phật, gặp được Đại sư Chương Gia lần thứ hai. Trước đó tôi đã lễ bái cầu kiến ngài được một lần. Lần đầu tiên gặp ngài, ngài dạy tôi phải nhìn thấu và buông bỏ, lại dạy tôi khởi sự côgn phu từ việc bố thí. Khi gặp ngài lần thứ hai, ngài dạy tôi rằng người chân chánh học Phật thì suốt đời luôn được chư Phật, Bồ Tát và hộ pháp chiếu cố, không việc gì phải lo lắng hay thắc mắc. Tôi tin lời thầy nên từ khi bắt đầu học Phật cho đến nay, tôi không lo lắng điều gì, không thắc mắc điều gì. Nếu quý vị hỏi tôi về công việc của Đồ Thư Quán, tôi không biết gì cả. Đồ Thư Quán ra đời như thế nào, được thành lập như thế nào, tôi không biết. Đồ Thư Quán chi tiêu như thế nào, tôi không biết. Chuyện gì cũng không biết, quý vị thấy đó, nên tâm mới được thanh tịnh.
我剛剛學佛,是第二次見章嘉大師,那時候我一個禮拜跟他見一次面,頭一次見他,他教我看破、放下,叫我從布施下手。第二次去見他的時候,他就跟我說,真正學佛的人,你的一生統統有佛菩薩、護法神給你照顧,你什麼都不要操心,什麼都不要過問。我就相信他的話,所以我從學佛以來一直到今天,什麼事不操心,什麼事不過問。你問我這個圖書館的事情,我什麼都不知道,圖書館怎麼來的?怎麼成立的?不曉得,圖書館這些開銷,不知道,什麼都不知道,你看心多清淨。
ngã cương cương học phật , thị đệ nhị thứ kiến chương gia đại sư , na thời hậu ngã nhất cá lễ bái căn tha kiến nhất thứ diện , đầu nhất thứ kiến tha , tha giáo ngã khán phá 、 phóng hạ , khiếu ngã tùng bố thí hạ thủ 。 đệ nhị thứ khứ kiến tha đích thời hậu , tha tựu căn ngã thuyết , chân chính học phật đích nhân , nễ đích nhất sinh thống thống hữu phật bồ tát 、 hộ pháp thần cấp nễ chiếu cố , nễ thập ma đô bất yếu thao tâm , thập ma đô bất yếu quá vấn 。 ngã tựu tướng tín tha đích thoại , sở dĩ ngã tùng học phật dĩ lai nhất trực đáo kim thiên , thập ma sự bất thao tâm , thập ma sự bất quá vấn 。 nễ vấn ngã giá cá đồ thư quán đích sự tình , ngã thập ma đô bất tri đạo , đồ thư quán chẩm ma lai đích ? chẩm ma thành lập đích ? bất hiểu đắc , đồ thư quán giá ta khai tiêu , bất tri đạo , thập ma đô bất tri đạo , nễ khán tâm đa thanh tịnh 。
Tôi đi hoằng pháp đến đâu, người ta muốn xây chùa cho tôi. Tốt lắm! Tôi gật đầu, quý vị cứ làm đi. Nhưng làm như thế nào, tôi không biết. Tôi hoàn toàn không vướng bận. Nếu bảo tôi phải nghĩ cách mang theo bao nhiêu tiền sang Mỹ để xây chùa, tôi sẽ không làm. Tôi chỉ thong thả đi sang đó một chuyến, thế là mọi người xây chùa hoàn tất rồi mời tôi đến. Tôi nói: “Tốt lắm, vậy mỗi năm tôi sẽ đến một lần, giảng cho quý vị nghe một bộ kinh. Thật hoàn toàn không vướng bận.
無論到哪個地方弘法,他們要給我建道場,好,點點頭,你們去搞去。怎麼搞成的?不曉得,這才自在。要我去想方法,帶著多少錢到美國去建個道場,我才不幹。我到那裡去逛了一趟,他們就把道場建成了,要請我去。我說好,一年來一次,給你講一部經,這個多自在。
vô luận đáo ná cá địa phương hoằng pháp , tha môn yếu cấp ngã kiến đạo trường , hảo , điểm điểm đầu , nễ môn khứ cảo khứ 。 chẩm ma cảo thành đích ? bất hiểu đắc , giá tài tự tại 。 yếu ngã khứ tưởng phương pháp , đái trước đa thiểu tiền đáo mĩ quốc khứ kiến cá đạo trường , ngã tài bất cán 。 ngã đáo na lí khứ cuống liễu nhất thảng , tha môn tựu bả đạo trường kiến thành liễu , yếu thỉnh ngã khứ 。 ngã thuyết hảo , nhất niên lai nhất thứ , cấp nễ giảng nhất bộ kinh , giá cá đa tự tại 。
Cho nên xin thưa cùng quý vị, người không có gì cả tức là có tất cả. Nếu quý vị có một thứ gì đó thì chỉ có một thứ đó thôi, và nếu mất đi thì quý vị sẽ không có gì cả. Không có gì cả thì mọi thứ đều sẵn có, quý vị hoàn toàn không vướng bận! Chư Bồ Tát đều đạt được đại tự tại, tôi tuy chưa được đại tự tại nhưng cũng được một chút tự tại. Cho nên tôi có đầy đủ lòng tin, được chư Phật và Bồ tát hộ niệm.
所以給諸位說,一無所有就什麼都有。你要有了一樣,你只有這一樣,丟掉了就沒有了。什麼都沒有,什麼都現成,得大自在!諸菩薩得大自在,我雖然沒得大自在,得了一點小自在。所以我信心具足,諸佛菩薩護念。
sở dĩ cấp chư vị thuyết , nhất vô sở hữu tựu thập ma đô hữu 。 nễ yếu hữu liễu nhất dạng , nễ chỉ hữu giá nhất dạng , đâu điệu liễu tựu một hữu liễu 。 thập ma đô một hữu , thập ma đô hiện thành , đắc đại tự tại ! chư bồ tát đắc đại tự tại , ngã tuy nhiên một đắc đại tự tại , đắc liễu nhất điểm tiểu tự tại 。 sở dĩ ngã tín tâm cụ túc , chư phật bồ tát hộ niệm 。
Lời khuyên thứ hai [của ngài Phổ Hiền] là “vun trồng cội đức”. Trồng có nghĩa là vun trồng bồi đắp. Chúng ta tự mình phải biết tu dưỡng, phải biết bồi đắp phước báo, tu sửa đức hạnh. Vậy phải khởi làm từ đâu? Từ việc giữ giới, tu định. Đó là căn bản của đức hạnh. Tu tập sáu ba-la-mật, mười ba-la-mật là căn bản của phước báo. Có đủ đức hạnh và phước báo thì dù quý vị đi đâu cũng sẽ không bao giờ thiếu thốn.
第二,「植眾德本」,植就是培植,我們自己要修養,要曉得培福、修德。從哪裡做起?從戒、從定,這是德本;修六度、修十波羅蜜是福之本。有德、有福,無論到什麼地方都不會缺乏。
đệ nhị , 「 thực chúng đức bản 」 , thực tựu thị bồi thực , ngã môn tự kỉ yếu tu dưỡng , yếu hiểu đắc bồi phúc 、 tu đức 。 tùng ná lí tố khởi ? tùng giới 、 tùng định , giá thị đức bản ; tu lục độ 、 tu thập ba la mật thị phúc chi bản 。 hữu đức 、 hữu phúc , vô luận đáo thập ma địa phương đô bất hội khuyết phạp 。
Lời khuyên này nhấn mạnh ở việc phục vụ đại chúng, vì đại chúng phục vụ. Giới luật cũng là vì đại chúng phục vụ. Quý vị xem sách Sa-di luật nghi sẽ thấy 24 môn oai nghi trong đó đều là phục vụ đại chúng.
這一句著重在服務大眾,為大眾服務。戒律也是為大眾服務,你看看《沙彌律儀》這二十四門威儀就是服務大眾。
giá nhất cú trước trùng tại phục vụ đại chúng , vi đại chúng phục vụ 。 giới luật dã thị vi đại chúng phục vụ , nễ khán khán 《 sa di luật nghi 》 giá nhị thập tứ môn uy nghi tựu thị phục vụ đại chúng 。
Lời khuyên thứ ba là “nhập vào chánh định”. Đây là “tự thụ dụng” (lợi ích cho chính mình), là tu sửa tự thân. Tự mình phải đưa tâm an trụ vào chánh định, cũng giống như trong kinh A-di-đà đã nói, đem tâm mình an trụ vào chỗ “nhất tâm bất loạn, tâm bất điên đảo” (tâm chuyên nhất không rối loạn, tâm không điên đảo). Đó là tự thụ dụng.
 「入正定聚」,這是自受用,修自己。自己要把心安住在定境上,也就是像《彌陀經》裡面所講的,把自己的心安住在「一心不亂,心不顛倒」,這是自受用。
  「 nhập chính định tụ 」 , giá thị tự thụ dụng , tu tự kỉ 。 tự kỉ yếu bả tâm an trụ tại định cảnh thượng , dã tựu thị tượng 《 di đà kinh 》 lí diện sở giảng đích , bả tự kỉ đích tâm an trụ tại 「 nhất tâm bất loạn , tâm bất điên đảo 」 , giá thị tự thụ dụng 。
Lời khuyên thứ tư là “phát tâm cứu độ tất cả chúng sinh”. Đây chính là tâm Bồ-đề, là tâm đại bi trong tâm Bồ-đề, là “chúng sinh vô viên thề nguyện độ” trong Tứ hoằng thệ nguyện. Phải phát khởi tâm nguyện này thì tâm của quý vị mới trở nên rộng lớn và không ích kỷ, đối với chấp ngã dù không phá cũng tự nhiên mất đi. Phá trừ chấp ngã là điều cực kỳ khó khăn. Người tu tập Tiểu thừa phá trừ loại mê chấp này không dễ, nhưng phương pháp phá trừ của Bồ Tát Đại thừa thật hết sức khéo léo mầu nhiệm. Vì sao vậy? Chỉ cần tâm của quý vị trở nên rộng lớn thì tự ngã nhỏ nhọi sẽ không còn nữa.
 「發救一切眾生之心」,這就是菩提心,菩提心裡面的大悲心,四弘誓願裡面「眾生無邊誓願度」,要發這個心,你的心量才廣大,才不會自私。把我執,你看不破自然沒有了。破我執好難好難!小乘人斷惑多麼不容易,大乘菩薩斷惑那個方法太巧妙了,為什麼?把你的心擴大,小我就沒有了。
  「 phát cứu nhất thiết chúng sinh chi tâm 」 , giá tựu thị bồ đề tâm , bồ đề tâm lí diện đích đại bi tâm , tứ hoằng thệ nguyện lí diện 「 chúng sinh vô biên thệ nguyện độ 」 , yếu phát giá cá tâm , nễ đích tâm lượng tài quảng đại , tài bất hội tự tư 。 bả ngã chấp , nễ khán bất phá tự nhiên một hữu liễu 。 phá ngã chấp hảo nan hảo nan ! tiểu thừa nhân đoạn/đoán hoặc đa ma bất dong dị , đại thừa bồ tát đoạn/đoán hoặc na cá phương pháp thái xảo diệu liễu , vi thập ma ? bả nễ đích tâm khoắc đại , tiểu ngã tựu một hữu liễu 。
Đây là những điều Bồ Tát Phổ Hiền đã khuyên bảo sách tấn đại chúng ở pháp hội Pháp Hoa. Hôm nay chúng ta đọc kinh Pháp Hoa ở đây thì chúng ta cũng trở thành một phần trong Pháp hội, đương nhiên cũng nằm trong số đại chúng được Bồ Tát Phổ Hiền khuyên bảo sách tấn.
這是普賢菩薩在法華會上勸勉大眾,我們今天在此地讀《法華經》,我們也是法華會上的一分子,普賢菩薩的勸發當然包括我們在內。
giá thị phổ hiền bồ tát tại pháp hoa hội thượng khuyến miễn đại chúng , ngã môn kim thiên tại thử địa độc 《 pháp hoa kinh 》 , ngã môn dã thị pháp hoa hội thượng đích nhất phân tử , phổ hiền bồ tát đích khuyến phát đương nhiên bao quát ngã môn tại nội 。
Đến đây, chúng ta đã giảng giải xong ý nghĩa của phần đề mục. Từ đây trở đi là chính thức đi vào giảng giải nội dung kinh văn.
到這個地方,講到這裡,我們把題目的意思全都介紹完了。下面這就是正式的講到經文了。
đáo giá cá địa phương , giảng đáo giá lí , ngã môn bả đề mục đích ý tư toàn đô giới thiệu hoàn liễu 。 hạ diện giá tựu thị chính thức đích giảng đáo kinh văn liễu 。
Phẩm kinh này xét theo hệ thống cấu trúc của toàn bộ kinh, trong Phật học gọi là phân khoa, tức là phân chia kết cấu chương mục, tư tưởng trong hệ thống, được nêu lên với đề mục là “phổ môn viên ứng” (ứng hiện khắp mọi nhà). Đây là chủ đề chung của phẩm Phổ Môn. Phần tiếp theo được chia làm hai mục lớn.
這一品在全經體系裡面,在佛門裡面講科判,也就是章法結構、思想體系,它的題目標的就是「普門圓應」,這是「普門品」的總題目。底下分為兩段,兩個大段落。
giá nhất phẩm tại toàn kinh thể hệ lí diện , tại phật môn lí diện giảng khoa phán , dã tựu thị chương pháp kết cấu 、 tư tưởng thể hệ , tha đích đề mục tiêu đích tựu thị 「 phổ môn viên ưng 」 , giá thị 「 phổ môn phẩm 」 đích tổng đề mục 。 để hạ phân vi lưỡng đoạn , lưỡng cá đại đoạn lạc 。
Mục lớn thứ nhất là “Vấn đáp hiển đức” (hỏi đáp để hiển bày đức độ). “Hiển” là hiển thị, hiển bày, cũng là nói năng lực đức độ, sự nghiệp của Bồ Tát. “Đức” là một thành tựu, trong sự nghiệp của Bồ Tát có sự thành tựu rất tuyệt vời. Chữ đức này cùng với chữ “đắc” trong “đắc thất” rất thông dụng vào thời cổ đại.
第一大段落是「問答顯德」,顯是顯示,就是菩薩的德能,也是菩薩的事業。德就是一種成就,他在事業上有了不起的成就,這個德跟得失的得在古時候通用。
đệ nhất đại đoạn lạc thị 「 vấn đáp hiển đức 」 , hiển thị hiển thị , tựu thị bồ tát đích đức năng , dã thị bồ tát đích sự nghiệp 。 đức tựu thị nhất chủng thành tựu , tha tại sự nghiệp thượng hữu liễu bất khởi đích thành tựu , giá cá đức căn đắc thất đích đắc tại cổ thời hậu thông dụng 。
Mục lớn thứ hai là “Văn phẩm hoạch ích” (nghe phẩm kinh này được lợi ích). Đây là nói phàm phu chúng ta, khi được nghe Bồ Tát và Phật vấn đáp, giải thích rõ ràng về việc Bồ Tát Quán Thế Âm từ vô thủy kiếp đến nay đã làm đủ mọi việc lợi ích cho chúng sanh trong tận cùng hư không, biến khắp pháp giới. Chúng ta nghe qua như vậy rồi sẽ tự mình được lợi ích. Lợi ích lớn nhất là khơi dậy niềm tin của chúng ta và khuyến khích chúng ta noi theo việc làm của Bồ Tát. Bồ tát đã có thể làm được như vậy, chúng ta nên noi gương Bồ Tát, phải học hỏi theo ngài.
第二個大段是「聞品獲益」。那是就我們一般人,我們聽到菩薩與佛一問一答,說明觀世音菩薩無始劫以來,盡虛空遍法界,所做的利益眾生的這些事業,我們聽了之後,自己獲得利益。這個利益裡面最大的,啟發我們的信心,感發我們效法菩薩,菩薩能做,我們也應當要效法他,也應當要學他。
đệ nhị cá đại đoạn thị 「 văn phẩm hoạch ích 」 。 na thị tựu ngã môn nhất ban nhân , ngã môn thính đáo bồ tát dữ phật nhất vấn nhất đáp , thuyết minh quan thế âm bồ tát vô thuỷ kiếp dĩ lai , tận hư không biến pháp giới , sở tố đích lợi ích chúng sinh đích giá ta sự nghiệp , ngã môn thính liễu chi hậu , tự kỉ hoạch đắc lợi ích 。 giá cá lợi ích lí diện tối đại đích , khải phát ngã môn đích tín tâm , cảm phát ngã môn hiệu pháp bồ tát , bồ tát năng tố , ngã môn dã ưng đương yếu hiệu pháp tha , dã ưng đương yếu học tha 。
Trong mục lớn thứ nhất lại chia ra có phần văn trường hàng và phần kệ tụng. Phần văn trường hàng là thể loại tản văn, phần kệ tụng dùng thể loại thi ca. [Trong kinh điển], kệ tụng đa phần là “trùng tụng” (lặp lại). Sau khi giảng đến phần cuối tôi sẽ quay lại nói rõ chỗ này với quý vị.
第一大段裡面有「長行」、有「偈頌」,長行是散文的體裁,偈頌是以詩歌的體裁,偈頌多半屬於重頌,講到底下再給各位說明。
đệ nhất đại đoạn lí diện hữu 「 trường hành 」 、 hữu 「 kệ tụng 」 , trường hành thị tán văn đích thể tài , kệ tụng thị dĩ thi ca đích thể tài , kệ tụng đa bán thuộc ư trùng tụng , giảng đáo để hạ tái cấp các vị thuyết minh 。
Trong phần văn trường hàng có “hai lần hỏi đáp”. Lần thứ nhất là thưa hỏi về Bồ Tát Quán Thế Âm. Phần thứ nhì lại chia thành hai tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là “Vô Tận thưa hỏi”. Vô Tận tức là Bồ Tát Vô Tận Ý, ngài là người nêu ra vấn đề.
長行裡面,問答有「兩番問答」。「初」,這是第一番,是「問答觀音人」,就是問答觀音菩薩這個人。「又二」,裡面又有兩小段,第一小段是「無盡興問」,無盡是無盡意菩薩,他發起提出這個問題。
trường hành lí diện , vấn đáp hữu 「 lưỡng ba vấn đáp 」 。 「 sơ 」 , giá thị đệ nhất ba , thị 「 vấn đáp quan âm nhân 」 , tựu thị vấn đáp quan âm bồ tát giá cá nhân 。 「 hựu nhị 」 , lí diện hựu hữu lưỡng tiểu đoạn , đệ nhất tiểu đoạn thị 「 vô tận hưng vấn 」 , vô tận thị vô tận ý bồ tát , tha phát khởi đề xuất giá cá vấn đề 。
Mời quý vị xem trong kinh văn, trang 801, dòng thứ tư từ bên trái qua:
請看經文,八0一面倒數第四行。
thỉnh khán kinh văn , bát 0 nhất diện đảo số đệ tứ hành 。
“Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai phải, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà Bồ Tát Quán Thế Âm có danh hiệu ấy?”
【爾時無盡意菩薩。即從座起。偏袒右肩。合掌向佛。而作是言。世尊。觀世音菩薩以何因緣名觀世音。】
【 nhĩ thời vô tận ý bồ tát 。 tức tùng tòa khởi 。 thiên đản hữu kiên 。 hợp chưởng hướng phật 。 nhi tác thị ngôn 。 thế tôn 。 quan thế âm bồ tát dĩ hà nhân duyên danh quan thế âm 。 】
Đây là hỏi về Bồ Tát Quán Thế Âm, do nhân duyên gì được gọi là Quán Thế Âm? Phẩm kinh này là nhân nơi sự thưa hỏi phát khởi của Bồ Tát Vô Tận Ý. Chúng ta xem trong danh hiệu của Bồ Tát có ý nghĩa rất thâm sâu, biểu thị rằng phổ môn là ý nghĩa không cùng tận, “phổ môn công hạnh viên mãn ứng hiện không cùng tận”. Cho nên, [trong kinh điển] bất cứ ai đứng ra thưa hỏi thì những vị ấy đều có hàm nghĩa biểu thị.
這就是問觀音人,他是什麼因緣他叫做觀世音?這一品,品就是品類,是因無盡意菩薩發起的。我們看看菩薩的名字,裡面含義就很深,表示普門是無盡意,「表普門圓行應現無盡也」。所以哪一個人來問,他都代表的有含義。
giá tựu thị vấn quan âm nhân , tha thị thập ma nhân duyên tha khiếu tố quan thế âm ? giá nhất phẩm , phẩm tựu thị phẩm loại , thị nhân vô tận ý bồ tát phát khởi đích 。 ngã môn khán khán bồ tát đích danh tự , lí diện hàm nghĩa tựu ngận thâm , biểu thị phổ môn thị vô tận ý , 「 biểu phổ môn viên hành ưng hiện vô tận dã 」 。 sở dĩ ná nhất cá nhân lai vấn , tha đô đại biểu đích hữu hàm nghĩa 。
“Pháp sư Nhược Ngu có bài tán rằng:

Thế gian vô biên bụi trần nhiễu nhiễu,
Chúng sinh vô số nghiệp mang mang.
Ái hà vô để lãng thao thao,
Thị cố ngã danh Vô Tận Ý.

Thế gian vô biên bụi mờ mịt,
Chúng sinh vô số nghiệp mênh mang,
Sông ái thẳm sâu sóng cuồn cuộn,
Bởi thế ta tên Vô Tận Ý.”
「若愚讚云,世間無邊塵擾擾,眾生無數業忙忙,愛河無底浪滔滔,是故我名無盡意。」
「 nhược ngu tán vân , thế gian vô biên trần nhiễu nhiễu , chúng sinh vô số nghiệp mang mang , ái hà vô để lang thao thao , thị cố ngã danh vô tận ý 。 」
Đây là bài kệ xưng tán của một bậc cổ đức đối với Bồ Tát Vô Tận Ý. Công hạnh của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng tương đương như được nêu trong bài kệ xưng tán này.
這是古德對於無盡意菩薩的一首讚詞。觀音菩薩的事業跟讚歎無盡意菩薩這一首的讚詞是相當的,觀音菩薩的事業、觀音菩薩的悲願也是無有窮盡的。
giá thị cổ đức đối ư vô tận ý bồ tát đích nhất thủ tán từ 。 quan âm bồ tát đích sự nghiệp căn tán thán vô tận ý bồ tát giá nhất thủ đích tán từ thị tướng đương đích , quan âm bồ tát đích sự nghiệp 、 quan âm bồ tát đích bi nguyện dã thị vô hữu cùng tận đích 。
“Vén tay áo bên vai phải” là lễ nghi. Cho nên trong lúc thi lễ không được quên bổn phận, đó gọi là thực sự cung kính. Trong khi thi lễ, phải vạch trần tay áo để lộ vai bên phải ra. Vì sao vậy? Để thuận tiện làm việc. Nếu bậc thầy có việc sai bảo là đứng dậy làm ngay. Khi quỳ thì chỉ quỳ một chân chứ không quỳ cả hai chân. Quỳ cả hai chân thì đứng dậy không thuận tiện. Cho nên khi làm việc phải nhanh nhẹn, hoạt bát, chính xác, điều này từ xưa đến nay dạy như vậy, không thể cứ làm việc gì cũng chậm chạp, lơ đễnh. Không phải các bậc thầy muốn yêu cầu quý vị phải làm điều này điều nọ, muốn đòi hỏi quý vị phải cung kính tôn trọng. Không phải vậy. Quý vị khởi tâm cung kính một phần thì được lợi ích một phần, cung kính mười phần thì được lợi ích mưới phần, đó là chuyện riêng của quý vị. Nếu có bậc thầy nói: “Ông không được thiếu sự cung kính đối với ta. Ông không cung kính thì ta không dạy. Ông cung kính một chút, ta dạy ông một chút; ông hết lòng kính trọng, ta sẽ dạy ông hết lòng.” Ông thầy như vậy thì chỉ là phàm phu, không phải Bồ Tát. Vì sao? Vì có tâm phân biệt đối xử. Cho nên, sự cung kính tôn trọng thầy là pháp khí, là sự tu dưỡng của chính quý vị. Vị thầy cũng giảng giải cùng những điều đó, nhưng quý vị có thể tiếp nhận được bao nhiêu là tỷ lệ thuận với sự cung kính tôn trọng của quý vị. Nếu không có tâm cung kính, cho dù quý vị theo học với thầy hai mươi, ba mươi năm, nhất định cũng không có thành tựu gì.
『偏袒右肩』這是禮節,所以在行禮的時候不忘承事,這才叫真正恭敬。在行禮的時候,把右面的手膀露出來,為什麼?做事情方便。如果老師有什麼事情吩咐你做,他立刻就起來,跪的時候跪一隻腳,不是兩隻腳都跪下去;兩隻腳跪下去,起來不方便。所以做事時要快、要敏捷、要確實,自古以來就講求。老是做個事情慢吞吞的、愛理不理的。不是老師要你這樣的、要求你的,你一定得對我恭敬,不是的。你一分恭敬得一分利益,十分恭敬得十分利益,是你自己的事情。如果一個老師說「你非對我恭敬不可,你不恭敬我就不教你,你對我一分恭敬我教你一分,十分恭敬我教你十分」,這個老師是凡夫,不是菩薩,為什麼?他有分別心。所以,恭敬是你自己本身的法器、你本身的修養。老師同樣講東西,你能夠接受多少與你的恭敬心成正比例。你沒有恭敬心,你在老師會下縱然住上二十年、三十年,你也決定沒有成就。
『 thiên đản hữu kiên 』 giá thị lễ tiết , sở dĩ tại hành lễ đích thời hậu bất vô thừa sự , giá tài khiếu chân chính cung kính 。 tại hành lễ đích thời hậu , bả hữu diện đích thủ bàng lộ xuất lai , vi thập ma ? tố sự tình phương tiện 。 như quả lão sư hữu thập ma sự tình phân phó nễ tố , tha lập khắc tựu khởi lai , quỵ đích thời hậu quỵ nhất chích cước , bất thị lưỡng chích cước đô quỵ hạ khứ ; lưỡng chích cước quỵ hạ khứ , khởi lai bất phương tiện 。 sở dĩ tố sự thời yếu khoái 、 yếu mẫn tiệp 、 yếu xác thật , tự cổ dĩ lai tựu giảng cầu 。 lão thị tố cá sự tình mạn thôn thôn đích 、 ái lí bất lí đích 。 bất thị lão sư yếu nễ giá dạng đích 、 yếu cầu nễ đích , nễ nhất định đắc đối ngã cung kính , bất thị đích 。 nễ nhất phân cung kính đắc nhất phân lợi ích , thập phân cung kính đắc thập phân lợi ích , thị nễ tự kỉ đích sự tình 。 như quả nhất cá lão sư thuyết 「 nễ phi đối ngã cung kính bất khả , nễ bất cung kính ngã tựu bất giáo nễ , nễ đối ngã nhất phân cung kính ngã giáo nễ nhất phân , thập phân cung kính ngã giáo nễ thập phân 」 , giá cá lão sư thị phàm phu , bất thị bồ tát , vi thập ma ? tha hữu phân biệt tâm 。 sở dĩ , cung kính thị nễ tự kỉ bản thân đích pháp khí 、 nễ bản thân đích tu dưỡng 。 lão sư đồng dạng giảng đông tây , nễ năng cú tiếp thụ đa thiểu dữ nễ đích cung kính tâm thành chính tỉ lệ 。 nễ một hữu cung kính tâm , nễ tại lão sư hội hạ túng nhiên trụ thượng nhị thập niên 、 tam thập niên , nễ dã quyết định một hữu thành tựu 。
Nếu quý vị không tin thì cứ xem trong Lục Tổ Đàn Kinh, Thượng tọa Huệ Minh theo học với Ngũ Tổ rất nhiều năm nhưng không đạt được gì cả. Nguyên nhân vì sao? Vì không có tâm cung kính. Ông chạy đuổi theo Lục Tổ, đến nơi thì nhấc bọc đựng y bát lên không nổi, lúc đó liền sinh tâm cung kính, tức thì được khai ngộ. Thật là quá rõ ràng! Bậc thầy đâu cần gì phải yêu cầu quý vị tôn trọng cung kính? Không phải, việc tiếp nhận được nhiều ít là chuyện riêng của quý vị, không liên quan đến bậc thầy, vì tâm của thầy luôn thanh tịnh. Nếu vì quý vị tôn trọng cung kính mà vị thầy khởi tâm hoan hỷ thì đó là phàm phu. Vị thầy ấy hẳn đã thối chuyển rồi.
你們不相信你看《六祖壇經》,那個慧明在五祖會下多少年,一無所得,為什麼原因?沒有恭敬心。他去追六祖追到了,提了個包袱提不動,這時候恭敬心生了,他一下就開悟了,太顯然了!老師何必要求你對他恭敬?不是的,是你自己能夠得多少,與老師不相干,老師心清淨。你恭敬他,他要歡喜,那他是凡夫,他就退轉了。
nễ môn bất tướng tín nễ khán 《 lục tổ đàn kinh 》 , na cá tuệ minh tại ngũ tổ hội hạ đa thiểu niên , nhất vô sở đắc , vi thập ma nguyên nhân ? một hữu cung kính tâm 。 tha khứ truy lục tổ truy đáo liễu , đề liễu cá bao phục đề bất động , giá thời hậu cung kính tâm sinh liễu , tha nhất hạ tựu khai ngộ liễu , thái hiển nhiên liễu ! lão sư hà tất yếu cầu nễ đối tha cung kính ? bất thị đích , thị nễ tự kỉ năng cú đắc đa thiểu , dữ lão sư bất tướng can , lão sư tâm thanh tịnh 。 nễ cung kính tha , tha yếu hoan hỉ , na tha thị phàm phu , tha tựu thối chuyển liễu 。
Một bậc thầy tuyệt đối không bao giờ để tâm dao động vì sự tôn trọng cung kính của quý vị, hoặc vì quý vị không tôn trọng cung kính mà ghét giận. Nếu một vị thầy như vậy thì đó chỉ là kẻ phàm phu ở thế gian, không đáng để chúng ta theo học.
他絕對不會因為你對他恭敬而心動,你對他不恭敬他心裡就怨恨了,這個老師是博地凡夫,不值得我們跟他學。
tha tuyệt đối bất hội nhân vi nễ đối tha cung kính nhi tâm động , nễ đối tha bất cung kính tha tâm lí tựu oán hận liễu , giá cá lão sư thị bác địa phàm phu , bất trực đắc ngã môn căn tha học 。
Tâm địa bậc thầy luôn thanh tịnh, tám ngọn gió đời không lay chuyển được. Do đó, thái độ ngạo mạn hay tôn kính của chính quý vị sẽ cho biết là quý vị có thể tiếp nhận bao nhiêu, có thể đạt được bao nhiêu. Đối với học sinh, bậc thầy khi giảng kinh xem qua là biết rõ người nào sẽ thành tựu được mấy phần, người nào sẽ tiếp nhận được bao nhiêu, ai được bao nhiêu. Từ đâu mà vị thầy thấy biết được? Từ nơi tâm cung kính của quý vị mà thấy biết được, không bao giờ sai lầm. Một bậc thầy cao minh thì chỉ nhìn qua là thấy biết rõ ràng, chắc chắn không thể sai lệch, cho nên không cần khảo thí, không cần gạn hỏi.
老師心地清淨,八風吹不動。所以,你自己態度之傲慢、恭敬,就是曉得你自己能夠接收多少東西,你能夠得到多少東西。老師對於學生,看這個學生,老師一樣講經,看到哪個人能夠得幾成、哪個人能得多少,他清清楚楚,他從哪裡看的?他從你恭敬心上看的,一點都不錯。高明的老師一看,看得清清楚楚,決定沒有差錯,根本不要考試,不要問的。
lão sư tâm địa thanh tịnh , bát phong xuy bất động 。 sở dĩ , nễ tự kỉ thái độ chi ngạo mạn 、 cung kính , tựu thị hiểu đắc nễ tự kỉ năng cú tiếp thu đa thiểu đông tây , nễ năng cú đắc đáo đa thiểu đông tây 。 lão sư đối ư học sinh , khán giá cá học sinh , lão sư nhất dạng giảng kinh , khán đáo ná cá nhân năng cú đắc kỉ thành 、 ná cá nhân năng đắc đa thiểu , tha thanh thanh sở sở , tha tùng ná lí khán đích ? tha tùng nễ cung kính tâm thượng khán đích , nhất điểm đô bất thác 。 cao minh đích lão sư nhất khán , khán đắc thanh thanh sở sở , quyết định một hữu sai thác , căn bản bất yếu khảo thí , bất yếu vấn đích 。
Hiện nay thì cần phải khảo thí, phải làm trắc nghiệm, mà chưa chắc đã chính xác. Kết quả trắc nghiệm cũng chưa chắc là đúng thật. Nhưng từ nơi thái độ cung kính, tùy theo sự biểu hiện của học sinh mà xem xét đánh giá thì tuyệt đối chính xác.
現在還要來個考試、來個測驗,未必是真的,未必能測驗得那麼真實;從恭敬態度上、表現上來看,絕對正確。
hiện tại hoàn yếu lai cá khảo thí 、 lai cá trắc nghiệm , vị tất thị chân đích , vị tất năng trắc nghiệm đắc na ma chân thật ; tùng cung kính thái độ thượng 、 biểu hiện thượng lai khán , tuyệt đối chính xác 。
Cho nên các bậc cổ đức giảng dạy đồ chúng xưa nay chưa từng nghe nói có thi cử kiểm tra, nhưng bậc thầy đối với trình độ của học sinh có tiến bộ và thối chuyển đều biết rất rõ ràng.
所以古德教學從來沒有聽說考試過的,沒有,但是老師對於學生的程度,進步、退步,了解得太清楚了。
sở dĩ cổ đức giáo học tùng lai một hữu thính thuyết khảo thí quá đích , một hữu , đãn thị lão sư đối ư học sinh đích trình độ , tấn bộ 、 thối bộ , liễu giải đắc thái thanh sở liễu 。
Cho nên, trong khi làm lễ phải có đủ tâm cung kính.
所以在行禮的時候恭敬心具足。
sở dĩ tại hành lễ đích thời hậu cung kính tâm cụ túc 。
“Chắp tay.” Quý vị nên nhớ rằng, chắp tay cũng là biểu hiện của sự cung kính. Mười đầu ngón tay biểu trưng cho sự rời rạc phân tán, mười ngón tay hợp lại thành một khối tượng trưng cho sự nhất tâm, vì vậy nên chắp tay phải khép sát lại với nhau. Có người chắp tay mà trong lòng bàn tay có khoảng trống, ngón tay cái thì duỗi ra. Như vậy biểu thị điều gì? Không phải nhất tâm mà là tâm tán loạn, vẫn còn tán loạn. Như vậy chỉ có hình thức, không có tâm chân thành.
『合掌』,諸位要記住,「合掌」也是表恭敬,十個指頭代表散慢,十個合一,表示一心,所以掌要合攏。有些人合掌當中是空的,大拇指伸得長長的,這表示什麼?不是一心,散亂心,還是散亂。有這個形式,沒有誠意。
『 hợp chưởng 』 , chư vị yếu kí trụ , 「 hợp chưởng 」 dã thị biểu cung kính , thập cá chỉ đầu đại biểu tán mạn , thập cá hợp nhất , biểu thị nhất tâm , sở dĩ chưởng yếu hợp long 。 hữu ta nhân hợp chưởng đương trung thị không đích , đại mẫu chỉ thân đắc trường trường đích , giá biểu thị thập ma ? bất thị nhất tâm , tán loạn tâm , hoàn thị tán loạn 。 hữu giá cá hình thức , một hữu thành ý 。
Chắp tay là biểu hiện sự nhất tâm, cho nên lòng bàn tay khép sát lại, các ngón tay phải khép vào nhau. Cũng có một số người xuất gia chắp tay không đúng tư thế, không biết là khi ở giới đàn được dạy dỗ thế nào mà không hiểu điều này. Nói chung hiện nay ở các giới đàn, những vị thầy hướng dẫn lễ nghi [dẫn lễ sư] cũng rất qua loa, cẩu thả. Vì sao vậy? Vì [mỗi lần] có quá nhiều người thọ giới. Nhiều người quá thì sẽ phải làm qua loa, cẩu thả, đó là điều tất nhiên. [Thầy dẫn lễ] không đủ sức quan tâm đến từng người, không thể sửa chữa uốn nắn từng người, cho nên có rất nhiều điều không đúng pháp.
合掌是表一心,所以掌要合攏,指頭要併起來。有些還有出家人,合掌的姿勢不對,不知道在戒壇裡怎麼教的,就不曉得。大概現在戒壇引禮師也馬虎了,為什麼?受戒人多了。人多了就馬虎,這一定的道理,他精神照顧不到,不能一個一個的來糾正,所以有許許多多不如法的事情。
hợp chưởng thị biểu nhất tâm , sở dĩ chưởng yếu hợp long , chỉ đầu yếu tính khởi lai 。 hữu ta hoàn hữu xuất gia nhân , hợp chưởng đích tư thế bất đối , bất tri đạo tại giới đàn lí chẩm ma giáo đích , tựu bất hiểu đắc 。 đại khái hiện tại giới đàn dẫn lễ sư dã mã hổ liễu , vi thập ma ? thụ giới nhân đa liễu 。 nhân đa liễu tựu mã hổ , giá nhất định đích đạo lí , tha tinh thần chiếu cố bất đáo , bất năng nhất cá nhất cá đích lai củ chính , sở dĩ hữu hứa hứa đa đa bất như pháp đích sự tình 。
Từ hai chữ “Thế Tôn” về sau là nội dung vấn đáp. [Bồ Tát Vô Tận Ý] thưa hỏi đức Phật Thích-ca Mâu-ni về nhân duyên của danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, và vì sao Bồ Tát Quán Thế Âm có thanh danh uy thế cao cả lớn lao như vậy? Nói đến Bồ Tát Quán Thế Âm thì ai ai cũng đều biết. Ngày nay có thể nói là Bồ Tát được biết đến nhiều nhất. Trong tất cả chư Phật và Bồ tát trong Phật giáo được nhiều người biết đến thì Bồ Tát Quán Thế Âm là vị được biết đến nhiều nhất. Cũng có rất nhiều người không biết đức Phật A-di-đà, không biết đến Phật Thích-ca Mâu-ni, nhưng không có ai là không biết đến Bồ Tát Quán Thế Âm.
『世尊』下面這就是問答的言辭。請教釋迦牟尼佛,問觀世音菩薩他這個名號是什麼因緣得來的?為什麼觀世音菩薩有這麼高的聲望,有這麼大的名氣?提到觀世音菩薩沒有人不曉得,今天講知名度最高。我們佛門裡面所有的諸佛菩薩要講知名度,觀世音菩薩第一。有很多人不曉得阿彌陀佛的,不知道本師釋迦牟尼佛的,但是沒有不知道觀世音菩薩的。
『 thế tôn 』 hạ diện giá tựu thị vấn đáp đích ngôn từ 。 thỉnh giáo thích ca mâu ni phật , vấn quan thế âm bồ tát tha giá cá danh hiệu thị thập ma nhân duyên đắc lai đích ? vi thập ma quan thế âm bồ tát hữu giá ma cao đích thanh vọng , hữu giá ma đại đích danh khí ? đề đáo quan thế âm bồ tát một hữu nhân bất hiểu đắc , kim thiên giảng tri danh độ tối cao 。 ngã môn phật môn lí diện sở hữu đích chư phật bồ tát yếu giảng tri danh độ , quan thế âm bồ tát đệ nhất 。 hữu ngận đa nhân bất hiểu đắc a di đà phật đích , bất tri đạo bản sư thích ca mâu ni phật đích , đãn thị một hữu bất tri đạo quan thế âm bồ tát đích 。
Trước đây tôi có nói với quý vị rằng trong tất cả kinh điển thì bản kinh được nhiều người biết đến nhất là kinh Kim Cương. [Cũng vậy,] trong tất cả chư Phật và Bồ Tát thì được nhiều người biết đến nhất là Bồ Tát Quán Thế Âm. Ý nghĩa câu hỏi của Bồ Tát Vô Tận Ý là ở chỗ này: Vì sao Bồ Tát Quán Thế Âm được nhiều người biết đến như vậy? Do những nhân duyên gì mà ngài có được những thành tựu như vậy?
前面我跟諸位說過,經典裡面知名度最高的是《金剛經》,佛菩薩裡面知名度最高的是觀世音菩薩。無盡意菩薩問的意思就在此地,為什麼他有這麼高的知名度?他是什麼因什麼緣而有這樣的成就?
tiền diện ngã căn chư vị thuyết quá , kinh điển lí diện tri danh độ tối cao đích thị 《 kim cương kinh 》 , phật bồ tát lí diện tri danh độ tối cao đích thị quan thế âm bồ tát 。 vô tận ý bồ tát vấn đích ý tư tựu tại thử địa , vi thập ma tha hữu giá ma cao đích tri danh độ ? tha thị thập ma nhân thập ma duyên nhi hữu giá dạng đích thành tựu ?
Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta giảng đến đây thôi.

今天時間到了,我們就講到此地。
kim thiên thời gian đáo liễu , ngã môn tựu giảng đáo thử địa 。

    « Xem chương trước «      « Sách này có 4 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Vì sao tôi khổ


Lục tổ Đại sư - Con người và huyền thoại


Phát tâm Bồ-đề


Công đức phóng sinh

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.137.170.183 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Ngọc Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Thiện Diệu Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Văn Minh Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Thiền Khách Rộng Mở Tâm Hồn nước Rộng Mở Tâm Hồn Bui Tuyet Lan Rộng Mở Tâm Hồn Xuân Thôn Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Độ Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn Pháp Tâm Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Yduongvan Rộng Mở Tâm Hồn Trí Tuệ Từ Bi Rộng Mở Tâm Hồn Tiến Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Hoat Khong ... ...

Hoa Kỳ (100 lượt xem) - Việt Nam (76 lượt xem) - French Southern Territories (14 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - Algeria (1 lượt xem) - Nga (1 lượt xem) - ... ...