Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Không có sự việc nào tự thân nó được xem là tốt hay xấu, nhưng chính tâm ý ta quyết định điều đó. (There is nothing either good or bad but thinking makes it so.)William Shakespeare
Như cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó tiếp xúc, người ngu cũng không thể hiểu được trí tuệ của người khôn ngoan, dù có được thân cận với bậc thánh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Giảng giải Kinh Phổ Môn »» Xem đối chiếu Anh Việt: Bài giảng thứ tư »»

Giảng giải Kinh Phổ Môn
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Bài giảng thứ tư

Donate

(Lượt xem: 1.127)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  Vietnamese || Chinese || Tải về bảng song ngữ


       

Điều chỉnh font chữ:

Bài giảng thứ tư

第四集

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

PHẨM PHỔ MÔN - BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Hoa Tạng Đồ Thư Quán, Cảnh Mỹ, [Đài Bắc], Đài Loan

Bài giảng thứ tư - Tháng 12 năm 1983

Số lưu trữ: 08-004-0004  
妙法蓮華經觀世音菩薩普門品(第四集)1983/12台灣景美華藏圖書館檔名:08-004-0004
diệu pháp liên hoa kinh quan thế âm bồ tát phổ môn phẩm ( đệ tứ tập ) 1 9 8 3 / 1 2 đài loan cảnh mĩ hoa tạng đồ thư quán đáng danh : 0 8 - 0 0 4 - 0 0 0 4
Mời quý vị mở [sách Pháp Hoa Kinh Đại Thành, quyển hạ], trang 802. Chúng ta sẽ xem phần giảng giải. Quý vị đếm ngược từ bên trái sang đến hàng thứ năm, câu thứ hai: “Từ chữ Thế Tôn[1] trở đi...” Bây giờ tôi sẽ đọc lên mấy câu từ trong sách:
請掀開經本八O二頁,我們看註解,諸位從倒數第五行第二句,「世尊下」,我把這個文念一念:
thỉnh hiên khai kinh bản bát O nhị hiệt , ngã môn khán chú giải , chư vị tùng đảo số đệ ngũ hành đệ nhị cú , 「 thế tôn hạ 」 , ngã bả giá cá văn niệm nhất niệm :
“Từ chữ Thế Tôn trở đi, thưa hỏi về Bồ Tát Quán Âm, ý muốn nói về việc danh hiệu của ngài vang xa, được tôn kính trong khắp pháp giới, các bậc hiền thánh đều thuận theo. Danh hiệu như thế không phải tự nhiên mà có, phải nhân nơi ý nghĩa mà hiển lộ ra. Cho nên, Bồ Tát Quán Âm sở dĩ được gọi là Quán Âm, nhất định phải có nhân duyên mới có danh xưng như vậy. Có rất nhiều nhân duyên, chỉ lược nói tổng quát, lấy hai căn cơ hiền thiện và xấu ác của chúng sanh làm nhân, trí tuệ linh ứng với tâm từ bi của Bồ Tát làm duyên.”
「世尊下,問觀音人,意謂觀音之名,望尊法界,風偃群賢,名不自有,因義而彰。觀音之所以為觀音者,果何因緣,有斯名也。因緣甚多,略言境智,以眾生善惡兩機為因,菩薩靈智慈悲為緣。」
「 thế tôn hạ , vấn quan âm nhân , ý vị quan âm chi danh , vọng tôn pháp giới , phong yển quần hiền , danh bất tự hữu , nhân nghĩa nhi chương 。 quan âm chi sở dĩ vi quan âm giả , quả hà nhân duyên , hữu tư danh dã 。 nhân duyên thậm đa , lược ngôn cảnh trí , dĩ chúng sinh thiện ác lưỡng cơ vi nhân , bồ tát linh trí từ bi vi duyên 。 」
Những câu này thật hết sức quan trọng, thiết yếu, bất kể là nói ra nhiều ít các loại nhân duyên, tất thảy cũng đều không đi ra ngoài hai nguyên tắc nêu ra trong đó. Chúng ta phải nắm hiểu, ghi nhớ những câu này.
這兩句很重要,無論說多少種因緣,都離不開這兩個原則,我們把這兩句把它記住。
giá lưỡng cú ngận trùng yếu , vô luận thuyết đa thiểu chủng nhân duyên , đô li bất khai giá lưỡng cá nguyên tắc , ngã môn bả giá lưỡng cú bả tha kí trụ 。
Tiếp theo, phần sau nói:
下面講,
hạ diện giảng ,
“Đại Kinh nói: ‘Đầy đủ hai pháp trang nghiêm là bậc có thể hỏi, có thể đáp.’[2] Nay Bồ Tát Vô Tận Ý có đầy đủ hai pháp trang nghiêm là định và tuệ cho nên có thể thưa hỏi, đức Như Lai rốt ráo trọn đủ hai pháp trang nghiêm cho nên có thể giải đáp.”
「大經云,具二莊嚴,能問能答。今無盡意具定慧二種莊嚴,故能問,如來究竟二種莊嚴,故能答也」。
「 đại kinh vân , cụ nhị trang nghiêm , năng vấn năng đáp 。 kim vô tận ý cụ định tuệ nhị chủng trang nghiêm , cố năng vấn , như lai cứu cánh nhị chủng trang nghiêm , cố năng đáp dã 」 。
Những câu vấn đáp như vậy thật là thuộc tầm học vấn rất cao, chẳng phải hạng người tầm thường có thể nêu ra được câu hỏi như vậy, cũng chẳng phải hạng người tầm thường có thể giải đáp được vấn đề như vậy. Huống chi đây là câu hỏi về Bồ Tát Quán Thế Âm, một vị Bồ Tát có nhân địa cực kỳ sâu xa, lòng từ bi rộng lớn, cho nên nếu không phải đức Như Lai thì chắc chắn là không ai khác có thể giải đáp được trọn vẹn vấn đề.
這個問答也是大學問,不是一般人都能夠提得出這個問題,也不是泛泛之輩可以解答這個問題。何況是觀世音菩薩,因地非常的深遠,慈悲廣大,若非如來,確實沒有人能夠答覆得圓滿。
giá cá vấn đáp dã thị đại học vấn , bất thị nhất ban nhân đô năng cú đề đắc xuất giá cá vấn đề , dã bất thị phiếm phiếm chi bối khả dĩ giải đáp giá cá vấn đề 。 hà huống thị quan thế âm bồ tát , nhân địa phi thường đích thâm viễn , từ bi quảng đại , nhược phi như lai , xác thật một hữu nhân năng cú đáp phú đắc viên mãn 。
Trong câu này nói đến “Đại kinh”, vậy Đại kinh là chỉ đến kinh nào? Chữ “đại kinh” này không phải chỉ nói đến duy nhất một bộ kinh. Như chúng ta thường nói Đại Kinh là nói đến kinh Hoa Nghiêm, tức Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh. Đây là bộ kinh lớn nhất, quan trọng nhất. Thế nhưng theo tông Thiên Thai thì nói Đại kinh là chỉ kinh Niết-bàn, nên ở đây gọi kinh Đại Bát Niết-bàn là Đại kinh. Kinh Pháp Hoa là kinh điển thực hành chủ yếu của tông Thiên Thai, nhưng ở đây trong bài giảng nói đến Đại kinh đương nhiên là nói đến bộ kinh được tôn trọng nhất, tức là kinh Đại Bát Niết-bàn. Nếu quý vị xem trong các kinh luận của Tịnh độ tông, như chúng ta đã xem qua Di-đà kinh sớ sao. Trong Sớ sao thường trích dẫn “Đại kinh nói rằng”. Tịnh độ tông nói đến Đại kinh thì đó là nói kinh Vô Lượng Thọ. Cho nên, cùng là hai chữ Đại kinh nhưng tùy theo trong mỗi tông phái và sớ luận của tông phái ấy mà chúng ta biết là chỉ đến bộ kinh nào. Đó là điều chúng ta phải hiểu rõ.[3]
此地有個「大經」,大經是指什麼?他並沒有指出哪一部經。在一般我們稱大經,就是一般稱,是稱《華嚴經》,《大方廣佛華嚴經》,這是一切經當中最大的。可是天台宗,它稱大經是稱《涅槃經》,稱《大涅槃經》為大經。《法華經》是天台宗主修的經典,所以此地講的大經,當然還是用天台家所尊重的,就是《大涅槃經》。諸位將來看淨土經論裡面,譬如說我們看到《彌陀經疏鈔》,《疏鈔》裡面常常說「大經云」,淨土宗稱大經,是稱《無量壽經》為大經。所以說同樣大經這兩個字,在哪一宗哪一派裡面他們這些註疏,你就曉得他指的是哪部經,這是我們應當要明瞭的。
thử địa hữu cá 「 đại kinh 」 , đại kinh thị chỉ thập ma ? tha tịnh một hữu chỉ xuất ná nhất bộ kinh 。 tại nhất ban ngã môn xưng đại kinh , tựu thị nhất ban xưng , thị xưng 《 hoa nghiêm kinh 》 , 《 đại phương quảng phật hoa nghiêm kinh 》 , giá thị nhất thiết kinh đương trung tối đại đích 。 khả thị thiên đài tông , tha xưng đại kinh thị xưng 《 niết bàn kinh 》 , xưng 《 đại niết bàn kinh 》 vi đại kinh 。 《 pháp hoa kinh 》 thị thiên đài tông chủ tu đích kinh điển , sở dĩ thử địa giảng đích đại kinh , đương nhiên hoàn thị dụng thiên đài gia sở tôn trùng đích , tựu thị 《 đại niết bàn kinh 》 。 chư vị tương lai khán tịnh độ kinh luận lí diện , thí như thuyết ngã môn khán đáo 《 di đà kinh sơ sao 》 , 《 sơ sao 》 lí diện thường thường thuyết 「 đại kinh vân 」 , tịnh độ tông xưng đại kinh , thị xưng 《 vô lượng thọ kinh 》 vi đại kinh 。 sở dĩ thuyết đồng dạng đại kinh giá lưỡng cá tự , tại ná nhất tông ná nhất ba lí diện tha môn giá ta chú sơ , nễ tựu hiểu đắc tha chỉ đích thị ná bộ kinh , giá thị ngã môn ưng đương yếu minh liệu đích 。
Đây là nói theo trong kinh Niết-bàn giảng giải, phải có đủ hai pháp trang nghiêm thì mới có khả năng nêu câu hỏi, phải rốt ráo trọn đủ hai pháp trang nghiêm thì mới có khả năng giải đáp. Bồ Tát Vô Tận Ý có đầy đủ hai pháp trang nghiêm là định và tuệ. Đó mới là sự trang nghiêm chân thật.
這就是《涅槃經》裡面所講的,要具足兩種莊嚴才能問,要究竟圓滿兩種莊嚴才能解答。無盡意菩薩具足兩種莊嚴,這才叫真正的莊嚴。
giá tựu thị 《 niết bàn kinh 》 lí diện sở giảng đích , yếu cụ túc lưỡng chủng trang nghiêm tài năng vấn , yếu cứu cánh viên mãn lưỡng chủng trang nghiêm tài năng giải đáp 。 vô tận ý bồ tát cụ túc lưỡng chủng trang nghiêm , giá tài khiếu chân chính đích trang nghiêm 。
Chúng ta mỗi ngày đọc kệ hồi hướng đều có câu “trang nghiêm cõi Phật”, chúng ta dùng những gì để trang nghiêm? Là dùng những thứ như hương hoa trà nước, những món lễ vật nọ kia để trang nghiêm. Đó hoàn toàn chỉ là những việc bên ngoài, hoàn toàn chỉ là hình thức biểu hiện mà thôi. Sự trang nghiêm chân thật chính là các pháp định và tuệ.
我們每天念迴向偈「莊嚴佛國土」,我們拿什麼去莊嚴?以香花、水果拿這些東西來莊嚴,這完全是表面工作,完全是表面的,真正的莊嚴是定慧。
ngã môn mỗi thiên niệm hồi hướng kệ 「 trang nghiêm phật quốc độ 」 , ngã môn nã thập ma khứ trang nghiêm ? dĩ hương hoa 、 thuỷ quả nã giá ta đông tây lai trang nghiêm , giá hoàn toàn thị biểu diện công tác , hoàn toàn thị biểu diện đích , chân chính đích trang nghiêm thị định tuệ 。
Bồ Tát Vô Tận Ý là bậc Bồ Tát Đẳng giác, có đủ hai pháp định và tuệ, cho nên ngài có khả năng nêu câu hỏi. Đức Như Lai là bậc chứng quả vô thượng nên không cần phải nói nhiều, tất nhiên là đối với các pháp định tuệ ngài đều viên mãn, rốt ráo viên mãn, cho nên đức Như Lai có khả năng giải đáp. Trong câu kinh này là Bồ Tát Vô Tận Ý nêu vấn đề thưa hỏi, tiếp theo phần sau là đức Phật Thích-ca Mâu-ni giải đáp cho câu hỏi.
無盡意菩薩也是等覺菩薩,具足定慧,他能問。如來在果地上,那更不必說了,定慧都圓滿了,究竟圓滿,所以如來能答。現在是無盡意菩薩把這個問題提出來,下面釋迦牟尼佛給他解答。
vô tận ý bồ tát dã thị đẳng giác bồ tát , cụ túc định tuệ , tha năng vấn 。 như lai tại quả địa thượng , na canh bất tất thuyết liễu , định tuệ đô viên mãn liễu , cứu cánh viên mãn , sở dĩ như lai năng đáp 。 hiện tại thị vô tận ý bồ tát bả giá cá vấn đề đề xuất lai , hạ diện thích ca mâu ni phật cấp tha giải đáp 。
Thật ra, Bồ Tát Vô Tận Ý chỉ là thay chúng ta thưa thỉnh, vì không có lẽ nào mà ngài lại không biết. Chính chúng ta mới không hiểu biết, cho nên ngài thay chúng ta thưa hỏi Phật. Đức Phật giải đáp cho ngài, thật ra chính là vì chúng ta mà thuyết pháp, dạy cho chúng ta biết về Bồ Tát Quán Thế Âm, về nhân duyên thuở xưa của ngài cùng với công đức sự nghiệp làm lợi ích chúng sanh.
其實無盡意菩薩是代我們啟請的,他哪有不知道的!是我們不曉得,代替我們發問。佛給他解答就是給我們說法,告訴我們觀世音菩薩這麼一個人,他的本跡因緣,以及利益眾生的這些功德事業。
kì thật vô tận ý bồ tát thị đại ngã môn khải thỉnh đích , tha ná hữu bất tri đạo đích ! thị ngã môn bất hiểu đắc , đại thế ngã môn phát vấn 。 phật cấp tha giải đáp tựu thị cấp ngã môn thuyết pháp , cáo tố ngã môn quan thế âm bồ tát giá ma nhất cá nhân , tha đích bản tích nhân duyên , dĩ cập lợi ích chúng sinh đích giá ta công đức sự nghiệp 。
Mời quý vị tiếp tục xem trong sách, phần trước có 4 hàng đều là ý nghĩa phân đoạn, chúng ta xem qua câu này.
請看經文,前面有四行半都是科判,我們也把它念一念。
thỉnh khán kinh văn , tiền diện hữu tứ hành bán đô thị khoa phán , ngã môn dã bả tha niệm nhất niệm 。
“Đức Như Lai rủ lòng từ giải đáp.” Phần kinh văn tiếp theo đây là một đoạn lớn, dùng câu này làm tiêu đề. Qua tiêu đề ấy chúng ta có thể hiểu được nội dung của đoạn lớn này. Đoạn lớn này lại chia thành 3 đoạn vừa. Đoạn thứ nhất là “giải đáp tổng quát”, đoạn thứ hai là “giải đáp cụ thể”, đoạn thứ ba là “khuyên trì niệm danh hiệu”.
「如來垂答」,下面的經文這是一大段,這大段的標題,從這個標題我們就曉得底下一段經文的內容。這裡面分成三個中段,第一段是「總答」,第二段是「別答」,第三段是「勸持名」。
「 như lai thùy đáp 」 , hạ diện đích kinh văn giá thị nhất đại đoạn , giá đại đoạn đích tiêu đề , tùng giá cá tiêu đề ngã môn tựu hiểu đắc để hạ nhất đoạn kinh văn đích nội dong 。 giá lí diện phân thành tam cá trung đoạn , đệ nhất đoạn thị 「 tổng đáp 」 , đệ nhị đoạn thị 「 biệt đáp 」 , đệ tam đoạn thị 「 khuyến trì danh 」 。
“Giải đáp 3 đoạn này tức là 14 công đức vô úy trong kinh Thủ-lăng-nghiêm. Trong kinh ấy, Bồ Tát tự trình bày.”
「答此三科,即楞嚴十四無畏功德,彼經菩薩自陳」,
「 đáp thử tam khoa , tức lăng nghiêm thập tứ vô úy công đức , bỉ kinh bồ tát tự trần 」 ,
Nói “kinh ấy” là chỉ kinh Thủ-lăng-nghiêm, trong pháp hội Bồ Tát Quán Thế Âm tự nói ra việc ngài chứng đắc 14 công đức vô úy như thế nào, nhưng trong kinh Pháp Hoa này thì là do đức Phật nói ra.
彼經是指楞嚴會上,觀世音菩薩自己說出來的,他是怎麼證得十四種無畏功德;而在法華會上,是佛所說出來。
bỉ kinh thị chỉ lăng nghiêm hội thượng , quan thế âm bồ tát tự kỉ thuyết xuất lai đích , tha thị chẩm ma chứng đắc thập tứ chủng vô úy công đức ; nhi tại pháp hoa hội thượng , thị phật sở thuyết xuất lai 。
“Kinh ấy nêu rõ nguyên nhân, kinh này nói về quả đức.”
「彼從因陳,此從果彰」,
「 bỉ tùng nhân trần , thử tùng quả chương 」 ,
Tại pháp hội Lăng-nghiêm, Bồ Tát Quán Âm nói ra ngài đã tu nhân như thế nào, đạt được quả báo như thế nào để giải thích rõ về sự tu chứng của tự thân mình. Trong kinh Pháp Hoa này thì hoàn toàn dựa trên quả vị Bồ Tát của ngài làm lợi ích chúng sanh để nói, cho nên không có câu nào để nói về nhân tu tập của ngài cả.
楞嚴會上,觀音菩薩是說他修什麼樣的因,得什麼樣的果報,說明他自己的修證;本經完全是從菩薩果地上利生作用來說的,所以每一句裡頭並沒有說明修因。
lăng nghiêm hội thượng , quan âm bồ tát thị thuyết tha tu thập ma dạng đích nhân , đắc thập ma dạng đích quả báo , thuyết minh tha tự kỉ đích tu chứng ; bản kinh hoàn toàn thị tùng bồ tát quả địa thượng lợi sinh tác dụng lai thuyết đích , sở dĩ mỗi nhất cú lí đầu tịnh một hữu thuyết minh tu nhân 。
Chúng ta đọc kinh điển nhất thiết phải có một cái nhìn chung, tổng hợp các kinh. Nếu không hợp lại nhìn chung thì phẩm kinh Phổ Môn này thật rất khó tin nhận, cũng giống như những gì đức Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết giảng ở pháp hội Di-đà, quả thật là “nan tín chi pháp” (pháp khó tin nhận).
經典一定要合起來看,不合起來看,這「普門品」那真是難信之法,跟釋迦牟尼佛在彌陀會上是一樣的說法,確實是難信之法。
kinh điển nhất định yếu hợp khởi lai khán , bất hợp khởi lai khán , giá 「 phổ môn phẩm 」 na chân thị nan tín chi pháp , căn thích ca mâu ni phật tại di đà hội thượng thị nhất dạng đích thuyết pháp , xác thật thị nan tín chi pháp 。
“Kinh ấy chỉ nêu rõ năng lực cảm ứng”, kinh ấy tức là chỉ kinh Lăng-nghiêm; “kinh này nêu rõ cả căn cơ và sự cảm ứng”.
「彼經但明能應」,彼經是指《楞嚴經》,「此經雙明機應」。
「 bỉ kinh đãn minh năng ưng 」 , bỉ kinh thị chỉ 《 lăng nghiêm kinh 》 , 「 thử kinh song minh cơ ưng 」 。
Tại pháp hội Lăng-nghiêm, chỉ riêng Bồ Tát Quán Âm tự nói ra, trình bày về phương diện khả năng cảm ứng của tự thân ngài. Còn ở kinh Pháp Hoa, trong phẩm Phổ môn này nêu rõ việc chúng sanh có sự chiêu cảm thì Bồ Tát có sự cảm ứng, sự cảm ứng giao hòa giữa hai bên đều được nói rõ.   
楞嚴會上,觀音菩薩只說,說他自己本身能應的這方面;而《法華經》裡面「普門品」,是把眾生有感菩薩有應,感應道交兩面都說到了。
lăng nghiêm hội thượng , quan âm bồ tát chỉ thuyết , thuyết tha tự kỉ bản thân năng ưng đích giá phương diện ; nhi 《 pháp hoa kinh 》 lí diện 「 phổ môn phẩm 」 , thị bả chúng sinh hữu cảm bồ tát hữu ưng , cảm ưng đạo giao lưỡng diện đô thuyết đáo liễu 。
“Hợp cả 2 kinh để luận bàn”, chúng ta thường chỉ xem riêng một bản kinh [Phổ môn này] về Bồ Tát Quán Âm. Trong thực tế nên xem và tổng hợp ý nghĩa trong cả 3 bản kinh thì “mới có thể biết được sự chân thật trong danh xưng của Đại sĩ”. Tổng hợp cả 3 bản kinh thì ý nghĩa mới trọn vẹn, đầy đủ. Vì thế, quý vị nên tận dụng những lúc có thời gian rãnh rỗi mà đọc thêm chương Quán Tự Tại trong kinh Hoa nghiêm. Đọc thật kỹ chương kinh ấy một lần rồi thì mới hiểu được chúng ta nên thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm theo phương pháp như thế nào.
「兩經合論」,我們讀觀世音菩薩經,實際上應當把三經合起來看,「方知大士名稱其實」。三經合起來看,意思就更圓滿了。所以諸位,利用空閒的時間,可以把《華嚴經》裡面這一章「觀自在章」把它看一遍,細細的看一遍。看一遍之後,就曉得我們受持觀世音菩薩名號應當怎樣持法。
「 lưỡng kinh hợp luận 」 , ngã môn độc quan thế âm bồ tát kinh , thật tế thượng ưng đương bả tam kinh hợp khởi lai khán , 「 phương tri đại sĩ danh xưng kì thật 」 。 tam kinh hợp khởi lai khán , ý tư tựu canh viên mãn liễu 。 sở dĩ chư vị , lợi dụng không nhàn đích thời gian , khả dĩ bả 《 hoa nghiêm kinh 》 lí diện giá nhất chương 「 quan tự tại chương 」 bả tha khán nhất biến , tế tế đích khán nhất biến 。 khán nhất biến chi hậu , tựu hiểu đắc ngã môn thụ trì quan thế âm bồ tát danh hiệu ưng đương chẩm dạng trì pháp 。
Hiện tại chúng ta thường chỉ chú trọng ở việc trì niệm danh hiệu. Đại sư Thanh Lương trong sách Chú giải Hoa nghiêm kinh có dạy ta rằng:
現前我們只偏重在持名,清涼大師在《華嚴經》註解裡面告訴我們,
hiện tiền ngã môn chỉ thiên trùng tại trì danh , thanh lương đại sư tại 《 hoa nghiêm kinh 》 chú giải lí diện cáo tố ngã môn ,
“Niệm danh hiệu bằng miệng, dùng khẩu nghiệp mà thọ trì, nếu được sự cảm ứng của Bồ Tát thì Bồ Tát ứng hiện giúp cho được thoát khỏi 7 loại tai nạn. Dùng ý nghiệp mà thọ trì, tức là trong tâm thường nhớ nghĩ không quên, thì mới có khả năng dứt trừ được ba độc: tham, sân, si.[4] Dùng thân thể lễ bái Bồ Tát thì cảm ứng được hai sự mong cầu.”[5]
口念,口業受持名號,與菩薩所感應的,菩薩是來應免除七難;意業的受持,就是心裡面常常憶持,才能夠滅三毒;身體的禮拜,才能應二求。
khẩu niệm , khẩu nghiệp thụ trì danh hiệu , dữ bồ tát sở cảm ưng đích , bồ tát thị lai ưng miễn trừ thất nan ; ý nghiệp đích thụ trì , tựu thị tâm lí diện thường thường ức trì , tài năng cú diệt tam độc ; thân thể đích lễ bái , tài năng ưng nhị cầu 。
Như vậy có thể thấy được rằng, tu tập pháp môn Quán Âm này ắt phải thọ trì bằng cả ba nghiệp thân, khẩu, ý. Nếu chỉ duy nhất dùng khẩu nghiệp để trì niệm thì quý vị chỉ được một phần ba công đức mà thôi. Cho nên, vào lúc sáng sớm có chút thời gian, quý đồng học nam ở bên Phật đường Thất Lâu nên thường lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm. Tốt nhất là có thể lễ bái trong khoảng thời gian tàn một cây hương, tức là vào khoảng 30 đến 40 phút. Quý đồng học nữ số lượng ít hơn, cũng có thể đến đó lễ bái, có thể lễ bái ở phạm vi bên cạnh. Khi miệng niệm và trong tâm nhớ nghĩ, cộng thêm sự lễ bái thì ba nghiệp cùng chiêu cảm thỉnh cầu, Bồ Tát nhất định sẽ có sự cảm ứng. Quý vị đọc kinh Hoa nghiêm thì có thể hiểu được như vậy.
可見得,修觀音法門必須三業受持,單單口業,你只得三分之一的功德。所以在早晚有時間的時候,你們男同學住在七樓的佛堂,可以多多的拜觀世音菩薩,最好能夠拜一支香,大概一支香是半小時到四十分鐘。女同學人數比較少一點,就可以在此地來拜,可以到這邊來拜。口誦、心裡面憶持、再加上禮拜,三業求感,菩薩必定有應。這諸位讀《華嚴經》你就曉得了。
khả kiến đắc , tu quan âm pháp môn tất tu tam nghiệp thụ trì , đạn đạn khẩu nghiệp , nễ chỉ đắc tam phân chi nhất đích công đức 。 sở dĩ tại tảo vãn hữu thời gian đích thời hậu , nễ môn nam đồng học trụ tại thất lâu đích phật đường , khả dĩ đa đa đích bái quan thế âm bồ tát , tối hảo năng cú bái nhất chi hương , đại khái nhất chi hương thị bán tiểu thời đáo tứ thập phân chung 。 nữ đồng học nhân số tỉ giác thiểu nhất điểm , tựu khả dĩ tại thử địa lai bái , khả dĩ đáo giá biên lai bái 。 khẩu tụng 、 tâm lí diện ức trì 、 tái gia thượng lễ bái , tam nghiệp cầu cảm , bồ tát tất định hữu ưng 。 giá chư vị độc 《 hoa nghiêm kinh 》 nễ tựu hiểu đắc liễu 。
Tiếp theo kinh văn nói:
下面經文:
hạ diện kinh văn :
“Đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: Thiện nam tử! Nếu có vô số trăm ngàn vạn ức chúng sanh.”
【佛告無盡意菩薩。善男子。若有無量百千萬億眾生。】
【 phật cáo vô tận ý bồ tát 。 thiện nam tử 。 nhược hữu vô lượng bá thiên vạn ức chúng sinh 。 】
Đây là tiểu đoạn thứ nhất trong đoạn “giải đáp tổng quát”, là tiểu đoạn “nêu lên số lượng chúng sanh”. Xem từ đoạn kinh này trở đi thì thấy rõ đức Bồ Tát Quán Thế Âm quả thật là thần thông quảng đại.
這是總答裡面第一個小段,小段是「舉人數」。從這一段來看,觀世音菩薩確實神通廣大。
giá thị tổng đáp lí diện đệ nhất cá tiểu đoạn , tiểu đoạn thị 「 cử nhân số 」 。 tùng giá nhất đoạn lai khán , quan thế âm bồ tát xác thật thần thông quảng đại 。
Trong sách nói “căn cơ trong mười pháp giới”, căn cơ là chỉ đến chúng sanh, là nói những chúng sanh gặp tai nạn, không chỉ nói riêng trong thế giới Ta-bà này, mà là trong vô lượng vô biên thế giới, nên chúng sanh gặp khổ nạn cũng là vô lượng vô biên.
「十法界機」,機就是指眾生,這些有災難的眾生,不只我們這個娑婆世界,世界無量無邊,受苦難的眾生更是無量無邊。
「 thập pháp giới cơ 」 , cơ tựu thị chỉ chúng sinh , giá ta hữu tai nan đích chúng sinh , bất chỉ ngã môn giá cá sa bà thế giới , thế giới vô lượng vô biên , thụ khổ nan đích chúng sinh canh thị vô lượng vô biên 。
“Nhưng nói ‘trăm ngàn vạn ức’ không phải là nói chúng sanh trong mười pháp giới cộng lại mà có con số đó.”
「而言百千萬億者,非謂十界共有此數」,
「 nhi ngôn bá thiên vạn ức giả , phi vị thập giới cộng hữu thử số 」 ,
Câu giảng giải này rất hay. “Đây là nói cho mọi người biết mỗi một loại nghiệp nhân của chúng sanh.” Nghiệp là vô lượng vô biên, nên mỗi một loại nghiệp chính là “có vô số trăm ngàn vạn ức chúng sanh”.
這個註註得好,「蓋指一業有如許人」。業無量無邊,每一種業都是『有無量百千萬億眾生』。
giá cá chú chú đắc hảo , 「 cái chỉ nhất nghiệp hữu như hứa nhân 」 。 nghiệp vô lượng vô biên , mỗi nhất chủng nghiệp đô thị 『 hữu vô lượng bá thiên vạn ức chúng sinh 』 。
Vô lượng cũng là một chữ số, là chữ số quá lớn, rất lớn. Chúng ta thấy ở đây dùng đến ức (100.000) làm đơn vị thì có thể thấy số lượng nói đến là hết sức rộng lớn.
「無量」也是個數字,數字太大了,你看單位是用億為單位,可見這個數目字之廣大。
「 vô lượng 」 dã thị cá số tự , số tự thái đại liễu , nễ khán đạn vị thị dụng ức vi đạn vị , khả kiến giá cá số mục tự chi quảng đại 。
Phần tiếp theo nêu ra một thí dụ để làm rõ nghĩa trên: “Như trong một địa ngục, chúng sanh cùng chịu một loại khổ não”, lấy sự khổ đó mà suy nghiệm về người, liền hiểu rõ được, “nên biết là cùng chung một loại nghiệp”. Những chúng sanh ấy không phải là tạo cùng một loại nghiệp giống nhau, vì sao lại cùng chịu chung một quả báo? Đó là trường hợp tôi vẫn thường nói là do cộng nghiệp chiêu cảm. Theo đó mà suy ra thì chúng sanh sinh vào một cảnh giới nào, nhận chịu một loại quả báo nào, “cũng đều là như vậy”. Cho nên, chữ số vô lượng này là chỉ đến một loại nghiệp, một loại quả báo, “cho nên biết rằng con số đó là để nêu ý cùng chung một loại nghiệp”.
下面舉一個例來說明,「如一地獄,同受一苦」,以這個苦來驗人,就曉得「知同一業」。他不是造同樣的業,他怎麼會受同樣的報?這就是我們常講的共業所感。以此類推,其他的任何一道,任何一種果報,「皆亦如是」。所以這個數目字是指一種業、一種報來講的,「故知此數,是標同業之意」。
hạ diện cử nhất cá lệ lai thuyết minh , 「 như nhất địa ngục , đồng thụ nhất khổ 」 , dĩ giá cá khổ lai nghiệm nhân , tựu hiểu đắc 「 tri đồng nhất nghiệp 」 。 tha bất thị tạo đồng dạng đích nghiệp , tha chẩm ma hội thụ đồng dạng đích báo ? giá tựu thị ngã môn thường giảng đích cộng nghiệp sở cảm 。 dĩ thử loại suy , kì tha đích nhâm hà nhất đạo , nhâm hà nhất chủng quả báo , 「 giai diệc như thị 」 。 sở dĩ giá cá số mục tự thị chỉ nhất chủng nghiệp 、 nhất chủng báo lai giảng đích , 「 cố tri thử số , thị tiêu đồng nghiệp chi ý 」 。
“Đây là nêu chung căn cơ của chúng sanh rất nhiều.” Nói căn cơ thì phần trước đã giảng qua, có căn cơ hiền thiện, có căn cơ xấu ác, dù thiện hay ác cũng đều có thể cảm ứng giao hòa cùng Bồ Tát. Phần sau sẽ nói rõ điều này với quý vị.
「此舉境眾機多」,機是根機,前面講過,有善的根機、有惡的根機,善與惡與菩薩都能感應道交,下面會跟諸位說到的。
「 thử cử cảnh chúng cơ đa 」 , cơ thị căn cơ , tiền diện giảng quá , hữu thiện đích căn cơ 、 hữu ác đích căn cơ , thiện dữ ác dữ bồ tát đô năng cảm ưng đạo giao , hạ diện hội căn chư vị thuyết đáo đích 。
“Làm rõ việc Bồ Tát có sự quán sát sâu xa”, quán sát là công phu của tự thân Bồ Tát, công phu này rất sâu xa, “cảm ứng lớn rộng”, bất kể ở nơi đâu, khi chúng sanh có sự chiêu cảm thì Bồ Tát đều có sự ứng hiện.
「以顯菩薩觀深」,觀是他自己的功夫,他的功夫深,「應大」,無論在什麼地方,眾生有感他就有應。
「 dĩ hiển bồ tát quan thâm 」 , quan thị tha tự kỉ đích công phu , tha đích công phu thâm , 「 ưng đại 」 , vô luận tại thập ma địa phương , chúng sinh hữu cảm tha tựu hữu ưng 。
Kinh văn nói tiếp, những chúng sanh rất nhiều như vậy “đang chịu đựng các điều khổ não”.
這麼多眾生: 【受諸苦惱。】
giá ma đa chúng sinh : 【 thụ chư khổ não 。 】
Câu kinh này là một tiểu đoạn tiếp theo, là tiểu đoạn “nêu tổng quát về chúng sanh gặp khổ não”. Câu này là nói nghĩa tổng quát.
這一句就是一個小段,「總明遭苦」,這句是總說。
giá nhất cú tựu thị nhất cá tiểu đoạn , 「 tổng minh tao khổ 」 , giá cú thị tổng thuyết 。
Trong phần giảng giải nói: “Đây là nêu việc gặp những khổ ách, tự thân có nhiều sự khổ.” Đây là nói khổ khổ, như tôi thường giảng về ba loại khổ, trong đó có khổ khổ; bao gồm hoại khổ, hành khổkhổ khổ. Ba loại khổ này bao gồm tất cả mọi nỗi khổ.
註解裡面講,「此舉現遭苦厄也,自有多苦苦」,這是我們講的三種苦裡面有苦苦、有壞苦、有行苦,苦苦裡面這三類苦統統都包含了。
chú giải lí diện giảng , 「 thử cử hiện tao khổ ách dã , tự hữu đa khổ khổ 」 , giá thị ngã môn giảng đích tam chủng khổ lí diện hữu khổ khổ 、 hữu hoại khổ 、 hữu hành khổ , khổ khổ lí diện giá tam loại khổ thống thống đô bao hàm liễu 。
“Một chúng sanh hoặc nhiều chúng sanh cùng chịu một nỗi khổ; một chúng sanh chịu nhiều nỗi khổ; hoặc một chúng sanh chịu ít nỗi khổ”, đó đều là nêu các trường hợp tiêu biểu để nói.
「一人、多人受一苦,一人受多苦,一人受少苦」,這都是舉例而言。
「 nhất nhân 、 đa nhân thụ nhất khổ , nhất nhân thụ đa khổ , nhất nhân thụ thiểu khổ 」 , giá đô thị cử lệ nhi ngôn 。
“Trong kinh này”, tức là nói trong bản kinh đang giảng giải đây có nói, “trăm ngàn vạn ức” là nói rất nhiều người, “đang chịu đựng các điều khổ não” là nói nhiều nỗi khổ.
「今文」,現在這個經文裡面所說的,「百千萬億」這是人多,『受諸苦惱』這一句是「多苦」。
「 kim văn 」 , hiện tại giá cá kinh văn lí diện sở thuyết đích , 「 bá thiên vạn ức 」 giá thị nhân đa , 『 thụ chư khổ não 』 giá nhất cú thị 「 đa khổ 」 。
Số lượng chúng sanh rất nhiều, lại chịu các nỗi khổ cũng nhiều, nhưng phần trước giảng rằng số chúng sanh tuy nhiều mà chỉ tạo một loại nghiệp, đó là nói theo cách “nêu số nhiều để làm rõ số ít”. Nghiệp của chúng sanh chỉ một loại, nhưng do tạo một loại nghiệp đó mà có rất nhiều chúng sanh phải nhận chịu khổ não.
人眾多,受的苦也多,但是前面那個人眾雖然多,他造一種業,這裡講「舉多顯少」,他業是一種,造的一種業,這麼多人在受苦。
nhân chúng đa , thụ đích khổ dã đa , đãn thị tiền diện na cá nhân chúng tuy nhiên đa , tha tạo nhất chủng nghiệp , giá lí giảng 「 cử đa hiển thiểu 」 , tha nghiệp thị nhất chủng , tạo đích nhất chủng nghiệp , giá ma đa nhân tại thụ khổ 。
Trong sách nói tiếp “rất nhiều khổ não còn có thể cứu được, huống chi chỉ một ít nỗi khổ”. Phần trước nói “trăm ngàn vạn ức”, là nói những chúng sanh cùng một loại nghiệp, cùng chịu một loại khổ não; bây giờ nói các loại khổ não, mỗi loại khổ não tức là một loại nghiệp, như vậy tức là có trăm ngàn vạn ức loại khổ não. Phần trước nêu số lượng như nhau, ở đây nói nghiệp khác nhau, dụng ý là nói đến muôn vạn căn cơ của chúng sanh trong khắp các pháp giới, thật là số lượng không thể nghĩ bàn. “Không thể nghĩ bàn” cũng là chữ để nêu số lượng. Trong những cách nói chỉ số lượng của Ấn Độ thì cách nói này chỉ số lượng lớn nhất.
「多尚能救,況少苦耶。上言百千萬億,是業同者,共受一苦,今言諸苦者,一苦是一業,即有百千萬億苦也。上明數同,此明業別,用此意,歷十法界,萬機之徒,不可說不可說數也。」不可說不可說是數目字,在印度數目字中最大的數目字。
「 đa thượng năng cứu , huống thiểu khổ da 。 thượng ngôn bá thiên vạn ức , thị nghiệp đồng giả , cộng thụ nhất khổ , kim ngôn chư khổ giả , nhất khổ thị nhất nghiệp , tức hữu bá thiên vạn ức khổ dã 。 thượng minh số đồng , thử minh nghiệp biệt , dụng thử ý , lịch thập pháp giới , vạn cơ chi đồ , bất khả thuyết bất khả thuyết số dã 。 」 bất khả thuyết bất khả thuyết thị số mục tự , tại ấn độ số mục tự trung tối đại đích số mục tự 。
Đoạn giảng giải này của Pháp sư Đại Nghĩa thật hết sức rõ ràng. Chúng ta đọc kinh văn, xem qua đoạn giảng giải này rồi thì tự mình nhất định cần có sự cảnh giác. Đây chính là ý nghĩa “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Chúng sanh phàm phu mê hoặc điên đảo nên khi quả báo đến rồi mới biết sợ. Khi ấy, dù sợ cũng không làm gì được nữa, trốn chạy cũng không khỏi. Bồ Tát thấu hiểu rõ ràng ý nghĩa này, cho nên ngay từ lúc tạo nhân các ngài đã hết sức cẩn thận. Tạo nhân chính là tạo nghiệp, cho nên Bồ Tát rất cẩn thận, quyết định không tạo nghiệp. Vì sao vậy? Vì Bồ Tát thấu hiểu rõ việc tạo nghiệp xấu ác thì tương lai phải chịu quả báo khổ não. Có thể hiểu biết rõ ràng như vậy mới gọi là Bồ Tát. Phàm phu không có sự hiểu biết như vậy nên buông thả tâm ý tạo nghiệp, chịu quả báo ngay trong hiện tại, đó là nghiệp nhất định. Đối với nghiệp nhất định thì dù Phật, Bồ Tát cũng không có cách nào cứu được quý vị. Điều này chúng ta nhất thiết phải hiểu rõ. Phần sau tôi sẽ giảng lại về sự cảm ứng giao hòa, việc này không hề đơn giản.
大義法師這一段的註解很明白。我們讀這句經文,看這段註解,自己一定要有警覺。正所謂「菩薩畏因,眾生畏果」,眾生凡夫迷惑顛倒,果報來的時候害怕了,怕也沒有辦法,也逃不過。菩薩就是明白這個道理,所以他在造因的時候他謹慎,造因就是造業,他謹慎,決定不作惡業,為什麼?他曉得惡業後來有苦報。能有這個覺悟,就叫菩薩。凡夫沒有這個覺悟,任意在造作,果報現前了,所謂定業,定業佛菩薩也沒有辦法幫你忙。這是我們一定要曉得的。然後我們再講到這個感應道交,那也不是個簡單事情。
đại nghĩa pháp sư giá nhất đoạn đích chú giải ngận minh bạch 。 ngã môn độc giá cú kinh văn , khán giá đoạn chú giải , tự kỉ nhất định yếu hữu cảnh giác 。 chính sở vị 「 bồ tát úy nhân , chúng sinh úy quả 」 , chúng sinh phàm phu mê hoặc điên đảo , quả báo lai đích thời hậu hại phạ liễu , phạ dã một hữu biện pháp , dã đào bất quá 。 bồ tát tựu thị minh bạch giá cá đạo lí , sở dĩ tha tại tạo nhân đích thời hậu tha cẩn thận , tạo nhân tựu thị tạo nghiệp , tha cẩn thận , quyết định bất tác ác nghiệp , vi thập ma ? tha hiểu đắc ác nghiệp hậu lai hữu khổ báo 。 năng hữu giá cá giác ngộ , tựu khiếu bồ tát 。 phàm phu một hữu giá cá giác ngộ , nhâm ý tại tạo tác , quả báo hiện tiền liễu , sở vị định nghiệp , định nghiệp phật bồ tát dã một hữu biện pháp bang nễ mang 。 giá thị ngã môn nhất định yếu hiểu đắc đích 。 nhiên hậu ngã môn tái giảng đáo giá cá cảm ưng đạo giao , na dã bất thị cá giản đạn sự tình 。
Việc  tạo nghiệp không chỉ nói đến những hành động của thân, gọi là thân nghiệp. Miệng nói ra lời cũng là tạo nghiệp, gọi là khẩu nghiệp, hay ngữ nghiệp, tức nghiệp của lời nói. Cho nên, lời nói nên hạn chế càng ít càng tốt, tránh bớt việc tạo nghiệp. Ngoài ra lại còn một hình thức tạo nghiệp nghiêm trọng nhất là ý niệm, suy nghĩ, tức là ý nghiệp. Khởi tâm suy nghĩ việc thiện, ác cũng tức là tạo nghiệp. Một khi khởi lên ý nghĩ, trong thức a-lại-da liền chứa lại một hạt giống, tức là chủng tử. Chủng tử đó khi gặp nhân duyên thích hợp liền phát khởi hiện hành, nên tất yếu phải chịu quả báo. Chúng ta cần phải thực sự hiểu rõ ý nghĩa này.
造業,不但身,身體動作是業,身業;口中的言語是語業,所以言語愈少愈好,避免造業。另外一個最嚴重的,就是念頭,意業,起心動念。動一個念頭,阿賴耶識裡頭就下一個種子,那個種子遇到因緣就起現行,就要受報。我們要是真正明白這個道理,
tạo nghiệp , bất đãn thân , thân thể động tác thị nghiệp , thân nghiệp ; khẩu trung đích ngôn ngữ thị ngữ nghiệp , sở dĩ ngôn ngữ dũ thiểu dũ hảo , tị miễn tạo nghiệp 。 lánh ngoại nhất cá tối nghiêm trùng đích , tựu thị niệm đầu , ý nghiệp , khởi tâm động niệm 。 động nhất cá niệm đầu , a lại da thức lí đầu tựu hạ nhất cá chủng tử , na cá chủng tử ngộ đáo nhân duyên tựu khởi hiện hành , tựu yếu thụ báo 。 ngã môn yếu thị chân chính minh bạch giá cá đạo lí ,
Đã vậy thì tại sao trong mỗi một ý niệm lại không niệm tưởng Phật A-di-đà? Với ý nghiệp như vậy thì trong tương lai chính mình rồi cũng sẽ được thành Phật A-di-đà. Đã vậy thì tại sao trong mỗi một ý niệm lại không niệm tưởng Bồ Tát Quán Thế Âm, mà lại khởi lên những vọng tưởng khác? Nếu không có niệm tưởng thì thôi, đã có niệm tưởng thì nên tưởng đến Phật, Bồ Tát. Như vậy thì trong tương lai quả báo của quý vị là sẽ được thành Phật, Bồ Tát. Cho nên cần phải thấu hiểu rõ ràng ý nghĩa này.
為什麼不念念都是念阿彌陀佛?將來我這個業報就自己成了阿彌陀佛。為什麼不念念去念觀音菩薩,去打別的妄想?不打妄想則已,打妄想就想佛菩薩,將來你的果報就變成佛菩薩。所以要懂這個道理。
vi thập ma bất niệm niệm đô thị niệm a di đà phật ? tương lai ngã giá cá nghiệp báo tựu tự kỉ thành liễu a di đà phật 。 vi thập ma bất niệm niệm khứ niệm quan âm bồ tát , khứ đả biệt đích vọng tưởng ? bất đả vọng tưởng tắc dĩ , đả vọng tưởng tựu tưởng phật bồ tát , tương lai nễ đích quả báo tựu biến thành phật bồ tát 。 sở dĩ yếu đổng giá cá đạo lí 。
Việc tốt đẹp trong thế gian chính là hạn chế khởi sinh vọng tưởng. Vì sao vậy? Nói chung về tất cả các nghiệp [dù thiện hay ác] trong sanh tử, đều không thoát ra ngoài ba cõi, đều không tránh khỏi luân hồi. Đã không tránh khỏi sự luân hồi, nói cách khác là không tránh khỏi quả báo khổ não trong ba đường ác. Đó là ý nghĩa chắc chắn phải vậy. Cho nên chúng ta mỗi ngày từ sáng đến tối, khởi tâm động niệm, sao không dùng phép ghi lỗi[6] để tự kiểm điểm? Suốt trong một ngày, rốt lại thì ta khởi lên nhiều ý niệm hiền thiện, hay nhiều ý niệm xấu ác? Là nhiều ý niệm thanh tịnh, hay nhiều ý niệm nhiễm ô? Điều này chúng ta nhất định phải có công phu tự mình kiểm điểm, nhận biết rõ sự thật để phản tỉnh. Nếu như quả thật ta tạo ý nghiệp ô nhiễm rất nhiều, nghiệp thanh tịnh rất ít, thì đạo nghiệp không thể thành tựu. Lại trong những nghiệp ô nhiễm đó, nếu như nghiệp xấu ác rất nhiều, nghiệp hiền thiện rất ít, thì chúng ta nhất định phải đọa vào trong ba đường ác. Cho nên, những việc này đừng hỏi nơi người khác, mà phải tự mình thấu hiểu, biết được rõ ràng. Chúng ta tạo nhân như thế nào, sau này chịu quả báo như thế nào, đó là ý nghĩa nhất định rõ ràng, cần gì phải hỏi nơi người khác?
世間再好的事情,還是少打妄想為妙,為什麼?總而言之生死業,不能出三界,免不了輪迴。既免不了輪迴,換句話說,就免不了三途苦報,這是一定的道理。所以我們從早到晚,起心動念,為什要用功過格來檢點?我們這一天到底是善念多、是惡念多?是淨念多、是染念多?這是自己要做一番檢點的功夫,認真去反省。如果我們的染業多淨業少,道業上不能成就;染業裡頭,如果說惡業多善業少,我們來生必定墮三途。這個東西不必問別人,自己清清楚楚明明白白。我們造什麼樣因,後來結什麼果,這一定的道理,何必得問別人?
thế gian tái hảo đích sự tình , hoàn thị thiểu đả vọng tưởng vi diệu , vi thập ma ? tổng nhi ngôn chi sinh tử nghiệp , bất năng xuất tam giới , miễn bất liễu luân hồi 。 kí miễn bất liễu luân hồi , hoán cú thoại thuyết , tựu miễn bất liễu tam đồ khổ báo , giá thị nhất định đích đạo lí 。 sở dĩ ngã môn tùng tảo đáo vãn , khởi tâm động niệm , vi thập yếu dụng công quá cách lai kiểm điểm ? ngã môn giá nhất thiên đáo để thị thiện niệm đa 、 thị ác niệm đa ? thị tịnh niệm đa 、 thị nhiễm niệm đa ? giá thị tự kỉ yếu tố nhất ba kiểm điểm đích công phu , nhận chân khứ phản tỉnh 。 như quả ngã môn đích nhiễm nghiệp đa tịnh nghiệp thiểu , đạo nghiệp thượng bất năng thành tựu ; nhiễm nghiệp lí đầu , như quả thuyết ác nghiệp đa thiện nghiệp thiểu , ngã môn lai sinh tất định đoạ tam đồ 。 giá cá đông tây bất tất vấn biệt nhân , tự kỉ thanh thanh sở sở minh minh bạch bạch 。 ngã môn tạo thập ma dạng nhân , hậu lai kết thập ma quả , giá nhất định đích đạo lí , hà tất đắc vấn biệt nhân ?
Khi khổ nạn đã đến, chúng ta cần phải biết hồi tâm chuyển ý, như câu nói “quay đầu là bờ”, quay đầu tức là sám hối lỗi lầm. Người thực sự giác ngộ rõ biết, chấp nhận quay đầu, đó gọi là chân thật sám hối. Sau khi đã chân thật sám hối rồi, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát mới có được sự cảm ứng giao hòa, mới thực sự có tác dụng. Nếu không phải vậy, chẳng hóa ra Bồ Tát Quán Thế Âm trở thành người bao biện, che chở cho tội ác, là kẻ cầm đầu các thế lực xấu ác trong xã hội, đâu có gì đáng để tôn kính? Chúng ta cứ tạo nhiều tội lỗi, chẳng có gì phải sợ, chỉ cần niệm danh hiệu ngài là được che chở, bảo vệ, như vậy chẳng phải ngài là người cầm đầu những kẻ xấu ác trong xã hội đó sao? Không thể là như vậy, làm gì có sự cảm ứng như thế!
當苦難來了的時候,我們要回心轉意,所謂是回頭是岸,回頭就是懺悔。一個人真正覺悟,肯回頭,這叫真懺悔。真懺悔之後,稱名才有感應道交,才起作用。否則的話,觀音菩薩不就變成了罪惡的包庇所,惡社會惡勢力的頭目了,有什麼可以尊敬?我們造罪業不要緊,我們念幾聲,他就保佑我了,他豈不是惡社會的大頭目了?那就錯了,那怎麼會有感應!
đương khổ nan lai liễu đích thời hậu , ngã môn yếu hồi tâm chuyển ý , sở vị thị hồi đầu thị ngạn , hồi đầu tựu thị sám hối 。 nhất cá nhân chân chính giác ngộ , khẳng hồi đầu , giá khiếu chân sám hối 。 chân sám hối chi hậu , xưng danh tài hữu cảm ưng đạo giao , tài khởi tác dụng 。 phủ tắc đích thoại , quan âm bồ tát bất tựu biến thành liễu tội ác đích bao tí sở , ác xã hội ác thế lực đích đầu mục liễu , hữu thập ma khả dĩ tôn kính ? ngã môn tạo tội nghiệp bất yếu khẩn , ngã môn niệm kỉ thanh , tha tựu bảo hữu ngã liễu , tha khởi bất thị ác xã hội đích đại đầu mục liễu ? na tựu thác liễu , na chẩm ma hội hữu cảm ưng !
Vậy người như thế nào mới có thể cầu được Bồ Tát? Đó là những người đã chân thật quay đầu, sám hối mọi nghiệp chướng, rõ biết những sai trái mình đã làm, từ đó không làm các việc xấu ác, vâng làm theo mọi việc lành. Những người như vậy thì niệm Bồ Tát Quán Âm mới có sự cảm ứng. Bằng như một mặt thì niệm Bồ Tát Quán Âm, cầu xin Bồ Tát gia hộ cho mình tai nạn tiêu trừ, một mặt lại không ngừng tạo nghiệp xấu ác, hạng người như thế thì Bồ Tát cho dù có muốn cứu cũng không thể nào cứu được. Quý vị nên hiểu rõ ý nghĩa này: Phải chân thật sám hối lỗi lầm.
什麼人有資格求?真正回頭的人,懺悔業障,曉得自己做錯了,諸惡莫作,眾善奉行,這種人念觀音菩薩才有感應。一面念觀音菩薩,求菩薩加持消災免難,一方面還不斷的在造惡業,菩薩看到這個樣子,我想救你也救不了你。諸位要懂這個道理,真正懺悔。
thập ma nhân hữu tư cách cầu ? chân chính hồi đầu đích nhân , sám hối nghiệp chướng , hiểu đắc tự kỉ tố thác liễu , chư ác mạc tác , chúng thiện phụng hành , giá chủng nhân niệm quan âm bồ tát tài hữu cảm ưng 。 nhất diện niệm quan âm bồ tát , cầu bồ tát gia trì tiêu tai miễn nan , nhất phương diện hoàn bất đoạn/đoán đích tại tạo ác nghiệp , bồ tát khán đáo giá cá dạng tử , ngã tưởng cứu nễ dã cứu bất liễu nễ 。 chư vị yếu đổng giá cá đạo lí , chân chính sám hối 。
Kinh văn nói: 
“Nghe biết đến Bồ Tát Quán Thế Âm, một lòng chuyên nhất xưng niệm danh hiệu của ngài.”
【聞是觀世音菩薩。一心稱名。】
【 văn thị quan thế âm bồ tát 。 nhất tâm xưng danh 。 】
Ở đây, ý nghĩa then chốt nằm ở chữ “một lòng chuyên nhất”. Trong mấy dòng tiếp theo, pháp sư Đại Nghĩa cũng giải thích ý nghĩa “một lòng chuyên nhất”. Giải thích tuy đơn giản, yếu lược nhưng cũng rất rõ ràng.
這個地方關鍵的兩個字就在『一心』,下面這幾行大義法師就解釋「一心」,解釋得簡要詳明。
giá cá địa phương quan kiện đích lưỡng cá tự tựu tại 『 nhất tâm 』 , hạ diện giá kỉ hành đại nghĩa pháp sư tựu giải thích 「 nhất tâm 」 , giải thích đắc giản yếu tường minh 。
Quý vị xem như Đại sư Liên Trì trong khi giảng giải kinh A-di-đà cũng giải thích ý nghĩa “một lòng chuyên nhất không tán loạn”. Phần giải thích này rất rõ ràng chi tiết, chiếm đến nửa quyển, tức là khoảng một phần tám của bộ Di-đà kinh sớ sao.
你看蓮池大師在《彌陀經》裡面解釋一心不亂,用了半卷的文字,佔整個《彌陀經疏鈔》的八分之一,解釋得詳細。
nễ khán liên trì đại sư tại 《 di đà kinh 》 lí diện giải thích nhất tâm bất loạn , dụng liễu bán quyển đích văn tự , chiêm chỉnh cá 《 di đà kinh sơ sao 》 đích bát phân chi nhất , giải thích đắc tường tế 。
Chỗ này đơn giản nhưng rất quan trọng, quý vị xem lại những điều tôi mới vừa giảng qua đều có ý nghĩa này.
這個地方簡單扼要,你看看我剛才講的意思此地都有了。
giá cá địa phương giản đạn ách yếu , nễ khán khán ngã cương tài giảng đích ý tư thử địa đô hữu liễu 。
“Do những việc ác trong quá khứ và hiện tại”, đây là nói quá khứ đã tạo nhân xấu ác,hiện tại tạo nhân xấu ác, nên mới “gặp nhiều khổ não”, tức là nhận lấy quả báo, quả báo phải chịu khổ não.
「由過現惡故」,過是過去世造的惡因,現是現在世造的惡因,才「遭諸苦」,得的這些苦果、苦報。
「 do quá hiện ác cố 」 , quá thị quá khứ thế tạo đích ác nhân , hiện thị hiện tại thế tạo đích ác nhân , tài 「 tao chư khổ 」 , đắc đích giá ta khổ quả 、 khổ báo 。
Quý vị cũng cần phải hiểu rằng, trong thế gian không có người nào là hoàn toàn xấu ác, tức là nói người từ xưa đến nay hoàn toàn không làm một việc tốt lành nào. Quý vị cứ thử tìm xem, thật không thể nào tìm được người như vậy. Lại nói có người từ xưa đến nay hoàn toàn chỉ làm những việc hiền thiện, không có một chút xấu ác nào, quý vị cũng không thể tìm thấy được người nào như vậy. Hết thảy chúng sanh vốn đều là xen tạp giữa thiện và ác, chỉ là việc thiện nhiều việc ác ít, hoặc việc ác nhiều việc thiện ít mà thôi.
諸位再要曉得,世間沒有完全的惡人,說這個人從來沒有做一樁善事,你去找找看能不能找得到,找不到的;說世間完全一個善人,從來沒有做一點惡事,你也找不到。一切眾生總是善惡交雜的,就是善多惡少,還是惡多善少。
chư vị tái yếu hiểu đắc , thế gian một hữu hoàn toàn đích ác nhân , thuyết giá cá nhân tùng lai một hữu tố nhất thung thiện sự , nễ khứ hoa hoa khán năng bất năng hoa đắc đáo , hoa bất đáo đích ; thuyết thế gian hoàn toàn nhất cá thiện nhân , tùng lai một hữu tố nhất điểm ác sự , nễ dã hoa bất đáo 。 nhất thiết chúng sinh tổng thị thiện ác giao tạp đích , tựu thị thiện đa ác thiểu , hoàn thị ác đa thiện thiểu 。
Do tạo nghiệp ác nên phải chịu quả báo khổ, “chịu nhiều khổ não”. Lại do trong quá khứ hoặc hiện tại tạo những nghiệp lành nên “lại được nghe biết danh hiệu Bồ Tát”. Quý vị có cơ duyên được nghe đến danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, đọc được kinh điển nói về Bồ Tát Quán Thế Âm, đó đều là nhờ nơi căn lành trong quá khứ, nghiệp lành trong hiện tại của quý vị, cho nên quý vị mới có được những cơ duyên như vậy.
由於造惡,受了苦報,「受諸苦惱」,由過去現在的善業「復得聞名」,你有這個機緣聽到觀世音菩薩的名號,讀到觀世音菩薩的經典,這總是你過去的善根、現世的善業,你才有這個機緣。
do ư tạo ác , thụ liễu khổ báo , 「 thụ chư khổ não 」 , do quá khứ hiện tại đích thiện nghiệp 「 phục đắc văn danh 」 , nễ hữu giá cá cơ duyên thính đáo quan thế âm bồ tát đích danh hiệu , độc đáo quan thế âm bồ tát đích kinh điển , giá tổng thị nễ quá khứ đích thiện căn 、 hiện thế đích thiện nghiệp , nễ tài hữu giá cá cơ duyên 。
“Đó là việc thiện, việc ác bao hàm trong nhau”, trong việc xấu ác có việc hiền thiện, trong việc hiền thiện có việc xấu ác. Nên khi việc thiện khởi lên, có tác dụng, ta nên dùng việc thiện ấy để dứt trừ việc ác, phát khởi tâm lành, tu tập việc thiện, đoạn trừ việc ác. “Hợp nhau thành căn cơ cảm ứng”, đây là một trong những điều kiện để có được sự cảm ứng từ Bồ Tát Quán Thế Âm.
「此以善惡相帶」,惡裡頭帶著善,善裡面帶著有惡。這時候善現行了,起作用,要想用善來斷惡,發了這麼一個心,我要修善斷惡。「合成機感」,這就是與觀世音菩薩感應的第一個條件。
「 thử dĩ thiện ác tướng đái 」 , ác lí đầu đái trước thiện , thiện lí diện đái trước hữu ác 。 giá thời hậu thiện hiện hành liễu , khởi tác dụng , yếu tưởng dụng thiện lai đoạn/đoán ác , phát liễu giá ma nhất cá tâm , ngã yếu tu thiện đoạn/đoán ác 。 「 hợp thành cơ cảm 」 , giá tựu thị dữ quan thế âm bồ tát cảm ưng đích đệ nhất cá điều kiện 。
Vậy người như thế nào có thể cầu được Bồ Tát Quán Thế Âm? Người tu thiện trừ ác như trên là tự có đủ tư cách để cầu Bồ Tát Quán Thế Âm, chỉ có điều cần phải có công phu. “Một lòng chuyên nhất xưng niệm” tức là nói đến công phu. Niệm một câu thánh hiệu như vậy, không phải là dùng tâm tán loạn để niệm, phải dùng tâm chuyên nhất, một lòng xưng niệm.
什麼人有資格求觀世音菩薩?這個人就有資格。他有資格求,但是還得要有功夫,所以『一心稱名』這就是功夫。念這一句聖號不是散亂心去念,要一心稱念。
thập ma nhân hữu tư cách cầu quan thế âm bồ tát ? giá cá nhân tựu hữu tư cách 。 tha hữu tư cách cầu , đãn thị hoàn đắc yếu hữu công phu , sở dĩ 『 nhất tâm xưng danh 』 giá tựu thị công phu 。 niệm giá nhất cú thánh hiệu bất thị tán loạn tâm khứ niệm , yếu nhất tâm xưng niệm 。
“Nói một lòng chuyên nhất, cũng có sự, có lý.” Nói có sự có lý, đương nhiên cũng là có công phu chuyên nhất thành khối, phần tiếp theo sau sẽ giải thích một cách đơn giản để quý vị hiểu.
「一心有事有理」,既有事有理,當然也有功夫成片,下面就簡單跟我們解釋。
「 nhất tâm hữu sự hữu lí 」 , kí hữu sự hữu lí , đương nhiên dã hữu công phu thành phiến , hạ diện tựu giản đạn căn ngã môn giải thích 。
“Nếu dùng tâm còn nhiều ý niệm”, tức là nói tâm ý thức, tâm phân biệt, tâm bám chấp, “niệm niệm tiếp nối nhau, tâm khác không thể xen vào”, quyết định không thể có tạp niệm, một niệm dứt, niệm khác nối liền, liên tục nối nhau như thế, suốt ngày suốt đêm chỉ một câu Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát, không để cho bất kỳ một ý niệm xen tạp nào khác chen vào.
「若用心存念」,這都是意識心,就是分別心、執著心,「念念相續,餘心不間」,決定沒有雜念,一個念頭接著一個念頭,一個念頭接著一個念頭,二六時中就是一句南無觀世音菩薩,沒有一個雜念摻雜在其中。
「 nhược dụng tâm tồn niệm 」 , giá đô thị ý thức tâm , tựu thị phân biệt tâm 、 chấp trước tâm , 「 niệm niệm tướng tục , dư tâm bất gian 」 , quyết định một hữu tạp niệm , nhất cá niệm đầu tiếp trước nhất cá niệm đầu , nhất cá niệm đầu tiếp trước nhất cá niệm đầu , nhị lục thời trung tựu thị nhất cú nam vô quan thế âm bồ tát , một hữu nhất cá tạp niệm sam tạp tại kì trung 。
“Một lòng quy y nương dựa”, quy y là nương theo, nương dựa là dựa theo, “hoàn toàn không có ý nào khác”, là không có bất kỳ một ý niệm nào khác, đó gọi là “một lòng chuyên nhất xưng danh, hiểu theo sự”. Quý vị thử nghĩ xem, công phu trì niệm như vậy mới có thể cảm ứng giao hòa với Bồ Tát Quán Thế Âm, mới có thể khỏi được 7 nạn, trừ được 3 độc, đáp ứng 2 sự mong cầu, tức là có cầu có ứng.
「一心皈憑」,皈是皈依,憑是依靠,「更無二意」,沒有第二個念頭起來,這叫「事一心稱名」。諸位想想,這種功夫與觀音菩薩才能感應道交,才真正能夠免七難、滅三毒、應二求,有求必應。
「 nhất tâm quy bằng 」 , quy thị quy y , bằng thị y kháo , 「 canh vô nhị ý 」 , một hữu đệ nhị cá niệm đầu khởi lai , giá khiếu 「 sự nhất tâm xưng danh 」 。 chư vị tưởng tưởng , giá chủng công phu dữ quan âm bồ tát tài năng cảm ưng đạo giao , tài chân chính năng cú miễn thất nan 、 diệt tam độc 、 ưng nhị cầu , hữu cầu tất ưng 。
Chúng ta niệm Phật A-di-đà cầu vãng sanh Tây phương, cũng là vận dụng cùng một phương pháp, cùng một nguyên lý tương đồng như vậy. Quý vị thử nghĩ xem, công phu như vậy quả thật không hề dễ dàng.
我們念阿彌陀佛,求往生西方,也是用這個方法,原理、方法相同。諸位想想,這個功夫確實不容易。
ngã môn niệm a di đà phật , cầu vãng sinh tây phương , dã thị dụng giá cá phương pháp , nguyên lí 、 phương pháp tướng đồng 。 chư vị tưởng tưởng , giá cá công phu xác thật bất dong dị 。
Nói là không dễ dàng, nhưng cũng không phải là quá khó. Vậy vấn đề khó dễ nằm ở đâu? Vấn đề chính là ở nơi tự thân chúng ta. Tự mình quyết tâm làm thì không khó; tự mình không quyết tâm làm thì rất khó. Khó ở chỗ nào? Khó ở chỗ là không quyết tâm làm, khó ở chỗ là trong một ngày từ sáng đến tối thường khởi sinh vọng tưởng.
說到不容易,但是也不難,問題在哪裡?這個問題是在自己,自己肯做就不難,自己不肯做就難了。難在什麼地方?難在不肯,難在一天到晚要打妄想。
thuyết đáo bất dong dị , đãn thị dã bất nan , vấn đề tại ná lí ? giá cá vấn đề thị tại tự kỉ , tự kỉ khẳng tố tựu bất nan , tự kỉ bất khẳng tố tựu nan liễu 。 nan tại thập ma địa phương ? nan tại bất khẳng , nan tại nhất thiên đáo vãn yếu đả vọng tưởng 。
Cho nên, tu tập pháp môn này sẽ biến tất cả những vọng tưởng của chúng ta thành thánh hiệu Bồ Tát. Đã không khởi niệm thì thôi, một khi khởi niệm thì đều là niệm thánh hiệu Bồ Tát, quyết định không có một niệm tưởng nào khác. Xin nói cho quý vị biết, công đức lợi ích như vậy là không thể nghĩ bàn.
這個法門就是把你所有的妄想統統轉成聖號,不起心動念則已,一起心動念就是菩薩聖號,決定沒有第二個念頭。給諸位說,功德利益不可思議!
giá cá pháp môn tựu thị bả nễ sở hữu đích vọng tưởng thống thống chuyển thành thánh hiệu , bất khởi tâm động niệm tắc dĩ , nhất khởi tâm động niệm tựu thị bồ tát thánh hiệu , quyết định một hữu đệ nhị cá niệm đầu 。 cấp chư vị thuyết , công đức lợi ích bất khả tư nghị !
Bây giờ chúng ta xem phần tiếp theo, giảng đến nghĩa “một lòng chuyên nhất, hiểu theo lý”.
再看下面,講理一心。
tái khán hạ diện , giảng lí nhất tâm 。
“Nếu đạt đến tâm chuyên nhất, hiểu theo sự”, đạt được như vậy là công phu của quý vị đã đến mức chuyên nhất về sự. Một lòng chuyên nhất về sự tức là còn bám chấp nơi hình tướng, một lòng chuyên nhất về lý là lìa khỏi hình tướng. “Tự tha đều dứt lìa”, tự là nói tự thân người niệm, tha là nói Bồ Tát Quán Thế Âm, tức là người được niệm.
「若達事中一心」,達就是達到,你的功夫已經到達事一心;事一心是著相,理一心是離相。「自他俱離」,自是自己能念,他是觀世音菩薩,是我所念的。
「 nhược đạt sự trung nhất tâm 」 , đạt tựu thị đạt đáo , nễ đích công phu dĩ kinh đáo đạt sự nhất tâm ; sự nhất tâm thị trước tướng , lí nhất tâm thị li tướng 。 「 tự tha câu li 」 , tự thị tự kỉ năng niệm , tha thị quan thế âm bồ tát , thị ngã sở niệm đích 。
Thế nào là niệm mà không niệm? Là nói công phu xưng niệm hoàn toàn như trước đã nói, chỉ một danh hiệu Bồ Tát, suốt cả ngày đêm không hề gián đoạn, tâm đang niệm danh hiệu đó cũng không thể nắm bắt, cho đến thánh hiệu được niệm cũng không thể nắm bắt.
念不念?念,功夫還跟前面一樣,這一句名號,二六時中絕無間斷,可是能念之心不可得,所念之聖號也了不可得。
niệm bất niệm ? niệm , công phu hoàn căn tiền diện nhất dạng , giá nhất cú danh hiệu , nhị lục thời trung tuyệt vô gian đoạn/đoán , khả thị năng niệm chi tâm bất khả đắc , sở niệm chi thánh hiệu dã liễu bất khả đắc 。
“Tự tha đều dứt lìa, đều không thể nắm bắt, không có tâm, không có niệm.” Đó chính là niệm mà không niệm, không niệm mà niệm. “Định và tuệ tương ứng nhau, người xưng niệm với danh hiệu được xưng niệm đều không thể nắm bắt. Đó chính là một lòng chuyên niệm về lý.”
「自他俱離,俱不可得,無心無念」,是念而無念,無念而念,「定慧相應,能稱所稱,皆不可得,是為理一心稱名也」。
「 tự tha câu li , câu bất khả đắc , vô tâm vô niệm 」 , thị niệm nhi vô niệm , vô niệm nhi niệm , 「 định tuệ tướng ưng , năng xưng sở xưng , giai bất khả đắc , thị vi lí nhất tâm xưng danh dã 」 。
Nếu như hỏi rằng, một lòng chuyên niệm về lý như vậy thì là có niệm hay không niệm? Quả thật có niệm. Tâm chuyên nhất về lý là không bám chấp hình tướng, nhưng cũng vẫn là suốt ngày trì niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Quán Thế Âm… So với việc một lòng chuyên niệm về sự cũng không hề khác biệt. Chỉ có điều, chuyên nhất về sự thì còn bám chấp nơi hình tướng, chuyên nhất về lý thì dù niệm suốt ngày nhưng không có sự bám chấp nơi hình thức niệm đó. Niệm cho đến mức ba luân đều không,[7] tự mình và đối tượng xưng niệm đều không thể nắm bắt, cũng giống như trong Tâm kinh nói “vô trí diệc vô đắc” (không có trí tuệ, cũng không có gì đạt được), như kinh Lăng-nghiêm cũng nói: “Trọn vẹn đạo Bồ-đề, quy về chỗ không có gì để đạt được.” Đó chính là tâm chuyên nhất không tán loạn về lý.
要問理一心念不念?念,理一心不著相,也是拿著念珠一天到晚觀音菩薩、觀音菩薩、觀音菩薩,跟事一心的人一樣。但事一心他著相,理一心就是一天念到晚,不著相。念到三輪體空,自他俱不可得,像《心經》裡面講的「無智亦無得」,《楞嚴經》上講「圓滿菩提,歸無所得」,那是理一心不亂。
yếu vấn lí nhất tâm niệm bất niệm ? niệm , lí nhất tâm bất trước tướng , dã thị nã trước niệm châu nhất thiên đáo vãn quan âm bồ tát 、 quan âm bồ tát 、 quan âm bồ tát , căn sự nhất tâm đích nhân nhất dạng 。 đãn sự nhất tâm tha trước tướng , lí nhất tâm tựu thị nhất thiên niệm đáo vãn , bất trước tướng 。 niệm đáo tam luân thể không , tự tha câu bất khả đắc , tượng 《 tâm kinh 》 lí diện giảng đích 「 vô trí diệc vô đắc 」 , 《 lăng nghiêm kinh 》 thượng giảng 「 viên mãn bồ đề , quy vô sở đắc 」 , na thị lí nhất tâm bất loạn 。
Tâm chuyên nhất không tán loạn về lý cũng chính là cảnh giới của Bồ Tát Sơ trụ, cũng chính là như trong kinh Lăng-nghiêm nói: “Sanh diệt đã dứt, tịch diệt ngay nơi hiện tiền.” Chữ diệt trong tịch diệt không phải là chữ diệt trong sanh diệt, tuy là viết giống nhau, âm đọc cũng giống nhau nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Chữ diệt trong sanh diệt là nghĩa tương đối, chữ diệt trong tịch diệt là nghĩa xa lìa tương đối, cảnh giới đó mới gọi là tịch diệt. Cho nên, tịch diệt là tự nhiên, không phải tương đối. Cảnh giới như vậy không cách gì có thể nói ra được, cho nên mới nói “dứt mọi ngôn ngữ, diệt mọi tâm hành”, đó mới là cảnh giới chân thật. Theo Viên giáo thì chứng đắc cảnh giới ấy là Bồ Tát Sơ trụ. Hàng Bồ Tát ấy là chỉ mới vừa chứng đắc.
理一心不亂就是初住菩薩的境界,也就是「生滅既滅,寂滅現前」,《楞嚴經》上所講的。寂滅的滅不是生滅的滅,雖然字是一樣,音也一樣,意思完全不相同。生滅的滅那是相對的,寂滅的滅離開了相對,那個境界叫寂滅。所以,寂滅是自然的,不是相對的,那個境界沒有辦法說得出來,所謂是「言語道斷,心行處滅」,決定真實的境界。證得這個境界,在圓教初住菩薩,他剛剛證得。
lí nhất tâm bất loạn tựu thị sơ trụ bồ tát đích cảnh giới , dã tựu thị 「 sinh diệt kí diệt , tịch diệt hiện tiền 」 , 《 lăng nghiêm kinh 》 thượng sở giảng đích 。 tịch diệt đích diệt bất thị sinh diệt đích diệt , tuy nhiên tự thị nhất dạng , âm dã nhất dạng , ý tư hoàn toàn bất tướng đồng 。 sinh diệt đích diệt na thị tướng đối đích , tịch diệt đích diệt li khai liễu tướng đối , na cá cảnh giới khiếu tịch diệt 。 sở dĩ , tịch diệt thị tự nhiên đích , bất thị tướng đối đích , na cá cảnh giới một hữu biện pháp thuyết đắc xuất lai , sở vị thị 「 ngôn ngữ đạo đoạn/đoán , tâm hành xứ diệt 」 , quyết định chân thật đích cảnh giới 。 chứng đắc giá cá cảnh giới , tại viên giáo sơ trụ bồ tát , tha cương cương chứng đắc 。
Cho nên, tâm chuyên nhất không tán loạn về lý là tương đương với hàng Bồ Tát Sơ trụ, tương đương với 41 giai vị Pháp thân Đại sĩ trong kinh Hoa nghiêm, có lý nào lại nói người như vậy mà không cảm ứng giao hòa được với Bồ Tát Quán Thế Âm? Sự hiển lộ của Bồ Tát Quán Thế Âm tại pháp hội Lăng-nghiêm chính là ở hàng Bồ Tát Sơ trụ theo Viên giáo. Công phu tự thân của quý vị nếu đạt được đến mức Bồ Tát Sơ trụ thì mới chân thật có sự cảm ứng giao hòa. Vì thế, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, đều phải thấu hiểu rõ ràng được ý nghĩa này, hiểu rõ được danh hiệu Phật phải xưng niệm theo phương pháp như thế nào.
所以,理一心不亂就相當於初住菩薩,相當於華嚴會上四十一位法身大士,那還能說與觀音菩薩不感應道交的道理嗎?觀音菩薩在楞嚴會上所顯示的就是圓教初住菩薩,你自己功夫也到初住菩薩,這才真正感應道交。所以稱名,念觀音菩薩、念阿彌陀佛都要懂得這個道理,曉得這個佛號怎麼樣念法。
sở dĩ , lí nhất tâm bất loạn tựu tướng đương ư sơ trụ bồ tát , tướng đương ư hoa nghiêm hội thượng tứ thập nhất vị pháp thân đại sĩ , na hoàn năng thuyết dữ quan âm bồ tát bất cảm ưng đạo giao đích đạo lí mạ ? quan âm bồ tát tại lăng nghiêm hội thượng sở hiển thị đích tựu thị viên giáo sơ trụ bồ tát , nễ tự kỉ công phu dã đáo sơ trụ bồ tát , giá tài chân chính cảm ưng đạo giao 。 sở dĩ xưng danh , niệm quan âm bồ tát 、 niệm a di đà phật đô yếu đổng đắc giá cá đạo lí , hiểu đắc giá cá phật hiệu chẩm ma dạng niệm pháp 。
Ban đầu, đương nhiên vẫn phải sử dụng tâm ý thức. Đạt đến mức chuyên tâm không tán loạn thì buông bỏ tâm ý thức, đưa cảnh giới tự tâm của mình hướng lên cao hơn nữa. Nếu nói ngay lúc ban đầu đã có thể lìa bỏ tâm ý thức thì từ xưa đến nay chưa từng thấy ai được như vậy. Trong chỗ tôi biết thì chưa từng có.
開頭當然是用意識心,到達一心不亂了,再把心意識捨掉,把自己境界向上提升。說一開頭就是離心意識,這樣的人自古以來就沒有幾個,那是我們學不到的。
khai đầu đương nhiên thị dụng ý thức tâm , đáo đạt nhất tâm bất loạn liễu , tái bả tâm ý thức xả điệu , bả tự kỉ cảnh giới hướng thượng đề thăng 。 thuyết nhất khai đầu tựu thị li tâm ý thức , giá dạng đích nhân tự cổ dĩ lai tựu một hữu kỉ cá , na thị ngã môn học bất đáo đích 。
Vào lúc tôi bắt đầu học Phật, nói đúng ra chưa hẳn là học Phật, chỉ là bắt đầu được tiếp xúc với Phật pháp, quyển kinh sách đầu tiên mà tôi được đọc là quyển Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục tổ, do Đinh Phúc Bảo chú giải. Đó là trong một chuyến đi chơi đến Đài Trung, tôi ngụ lại ở nhà một người bạn. Trong nhà anh ấy có rất nhiều bản sách xưa. Trong tủ sách của anh ấy, tôi gặp được quyển Pháp Bảo Đàn Kinh, loại sách cổ dùng chỉ khâu ở gáy, hình dạng màu sắc cổ kính. Tôi bỏ ra 3 ngày đọc trọn quyển sách ấy, thấy quả thật có rất nhiều đạo vị.
我記得我剛剛學佛,那還談不上學佛,剛剛接觸佛法,第一部看的經典就是《六祖壇經》,丁福保的註解。是我在一個假期當中到台中去玩,住在一個朋友家裡,他家裡古書很多。我在他書架上看到有一部《六祖壇經》,線裝本的,古色古香,我就拿下來用了三天的時間把它看完,看得非常有味道。
ngã kí đắc ngã cương cương học phật , na hoàn đàm bất thượng học phật , cương cương tiếp xúc phật pháp , đệ nhất bộ khán đích kinh điển tựu thị 《 lục tổ đàn kinh 》 , đinh phúc bảo đích chú giải 。 thị ngã tại nhất cá giả kì đương trung đáo đài trung khứ ngoạn , trụ tại nhất cá bằng hữu gia lí , tha gia lí cổ thư ngận đa 。 ngã tại tha thư giá thượng khán đáo hữu nhất bộ 《 lục tổ đàn kinh 》 , tuyến trang bản đích , cổ sắc cổ hương , ngã tựu nã hạ lai dụng liễu tam thiên đích thời gian bả tha khán hoàn , khán đắc phi thường hữu vị đạo 。
Về sau tôi học Phật, theo học với một bậc thầy chỉ dạy cho tôi rất nhiều điều tốt đẹp trong Phật giáo, đó là tiên sinh Phương Đông Mỹ. Tôi thưa với thầy là tôi có đọc qua Đàn kinh rồi. Thầy nghe xong lắc đầu, chỉ nói với tôi một câu, rằng trước Lục tổ Đại sư thì ở Trung quốc chưa từng có ai như ngài, từ sau Lục tổ cho đến nay, cũng chưa có ai như ngài. Đó là người chỉ có thể xa trông, không thể nào theo kịp, không cách gì có thể học theo. Con người ấy sanh ra đã tự biết, chẳng phải do học mà biết.
以後學佛,頭一個老師是告訴我佛教的好處,就是方東美先生。我就告訴他,我說《壇經》我看過。他聽了之後就搖頭,只給我說了一句話,他說六祖大師之前,我們中國沒有出過這樣的人,六祖大師以後到今天,也沒有出過這樣一個人,在我們中國歷史上只有這麼一個人,那是望塵莫及,沒有法子跟他學的,那個人是生而知之,不是學來的。
dĩ hậu học phật , đầu nhất cá lão sư thị cáo tố ngã phật giáo đích hảo xứ , tựu thị phương đông mĩ tiên sinh 。 ngã tựu cáo tố tha , ngã thuyết 《 đàn kinh 》 ngã khán quá 。 tha thính liễu chi hậu tựu dao đầu , chỉ cấp ngã thuyết liễu nhất cú thoại , tha thuyết lục tổ đại sư chi tiền , ngã môn trung quốc một hữu xuất quá giá dạng đích nhân , lục tổ đại sư dĩ hậu đáo kim thiên , dã một hữu xuất quá giá dạng nhất cá nhân , tại ngã môn trung quốc lịch sử thượng chỉ hữu giá ma nhất cá nhân , na thị vọng trần mạc cập , một hữu pháp tử căn tha học đích , na cá nhân thị sinh nhi tri chi , bất thị học lai đích 。
Lại về sau tôi được gần gũi Đại sư Chương Gia, Đại sư cũng hỏi tôi đã đọc qua được những gì. Tôi thưa với ngài là đã đọc qua Đàn kinh. Đại sư Chương Gia lắc đầu, không nói gì.
而後親近章嘉大師,章嘉大師也問我,你看過什麼?我也告訴他我看過《壇經》。章嘉大師搖頭,不行。
nhi hậu thân cận chương gia đại sư , chương gia đại sư dã vấn ngã , nễ khán quá thập ma ? ngã dã cáo tố tha ngã khán quá 《 đàn kinh 》 。 chương gia đại sư dao đầu , bất hành 。
Sau khi Đại sư Chương Gia viên tịch, tôi đến Đài Trung thân cận với Lý lão sư.[8] Lý lão sư hỏi tôi đã đọc qua những kinh điển nào. Tôi cũng thưa với thầy như vậy, thầy nghe tôi nhắc tên đến Đàn kinh thì cũng lắc đầu.
章嘉大師圓寂之後,我到台中親近李老師,李老師問我看過哪些經典,我一樣一樣告訴他,他聽說《壇經》也搖頭。
chương gia đại sư viên tịch chi hậu , ngã đáo đài trung thân cận lí lão sư , lí lão sư vấn ngã khán quá ná ta kinh điển , ngã nhất dạng nhất dạng cáo tố tha , tha thính thuyết 《 đàn kinh 》 dã dao đầu 。
Cả ba vị thầy đều lắc đầu, đều nói rằng Đàn kinh không thể nào học theo được. Phương tiên sinh thuở ấy bảo tôi phải bắt đầu học từ Duy thức. Thầy nói rằng, trong Thiền tông chỉ có Đàn kinh là độc đáo nhất, có thể nói là dạy người “một bước lên trời”. “Ông học được điều đó, như lên không được mà ngã xuống thì tan xương nát thịt.” Thầy bảo tôi học Duy thức, bảo tôi đọc luận Bách pháp minh môn, đọc các chú giải của Đại sư Khuy Cơ. Thầy nói rằng, Pháp tướng tông nói chung cũng giống như cái thang để lên lầu, khi leo thang có thể cứ từng bậc, từng bậc một mà leo, leo được đến đâu thì lên cao đến đó.
三個老師都搖頭,說《壇經》學不得。方先生那時候叫我從唯識下手,他說禪宗東西,尤其是《壇經》,那叫一步登天,你得有這個本事,登不上去,摔下來那就是粉身碎骨。他叫我學唯識,叫我讀《百法明門論》,讀窺基大師的註解。他說相宗的東西好像是樓梯一樣,爬樓梯,你能夠爬上一層有一層受用。
tam cá lão sư đô dao đầu , thuyết 《 đàn kinh 》 học bất đắc 。 phương tiên sinh na thời hậu khiếu ngã tùng duy thức hạ thủ , tha thuyết thiền tông đông tây , vưu kì thị 《 đàn kinh 》 , na khiếu nhất bộ đăng thiên , nễ đắc hữu giá cá bản sự , đăng bất thượng khứ , suất hạ lai na tựu thị phấn thân toái cốt 。 tha khiếu ngã học duy thức , khiếu ngã độc 《 bá pháp minh môn luận 》 , độc khuy cơ đại sư đích chú giải 。 tha thuyết tướng tông đích đông tây hảo tượng thị lâu thê nhất dạng , ba lâu thê , nễ năng cú ba thượng nhất tằng hữu nhất tằng thụ dụng 。
Như vậy thì quá tốt! Tôi liền đi tìm các sách chú giải của Đại sư Khuy Cơ, nhưng thật cũng không dễ tìm được. Kết quả khi vừa mở ra xem qua một lần, thật giống như đọc thiên thư, dù một câu cũng không hiểu nổi. Thầy nói điều đơn giản dễ dàng nhất, tôi xem qua cũng không hiểu được. Thầy nói điều khó hiểu nhất, lại khó đến mức không thể hiểu được. Tôi thấy Phật pháp thật quả là mênh mông phong phú. Bất quá tôi chỉ còn biết tin theo lời thầy. Đại khái thầy nói là, tuy tôi chưa hiểu được, nhưng chỉ sợ nhất ở chỗ là tương tợ như hiểu mà không phải hiểu, còn tôi nhận biết mình chưa hiểu thì đó thực sự là chưa hiểu.
好,我就去找窺基大師的註解,好不容易找到了,結果翻開一看,像看天書一樣,一句也看不懂。他說最容易的,我看不懂,他說最難,難得不得了的,我看得津津有味。不過我還是相信老師的話,大概我所謂的懂,恐怕是似懂非懂,我認為看不懂的,那就真不懂。
hảo , ngã tựu khứ hoa khuy cơ đại sư đích chú giải , hảo bất dong dị hoa đáo liễu , kết quả phiên khai nhất khán , tượng khán thiên thư nhất dạng , nhất cú dã khán bất đổng 。 tha thuyết tối dong dị đích , ngã khán bất đổng , tha thuyết tối nan , nan đắc bất đắc liễu đích , ngã khán đắc tân tân hữu vị 。 bất quá ngã hoàn thị tướng tín lão sư đích thoại , đại khái ngã sở vị đích đổng , khủng phạ thị tự đổng phi đổng , ngã nhận vi khán bất đổng đích , na tựu chân bất đổng 。
Quý vị xem đó, chuyện sơ sài cạn cợt nhất mà còn không hiểu, những ý nghĩa sâu xa làm sao hiểu được? Huống chi cả 3 bậc thầy đều xác định như nhau, hẳn nhiên phải có chung một ý. Cho nên, học Phật pháp phải có tâm nhẫn nại, cứ chầm chậm dần dần mà thăm dò học hỏi, không được gấp rút, không được sợ sệt, cứ từng bước từng bước mà học tập.
你看最淺的東西不懂,深的道理怎麼會懂?何況三個老師都是這麼印證,總是有一點道理。所以佛法要耐心的去修學,慢慢的去探討,不要著急,不要害怕,按部就班的來學。
nễ khán tối tiên đích đông tây bất đổng , thâm đích đạo lí chẩm ma hội đổng ? hà huống tam cá lão sư đô thị giá ma ấn chứng , tổng thị hữu nhất điểm đạo lí 。 sở dĩ phật pháp yếu nại tâm đích khứ tu học , mạn mạn đích khứ thám thảo , bất yếu trước cấp , bất yếu hại phạ , án bộ tựu ban đích lai học 。
Trong kinh luận của pháp môn Tịnh độ, pháp trì danh niệm Phật được cho là dễ thực hành, nhưng cũng phải có đầy đủ điều kiện. Chính là như trong việc tham thoại đầu nhà thiền có nói: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ chậm biết.” Một câu Phật hiệu của chúng ta cũng chính là thoại đầu, từng giây từng phút phải luôn luôn nắm giữ, nêu cao. Trong tâm không có vọng niệm, không có danh hiệu Phật cũng không hề gì. Một khi vừa khởi vọng niệm, câu Phật hiệu liền lập tức đề khởi. Câu Phật hiệu đó chính là có tác dụng.
淨土經論,持名念佛所謂是易行道,也必須要具備這個條件。正是襌家參話頭裡頭所說的,「不怕念起,只怕覺遲」,我們這一句佛號就是話頭,時時刻刻要提得起來。心裡頭沒有妄念,沒有佛號也沒有關係,一有妄念,佛號立刻就起來,這個佛號它就起作用。
tịnh độ kinh luận , trì danh niệm phật sở vị thị dị hành đạo , dã tất tu yếu cụ bị giá cá điều kiện 。 chính thị đan gia sâm thoại đầu lí đầu sở thuyết đích , 「 bất phạ niệm khởi , chỉ phạ giác trì 」 , ngã môn giá nhất cú phật hiệu tựu thị thoại đầu , thời thời khắc khắc yếu đề đắc khởi lai 。 tâm lí đầu một hữu vọng niệm , một hữu phật hiệu dã một hữu quan hệ , nhất hữu vọng niệm , phật hiệu lập khắc tựu khởi lai , giá cá phật hiệu tha tựu khởi tác dụng 。
Bình thường chúng ta niệm Phật cũng giống như luyện tập quân binh. Vọng niệm vừa khởi lên liện vận dụng để trấn áp, có thể so với một cuộc chiến tranh. Bình thường luyện tập quân binh hết sức chuyên cần, đến lúc có chiến tranh lại không dùng đến, để cho kẻ địch mặc sức tấn công, đó thật là hết sức sai lầm. Khi vọng niệm vừa sinh khởi, phải ngay lập tức vận dụng câu Phật hiệu để trấn áp, đó gọi là dụng công, gọi là xoay chuyển cảnh giới, đó gọi là chân thật niệm Phật. Nếu không phải như vậy thì quý vị sớm tối công phu niệm Phật rốt lại để làm gì? Sớm tối niệm Phật chính là nêu cao tỉnh giác, là rèn luyện quân binh. Trong sinh hoạt hằng ngày, mỗi khi khởi tâm động niệm cần phải ngay nơi ý niệm đó mà chuyển hóa, làm cho vọng tưởng không sinh khởi, như vậy thì quý vị mới có thể đạt đến tâm chuyên nhất không tán loạn về sự. Như vậy thì câu Phật hiệu mới thật sự có chỗ vận dụng.
平常念佛好比練兵,妄念起來了用這個來壓它,好比打仗。平常練兵練得很勤,到了要打仗的時候不會用兵,又讓敵人來進攻,這就大錯特錯了。妄念起來,這時候要拿佛號去壓它,要把妄念轉變為佛號,這叫用功,這叫轉境界,這叫真念佛。否則的話,你早晚功課念了有什麼用處?早晚念佛就是提醒你,就是練兵。生活當中起心動念的時候,要能夠把念頭轉過來,教妄想不生,你才能得事一心不亂,這個佛號真正有用處。
bình thường niệm phật hảo tỉ luyện binh , vọng niệm khởi lai liễu dụng giá cá lai áp tha , hảo tỉ đả trượng 。 bình thường luyện binh luyện đắc ngận cần , đáo liễu yếu đả trượng đích thời hậu bất hội dụng binh , hựu nhượng địch nhân lai tấn công , giá tựu đại thác đặc thác liễu 。 vọng niệm khởi lai , giá thời hậu yếu nã phật hiệu khứ áp tha , yếu bả vọng niệm chuyển biến vi phật hiệu , giá khiếu dụng công , giá khiếu chuyển cảnh giới , giá khiếu chân niệm phật 。 phủ tắc đích thoại , nễ tảo vãn công khoá niệm liễu hữu thập ma dụng xứ ? tảo vãn niệm phật tựu thị đề tỉnh nễ , tựu thị luyện binh 。 sinh hoạt đương trung khởi tâm động niệm đích thời hậu , yếu năng cú bả niệm đầu chuyển quá lai , giáo vọng tưởng bất sinh , nễ tài năng đắc sự nhất tâm bất loạn , giá cá phật hiệu chân chính hữu dụng xứ 。
Đương nhiên là vào lúc mới bắt đầu phải chuyên cần nỗ lực hành trì cho công phu thành khối, đó là vì quý vị hoàn toàn chưa thể dứt trừ được phiền não, chỉ có thể dựa vào sức tu tập để khống chế, kiềm giữ. Có thể liên tục khống chế, kiềm giữ được phiền não, đó là công phu ban đầu, gọi là công phu thành khối. Đến lúc tu tập được như thế thì nhất định có sự cảm ứng của Bồ Tát Quán Thế Âm, thực sự trừ được 7 nạn, tuyệt đối kinh điển không lừa dối người.
當然在最初的過程當中是功夫成片,因為你的煩惱並沒有斷,只是這個力量能夠把它控制得住,能夠壓得住,這是初步功夫,叫功夫成片。到這個時候與觀世音菩薩決定感應,真免七難,絕對不騙人。
đương nhiên tại tối sơ đích quá trình đương trung thị công phu thành phiến , nhân vi nễ đích phiền não tịnh một hữu đoạn/đoán , chỉ thị giá cá lực lượng năng cú bả tha khống chế đắc trụ , năng cú áp đắc trụ , giá thị sơ bộ công phu , khiếu công phu thành phiến 。 đáo giá cá thời hậu dữ quan thế âm bồ tát quyết định cảm ưng , chân miễn thất nan , tuyệt đối bất biển nhân 。
Phần tiếp theo giảng đến công đức “đều được giải thoát”. Kinh văn nói:
底下講這個功德,「即得解脫」。
để hạ giảng giá cá công đức , 「 tức đắc giải thoát 」 。
“Bồ Tát Quán Thế Âm tức thời quán xét theo âm thanh đó, hết thảy đều được giải thoát.”
【觀世音菩薩。即時觀其音聲。皆得解脫。】
【 quan thế âm bồ tát 。 tức thời quan kì âm thanh 。 giai đắc giải thoát 。 】
Phần giảng giải ở đây rất hay: “Kinh văn nói, vừa nghe danh hiệu Bồ Tát liền xưng niệm, đó là nói căn cơ nhanh nhạy; xưng niệm danh hiệu liền có cảm ứng, tức là nói cảm ứng nhanh chóng.” Tốc độ cảm ứng giao hòa thật là rất nhanh chóng.
註子裡頭註得好。「上聞名即稱,是機速,稱名即應,是應速」,感應道交的速度太快了。
chú tử lí đầu chú đắc hảo 。 「 thượng văn danh tức xưng , thị cơ tốc , xưng danh tức ưng , thị ưng tốc 」 , cảm ưng đạo giao đích tốc độ thái khoái liễu 。
Nói “được nghe danh hiệu”, chữ nghe này tức là đối với những lý luận, phương pháp, cảnh giới của danh hiệu đều đã thấu hiểu rõ ràng, mới nói là “được nghe danh hiệu”. Nhờ đó nên khi quý vị niệm một câu Phật hiệu thì luôn đúng pháp, đúng lý đúng pháp. Không phải như người đời chỉ tụng niệm nơi cửa miệng, như vậy chẳng ích gì, như vậy không hề có sự tương ưng. Quý vị hiểu rõ được ý nghĩa này rồi liền khởi sự niệm, niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, niệm Phật A-di-đà, cũng đều như vậy. Khi quý vị niệm một câu, Bồ Tát liền lập tức cảm ứng; quý vị niệm được nhanh, Bồ Tát cảm ứng cũng nhanh.
聞名,這個聞是將理論、方法、境界都懂得了,才叫聞名,因為你這個時候念這一句佛號就如法,如理如法。不是一般像口裡頭唱唱歌,那個沒有用處,那個不相應的。你明白這個道理,立刻就念,就認真的去念,念觀音菩薩、念阿彌陀佛都一樣。你這一念,菩薩馬上就有應,你念得快,菩薩應得也快。
văn danh , giá cá văn thị tương lí luận 、 phương pháp 、 cảnh giới đô đổng đắc liễu , tài khiếu văn danh , nhân vi nễ giá cá thời hậu niệm giá nhất cú phật hiệu tựu như pháp , như lí như pháp 。 bất thị nhất ban tượng khẩu lí đầu xướng xướng ca , na cá một hữu dụng xứ , na cá bất tướng ưng đích 。 nễ minh bạch giá cá đạo lí , lập khắc tựu niệm , tựu nhận chân đích khứ niệm , niệm quan âm bồ tát 、 niệm a di đà phật đô nhất dạng 。 nễ giá nhất niệm , bồ tát mã thượng tựu hữu ưng , nễ niệm đắc khoái , bồ tát ưng đắc dã khoái 。
Kinh văn nói: "Đều được giải thoát." “Đều được giải thoát”, tức là nói được sự ứng hiện lợi ích. Bồ Tát Quán Thế Âm cảm ứng căn cơ chúng sanh, quý vị liền được công đức lợi ích.
『皆得解脫』,「皆得解脫者,即是蒙應利益」,觀音菩薩應機功德利益你就得到了。
『 giai đắc giải thoát 』 , 「 giai đắc giải thoát giả , tức thị mông ưng lợi ích 」 , quan âm bồ tát ưng cơ công đức lợi ích nễ tựu đắc đáo liễu 。
Phần tiếp theo, Đại Sư giảng giải cho chúng ta rất chi ly đầy đủ. Tuy đoạn văn này không nhiều nhưng đã nói rõ được hết những chỗ mà chúng ta thường có sự nghi hoặc.
向下,大師給我們解釋得很細密,雖然文字不多,我們有許多疑惑的地方,他都說到了。
hướng hạ , đại sư cấp ngã môn giải thích đắc ngận tế mật , tuy nhiên văn tự bất đa , ngã môn hữu hứa đa nghi hoặc đích địa phương , tha đô thuyết đáo liễu 。
“Nói ‘đều được’ tức là không chỉ làm ích lợi cho chúng sanh có nhiều căn cơ, mà cũng hiển lộ sự cảm ứng trọn vẹn khắp mọi nơi.” Như trong phần trước cũng đã nói, hết thảy chúng sanh trong mười phương pháp giới, như có bất kỳ chúng sanh nào theo đúng pháp xưng niệm danh hiệu, Bồ Tát đều có sự cảm ứng.
「皆者非但顯於多機眾益,亦顯圓遍之應也。」正如前面所說的,十方法界一切眾生,凡有如法稱名那些眾生,菩薩沒有一個不應。
「 giai giả phi đãn hiển ư đa cơ chúng ích , diệc hiển viên biến chi ưng dã 。 」 chính như tiền diện sở thuyết đích , thập phương pháp giới nhất thiết chúng sinh , phàm hữu như pháp xưng danh na ta chúng sinh , bồ tát một hữu nhất cá bất ưng 。
Trong sự cảm ứng cũng có cảm ứng ngấm ngầmcảm ứng hiển lộ, điều này cần phải hiểu rõ. Cảm ứng ngấm ngầm tức là quý vị nhận được sự cảm ứng, được sự lợi ích nhưng tự mình không hay không biết. Cảm ứng hiển lộ là sự cảm ứng bộc lộ rõ ràng. Sự việc này chúng ta cần thiết phải nhận hiểu, nhất là trong giai đoạn hiện nay, trong trường hợp quả thật thấy được một hiện tượng cảm ứng hiển lộ rõ ràng, chẳng hạn như thấy Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân.
感應有冥應、有顯應,這個要懂得。冥是暗中,你自己不知不覺,你得的利益;顯是很明顯。這些事情,特別是在我們現前這個階段,我們自己必須要認識。如果見到這些明顯的現象,譬如說見到觀世音菩薩現身,
cảm ưng hữu minh ưng 、 hữu hiển ưng , giá cá yếu đổng đắc 。 minh thị ám trung , nễ tự kỉ bất tri bất giác , nễ đắc đích lợi ích ; hiển thị ngận minh hiển 。 giá ta sự tình , đặc biệt thị tại ngã môn hiện tiền giá cá giai đoạn , ngã môn tự kỉ tất tu yếu nhận thức 。 như quả kiến đáo giá ta minh hiển đích hiện tượng , thí như thuyết kiến đáo quan thế âm bồ tát hiện thân ,
Có một vị đồng tu chụp được một bức ảnh, trong khi chụp quang cảnh một tai nạn xe thì trong ảnh chụp chiếc xe lại thấy hiện ra một tượng Phật, vị ấy nói là ở chùa Kim Long, mang đến đưa cho tôi xem. Vị ấy gặp ai cũng lấy bức ảnh ra, đưa cho mọi người xem. Tôi liền bảo vị ấy cất vào, không nên đưa cho mọi người xem như thế.
像今天有個同修拿了一張照片,說是在車禍當中照的車子上,裡頭現的有一尊佛像,說是金龍寺的,拿來給我看。他每個人都拿出來給大家看。我叫他收起來別給人看了。
tượng kim thiên hữu cá đồng tu nã liễu nhất trương chiếu phiến , thuyết thị tại xa hoạ đương trung chiếu đích xa tử thượng , lí đầu hiện đích hữu nhất tôn phật tượng , thuyết thị kim long tự đích , nã lai cấp ngã khán 。 tha mỗi cá nhân đô nã xuất lai cấp đại gia khán 。 ngã khiếu tha thu khởi lai biệt cấp nhân khán liễu 。
Những việc như thế này chúng ta cần phải tự mình nhận hiểu. Bồ Tát nếu có cảm ứng hiện thân như vậy đều phải là vì lợi ích của chúng ta. Chúng ta xem chương Quán Tự Tại trong kinh Hoa nghiêm, nói rằng Bồ Tát có sự ứng hiện đều là vì thuận theo lợi ích của chúng sanh, tuyệt đối phải là có lợi ích cho chúng sanh. Nếu như Bồ Tát quả thật hiện thân, hiện ra hình tướng như vậy, thì đó là phá hoại tâm thanh tịnh của chúng ta. Trong lòng chúng ta thực sự đang chuyên tâm thanh tịnh, nhìn thấy bức ảnh đó liền lập tức dao động, khởi sinh vọng niệm, đó chính thật là ma hiện ra trước mắt. Những trường hợp như vậy, đặc biệt là trong thời mạt pháp này, quả thật rất nhiều.
這樣的事情我們自己要知道,菩薩這個感應是於我們有利益的。我們在《華嚴經》裡面「觀自在」這一章,他所應的是順益眾生,絕對是有利益的。如果現這個身、現的這個相,破壞了我們的清淨心,我們這個心正是一心清淨,看到這個,心裡馬上動心,起妄念,這就是魔現前的。這樣的境界,尤其在末法時期非常之多,
giá dạng đích sự tình ngã môn tự kỉ yếu tri đạo , bồ tát giá cá cảm ưng thị ư ngã môn hữu lợi ích đích 。 ngã môn tại 《 hoa nghiêm kinh 》 lí diện 「 quan tự tại 」 giá nhất chương , tha sở ưng đích thị thuận ích chúng sinh , tuyệt đối thị hữu lợi ích đích 。 như quả hiện giá cá thân 、 hiện đích giá cá tướng , phá hoại liễu ngã môn đích thanh tịnh tâm , ngã môn giá cá tâm chính thị nhất tâm thanh tịnh , khán đáo giá cá , tâm lí mã thượng động tâm , khởi vọng niệm , giá tựu thị ma hiện tiền đích 。 giá dạng đích cảnh giới , vưu kì tại mạt pháp thời kì phi thường chi đa ,
Chúng ta xem kinh Lăng-nghiêm, phần sau nói về 50 loại ấm ma. Năm mươi loại đó là nói 50 chủng loại, trong mỗi một loại lại có vô lượng vô biên những cảnh ma, chúng ta phải tự mình hiểu rõ, không thể để cho cảnh ma ngăn che. Cho dù là hiện ra thân tướng gì, hiện ra điềm lành gì, chúng ta phải thấy như không thấy, nghe như không nghe. Vì sao vậy? [Phật dạy rằng,] hết thảy những gì có hình tướng đều là hư dối. Trong tâm chúng ta phải không nắm giữ hình tướng, phải lặng yên không dao động, như vậy thì quý vị mới có thể đạt đến tâm chuyên nhất, như vậy quý vị mới có thể một lòng chuyên nhất xưng niệm danh hiệu.
你們看看《楞嚴經》後面五十種陰魔,五十種是五十種類,每一類裡面有無量無邊的魔境,我們自己要曉得,不能上了魔的當。無論現什麼身、現什麼瑞相,見如不見,聞如不聞,為什麼?凡所有相,皆是虛妄。我們的心要不取相,要如如不動,你才能得一心,叫你一心稱名。
nễ môn khán khán 《 lăng nghiêm kinh 》 hậu diện ngũ thập chủng âm ma , ngũ thập chủng thị ngũ thập chủng loại , mỗi nhất loại lí diện hữu vô lượng vô biên đích ma cảnh , ngã môn tự kỉ yếu hiểu đắc , bất năng thượng liễu ma đích đương 。 vô luận hiện thập ma thân 、 hiện thập ma thụy tướng , kiến như bất kiến , văn như bất văn , vi thập ma ? phàm sở hữu tướng , giai thị hư vọng 。 ngã môn đích tâm yếu bất thủ tướng , yếu như như bất động , nễ tài năng đắc nhất tâm , khiếu nễ nhất tâm xưng danh 。
Cho nên, Bồ Tát Quán Thế Âm đối với chúng ta hết thảy đều là ngấm ngầm gia hộ độ trì, không thể hiện thân. Một khi Bồ Tát hiện thân thì sự tu tập của quý vị xem như đã hỏng! Công phu của quý vị chưa hoàn mãn, trình độ chưa có đủ, một khi thấy Bồ Tát hiện thân liền rơi vào tâm ma, lập tức cao hứng mất cảnh giác, tự nghĩ: “Tôi được thấy Bồ Tát, Bồ Tát đối với tôi đặc biệt ưu ái, các người đều tu hành chẳng ra gì, các người không được như tôi.” Quý vị xem lại tâm mình khi ấy, lập tức không còn sự chuyên nhất, đi đến đâu rồi cũng tạo khẩu nghiệp. Bồ Tát tuyệt đối không thể làm cho quý vị tạo thành tội nghiệp, cho nên Bồ Tát không hiện thân, chỉ có sự ngấm ngầm gia hộ độ trì cho quý vị.
所以觀世音菩薩對我們都是暗中的來加持,不能現身,一現身你就完了。你的功夫不到家,你不夠程度,一現身你馬上著魔,你自己得意忘形,「我見到菩薩,菩薩對我特別好,你們都不行,你們都不如我」。你看看你的心,立刻一心沒有了,到處造口業。菩薩絕不叫你造罪業,所以菩薩不現身,只有暗中來加持你。
sở dĩ quan thế âm bồ tát đối ngã môn đô thị ám trung đích lai gia trì , bất năng hiện thân , nhất hiện thân nễ tựu hoàn liễu 。 nễ đích công phu bất đáo gia , nễ bất cú trình độ , nhất hiện thân nễ mã thượng trước ma , nễ tự kỉ đắc ý vô hình , 「 ngã kiến đáo bồ tát , bồ tát đối ngã đặc biệt hảo , nễ môn đô bất hành , nễ môn đô bất như ngã 」 。 nễ khán khán nễ đích tâm , lập khắc nhất tâm một hữu liễu , đáo xứ tạo khẩu nghiệp 。 bồ tát tuyệt bất khiếu nễ tạo tội nghiệp , sở dĩ bồ tát bất hiện thân , chỉ hữu ám trung lai gia trì nễ 。
Quý vị hiểu rõ được ý nghĩa này thì nếu thấy Bồ Tát hiện thân, nên tự xét lại công phu tu tập của mình, có thực sự đủ tư cách chiêu cảm được Bồ Tát ứng hiện hay không? Khi tự thấy mình không có công phu, không có căn lành, không có phước đức, không có sự tu trì, thì nếu như Phật, Bồ Tát đến, lại thường tới lui thì quả thật rất phiền, đích thị đó là ma vương giả mạo. Điều đó chúng ta phải tự mình rõ biết.
我們曉得這個道理,見到菩薩現身,想想自己的功夫,是不是真正有資格感得菩薩顯應?如果自己沒有功夫,沒有善根、沒有福德、沒有修持,佛菩薩來了,要常常再來,那麻煩可大了,準是魔王冒充的。這是我們自己要覺悟。
ngã môn hiểu đắc giá cá đạo lí , kiến đáo bồ tát hiện thân , tưởng tưởng tự kỉ đích công phu , thị bất thị chân chính hữu tư cách cảm đắc bồ tát hiển ưng ? như quả tự kỉ một hữu công phu , một hữu thiện căn 、 một hữu phúc đức 、 một hữu tu trì , phật bồ tát lai liễu , yếu thường thường tái lai , na ma phiền khả đại liễu , chuẩn thị ma vương mạo sung đích 。 giá thị ngã môn tự kỉ yếu giác ngộ 。
Việc này cũng giống như ở thế gian có người chẳng làm được việc gì tốt đẹp, cũng chẳng có lòng tốt, lại nói rằng có bậc đại nhân, đại phú quý, đại trưởng giả thường đến chơi chỗ tôi, thường quan tâm đến tôi, quý vị xem liệu có hợp lý không? Đức Khổng tử trong kinh Dịch có nói: “Vật dĩ loại tụ, nhân dĩ quần phân.” (Con vật tụ tập theo cùng loài, con người tùy sự tương đồng mà phân chia.) Không cùng một loại, không tương đồng làm sao có sự cảm ứng? Nếu như tâm của chúng ta quả thật là tâm Phật, hành vi của chúng ta quả thật là công hạnh Bồ Tát, như vậy mà cảm ứng với Phật, Bồ Tát thì có thể tin được. Vì sao vậy? Vì chúng ta với chư Phật, Bồ Tát có sự tương đồng. Nếu chúng ta suốt ngày khởi sinh vọng tưởng, vốn dĩ không có sự tương đồng với chư Phật, Bồ Tát, như thấy có Phật, Bồ Tát hiện đến thì đó nhất định là giả mạo, không thể là chân thật.
好比我們世間,我們這一幫人都不幹好事、都不存好心,說有一個大好人,有個大富大貴、大長者的,他常常到我們這兒來要來照顧我們,你想想看能相應嗎?「物以類聚,人以群分」,孔老夫子在《易經》裡所講的。不同類,他怎麼會感應?我們的心果然是佛心,我們的行為果然是菩薩行,與佛菩薩感應,我們信得過,為什麼?我們跟他是同一類。我們成天打妄想,根本不同類,他來了,那決定是假的,不是真的。
hảo tỉ ngã môn thế gian , ngã môn giá nhất bang nhân đô bất cán hảo sự 、 đô bất tồn hảo tâm , thuyết hữu nhất cá đại hảo nhân , hữu cá đại phú đại quý 、 đại trường giả đích , tha thường thường đáo ngã môn giá nhi lai yếu lai chiếu cố ngã môn , nễ tưởng tưởng khán năng tướng ưng mạ ? 「 vật dĩ loại tụ , nhân dĩ quần phân 」 , khổng lão phu tử tại 《 dị kinh 》 lí sở giảng đích 。 bất đồng loại , tha chẩm ma hội cảm ưng ? ngã môn đích tâm quả nhiên thị phật tâm , ngã môn đích hành vi quả nhiên thị bồ tát hành , dữ phật bồ tát cảm ưng , ngã môn tín đắc quá , vi thập ma ? ngã môn căn tha thị đồng nhất loại 。 ngã môn thành thiên đả vọng tưởng , căn bản bất đồng loại , tha lai liễu , na quyết định thị giả đích , bất thị chân đích 。
Cho nên, nếu quý vị hỏi tôi, chuyện [Bồ Tát hiện thân] như vậy có hay không có? Tôi sẽ trả lời là có, quả thật là có. Nhưng có thì có đấy, mà rốt lại là Phật hay ma thì còn khó nói. Việc này chúng ta phải tự có khả năng phân biệt rõ ràng.
所以你要問,有沒有這些事情?我告訴你有,真有。有是有,到底是佛是魔那就難說了,這是我們應當要能夠辨別。
sở dĩ nễ yếu vấn , hữu một hữu giá ta sự tình ? ngã cáo tố nễ hữu , chân hữu 。 hữu thị hữu , đáo để thị phật thị ma na tựu nan thuyết liễu , giá thị ngã môn ưng đương yếu năng cú ban biệt 。
Trong Đại tạng kinh có một bộ kinh tên là kinh Pháp diệt tận. Tương lai Phật pháp cũng sẽ diệt mất thôi. Vậy kinh nào sẽ mất trước? Kinh Lăng-nghiêm sẽ mất trước. Bộ kinh bị mất trước nhất là kinh Lăng-nghiêm. Do ý nghĩa gì mà kinh Lăng-nghiêm là bộ kinh sẽ mất trước tiên? Bởi vì, kinh Lăng-nghiêm chính là bộ kinh bị hết thảy bọn ma vương, ngoại đạo phản đối nhiều nhất. Vì kinh Lăng-nghiêm phơi bày rõ ràng chân tướng của hết thảy bọn chúng. Có được bộ kinh Lăng-nghiêm, đọc qua kinh Lăng-nghiêm rồi thì khai mở tuệ nhãn, có thể phân biệt được giữa Phật với ma.
《大藏經》裡有部經叫《法滅盡經》,將來佛法要滅盡的。什麼經先滅?《楞嚴經》先滅,第一部就滅《楞嚴經》。為什麼道理第一個滅《楞嚴經》?因為一切魔王外道大概最反對的就是《楞嚴經》,因為《楞嚴經》把他的底牌全現穿了。有了《楞嚴經》,讀了《楞嚴經》,慧眼就開了,就能夠辨別佛與魔。
《 đại tạng kinh 》 lí hữu bộ kinh khiếu 《 pháp diệt tận kinh 》 , tương lai phật pháp yếu diệt tận đích 。 thập ma kinh tiên diệt ? 《 lăng nghiêm kinh 》 tiên diệt , đệ nhất bộ tựu diệt 《 lăng nghiêm kinh 》 。 vi thập ma đạo lí đệ nhất cá diệt 《 lăng nghiêm kinh 》 ? nhân vi nhất thiết ma vương ngoại đạo đại khái tối phản đối đích tựu thị 《 lăng nghiêm kinh 》 , nhân vi 《 lăng nghiêm kinh 》 bả tha đích để bài toàn hiện xuyên liễu 。 hữu liễu 《 lăng nghiêm kinh 》 , độc liễu 《 lăng nghiêm kinh 》 , tuệ nhãn tựu khai liễu , tựu năng cú ban biệt phật dữ ma 。
Cho nên, khi giảng kinh Lăng-nghiêm, sau những lời răn dạy về bốn sự thanh tịnh,[9] đến 50 loại ấm ma, tôi có nói rằng đây là đức Phật Thích-ca Mâu-ni ban cho chúng ta một loại kính chiếu yêu. Quý vị hiểu được những điều này rồi thì bất kỳ loại yêu ma quỷ quái nào quý vị cũng đều thấy biết rõ ràng, khiến chúng phải lộ ra hết cả nguyên hình. Cho nên bọn ma vương, quỷ quái yêu ma đối với kinh Lăng-nghiêm này căm hận thấu xương, chỉ mong muốn làm sao phá hoại hoàn toàn pháp này, diệt mất đi pháp này.
所以我講《楞嚴經》四種清淨明誨後面五十種陰魔,我說那是釋迦牟尼佛給我們一面照妖鏡。你有了這個東西,什麼妖魔鬼怪你都看得清清楚楚,原形畢露。所以那些魔王、妖魔鬼怪對《楞嚴經》恨透了,總得想盡方法先要把它破壞,把它消滅掉。
sở dĩ ngã giảng 《 lăng nghiêm kinh 》 tứ chủng thanh tịnh minh hối hậu diện ngũ thập chủng âm ma , ngã thuyết na thị thích ca mâu ni phật cấp ngã môn nhất diện chiếu yêu kính 。 nễ hữu liễu giá cá đông tây , thập ma yêu ma quỷ quái nễ đô khán đắc thanh thanh sở sở , nguyên hình tất lộ 。 sở dĩ na ta ma vương 、 yêu ma quỷ quái đối 《 lăng nghiêm kinh 》 hận thấu liễu , tổng đắc tưởng tận phương pháp tiên yếu bả tha phá hoại , bả tha tiêu diệt điệu 。
Vì thế, việc Bồ Tát cảm ứng đối với chúng ta không thể nói là không có, nhưng có sự cảm ứng ngấm ngầm, như chỗ này trong sách giảng là “nên biết có cảm ứng ngấm ngầm và cảm ứng hiển lộ”. Cảm ứng ngấm ngầm là rất nhiều, cảm ứng hiển lộ chỉ là thỉnh thoảng, một đôi khi hiếm hoi mà thôi.
所以菩薩對我們的感應不能說沒有,冥應,此地講的是「冥顯感應可知」,冥應多,顯應偶爾有個一次兩次。
sở dĩ bồ tát đối ngã môn đích cảm ưng bất năng thuyết một hữu , minh ưng , thử địa giảng đích thị 「 minh hiển cảm ưng khả tri 」 , minh ưng đa , hiển ưng ngẫu nhĩ hữu cá nhất thứ lưỡng thứ 。
Đối với những người ban đầu mới học Phật, nếu gặp được những trường hợp hiển lộ hiếm hoi này sẽ có tác dụng gì? Tác dụng chính là khơi mở, phát triển niềm tin cho họ. Quả thật có những sự hiện thân như vậy, quả thật đó là không thể nghĩ bàn, khiến cho người ấy khởi lòng tin. Khởi lòng tin rồi thì về sau không còn thấy như vậy nữa. Quý vị nên biết, đó không phải là do quý vị thối tâm. Nhưng có niềm tin rồi mà sau đó vẫn thường thấy [Bồ Tát hiện thân] thì đó là điều đáng ngờ. Làm gì có chuyện thường hiện như vậy? Có vị đồng tu nói với tôi, khi mới học Phật thường được thấy rất nhiều điềm lành, còn hiện nay đã qua nhiều năm rồi chẳng hề thấy gì cả. Không thấy gì cả chính là điều tốt. Nếu ngày nào cũng thấy thì không được rồi! Đó là tâm của quý vị bị cảnh ma xoay chuyển.
在初學的人會偶爾有幾次,那個作用在哪裡?作用是啟發你的信心。真有這種境界,真不可思議,他信了,信了以後就沒有了。諸位要曉得,不是你退心了,信了以後要常常有,那就是怪了,哪能常有?有些同修來跟我說,我初學佛的時候好多瑞相,現在好多年統統都沒有了。沒有了好事!天天有可不得了,那你心就被魔境所轉,
tại sơ học đích nhân hội ngẫu nhĩ hữu kỉ thứ , na cá tác dụng tại ná lí ? tác dụng thị khải phát nễ đích tín tâm 。 chân hữu giá chủng cảnh giới , chân bất khả tư nghị , tha tín liễu , tín liễu dĩ hậu tựu một hữu liễu 。 chư vị yếu hiểu đắc , bất thị nễ thối tâm liễu , tín liễu dĩ hậu yếu thường thường hữu , na tựu thị quái liễu , ná năng thường hữu ? hữu ta đồng tu lai căn ngã thuyết , ngã sơ học phật đích thời hậu hảo đa thụy tướng , hiện tại hảo đa niên thống thống đô một hữu liễu 。 một hữu liễu hảo sự ! thiên thiên hữu khả bất đắc liễu , na nễ tâm tựu bí ma cảnh sở chuyển ,
Thỉnh thoảng có sự thị hiện hình tướng là để giúp cho quý vị tăng trưởng niềm tin [lúc ban đầu]. Ngoài ra còn có thể có vào thời điểm nào? Đó là lúc quý vị đã thành tựu công phu tu tập. Khi công phu tu tập đã thành tựu, thỉnh thoảng cũng có thể thấy [Bồ Tát hiện thân], đó là để khảo nghiệm công phu của quý vị. Khảo nghiệm xem quý vị có thực sự đạt đến chỗ nhìn thấy hình tướng mà không động tâm hay chưa. Cho nên, điều này so với việc người mới học Phật nhìn thấy [Bồ Tát hiện thân] là có dụng ý khác nhau.
偶爾有這些示相是給你信心的,還有到什麼時候?到你功夫成就的時候。功夫成就的時候,偶爾也會有幾次,那是來考功夫的,考一考你是不是見到相你不動心了。所以跟初學的那個現相用意不相同。
ngẫu nhĩ hữu giá ta thị tướng thị cấp nễ tín tâm đích , hoàn hữu đáo thập ma thời hậu ? đáo nễ công phu thành tựu đích thời hậu 。 công phu thành tựu đích thời hậu , ngẫu nhĩ dã hội hữu kỉ thứ , na thị lai khảo công phu đích , khảo nhất khảo nễ thị bất thị kiến đáo tướng nễ bất động tâm liễu 。 sở dĩ căn sơ học đích na cá hiện tướng dụng ý bất tướng đồng 。
Người thật sự có công phu thành tựu thì khi thấy được sự cảm ứng hiển lộ [của Bồ Tát] tuyệt đối sẽ không nói cho người khác biết. Điều này quý vị cần phải rõ biết. [Bồ Tát] vì quý vị mà thị hiện, quý vị lại đi nói với người khác thì hóa ra là việc của ma. Thị hiện cho quý vị thấy, quý vị nhất định không được nói ra câu nào. Nếu không nói ra, đó mới thật sự là Phật, mới là chân thật. Vậy đến lúc nào có thể nói ra? Là lúc quý vị sắp vãng sinh, sắp ra đi thì có thể nói cho mọi người biết. Nói cho mọi người biết vào lúc đó là để làm tăng thêm lòng tin của họ. Quý vị xem như trường hợp của Đại sư Tuệ Viễn. Trong đời ngài đã 3 lần nhìn thấy cảnh Tây phương Cực Lạc, nhưng chưa từng nói cho ai biết. Đến khi sắp vãng sinh ngài mới nói với mọi người, tuyên bố trước mọi người rằng: “Ta sắp vãng sinh, Phật A-di-đà đã đến đây để tiếp dẫn ta. Thế giới Tây phương Cực Lạc thì ta đã từng nhìn thấy được 3 lần rồi.” Chỉ khi ấy ngài mới nói ra.
真正有功夫見到顯應的絕對不跟人說,這是諸位要知道的。示現給你,你會跟人說,那都是魔;示現給你,你決定不說一句話,若無其事的,那是真佛,那是真的。到什麼時候可以說?你要往生了,要走了,可以告訴大家,告訴大家是增長別人的信心。你看我們慧遠大師,他一生見到西方極樂世界見過三次,從來沒告訴過人。到他往生的時候才告訴大家,給大家宣布,我要往生了,阿彌陀佛來接引我了,西方極樂世界我過去已經看過三次。才說出來。
chân chính hữu công phu kiến đáo hiển ưng đích tuyệt đối bất căn nhân thuyết , giá thị chư vị yếu tri đạo đích 。 thị hiện cấp nễ , nễ hội căn nhân thuyết , na đô thị ma ; thị hiện cấp nễ , nễ quyết định bất thuyết nhất cú thoại , nhược vô kì sự đích , na thị chân phật , na thị chân đích 。 đáo thập ma thời hậu khả dĩ thuyết ? nễ yếu vãng sinh liễu , yếu tẩu liễu , khả dĩ cáo tố đại gia , cáo tố đại gia thị tăng trường biệt nhân đích tín tâm 。 nễ khán ngã môn tuệ viễn đại sư , tha nhất sinh kiến đáo tây phương cực lạc/nhạc/nhạo thế giới kiến quá tam thứ , tùng lai một cáo tố quá nhân 。 đáo tha vãng sinh đích thời hậu tài cáo tố đại gia , cấp đại gia tuyên bố , ngã yếu vãng sinh liễu , a di đà phật lai tiếp dẫn ngã liễu , tây phương cực lạc/nhạc/nhạo thế giới ngã quá khứ dĩ kinh khán quá tam thứ 。 tài thuyết xuất lai 。
Chúng ta hiện nay làm sao thấy được Phật hiện thân? Chỉ vừa thấy được một chút gì đó mơ mơ hồ hồ thì đã vội tô vẽ là chứng đắc, chỉ sợ người khác không biết đến. Như vậy có nghĩa là gì? Là không đủ tư cách để tiếp nhận sự cảm ứng hiển lộ [của Phật, Bồ Tát]. Nếu như quý vị có nhìn thấy sự cảm ứng hiển lộ [của Phật, Bồ Tát] thì đó chính là ma vương giả mạo hiện ra, hiện ra để dụ hoặc quý vị, để phá hoại tâm đạo của quý vị, phá hoại tâm chuyên nhất của quý vị. Không chỉ là phá hoại quý vị, chúng còn khiến cho quý vị truyền rộng việc ấy, phá hoại đến người khác nữa. Nhìn thấy người khác có công phu tu tập tạm ổn, quý vị liền đến phá hoại. Rốt lại là quý vị nhận chịu sự lừa dối [của ma vương], trở thành sứ giả của ma, phục vụ cho ma, đi phá hoại người khác. Điều này chúng ta phải thấu hiểu rõ ràng.
我們現在哪裡會看到佛顯應?才見到一點彷彷彿彿的,就渲染得不得了,唯恐別人不知道。這就是什麼?不夠資格接受顯應。你遇到顯應,那不是魔王來冒充、來誘惑你、來破壞你的道心,破壞你的一心不亂。不但破壞你,還叫你去宣傳,破壞別人。看到有哪些人功夫差不多了:你去破壞他。你就上了當,受他的騙,還當他的使者,替他來服務,去破壞別人。這是我們真正要明白。
ngã môn hiện tại ná lí hội khán đáo phật hiển ưng ? tài kiến đáo nhất điểm bàng bàng phất phất đích , tựu tuyển nhiễm đắc bất đắc liễu , duy khủng biệt nhân bất tri đạo 。 giá tựu thị thập ma ? bất cú tư cách tiếp thụ hiển ưng 。 nễ ngộ đáo hiển ưng , na bất thị ma vương lai mạo sung 、 lai dụ hoặc nễ 、 lai phá hoại nễ đích đạo tâm , phá hoại nễ đích nhất tâm bất loạn 。 bất đãn phá hoại nễ , hoàn khiếu nễ khứ tuyên truyền , phá hoại biệt nhân 。 khán đáo hữu ná ta nhân công phu sai bất đa liễu : nễ khứ phá hoại tha 。 nễ tựu thượng liễu đương , thụ tha đích biển , hoàn đương tha đích sứ giả , thế tha lai phục vụ , khứ phá hoại biệt nhân 。 giá thị ngã môn chân chính yếu minh bạch 。
Quý vị có thể xem trong sách Giảng nghĩa của Pháp sư Viên Anh. Pháp sư vào năm 20 tuổi dụng công tu tập, từng thấy có cảnh giới hiện ra. Chỉ có điều một khi ngài khởi tâm mừng vui, cảnh giới ấy liền biến mất. Về sau không nhìn thấy nữa. Qua đó có thể thấy được rằng, hết thảy mọi cảnh giới đều là từ trong tâm chuyên nhất không tán loạn mà thấy được. Trong khi ấy, nếu quý vị vừa khởi lên một niệm phân biệt, có một chút cảm thụ, cảm thấy tốt đẹp thì điều ấy liền lập tức mất đi.
諸位看圓瑛法師的《講義》,圓瑛法師在二十幾歲的時候用功,那時候有境界。可是自己心裡一歡喜,境界就失掉了,再也得不到。可見得,一切境界都是在一心不亂當中證得的,你這裡頭稍稍起一念分別,我這個感受、受用很好,馬上就失掉。
chư vị khán viên anh pháp sư đích 《 giảng nghĩa 》 , viên anh pháp sư tại nhị thập kỉ tuế đích thời hậu dụng công , na thời hậu hữu cảnh giới 。 khả thị tự kỉ tâm lí nhất hoan hỉ , cảnh giới tựu thất điệu liễu , tái dã đắc bất đáo 。 khả kiến đắc , nhất thiết cảnh giới đô thị tại nhất tâm bất loạn đương trung chứng đắc đích , nễ giá lí đầu sảo sảo khởi nhất niệm phân biệt , ngã giá cá cảm thụ 、 thụ dụng ngận hảo , mã thượng tựu thất điệu 。
Đó là giảng về sự cảm ứng [của Bồ Tát], có cảm ứng ngấm ngầm, có cảm ứng hiển lộ. Trong sự cảm ứng ngấm ngầm, xin thưa với quý vị rằng chư Phật, Bồ Tát gia hộ bảo vệ cho tất cả chúng sanh đều bình đẳng như nhau. Bất kể là quý vị có thỉnh cầu hay không, quý vị có xưng niệm danh hiệu hay không, Bồ Tát cũng đều gia hộ độ trì một cách bình đẳng cho tất cả quý vị. Nhất định không có chuyện quý vị xưng niệm danh hiệu ngài thì ngài mới “quán sát âm thanh của chúng sanh, hết thảy đều được giải thoát”, còn nếu quý vị không xưng niệm thì Bồ Tát không quan tâm đến. Nếu như vậy thì tâm Bồ Tát không bình đẳng, lòng từ bi của Bồ Tát không hề rộng lớn.
這是講感應,有暗中、有明顯。暗中的感應,佛菩薩保護,給諸位說,他是對一切眾生平等平等。不管你有沒有求他、你有沒有念他,菩薩都一律平等的加持。決定不會說你念我,我才來「觀其音聲,皆得解脫」,你不念我,我都不管你,那菩薩的心不平等,菩薩的慈悲不夠廣大;
giá thị giảng cảm ưng , hữu ám trung 、 hữu minh hiển 。 ám trung đích cảm ưng , phật bồ tát bảo hộ , cấp chư vị thuyết , tha thị đối nhất thiết chúng sinh bình đẳng bình đẳng 。 bất quản nễ hữu một hữu cầu tha 、 nễ hữu một hữu niệm tha , bồ tát đô nhất luật bình đẳng đích gia trì 。 quyết định bất hội thuyết nễ niệm ngã , ngã tài lai 「 quan kì âm thanh , giai đắc giải thoát 」 , nễ bất niệm ngã , ngã đô bất quản nễ , na bồ tát đích tâm bất bình đẳng , bồ tát đích từ bi bất cú quảng đại ;
Nhưng Bồ Tát nhất định phải có tâm bình đẳng. Chỉ có điều là khi quý vị xưng niệm thì quý vị sẽ nhận được sức gia trì bình đẳng của Bồ Tát, còn khi quý vị không xưng niệm thì sức gia trì bình đẳng đó quý vị không tiếp nhận được.
菩薩決定平等。但是念的時候,他平等加持的力量你得到了,你不念他的時候,他加持的力量你得不到,
bồ tát quyết định bình đẳng 。 đãn thị niệm đích thời hậu , tha bình đẳng gia trì đích lực lượng nễ đắc đáo liễu , nễ bất niệm tha đích thời hậu , tha gia trì đích lực lượng nễ đắc bất đáo ,
Vì sao không tiếp nhận được? Phần sau Đại sư có giả thiết một hình thức vấn đáp để giải đáp cho chúng ta vấn đề này. Bây giờ tôi sẽ đọc lên đoạn văn này, phần giải đáp nằm ngay trong đoạn văn sau đó.
為什麼得不到?後面大師假設了一個問答,給我們解答這個問題。我們這個文念下去,他的問答在底下一段。
vi thập ma đắc bất đáo ? hậu diện đại sư giả thiết liễu nhất cá vấn đáp , cấp ngã môn giải đáp giá cá vấn đề 。 ngã môn giá cá văn niệm hạ khứ , tha đích vấn đáp tại để hạ nhất đoạn 。
“Hỏi: Căn cơ chúng sanh trong mười pháp giới nhiều vô số,” là nói chúng sanh chịu khổ nạn trong mười pháp giới nhiều đến vô lượng vô biên, “làm sao cùng một lúc có thể đều được giải thoát”.
「問,十界機無量」,十法界那些苦難的眾生無量無邊,「云何一時令得解脫」。
「 vấn , thập giới cơ vô lượng 」 , thập pháp giới na ta khổ nan đích chúng sinh vô lượng vô biên , 「 vân hà nhất thời linh đắc giải thoát 」 。
Đây là câu hỏi vì hoài nghi, Bồ Tát Quán Thế Âm rốt lại có năng lực lớn lao đến mức nào? Vô lượng vô biên chúng sanh cùng một lúc khẩn cầu ngài, ngài đều có cách giúp họ giải quyết vấn đề, như vậy thật là không thể nghĩ bàn, chúng ta thật khó mà tin được.
這都是疑問,觀音菩薩究竟有多大的能耐?無量無邊的眾生同時來求他,他都有辦法替人解決問題,這是不可思議,我們難以相信。
giá đô thị nghi vấn , quan âm bồ tát cứu cánh hữu đa đại đích năng nại ? vô lượng vô biên đích chúng sinh đồng thời lai cầu tha , tha đô hữu biện pháp thế nhân giải quyết vấn đề , giá thị bất khả tư nghị , ngã môn nan dĩ tướng tín 。
Câu trả lời dùng phương pháp so sánh, “ví như cha mẹ, lòng nhớ nghĩ đến con rất sâu nặng”, là nói trong thế gian, ân tình sâu nặng nhất không gì hơn cha mẹ đối với con cái. Con cái yêu kính cha mẹ thì không nhất định lúc nào cũng vậy, tình cảm này có thể thay đổi, nhưng tấm lòng cha mẹ nhớ nghĩ đến con cái thì đích thực là vĩnh viễn không thay đổi, không gián đoạn. Điều này theo thế gian có thể nói là lòng từ bi chân chánh, không hề có mảy may điều kiện. Con cái nếu có mất đi, cha mẹ vẫn luôn nhớ nghĩ không quên, cũng không bao giờ muốn thấy con cái chịu khổ nạn. Bồ Tát Quán Thế Âm cũng giống như cha mẹ của tất cả chúng sanh. Ngài có “nhiều tài nhiều trí”, lại cũng “đầy đủ thế lực lớn lao”, đây là theo thí dụ như trước đã nói, quả thật đúng như vậy. “Các con gặp tai nạn, cha mẹ liền cứu giúp tất cả, Bồ Tát lại cũng như vậy”, Bồ Tát có năng lực, có trí tuệ, ngài có thể cứu giúp được. Bồ Tát sử dụng “tâm từ bi vô duyên”, duyên tức là chỉ các điều kiện, không hề có điều kiện, hoàn toàn không điều kiện, đó là “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”.
答覆用比喻說,「喻如父母,念子心重」,這個世間,恩情最重的無過於父母對兒女。兒女說是敬愛父母倒不見得,他會變的,父母念子女的心的確永遠都不會斷的。這個在世間法裡講真正的慈悲,沒有一絲毫的條件。他的兒子再壞,他還是念念不忘,還是不願意看到他受苦受難。觀音菩薩就好比眾生的父母一樣,他有「多智多財」,又「具大勢力」,這是從比喻上說,確實也是如此。「眾子在難,即能俱救,菩薩亦如是」,他有能力、有智慧,他可以救得了。菩薩是以「無緣慈悲重」,無緣,緣是當條件講,沒有條件,無條件的,無緣大慈,同體大悲。
đáp phú dụng tỉ dụ thuyết , 「 dụ như phụ mẫu , niệm tử tâm trùng 」 , giá cá thế gian , ân tình tối trùng đích vô quá ư phụ mẫu đối nhi nữ 。 nhi nữ thuyết thị kính ái phụ mẫu đảo bất kiến đắc , tha hội biến đích , phụ mẫu niệm tử nữ đích tâm đích xác vĩnh viễn đô bất hội đoạn/đoán đích 。 giá cá tại thế gian pháp lí giảng chân chính đích từ bi , một hữu nhất ti hào đích điều kiện 。 tha đích nhi tử tái hoại , tha hoàn thị niệm niệm bất vô , hoàn thị bất nguyện ý khán đáo tha thụ khổ thụ nan 。 quan âm bồ tát tựu hảo tỉ chúng sinh đích phụ mẫu nhất dạng , tha hữu 「 đa trí đa tài 」 , hựu 「 cụ đại thế lực 」 , giá thị tùng tỉ dụ thượng thuyết , xác thật dã thị như thử 。 「 chúng tử tại nan , tức năng câu cứu , bồ tát diệc như thị 」 , tha hữu năng lực 、 hữu trí tuệ , tha khả dĩ cứu đắc liễu 。 bồ tát thị dĩ 「 vô duyên từ bi trùng 」 , vô duyên , duyên thị đương điều kiện giảng , một hữu điều kiện , vô điều kiện đích , vô duyên đại từ , đồng thể đại bi 。
“Trí tuệ quyền biến và trí tuệ chân thật đều sâu xa”, Bồ Tát ở giai vị Đẳng giác tất nhiên là vậy, huống chi trong kinh còn nói cho chúng ta biết rất rõ ràng, Bồ Tát Quán Thế Âm vốn đã thành Phật từ trước, ngài xoay hướng thuyền từ đến thế gian này cứu độ chúng sanh, cho nên hai trí quyền, thật của ngài đều đã rốt ráo viên mãn.
「權實二智深」,菩薩在等覺位,何況經裡面給我們說得很清楚,他早已經成佛,倒駕慈航而來的,權實二種智慧都究竟圓滿了。
「 quyền thật nhị trí thâm 」 , bồ tát tại đẳng giác vị , hà huống kinh lí diện cấp ngã môn thuyết đắc ngận thanh sở , tha tảo dĩ kinh thành phật , đảo giá từ hàng nhi lai đích , quyền thật nhị chủng trí tuệ đô cứu cánh viên mãn liễu 。
“Thánh tài của ngài vô lượng, sức thần thông lớn, chúng sanh trong mười pháp giới tuy rất nhiều, vẫn thừa sức cứu giúp”, nói về Bồ Tát Quán Thế Âm thì có việc gì là khó khăn đối với ngài? Điều này chúng ta nhất định phải tin tưởng. Vì sao vậy? Chỉ cần có một chút nghi hoặc liền gây chướng ngại cho sự cảm ứng giao hòa với Bồ Tát. Phần trước nói “một lòng chuyên nhất xưng niệm danh hiệu”, quý vị phải ghi nhớ câu này, nếu có một chút nghi hoặc thôi, tâm quý vị sẽ không còn chuyên nhất. Phần vấn đáp tiếp theo sẽ giải thích rõ vấn đề này.
「聖財無量,神通力大,十界雖多,應有餘裕」,在觀世音菩薩來說,他有什麼難處?這是我們一定要相信的。為什麼?稍稍有一點疑惑,就是感應道交的障礙。前面「一心稱名」,諸位要記住這四個字,有一點點疑惑,心就不一。下面這個問答就是解答這個問題。
「 thánh tài vô lượng , thần thông lực đại , thập giới tuy đa , ưng hữu dư dụ 」 , tại quan thế âm bồ tát lai thuyết , tha hữu thập ma nan xứ ? giá thị ngã môn nhất định yếu tướng tín đích 。 vi thập ma ? sảo sảo hữu nhất điểm nghi hoặc , tựu thị cảm ưng đạo giao đích chướng ngại 。 tiền diện 「 nhất tâm xưng danh 」 , chư vị yếu kí trụ giá tứ cá tự , hữu nhất điểm điểm nghi hoặc , tâm tựu bất nhất 。 hạ diện giá cá vấn đáp tựu thị giải đáp giá cá vấn đề 。
“Hỏi: Nay thấy có người xưng niệm danh hiệu trong nhiều năm, không thấy được một chút hiệu nghiệm nào, vì sao vậy?”
「今見稱名累年,不蒙寸效者,何也。」
「 kim kiến xưng danh luy niên , bất mông thốn hiệu giả , hà dã 。 」
“Nay thấy” tức là nói người này trong hiện tại nhìn thấy. Quả thật chúng ta cũng nhìn thấy trước mắt đúng là như vậy, có nhiều việc giống như vậy. Xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm đã qua nhiều năm, mong cầu điều gì đó mà rốt lại không cầu được, không hề có sự cảm ứng, duyên do là vì đâu?
今見就是現在他見到,確實我們眼前擺的也是如此,是這樣的。念觀世音菩薩念了多少年,想求個什麼都求不到,沒有感應,這什麼緣故?
kim kiến tựu thị hiện tại tha kiến đáo , xác thật ngã môn nhãn tiền bãi đích dã thị như thử , thị giá dạng đích 。 niệm quan thế âm bồ tát niệm liễu đa thiểu niên , tưởng cầu cá thập ma đô cầu bất đáo , một hữu cảm ưng , giá thập ma duyên cố ?
Trước đây rất nhiều năm, ước chừng khoảng mười năm, khi ấy tôi vừa đến Đài Bắc để giảng kinh, từng ở lại chùa Pháp Hoa, nằm kế bên Tây Môn Đình, trên đường Tây Ninh Nam Lộ. Hình như là khi ấy vừa giảng kinh Địa Tạng xong, rồi tôi có giảng thêm điều gì đó. Có một vị pháp sư đến nghe giảng, nghe đến đoạn nói về sự cảm ứng giao hòa với Bồ Tát linh cảm như thế nào, vị này liền nói với tôi: “Việc này tôi không tin lắm.” Tôi hỏi: “Vì sao vậy?” Vị ấy nói: “Tôi ngày ngày lễ bái Phật, lễ bái Bồ Tát, cầu được một cái tủ lạnh, mà cầu đã 3 năm rồi chẳng được. Bồ Tát chẳng hề ban cho tôi.” Cầu như vậy là hoàn toàn không đúng pháp, chỉ là suốt ngày vọng tưởng mà thôi. Lấy chuyện này mà giải đáp [vấn đề trên] thì rất rõ ràng.
我在很多年之前,大概總有十幾年了,剛剛到台北市來講經的時候。曾經在法華寺,就是西門町那邊,西寧南路法華寺,好像是講《地藏經》還是講什麼,有個法師在那裡聽。聽到這個菩薩感應道交那麼靈感,他就跟我說,他說我不太相信。我說為什麼?他說,我天天拜佛、拜菩薩想求個電冰箱,求了三年都沒求到,菩薩都沒有送給他。這不如法,成天打妄想。這答得很好。
ngã tại ngận đa niên chi tiền , đại khái tổng hữu thập kỉ niên liễu , cương cương đáo đài bắc thị lai giảng kinh đích thời hậu 。 tằng kinh tại pháp hoa tự , tựu thị tây môn đinh na biên , tây ninh nam lộ pháp hoa tự , hảo tượng thị giảng 《 địa tạng kinh 》 hoàn thị giảng thập ma , hữu cá pháp sư tại na lí thính 。 thính đáo giá cá bồ tát cảm ưng đạo giao na ma linh cảm , tha tựu căn ngã thuyết , tha thuyết ngã bất thái tướng tín 。 ngã thuyết vi thập ma ? tha thuyết , ngã thiên thiên bái phật 、 bái bồ tát tưởng cầu cá điện băng sương , cầu liễu tam niên đô một cầu đáo , bồ tát đô một hữu tống cấp tha 。 giá bất như pháp , thành thiên đả vọng tưởng 。 giá đáp đắc ngận hảo 。
“Việc một lòng chuyên tâm xưng niệm danh hiệu cũng phải có sự, có lý; không theo đúng hai điều ấy thì làm sao cảm được bậc thánh.” Điều này chúng ta nhất định phải ghi nhớ.
「一心稱名,有事有理,二途無取,何能感聖」,這是我們一定要把它記住。
「 nhất tâm xưng danh , hữu sự hữu lí , nhị đồ vô thủ , hà năng cảm thánh 」 , giá thị ngã môn nhất định yếu bả tha kí trụ 。
Phần trước đã một lần giải thích về chuyên tâm xưng niệm danh hiệu, hoặc nói về sự, hoặc nói về lý, như vậy mới có thể cảm ứng giao hòa, có cầu liền có ứng. Quý vị hiện nay nếu như cả hai điều này, [hoặc sự hoặc lý] đều không có, cho dù ngày ngày ở đó xưng niệm danh hiệu, ở đó niệm Phật, niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, quý vị không hề đạt đến tâm chuyên nhất. Quý vị niệm với tâm xen tạp, niệm với tâm bán tín bán nghi, hoặc niệm với tâm ý muốn thăm dò để thử xem, quý vị niệm chẳng qua chỉ muốn thử xem có linh ứng hay không. Như vậy thì làm sao có sự cảm ứng? Đó là chuyện không thể nào có được.
前面一再說明一心稱名,或是事一心、或是理一心,才能感應道交,有求必應。你現在兩者都沒有,雖然天天在那裡稱名,在那裡念佛、念觀音菩薩,你沒有得到一心。你雜心在念,半信半疑的心在念,或者是一種試探的心來念,我倒念念,看看到底靈不靈。這怎麼能有感應?這不可能的事情。
tiền diện nhất tái thuyết minh nhất tâm xưng danh , hoặc thị sự nhất tâm 、 hoặc thị lí nhất tâm , tài năng cảm ưng đạo giao , hữu cầu tất ưng 。 nễ hiện tại lưỡng giả đô một hữu , tuy nhiên thiên thiên tại na lí xưng danh , tại na lí niệm phật 、 niệm quan âm bồ tát , nễ một hữu đắc đáo nhất tâm 。 nễ tạp tâm tại niệm , bán tín bán nghi đích tâm tại niệm , hoặc giả thị nhất chủng thí thám đích tâm lai niệm , ngã đảo niệm niệm , khán khán đáo để linh bất linh 。 giá chẩm ma năng hữu cảm ưng ? giá bất khả năng đích sự tình 。
“Ví như dùng gương soi đặt ở sau lưng”, ở đây ví dụ quý vị có một tấm gương soi, “trong gương hoàn toàn không có hình người”. Tấm gương soi của quý vị đặt ở phía sau lưng, đương nhiên là chẳng soi được gì. Đó là lỗi tại người soi gương, không phải lỗi của tấm gương.
「喻如臨鏡背照」,給你一面鏡子照著,「鏡子裡頭沒有我」。你照的鏡子背面,當然照不到,這個過失在自己,不在鏡子。
「 dụ như lâm kính bội chiếu 」 , cấp nễ nhất diện kính tử chiếu trước , 「 kính tử lí đầu một hữu ngã 」 。 nễ chiếu đích kính tử bội diện , đương nhiên chiếu bất đáo , giá cá quá thất tại tự kỉ , bất tại kính tử 。
“Như đứng trong khe núi ngậm miệng”, chúng ta ở nơi khe núi mà kêu to một tiếng thì nhất định phải nghe tiếng vọng, nhưng quý vị ngậm chặt miệng lại, không kêu không nói, làm sao có tiếng vọng? Những thí dụ này đều là để làm rõ, việc cảm ứng giao hòa với Bồ Tát có chướng ngại đều là do nơi chính mình, về phía Phật, Bồ Tát hoàn toàn không có chướng ngại. Chướng ngại đều là do chúng ta tự tạo ra.
「對谷閉口」,谷是山谷,我們在那裡大叫一聲,必定有回音,你閉上嘴巴你不開口,哪來的回音?都是說明了,與菩薩感應道交的障礙都是自己,佛菩薩那邊沒有障礙,障礙是自己造成的。
「 đối cốc bế khẩu 」 , cốc thị sơn cốc , ngã môn tại na lí đại khiếu nhất thanh , tất định hữu hồi âm , nễ bế thượng chuỷ ba nễ bất khai khẩu , ná lai đích hồi âm ? đô thị thuyết minh liễu , dữ bồ tát cảm ưng đạo giao đích chướng ngại đô thị tự kỉ , phật bồ tát na biên một hữu chướng ngại , chướng ngại thị tự kỉ tạo thành đích 。
Phần tiếp theo, Đại sư dẫn một đoạn kinh Lăng-nghiêm để giải thích.
下面,大師引用《楞嚴經》上一段話來說明。
hạ diện , đại sư dẫn dụng 《 lăng nghiêm kinh 》 thượng nhất đoạn thoại lai thuyết minh 。
Kinh Lăng-nghiêm nói: “Thứ nhất, do con không tự quán âm thanh, dùng pháp quán để quán người đang quán, nên khiến cho chúng sanh khổ não trong mười phương, khi quán âm thanh của mình liền được giải thoát.”
「楞嚴云,一者由我不自觀音,以觀觀者,令彼十方苦惱眾生,觀其音聲,即得解脫。」
「 lăng nghiêm vân , nhất giả do ngã bất tự quan âm , dĩ quan quan giả , linh bỉ thập phương khổ não chúng sinh , quan kì âm thanh , tức đắc giải thoát 。 」
Kinh Lăng-nghiêm có một đoạn kinh văn như vậy. Đoạn kinh này là Bồ Tát Quán Thế Âm tự mình nói ra chỗ đạt được trong sự tu chứng. Ngài đem chỗ đạt được qua sự tu chứng của mình mà gia hộ độ trì cho hết thảy chúng sanh. Sức mạnh như vậy là không thể nghĩ bàn, đích thật là có thể gia hộ được, không phải là không thể, quả thật là có thể gia hộ độ trì cho chúng sanh.
有這麼一段經文。這段經文是菩薩自己敘說他修證所得,拿他自己修證所得的來加持給一切眾生,這個力量不可思議,確確實實能夠加得上,不是加不上,真正可以加得上。
hữu giá ma nhất đoạn kinh văn 。 giá đoạn kinh văn thị bồ tát tự kỉ tự thuyết tha tu chứng sở đắc , nã tha tự kỉ tu chứng sở đắc đích lai gia trì cấp nhất thiết chúng sinh , giá cá lực lượng bất khả tư nghị , xác xác thật thật năng cú gia đắc thượng , bất thị gia bất thượng , chân chính khả dĩ gia đắc thượng 。
Trong kinh Lăng -nghiêm so với sự giảng giải ở đây tương đồng về đại thể nhưng cũng có chút khác biệt nhỏ. Ở đây nói về 7 nạn, trong kinh Lăng-nghiêm nói có 8 nạn, nhưng trong số 8 nạn thì giúp cho chúng sanh “khổ não” không sợ sệt là một điều bao quát tất cả. “Khổ” là nói sự khổ do thân thể ta cảm thụ, đủ mọi sự bức bách khó chịu. “Não” là nói sự khổ do nội tâm cảm nhận, tức là những điều bức bách, thúc ép,buồn lo trong tâm, làm cho ta đau khổ.
楞嚴會上與此地所講的也是大同小異,這個地方講的是七難,《楞嚴經》裡面講八難,而八難裡面「苦惱無畏」是個總綱領。苦是我們身體的感受,種種逼迫。惱是內心的感受,就是心理上的壓迫、逼迫,憂惱,身體為之痛苦。
lăng nghiêm hội thượng dữ thử địa sở giảng đích dã thị đại đồng tiểu dị , giá cá địa phương giảng đích thị thất nan , 《 lăng nghiêm kinh 》 lí diện giảng bát nan , nhi bát nan lí diện 「 khổ não vô úy 」 thị cá tổng cương lĩnh 。 khổ thị ngã môn thân thể đích cảm thụ , chủng chủng bức bách 。 não thị nội tâm đích cảm thụ , tựu thị tâm lí thượng đích áp bách 、 bức bách , ưu não , thân thể vi chi thống khổ 。
Kinh văn nói: “Con không tự quán âm thanh, dùng pháp quán để quán cái đang quán”, hai câu này là nêu công phu tu chứng của tự thân Bồ Tát. “Khiến cho chúng sanh khổ não trong mười phương, khi quán âm thanh liền được giải thoát.” Đây là nói rõ chỗ vận dụng tâm từ bi của Bồ Tát, giúp cho người khác giải trừ được sự đau đớn khổ não.
經文裡面所說「我不自觀音,以觀觀者」,這兩句是說菩薩自己的修證功夫。「令彼十方苦惱眾生,觀其音聲,即得解脫」,是說明他慈悲的業用,幫助別人解除痛苦。
kinh văn lí diện sở thuyết 「 ngã bất tự quan âm , dĩ quan quan giả 」 , giá lưỡng cú thị thuyết bồ tát tự kỉ đích tu chứng công phu 。 「 linh bỉ thập phương khổ não chúng sinh , quan kì âm thanh , tức đắc giải thoát 」 , thị thuyết minh tha từ bi đích nghiệp dụng , bang trợ biệt nhân giải trừ thống khổ 。
Chúng ta nhất định phải thấu hiểu rõ ràng ý nghĩa đoạn kinh văn này thì sau đó mới có thể tin tưởng và hiểu được năng lực của Bồ Tát Quán Thế Âm do đâu mà có. Chúng ta biết được năng lực của Bồ Tát do đâu mà có thì mới tin được là quả thật có năng lực như thế. Khi ấy, chúng ta xưng niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, một lòng chuyên nhất xưng niệm danh hiệu Bồ Tát cầu cảm ứng, liền đạt được tâm an ổn, lý thấu đạt. Lý sáng tỏ rõ ràng, thấu đạt, tâm liền an ổn, không còn nghi hoặc, không khởi vọng tưởng, tâm chuyên nhất xưng niệm danh hiệu, thì mới có thể đạt được sự cảm ứng giao hòa.
這個經文的意思我們一定要明瞭,然後我們才會相信觀世音菩薩這個能力從哪裡來的。我們知道他的能力從哪裡來的,又相信真正有這個能力,我們念觀音菩薩,一心稱名求感應,才是心安理得。理明白了,得到了,心就安了,沒有疑惑,不打妄想,一心稱名了,才能夠得到感應道交。
giá cá kinh văn đích ý tư ngã môn nhất định yếu minh liệu , nhiên hậu ngã môn tài hội tướng tín quan thế âm bồ tát giá cá năng lực tùng ná lí lai đích 。 ngã môn tri đạo tha đích năng lực tùng ná lí lai đích , hựu tướng tín chân chính hữu giá cá năng lực , ngã môn niệm quan âm bồ tát , nhất tâm xưng danh cầu cảm ưng , tài thị tâm an lí đắc 。 lí minh bạch liễu , đắc đáo liễu , tâm tựu an liễu , một hữu nghi hoặc , bất đả vọng tưởng , nhất tâm xưng danh liễu , tài năng cú đắc đáo cảm ưng đạo giao 。
Cho nên có rất nhiều vị đồng tu hỏi tôi, việc tu hành phải bắt đầu từ đâu? Trước hết là phải thấu hiểu lý một cách sáng tỏ. Quý vị chưa hiểu rõ được đạo lý, mù quáng tu hành, tu được một thời gian chẳng thấy có sự cảm ứng gì, đối với pháp Phật liền hoài nghi, sinh tâm thối thất. Cho nên, nhất định phải hiểu lý sáng tỏ. Hiểu lý sáng tỏ thì sự tu tập mới thực sự có hiệu quả vận dụng.
所以有許許多多同修問我,修行從哪裡下手?頭一個要明理。你道理不懂,盲修瞎練,修到一段時期沒有感應,對佛法懷疑,退心了。一定要明理,明理就真正有效用、有效果。
sở dĩ hữu hứa hứa đa đa đồng tu vấn ngã , tu hành tùng ná lí hạ thủ ? đầu nhất cá yếu minh lí 。 nễ đạo lí bất đổng , manh tu hạt luyện , tu đáo nhất đoạn thời kì một hữu cảm ưng , đối phật pháp hoài nghi , thối tâm liễu 。 nhất định yếu minh lí , minh lí tựu chân chính hữu hiệu dụng 、 hữu hiệu quả 。
Kinh văn nói “do con” là Bồ Tát Quán Thế Âm tự xưng [khi thưa với Phật]. Phương thức tu học của ngài là “không tự quán âm thanh”. Vậy ngài quán những gì? Ngài “dùng pháp quán để quán cái đang quán”. Câu kinh này cực kỳ vi diệu. Quán là nói đến trí thực hiện việc quán. Phần trước tôi có giảng qua rồi, đó là “vào dòng”, là “xoay cái nghe vào trong”. Bồ Tát Quán Thế Âm đối với hết thảy các loại âm thanh trong thế gian này, như phần trước đã giảng, âm thanh trong thế gian phân ra làm 4 loại lớn, tâm của Bồ Tát Quán Thế Âm không chạy đuổi theo, trôi giạt ra bên ngoài, ngài có thể xoay vào bên trong. Xoay vào bên trong thì quán những gì? Quán “cái nghe đó là gì”. Ngài không quan tâm đến loại âm thanh nào được nghe, không quan tâm điều đó, ngài chỉ quán chiếu xem “cái nghe” đó là gì. “Cái nghe” chính là tánh nghe, đó là “xoay cái nghe lại để nghe tự tánh của mình”.
「由我」,這個我是菩薩自稱,觀世音菩薩自稱。他的修學方式,他「不自觀音」。他觀什麼?他是「以觀觀者」,這個妙極了。觀,能觀之智,我們在前面講過,就是入流,就是反聞。他在這個世間一切音聲裡面,前面講過世間音聲分四大類,他的心不隨音聲往外面去流逸,他能夠回過頭來。回過頭來觀什麼?觀那個「能聞的是誰」。他不理會所聽的是什麼聲音,他不理會這個,他去觀照能聞的是誰,能聞的是聞性,「反聞聞自性」。
「 do ngã 」 , giá cá ngã thị bồ tát tự xưng , quan thế âm bồ tát tự xưng 。 tha đích tu học phương thức , tha 「 bất tự quan âm 」 。 tha quan thập ma ? tha thị 「 dĩ quan quan giả 」 , giá cá diệu cực liễu 。 quan , năng quan chi trí , ngã môn tại tiền diện giảng quá , tựu thị nhập lưu , tựu thị phản văn 。 tha tại giá cá thế gian nhất thiết âm thanh lí diện , tiền diện giảng quá thế gian âm thanh phân tứ đại loại , tha đích tâm bất tùy âm thanh vãng ngoại diện khứ lưu dật , tha năng cú hồi quá đầu lai 。 hồi quá đầu lai quan thập ma ? quan na cá 「 năng văn đích thị thùy 」 。 tha bất lí hội sở thính đích thị thập ma thanh âm , tha bất lí hội giá cá , tha khứ quan chiếu năng văn đích thị thùy , năng văn đích thị văn tính , 「 phản văn văn tự tính 」 。
Nghe tự tánh (văn tánh) tức là nói nhĩ căn. Nhãn căn là thấy tự tánh (kiến tánh). Nhà thiền thường nói “minh tâm kiến tánh” hay “kiến tánh thành Phật”. Văn tánh với kiến tánh cũng đều như nhau. Kiến tánh thành Phật, lẽ nào văn tánh không thành Phật? Làm sao để có thể văn tánh? Xoay cái nghe vào là văn tánh. Bồ Tát Quán Thế Âm vận dụng công phu như vậy. Cho nên khi quán ngài dùng trí quán, trí quán đối với gì? Đối với tánh nghe năng quán.
聞自性這是講耳根,眼根那就是見自性,禪家常講明心見性,見性成佛。聞性跟見性一樣的,見性成佛,聞性怎麼不成佛?怎樣才能夠聞性?反聞就聞性,他用的是這個功夫。所以他觀,用個觀智,觀智對什麼?對能觀的聞性。
văn tự tính giá thị giảng nhĩ căn , nhãn căn na tựu thị kiến tự tính , thiền gia thường giảng minh tâm kiến tính , kiến tính thành phật 。 văn tính căn kiến tính nhất dạng đích , kiến tính thành phật , văn tính chẩm ma bất thành phật ? chẩm dạng tài năng cú văn tính ? phản văn tựu văn tính , tha dụng đích thị giá cá công phu 。 sở dĩ tha quan , dụng cá quan trí , quan trí đối thập ma ? đối năng quan đích văn tính 。
Bồ Tát Quán Thế Âm có thể từ nơi 6 trần cảnh mà không phân biệt hết thảy các âm thanh, không quan tâm đến hết thảy âm thanh. Âm thanh chỉ là sự cảm phát mà thôi, tức là trợ duyên. Dựa vào sự trợ duyên đó mà Bồ Tát có thể xoay lại cái nghe, đó gọi là lìa trần cảnh (ly trần). Âm thanh tức là thanh trần, Bồ Tát không tự quán âm thanh, đó cũng là lìa trần cảnh. Bồ Tát có thể quán tánh nghe, đó gọi là chiếu tánh, cũng gọi là thấy tánh. Ly trần (lìa trần cảnh) cũng là bội trần (ngược với trần cảnh), chiếu tánh tức là hợp giác (hợp với tánh giác), bội trần hợp giác, Bồ Tát vận dụng phương pháp như vậy. Điều này không cần phải nói nhiều, trước đây tôi đã từng giảng giải rất chi tiết.
他能夠從六塵裡頭就不去分別一切音聲,不去理會一切音聲。音聲只是個感發而已,是個助緣,借這個助緣他就能反聞,這就叫離塵。聲是聲塵,他不自觀音,這就是離塵。他能觀聞性,這就叫照性,就是見性。離塵也就是背塵,照性就是合覺,背塵合覺,他用這個方法。這個不必多講,前面曾經說得很詳細。
tha năng cú tùng lục trần lí đầu tựu bất khứ phân biệt nhất thiết âm thanh , bất khứ lí hội nhất thiết âm thanh 。 âm thanh chỉ thị cá cảm phát nhi dĩ , thị cá trợ duyên , tá giá cá trợ duyên tha tựu năng phản văn , giá tựu khiếu li trần 。 thanh thị thanh trần , tha bất tự quan âm , giá tựu thị li trần 。 tha năng quan văn tính , giá tựu khiếu chiếu tính , tựu thị kiến tính 。 li trần dã tựu thị bội trần , chiếu tính tựu thị hợp giác , bội trần hợp giác , tha dụng giá cá phương pháp 。 giá cá bất tất đa giảng , tiền diện tằng kinh thuyết đắc ngận tường tế 。
Phương pháp tu học này là nguyên tắc chỉ đạo quan trọng nhất trong hết thảy các pháp tu. Bất kể là quý vị tu tập theo pháp môn nào, trong 84.000 pháp môn, cũng đều không thể trái với nguyên tắc này. Trái với nguyên tắc này thì không thể kiến tánh, trái với nguyên tắc này thì niệm Phật không thể đạt được tâm chuyên nhất. Quý vị phải vận dụng đúng phương pháp này thì mới có thể thấy tánh, mới có thể đạt được tâm chuyên nhất không tán loạn. Vận dụng được công phu như thế trên đường tu tập là sự hưởng thụ cao quý nhất trong mọi sự hưởng thụ của thế gian và xuất thế gian, đó là sự thật. Tự mình an trụ trong đại định, đối với hết thảy mọi cảnh giới đều có thể như như bất động, lúc đó gọi là chân tâm thường trụ hiện tiền. Chân tâm hiện tiền cũng chính là tâm thanh tịnh hiện tiền, tôi cũng thường nói là tâm Bồ-đề hiện tiền. Tâm Bồ-đề hiện tiền chính là giai vị Bồ Tát Sơ trụ.
這種修學方法,在一切修行法當中是最高的指導原則,不管你修學的是哪個法門,八萬四千法門,不能違背這個原則;違背這個原則,不能見性,違背這個原則,念佛不能得一心。你要用這個方法才能夠見性,才能夠得理一心不亂。功夫用上道了,那種享受是世出世間第一等的享受,那是真的。自己安住在大定當中,於一切境界皆能如如不動,這個時候所謂常住真心就現前了。真心現前也就是清淨心現前,或者我們講菩提心現前,菩提心現前就是初住菩薩。
giá chủng tu học phương pháp , tại nhất thiết tu hành pháp đương trung thị tối cao đích chỉ đạo nguyên tắc , bất quản nễ tu học đích thị ná cá pháp môn , bát vạn tứ thiên pháp môn , bất năng vi bội giá cá nguyên tắc ; vi bội giá cá nguyên tắc , bất năng kiến tính , vi bội giá cá nguyên tắc , niệm phật bất năng đắc nhất tâm 。 nễ yếu dụng giá cá phương pháp tài năng cú kiến tính , tài năng cú đắc lí nhất tâm bất loạn 。 công phu dụng thượng đạo liễu , na chủng hưởng thụ thị thế xuất thế gian đệ nhất đẳng đích hưởng thụ , na thị chân đích 。 tự kỉ an trụ tại đại định đương trung , ư nhất thiết cảnh giới giai năng như như bất động , giá cá thời hậu sở vị thường trụ chân tâm tựu hiện tiền liễu 。 chân tâm hiện tiền dã tựu thị thanh tịnh tâm hiện tiền , hoặc giả ngã môn giảng bồ đề tâm hiện tiền , bồ đề tâm hiện tiền tựu thị sơ trụ bồ tát 。
Tâm Bồ-đề khởi sinh tác dụng, chính là như trong kinh Lăng-nghiêm nói “diệu lực vô tác, gia bị chúng sanh” (sức nhiệm mầu không làm mà gia hộ trợ giúp chúng sanh). Vì sao gọi là “vô tác” (không làm)? Vì Bồ Tát không hề có sự khởi tâm động niệm, do vậy mới có được tác dụng rộng lớn đến như thế. Nếu như quý vị thật có sự chiêu cảm, Bồ Tát liền nhận biết ngay lập tức. Nếu như nói rằng “ta sẽ ứng hiện, chúng sanh vừa niệm danh hiệu ta, ta sẽ lập tức tìm đến chúng sanh ấy”, vị Bồ Tát như vậy sẽ mệt mỏi đến chết được. Bồ Tát không khởi tâm niệm. Vì không khởi tâm niệm nên Bồ Tát không mệt mỏi, không chán bỏ; vì Bồ Tát làm mà như không làm, không làm mà làm. Đó gọi là sức nhiệm mầu. Năng lực của Bồ Tát như vậy hết sức nhiệm mầu.
菩提心起的作用就是《楞嚴經》裡面所講的「無作妙力,加被眾生」。為什麼叫無作?他並沒有起心動念,所以他這作用才那麼廣大。如果你這裡有感,菩薩馬上曉得了,「我去應,他來念我了,我趕緊到他那裡去」,那菩薩可累死了。沒有心,沒有心所以他不疲不厭,作而無作,無作而作,這叫妙力,他這個能力太妙了!
bồ đề tâm khởi đích tác dụng tựu thị 《 lăng nghiêm kinh 》 lí diện sở giảng đích 「 vô tác diệu lực , gia bí chúng sinh 」 。 vi thập ma khiếu vô tác ? tha tịnh một hữu khởi tâm động niệm , sở dĩ tha giá tác dụng tài na ma quảng đại 。 như quả nễ giá lí hữu cảm , bồ tát mã thượng hiểu đắc liễu , 「 ngã khứ ưng , tha lai niệm ngã liễu , ngã cản khẩn đáo tha na lí khứ 」 , na bồ tát khả luy tử liễu 。 một hữu tâm , một hữu tâm sở dĩ tha bất bì bất áp , tác nhi vô tác , vô tác nhi tác , giá khiếu diệu lực , tha giá cá năng lực thái diệu liễu !
Nếu quý vị không tin, hãy thử nghĩ xem, như ở đây chúng ta có mõ gỗ, chuông đồng, những thứ này có tâm hay không? Một khi quý vị đánh gõ vào, liền lập tức vang lên âm thanh. Chúng không hề nói rằng “khi các ông gõ vào một cái, tôi sẽ lập tức vang lên một tiếng”, chúng không có tâm như vậy. Không có tâm, nên khi quý vị cứ liên tục đánh gõ, đánh gõ suốt một năm, chúng cũng không mệt mỏi. Nếu có tâm sẽ có sự mệt mỏi, không có tâm nên không mệt mỏi.
你要是不信,我們這有木魚、有磬,它有沒有心?你敲它一下,它就響一下,它不是說你一敲「我趕快要響一下,因為他敲我」,它沒有心。沒有心,你繼續不斷敲,你敲它一年,它也不累。有心就累了,沒有心不累。
nễ yếu thị bất tín , ngã môn giá hữu mộc ngư 、 hữu khánh , tha hữu một hữu tâm ? nễ xao tha nhất hạ , tha tựu hưởng nhất hạ , tha bất thị thuyết nễ nhất xao 「 ngã cản khoái yếu hưởng nhất hạ , nhân vi tha xao ngã 」 , tha một hữu tâm 。 một hữu tâm , nễ kế tục bất đoạn/đoán xao , nễ xao tha nhất niên , tha dã bất luy 。 hữu tâm tựu luy liễu , một hữu tâm bất luy 。
Tôi ở đây giảng kinh cũng không có tâm, giảng mà không giảng, không giảng mà giảng. Ngồi ở đây suốt ngày, giảng kinh từ sớm đến chiều tối, không mệt mỏi, không mệt mỏi chút nào. Vì sao vậy? Vì giống như không giảng. Nếu như quý vị có tâm, giảng khoảng vài giờ đã mệt mỏi lắm. Vài giờ là mệt rồi. Như quý vị niệm Phật, lễ Phật, khoảng một giờ trở đi là mệt mỏi. Vì sao vậy? Vì có tâm. Nếu quý vị có thể đạt đến chỗ vô tâm như đã nói, quý vị suốt ngày từ sáng đến tối công phu không gián đoạn, ngày ngày lễ bái, trong một ngày lễ bái đủ 24 giờ, quanh năm lễ bái như vậy, nhất định cũng không mệt không chán, không hề mệt mỏi. Khi tu tập lễ bái như vậy không mệt mỏi thì quý vị ở thế gian làm bất cứ công việc gì cũng không mệt mỏi. Pháp môn này thật quá tốt đẹp! Cho nên nếu quý vị học được rồi thì ở giữa thế gian, bất kể là làm công việc gì, quý vị đều sẽ dẫn đầu, không thua kém ai. Vì sao vậy? Vì quý vị có trí tuệ, có định lực, có công phu, phàm phu ở đời không thể nào sánh được với quý vị.
我們在這裡講經,沒有心,說而無說,無說而說,坐這裡一天講到晚,不累,一點不累,為什麼?沒講。你要有心,講兩個鐘點,好累!兩個鐘點。你們念佛、拜佛,一個鐘點下來,累了,為什麼?有心。你要能夠做到無心的話,你一天到晚功夫不斷,天天去拜,你一天拜二十四小時,一年拜到頭,決定不疲不厭,不會累。做這個事情不累,你在這個世間做什麼工作都不累,這個法門多好!所以你要學會了,在這個世間無論幹什麼事情,你都是世界第一流的,沒有第二。無論幹什麼事情,你都是第一,為什麼?你有智慧、有定力,你有功夫,凡夫沒有法子跟你相比。
ngã môn tại giá lí giảng kinh , một hữu tâm , thuyết nhi vô thuyết , vô thuyết nhi thuyết , toạ giá lí nhất thiên giảng đáo vãn , bất luy , nhất điểm bất luy , vi thập ma ? một giảng 。 nễ yếu hữu tâm , giảng lưỡng cá chung điểm , hảo luy ! lưỡng cá chung điểm 。 nễ môn niệm phật 、 bái phật , nhất cá chung điểm hạ lai , luy liễu , vi thập ma ? hữu tâm 。 nễ yếu năng cú tố đáo vô tâm đích thoại , nễ nhất thiên đáo vãn công phu bất đoạn/đoán , thiên thiên khứ bái , nễ nhất thiên bái nhị thập tứ tiểu thời , nhất niên bái đáo đầu , quyết định bất bì bất áp , bất hội luy 。 tố giá cá sự tình bất luy , nễ tại giá cá thế gian tố thập ma công tác đô bất luy , giá cá pháp môn đa hảo ! sở dĩ nễ yếu học hội liễu , tại giá cá thế gian vô luận cán thập ma sự tình , nễ đô thị thế giới đệ nhất lưu đích , một hữu đệ nhị 。 vô luận cán thập ma sự tình , nễ đô thị đệ nhất , vi thập ma ? nễ hữu trí tuệ 、 hữu định lực , nễ hữu công phu , phàm phu một hữu pháp tử căn nễ tướng tỉ 。
Cho nên Bồ Tát mới có thể thành tựu Kim cương tam-muội. Tam-muội là gì? Tam-muội là thọ nhận chân chánh, tam-muội là hưởng thụ, là sự hưởng thụ bình thường. Kim cương là gì? Là không thể hủy hoại. Sự hưởng thụ của Bồ Tát chính là thanh tịnh vô vi, không làm gì cả, nhưng khi khởi lên tác dụng thì không gì là không làm. Tuy không có gì không làm, nhưng vẫn là không làm gì cả, rất nhiệm mầu như vậy. Nếu vô vi với hữu vi phân thành hai bên thì không có gì là mầu nhiệm. Nhưng đó là một, chẳng phải hai, cho nên mới gọi là “sức nhiệm mầu không làm”. Sức mạnh, năng lượng của Bồ Tát như vậy, gia hộ độ trì cho hết thảy chúng sanh trong mười phương pháp giới. Như vậy mới thực sự đạt đến sự cảm ứng rộng lớn khắp nơi. Ý nghĩa lý luận này là hết sức thâm sâu.
所以他才能夠成就金剛三昧,三昧是什麼?三昧是正受,三昧是享受,正常的享受。金剛是什麼?金剛是不能毀壞的。他這個享受是清淨無為,起作用的時候無所不為,雖然無所不為,還是無為,這才妙。無為跟有為分成兩樁那就不妙了,它是一不是二,所以才叫無作妙力。他拿這種力量來加持給十方法界一切眾生,才能真正得到廣大的感應,這個裡面的理是很深很深。
sở dĩ tha tài năng cú thành tựu kim cương tam muội , tam muội thị thập ma ? tam muội thị chính thụ , tam muội thị hưởng thụ , chính thường đích hưởng thụ 。 kim cương thị thập ma ? kim cương thị bất năng huỷ hoại đích 。 tha giá cá hưởng thụ thị thanh tịnh vô vi , khởi tác dụng đích thời hậu vô sở bất vi , tuy nhiên vô sở bất vi , hoàn thị vô vi , giá tài diệu 。 vô vi căn hữu vi phân thành lưỡng thung na tựu bất diệu liễu , tha thị nhất bất thị nhị , sở dĩ tài khiếu vô tác diệu lực 。 tha nã giá chủng lực lượng lai gia trì cấp thập phương pháp giới nhất thiết chúng sinh , tài năng chân chính đắc đáo quảng đại đích cảm ưng , giá cá lí diện đích lí thị ngận thâm ngận thâm 。
Nhưng tuy là ý nghĩa rất thâm sâu như vậy, cũng không phải là không thể nhận hiểu. Chúng ta có thể nhận hiểu được rồi, chúng ta mới có thể tin nhận. Tin nhận được rồi mới không còn nghi hoặc, chỉ y theo phương pháp ấy mà tu hành, chúng ta nhất định sẽ thành tựu.
雖然很深的道理,不是不能體會。我們能夠體會得到,那我們就能相信,能相信我們就不會有疑惑,依照這個方法修行,我們決定能成就。
tuy nhiên ngận thâm đích đạo lí , bất thị bất năng thể hội 。 ngã môn năng cú thể hội đắc đáo , na ngã môn tựu năng tướng tín , năng tướng tín ngã môn tựu bất hội hữu nghi hoặc , y chiếu giá cá phương pháp tu hành , ngã môn quyết định năng thành tựu 。
Trong kinh văn có những câu hết sức quan trọng thiết yếu. Có khi trong kinh Lăng-nghiêm không có thì trong phẩm Phổ môn lại có, hoặc trong phẩm Phổ môn không có thì trong kinh Lăng-nghiêm lại có. Ví dụ như trong kinh Lăng-nghiêm không nói “nhất tâm xưng danh” (một lòng chuyên nhất xưng niệm danh hiệu), câu này rất là quan trọng thiết yếu, nhưng kinh Lăng-nghiêm không có. Thế nhưng trong kinh Lăng-nghiêm lại có đủ các phương pháp tu hành quan trọng thiết yếu, như “không tự quán âm thanh, dùng pháp quán để quán cái đang quán”. Điều này hết sức quan trọng thiết yếu, nhưng trong phẩm Phổ môn của kinh Pháp Hoa lại không có. Cho nên, chúng ta hợp cả 3 kinh lại để xem thì có bao nhiêu nghi vấn đều có thể tìm được lời giải đáp. Như vậy mới có thể dứt sạch lòng nghi, khởi sinh tín tâm. Pháp sư Đại Nghĩa trong sách giảng giải, ở đoạn này trích dẫn kinh Lăng-nghiêm rất nhiều chỗ, hầu như chỗ nào cũng có trích dẫn kinh Lăng-nghiêm để giải thích.
經文裡面有些重要的句子,這個經上沒有那個經上有,那個經上沒有這個經上有。譬如《楞嚴經》裡面就少了一個「一心稱名」,這四個字太重要了,沒有這個。可是《楞嚴經》裡面,像這種重要的修行方法,「不自觀音,以觀觀者」,這個非常重要,但是在《法華經.普門品》裡頭沒有這個句子。所以,你將三經合起來看,才把所有的疑問都找到答案,這樣才能斷疑生信。大義法師這個註解,在這一段裡面引用《楞嚴經》的地方很多很多,幾乎每段都引用《楞嚴經》的經文來解釋。
kinh văn lí diện hữu ta trùng yếu đích cú tử , giá cá kinh thượng một hữu na cá kinh thượng hữu , na cá kinh thượng một hữu giá cá kinh thượng hữu 。 thí như 《 lăng nghiêm kinh 》 lí diện tựu thiểu liễu nhất cá 「 nhất tâm xưng danh 」 , giá tứ cá tự thái trùng yếu liễu , một hữu giá cá 。 khả thị 《 lăng nghiêm kinh 》 lí diện , tượng giá chủng trùng yếu đích tu hành phương pháp , 「 bất tự quan âm , dĩ quan quan giả 」 , giá cá phi thường trùng yếu , đãn thị tại 《 pháp hoa kinh . phổ môn phẩm 》 lí đầu một hữu giá cá cú tử 。 sở dĩ , nễ tương tam kinh hợp khởi lai khán , tài bả sở hữu đích nghi vấn đô hoa đáo đáp án , giá dạng tài năng đoạn/đoán nghi sinh tín 。 đại nghĩa pháp sư giá cá chú giải , tại giá nhất đoạn lí diện dẫn dụng 《 lăng nghiêm kinh 》 đích địa phương ngận đa ngận đa , kỉ hồ mỗi đoạn đô dẫn dụng 《 lăng nghiêm kinh 》 đích kinh văn lai giải thích 。
Phần tiếp theo, Pháp sư viết: “Dùng pháp quán để quán tánh thể, dùng cái nghe để nghe tự tánh.” Đây là Pháp sư Đại Nghĩa giải thích đoạn kinh Lăng-nghiêm vừa dẫn trên. Tánh thể tức là chân như bản thể. Trong kinh Hoa nghiêm nói đến tam đại là thể, tướng và dụng; thể tức là chân như bản tánh. Bồ Tát quán là quán chân như lý thể; Bồ Tát nghe là nghe chân như bản tánh. Thểtánh là một, chẳng phải hai. Thể tánh là gì? Có thể nói với quý vị, đó là tâm chuyên nhất. Khi giảng giải tiêu đề kinh tôi đã có nói qua, hết thảy các pháp đều quy về trong 3 pháp: chúng sanh pháp, Phật pháptâm pháp. Ba pháp đó trong thực tế cũng chỉ là một tâm pháp, tức là nhất tâm, hay tâm chuyên nhất.
底下他說,「以觀觀之體,聞聞之性」,這是大義法師解釋《楞嚴經》上這一段經文。體是真如本體,《華嚴經》裡面所講的體、相、用三大,體是真如本性。菩薩觀是觀真如理體,菩薩聞是聞真如本性,體跟性是一不是二。體性是什麼?跟諸位說就是一心。我們在經題裡面講過,一切法歸納為三法,眾生法、佛法、心法,三法實際上就是一個心法,一心。
để hạ tha thuyết , 「 dĩ quan quan chi thể , văn văn chi tính 」 , giá thị đại nghĩa pháp sư giải thích 《 lăng nghiêm kinh 》 thượng giá nhất đoạn kinh văn 。 thể thị chân như bản thể , 《 hoa nghiêm kinh 》 lí diện sở giảng đích thể 、 tướng 、 dụng tam đại , thể thị chân như bản tính 。 bồ tát quan thị quan chân như lí thể , bồ tát văn thị văn chân như bản tính , thể căn tính thị nhất bất thị nhị 。 thể tính thị thập ma ? căn chư vị thuyết tựu thị nhất tâm 。 ngã môn tại kinh đề lí diện giảng quá , nhất thiết pháp quy nạp vi tam pháp , chúng sinh pháp 、 phật pháp 、 tâm pháp , tam pháp thật tế thượng tựu thị nhất cá tâm pháp , nhất tâm 。
Tâm chuyên nhất tức là tâm thanh tịnh, tâm phân hai là tâm không thanh tịnh. Tâm chuyên nhất là tâm tỉnh giác, tâm phân hai là tâm nhiễm ô. Trong tâm chuyên nhất vốn không có khổ, vui. Cho nên Lục tổ Đại sư nói: “Xưa nay không một vật.” Đó cũng chính là nhất tâm, cũng là tâm tánh. Trong tâm tánh không có gì cả, ngay cả cái “không có gì cả” đó cũng không có. Nếu như trong tâm chuyên nhất mà vẫn còn có cái “không có gì cả” thì đó vẫn còn là tâm phân hai, không thực sự là tâm chuyên nhất.
一心是清淨心,二心就不清淨;一心是覺心,二心就染污,一心裡面本無苦樂。所以六祖大師說「本來無一物」,那就是一心,那就是心性,心性裡頭什麼都沒有;連那個「什麼都沒有」也沒有,如果一心當中還有個「什麼都沒有」,那個心還是二心,還不是真正的一心。
nhất tâm thị thanh tịnh tâm , nhị tâm tựu bất thanh tịnh ; nhất tâm thị giác tâm , nhị tâm tựu nhiễm ô , nhất tâm lí diện bản vô khổ lạc/nhạc/nhạo 。 sở dĩ lục tổ đại sư thuyết 「 bản lai vô nhất vật 」 , na tựu thị nhất tâm , na tựu thị tâm tính , tâm tính lí đầu thập ma đô một hữu ; liên na cá 「 thập ma đô một hữu 」 dã một hữu , như quả nhất tâm đương trung hoàn hữu cá 「 thập ma đô một hữu 」 , na cá tâm hoàn thị nhị tâm , hoàn bất thị chân chính đích nhất tâm 。
Trong tâm chuyên nhất vốn không có khổ hoặc vui, vậy khổ vui trong tâm từ đâu đến? Điều này phải nói đến Duy thức. Khổ hoặc vui chỉ ở trong vọng tâm mới có, trong chân tâm hoàn toàn không có. Khi mê hoặc để mất chân tâm thì gọi là vọng tâm. Vọng tâm đó tức là nói thức a-lại-da, là căn bản của vọng tâm. Từ nơi thức a-lại-da lại biến hiện ra thức mạt-na với 6 thức[10] hướng ra ngoài, được gọi chung là 7 chuyển thức, đều do thức a-lại-da biến hiện ra. Đó đều là thể của tâm, thể của vọng tâm. Trong thể của vọng tâm, xin thưa với quý vị là cũng không hề có khổ hoặc vui. Tám thức trải qua đều là hư vọng, khổ vui từ đâu mà có? Khổ vui từ những tâm tương ưng [của 8 thức] mà có, có thể thấy rằng đó là hư vọng ở trong hư vọng, đối với chân tâm của chúng ta hoàn toàn không có liên quan gì, mà đối với vọng tâm của chúng ta cũng chẳng có quan hệ gì đáng nói, chính là từ trong các tâm sở mà phát sinh, từ trong 51 tâm sở phát sinh.
一心裡頭本來沒有苦樂,苦樂從哪來的?這就要講到唯識。苦樂是妄心裡面才有,真心裡頭沒有。迷失了真心就叫妄心,妄心這是講阿賴耶,是妄心的根本,從阿賴耶再變現出末那與前六識,叫七轉識,是阿賴耶所變現出來的,那都是心之體,妄心之體。妄心之體裡面,跟諸位說也沒有苦樂。八識已經是虛妄的,苦樂從哪裡來?苦樂從它相應心所裡頭來的,可見得是妄中之妄。與自己的真心真是毫不相干,與自己的妄心都還沒有什麼太大的關係,心所裡頭發出來的,五十一個心所裡面的。
nhất tâm lí đầu bản lai một hữu khổ lạc/nhạc/nhạo , khổ lạc/nhạc/nhạo tùng ná lai đích ? giá tựu yếu giảng đáo duy thức 。 khổ lạc/nhạc/nhạo thị vọng tâm lí diện tài hữu , chân tâm lí đầu một hữu 。 mê thất liễu chân tâm tựu khiếu vọng tâm , vọng tâm giá thị giảng a lại da , thị vọng tâm đích căn bản , tùng a lại da tái biến hiện xuất mạt na dữ tiền lục thức , khiếu thất chuyển thức , thị a lại da sở biến hiện xuất lai đích , na đô thị tâm chi thể , vọng tâm chi thể 。 vọng tâm chi thể lí diện , căn chư vị thuyết dã một hữu khổ lạc/nhạc/nhạo 。 bát thức dĩ kinh thị hư vọng đích , khổ lạc/nhạc/nhạo tùng ná lí lai ? khổ lạc/nhạc/nhạo tùng tha tướng ưng tâm sở lí đầu lai đích , khả kiến đắc thị vọng trung chi vọng 。 dữ tự kỉ đích chân tâm chân thị hào bất tướng can , dữ tự kỉ đích vọng tâm đô hoàn một hữu thập ma thái đại đích quan hệ , tâm sở lí đầu phát xuất lai đích , ngũ thập nhất cá tâm sở lí diện đích 。
Nếu như chúng ta thực sự thấu hiểu rõ ràng ý nghĩa này, đó gọi là quay lại quán chiếu. Một lần quay lại quán chiếu liền thấy biết rõ ràng minh bạch. Chúng ta làm sao có thể để cho tâm hư vọng đó sai khiến? Như vậy chẳng phải là điên đảo sao? Tâm sở trở thành chủ nhà, làm chủ nhân ông; bản tánh, tâm vương lại phải nghe theo chúng, có lý nào lại như vậy? Ở chư Phật, Bồ Tát đều là chân như, bản tánh làm chủ, các tâm sở đều phải nghe theo sự chỉ huy của tâm vương. Như vậy thì trở thành như thế nào? Đó là thành sở tác trí, thành tựu vô lượng vô biên sự nghiệp lợi ích chúng sanh. Phật muốn làm lợi ích chúng sanh nên dùng đến tâm vương, cũng có thể dùng các tâm sở, thế nhưng đó không phải là chỗ tự thọ dụng. Chỗ tự thọ dụng của chư Phật là tâm thanh tịnh, là cảnh giới tịch diệt, đó là tự thọ dụng. Về tha thọ dụng thì từ trong bản tánh biến hiện ra tâm vương, tâm sở, đó là tha thọ dụng, dùng để giáo hóa chúng sanh, hoàn toàn xem đó là công cụ, phương tiện, biến thành hậu đắc trí, biến thành thành sở tác trí. Đó chính là hiệu quả của việc xoay cái nghe, quay lại quán chiếu [tự thân].
我們如果真正明白這個道理,所以說一返觀,返觀一照就照得清清楚楚,我們怎麼能夠上了虛妄心所的當?那不叫顛倒了嗎?心所當了家,它做了主人,本性、心王還得聽它的,哪有這種道理?佛與菩薩就是真如本性當家,所有的心王、心所都得聽它指揮,都變成什麼?成所作智,成就無量無邊利益眾生的事業。佛要利益眾生也要用心王,也得要用心所,但是他那不是自受用,他自受用是清淨心、是寂滅境界,是自受用。他受用就是從本性裡頭變現出心王、心所,為他受用,教化眾生,完全變成工具,變成了後得智,變成了成所作智。這就是反聞、返觀的效果。
ngã môn như quả chân chính minh bạch giá cá đạo lí , sở dĩ thuyết nhất phản quan , phản quan nhất chiếu tựu chiếu đắc thanh thanh sở sở , ngã môn chẩm ma năng cú thượng liễu hư vọng tâm sở đích đương ? na bất khiếu điên đảo liễu mạ ? tâm sở đương liễu gia , tha tố liễu chủ nhân , bản tính 、 tâm vương hoàn đắc thính tha đích , ná hữu giá chủng đạo lí ? phật dữ bồ tát tựu thị chân như bản tính đương gia , sở hữu đích tâm vương 、 tâm sở đô đắc thính tha chỉ huy , đô biến thành thập ma ? thành sở tác trí , thành tựu vô lượng vô biên lợi ích chúng sinh đích sự nghiệp 。 phật yếu lợi ích chúng sinh dã yếu dụng tâm vương , dã đắc yếu dụng tâm sở , đãn thị tha na bất thị tự thụ dụng , tha tự thụ dụng thị thanh tịnh tâm 、 thị tịch diệt cảnh giới , thị tự thụ dụng 。 tha thụ dụng tựu thị tùng bản tính lí đầu biến hiện xuất tâm vương 、 tâm sở , vi tha thụ dụng , giáo hoá chúng sinh , hoàn toàn biến thành công cụ , biến thành liễu hậu đắc trí , biến thành liễu thành sở tác trí 。 giá tựu thị phản văn 、 phản quan đích hiệu quả 。
Phần sau nói “theo âm thanh mà lưu chuyển”, tức là nói kẻ phàm phu, tùy theo cảnh giới bên ngoài mà khởi tâm động niệm, tâm bám chấp chạy đuổi theo cảnh giới. Chạy theo ngoại cảnh, thấy hợp với ý muốn của mình liền khởi tâm vui mừng, thấy không hợp với ý muốn của mình liền khởi tâm sân hận. Tâm đã bám víu chạy theo ngoại cảnh thì suốt ngày từ sớm đến tối luôn bị ngoại cảnh xoay chuyển.
底下說「循聲流轉」,這是講凡夫,隨著外面境界起心動念,心隨著境界跑。境界裡面,合乎自己意思了,起了歡喜心,心跑到境界上去;不合意思的時候,起了瞋恚心,心也跑到外面去了,心一天到晚隨著外頭境界轉。
để hạ thuyết 「 tuần thanh lưu chuyển 」 , giá thị giảng phàm phu , tùy trước ngoại diện cảnh giới khởi tâm động niệm , tâm tùy trước cảnh giới bào 。 cảnh giới lí diện , hợp hồ tự kỉ ý tư liễu , khởi liễu hoan hỉ tâm , tâm bào đáo cảnh giới thượng khứ ; bất hợp ý tư đích thời hậu , khởi liễu sân khuể tâm , tâm dã bào đáo ngoại diện khứ liễu , tâm nhất thiên đáo vãn tùy trước ngoại đầu cảnh giới chuyển 。
Xin nhắc lại với quý vị, cảnh giới bên ngoài đó là giả; cảnh giới bên ngoài vốn là thanh tịnh, chẳng phải Phật cũng chẳng phải ma. Nếu tự tâm quý vị là tâm Phật thì hết thảy cảnh giới bên ngoài đều là Phật. Nếu tự tâm quý vị là tâm ma thì hết thảy cảnh giới bên ngoài đều là tâm ma. Trong kinh điển, đức Phật đã giảng giải cho chúng ta rất rõ ràng, cảnh theo tâm mà chuyển.
我再告訴諸位,外面的境界是假的,外面的境界是清淨的,無佛也沒有魔。你自己的心是佛心,一切境界都是佛;你自己的心不清淨,一切境界都是魔。佛在經典裡面給我們講得很清楚,境隨心轉,
ngã tái cáo tố chư vị , ngoại diện đích cảnh giới thị giả đích , ngoại diện đích cảnh giới thị thanh tịnh đích , vô phật dã một hữu ma 。 nễ tự kỉ đích tâm thị phật tâm , nhất thiết cảnh giới đô thị phật ; nễ tự kỉ đích tâm bất thanh tịnh , nhất thiết cảnh giới đô thị ma 。 phật tại kinh điển lí diện cấp ngã môn giảng đắc ngận thanh sở , cảnh tùy tâm chuyển ,
Cho nên, chúng ta ở trong cảnh giới có thể biết được trình độ tu tập của chính mình. Nếu ta ở trong cảnh giới chỉ thấy toàn là ma, đó chính là trong tâm ta có ma. Nếu trong tâm ta không có ma, làm sao có thể thấy ma nơi ngoại cảnh? Cần phải thấu hiểu rõ ràng ý nghĩa này. Nếu quý vị đạt được tâm đồng thể đại bi thì sẽ thấy được ngoại cảnh đều là tướng tịch diệt thanh tịnh. Như trong kinh Hoa nghiêm có dạy, pháp giới vốn là nhất chân, do chúng ta khởi tâm động niệm nên đối với pháp giới nhất chân ấy nhìn thấy sai lệch, nhìn thấy thành ra mười pháp giới, nhìn thấy thành ra vô lượng vô biên pháp giới, đó đều là do chính mình tạo thành.
所以我們在境界裡面知道自己的程度。我在境界裡面還看到魔,是我自己心裡頭有魔,自己心裡沒有魔,怎麼會看到外頭有魔?要明白這個道理,你的同體大悲心才能夠現前,曉得外境是清淨寂滅相。正如《華嚴經》裡面所講的,法界原本是一真,是我們起心動念把這個一真法界看走了眼,看成了十法界,看成了無量無邊的法界,自己造成的。
sở dĩ ngã môn tại cảnh giới lí diện tri đạo tự kỉ đích trình độ 。 ngã tại cảnh giới lí diện hoàn khán đáo ma , thị ngã tự kỉ tâm lí đầu hữu ma , tự kỉ tâm lí một hữu ma , chẩm ma hội khán đáo ngoại đầu hữu ma ? yếu minh bạch giá cá đạo lí , nễ đích đồng thể đại bi tâm tài năng cú hiện tiền , hiểu đắc ngoại cảnh thị thanh tịnh tịch diệt tướng 。 chính như 《 hoa nghiêm kinh 》 lí diện sở giảng đích , pháp giới nguyên bản thị nhất chân , thị ngã môn khởi tâm động niệm bả giá cá nhất chân pháp giới khán tẩu liễu nhãn , khán thành liễu thập pháp giới , khán thành liễu vô lượng vô biên đích pháp giới , tự kỉ tạo thành đích 。
Khi tâm quý vị thanh tịnh không khởi sinh bất cứ ý niệm nào, quý vị sẽ nhìn hết thảy mọi người đều không có sự phân biệt, thấy hết thảy mọi người đều không thể nói là người tốt, cũng không thể nói là người xấu, hoàn toàn không có sự phân biệt.
當你心清淨不動念頭的時候,你一念不生的時候,你看這一切人都沒有分別,這一切人也不能說好人、也不能說壞人,沒有分別。
đương nễ tâm thanh tịnh bất động niệm đầu đích thời hậu , nễ nhất niệm bất sinh đích thời hậu , nễ khán giá nhất thiết nhân đô một hữu phân biệt , giá nhất thiết nhân dã bất năng thuyết hảo nhân 、 dã bất năng thuyết hoại nhân , một hữu phân biệt 。
Cho nên, cảnh giới vốn là bình đẳng. Khởi lên một niệm tâm lành, “hết thảy đều là người tốt”; khởi lên một niệm “người ấy có vẻ xấu ác, thì hết thảy đều là kẻ ác”. Đều là do tâm quý vị động. Có người nào là tốt hay xấu? Đều là do tâm của quý vị động. Quý vị khởi niệm thiện, cảnh giới liền thiện; khởi một niệm ác, cảnh giới liền ác; khởi một niệm Phật, hết thảy đều là cảnh giới Phật; khởi một niệm ma, hết thảy đều là cảnh giới ma. Đích thật là vạn pháp duy tâm (muôn pháp đều do nơi tâm)!
所以境界是平等的。起一念善心,「都是好人」,心動了;起一念「這人多可惡,都是壞人」,你心動了。什麼人叫好與壞?都是你心在動。你一念善,境界就善;一念惡,境界就惡;一念佛,都是佛境界;一念魔,全是魔境界。真是萬法唯心!
sở dĩ cảnh giới thị bình đẳng đích 。 khởi nhất niệm thiện tâm , 「 đô thị hảo nhân 」 , tâm động liễu ; khởi nhất niệm 「 giá nhân đa khả ác , đô thị hoại nhân 」 , nễ tâm động liễu 。 thập ma nhân khiếu hảo dữ hoại ? đô thị nễ tâm tại động 。 nễ nhất niệm thiện , cảnh giới tựu thiện ; nhất niệm ác , cảnh giới tựu ác ; nhất niệm phật , đô thị phật cảnh giới ; nhất niệm ma , toàn thị ma cảnh giới 。 chân thị vạn pháp duy tâm !
Khi chúng ta vào trong cảnh giới, như trong xã hội hiện nay, mỗi người đều ngày ngày suy nghĩ, ham muốn những mẫu thời trang mới, đặc biệt là các đồng tu phái nữ. Chúng ta hãy lấy ngành thời trang y phục làm thí dụ. Các nhà thiết kế y phục thời trang ngày ngày suy nghĩ tạo ra kiểu mẫu, suy nghĩ được một mẫu mới, đưa ra thịnh hành trong năm. Tốt thôi! Nhưng rồi năm trước quý vị vừa may một bộ y phục, còn chưa mặc qua được vài lần, năm nay có mẫu thời trang mới, mẫu cũ thành lỗi thời, quý vị liền lập tức suy nghĩ tìm cách làm sao để mua cho được một bộ hợp thời trang. Khi quý vị vừa mua được mẫu thời trang ấy rồi, qua mấy ngày sau thì họ lại thiết kế ra một mẫu khác, mẫu cũ thành lỗi thời. Quý vị bị những người thiết kế thời trang điều khiển, xoay chuyển. Quý vị vất vả khổ sở kiếm tiền rồi đều mang đến nuôi dưỡng những người ấy, đều bị họ phỉnh gạt hết sạch. Đó là gì vậy? Là ma, chính thật là ma. Ma ở chỗ nào? Đó chính là ma vương, ngày ngày suy nghĩ kiểu mới, làm cho quý vị không được an ổn trong tâm, lôi kéo quý vị chạy theo.
當我們入境界的時候,像現前這個社會,每個人都天天在動腦筋,想新花樣,特別是女同修。我們就以服裝做例子,你看服裝設計師,天天動腦筋想花樣,想出一個新樣子,今年流行了。好了,你去年做的衣服還沒穿兩次,今年新樣子,這個不流行了,趕快就想辦法動腦筋要去買一件新的樣子。當你買來了,過幾天他又設計一個新花樣,這又不流行了。你就被他手上轉,你所辛辛苦苦賺來的錢都去供養他,都被他騙走了。那是什麼?魔,那就是魔。魔在哪裡?那就是魔王,天天想新花樣,叫你心不能夠安穩,牽著你走。
đương ngã môn nhập cảnh giới đích thời hậu , tượng hiện tiền giá cá xã hội , mỗi cá nhân đô thiên thiên tại động não cân , tưởng tân hoa dạng , đặc biệt thị nữ đồng tu 。 ngã môn tựu dĩ phục trang tố lệ tử , nễ khán phục trang thiết kế sư , thiên thiên động não cân tưởng hoa dạng , tưởng xuất nhất cá tân dạng tử , kim niên lưu hành liễu 。 hảo liễu , nễ khứ niên tố đích y phục hoàn một xuyên lưỡng thứ , kim niên tân dạng tử , giá cá bất lưu hành liễu , cản khoái tựu tưởng biện pháp động não cân yếu khứ mãi nhất kiện tân đích dạng tử 。 đương nễ mãi lai liễu , quá kỉ thiên tha hựu thiết kế nhất cá tân hoa dạng , giá hựu bất lưu hành liễu 。 nễ tựu bí tha thủ thượng chuyển , nễ sở tân tân khổ khổ trám lai đích tiền đô khứ cung dưỡng tha , đô bí tha biển tẩu liễu 。 na thị thập ma ? ma , na tựu thị ma 。 ma tại ná lí ? na tựu thị ma vương , thiên thiên tưởng tân hoa dạng , khiếu nễ tâm bất năng cú an ổn , khiên trước nễ tẩu 。
Các nhà thiết kế thời trang đó đối với người xuất gia chẳng làm gì được. Vì sao vậy? Vì người xuất gia chỉ có một hình thức. Người xuất gia mặc y phục chỉ một hình thức, không bao giờ thay đổi. Mấy trăm năm nay cũng một hình thức đó, nên họ quả thật không làm gì được. Nếu như quý vị đã nhận hiểu được rồi, y phục dù lỗi thời cũng vẫn mặc được, y phục đó vẫn còn rất tốt. Tôi mặc một bộ quần áo ít nhất cũng 10 năm, 8 năm chưa hư rách, cần gì phải chịu ảnh hưởng sự bày đặt của bọn họ?
服裝設計師對出家人沒辦法,為什麼?他就是一個樣子,出家人穿衣服這個樣子如如不動,幾百年來都是這個樣子,他真是無可奈何。如果你要覺悟了,不流行的我也能穿,這衣服好好的,我做一件衣服至少穿個十年、八年也不壞,何必要受他的擺佈?
phục trang thiết kế sư đối xuất gia nhân một biện pháp , vi thập ma ? tha tựu thị nhất cá dạng tử , xuất gia nhân xuyên y phục giá cá dạng tử như như bất động , kỉ bá niên lai đô thị giá cá dạng tử , tha chân thị vô khả nại hà 。 như quả nễ yếu giác ngộ liễu , bất lưu hành đích ngã dã năng xuyên , giá y phục hảo hảo đích , ngã tố nhất kiện y phục chí thiểu xuyên cá thập niên 、 bát niên dã bất hoại , hà tất yếu thụ tha đích bãi bố ?
Nếu như quý vị nói, mặc những quần áo như vậy thì người ta sẽ chê cười. Cười thì cũng chẳng thể cười được quý vị. Nếu cười đến chết thì họ chết, không phải quý vị chết, chúng ta không chết; cười đến chết là họ chết, ta không chết, họ chết như vậy cũng đáng đời, ta không chết. Như vậy quý vị không bị họ sai khiến. Ngày ngày họ bày trò thêm kiểu, quý vị cứ như như không dao động.
你如果說,我穿這個衣服人家會笑話。笑,他又不是笑的你,笑死的,他死了,不是你死,我不死;笑死了,他死,我不死,他死活該,我不死。你就不上他的當了。他天天在耍花樣,你如如不動,
nễ như quả thuyết , ngã xuyên giá cá y phục nhân gia hội tiếu thoại 。 tiếu , tha hựu bất thị tiếu đích nễ , tiếu tử đích , tha tử liễu , bất thị nễ tử , ngã bất tử ; tiếu tử liễu , tha tử , ngã bất tử , tha tử hoạt cai , ngã bất tử 。 nễ tựu bất thượng tha đích đương liễu 。 tha thiên thiên tại sá hoa dạng , nễ như như bất động ,
Nói cho quý vị biết, quý vị nên nhìn họ như Phật, họ mỗi ngày đều khảo nghiệm quý vị, quý vị không động tâm, đó là như trước đây có một lần tôi đã nói với quý vị về việc vâng theo tam quỹ (3 quy tắc).[11] Đây chính là “tư thành quỹ”. Họ hỗ trợ giúp đỡ cho quý vị, thành tựu cho quý vị, thành tựu cho sự như như bất động của quý vị. Bồ Tát ở trong cảnh giới tu tập những gì? Chính là trải qua sự việc mà rèn luyện tâm mình. Những người này không phải Phật thì ai mới là Phật? Chính họ giúp đỡ, hỗ trợ cho quý vị thành Phật.
跟你說,你的眼睛看他是佛,他天天在那兒考驗你,你都不動心,這就是上一次跟諸位講的三軌資持,「資成軌」,他資助你、他成就你,成就你如如不動。菩薩在境界裡修什麼?歷事鍊心。他不是佛誰是佛?他幫助你成佛了。
căn nễ thuyết , nễ đích nhãn tình khán tha thị phật , tha thiên thiên tại na nhi khảo nghiệm nễ , nễ đô bất động tâm , giá tựu thị thượng nhất thứ căn chư vị giảng đích tam quỹ tư trì , 「 tư thành quỹ 」 , tha tư trợ nễ 、 tha thành tựu nễ , thành tựu nễ như như bất động 。 bồ tát tại cảnh giới lí tu thập ma ? lịch sự luyện tâm 。 tha bất thị phật thùy thị phật ? tha bang trợ nễ thành phật liễu 。
Khi quý vị buông thả tâm chạy đuổi theo ngoại cảnh thì những người ấy là ma; quý vị là ma thì họ cũng là ma. Quý vị giữ tâm như như bất động, quý vị là Phật thì họ cũng là Phật. Cho nên, Phật với ma ở đâu? Đều ở trong một niệm tưởng mà thôi. Hy vọng quý vị suy xét kỹ về ý nghĩa này. Ý nghĩa này được thông suốt rồi thì sự tu hành của quý vị tự nhiên rộng đường mở lối, mới có lý luận để y cứ, không rơi vào chỗ mù quáng đi theo, không rơi vào mê tín, có thể đạt được lợi ích chân thật.
你看看你心一往外頭流,他是魔,你是魔他也是魔;你心如如不動,你是佛他也是佛。所以佛與魔在哪裡?都在一念之間。希望諸位細細去想想這個道理,這個道理想通了,你的修行就有門路,才有理論依據,才不會盲從,才不會迷信,能夠得到真實的利益。
nễ khán khán nễ tâm nhất vãng ngoại đầu lưu , tha thị ma , nễ thị ma tha dã thị ma ; nễ tâm như như bất động , nễ thị phật tha dã thị phật 。 sở dĩ phật dữ ma tại ná lí ? đô tại nhất niệm chi gian 。 hi vọng chư vị tế tế khứ tưởng tưởng giá cá đạo lí , giá cá đạo lí tưởng thông liễu , nễ đích tu hành tựu hữu môn lộ , tài hữu lí luận y cứ , tài bất hội manh tùng , tài bất hội mê tín , năng cú đắc đáo chân thật đích lợi ích 。
Nói chung, khi tâm buông thả hướng ra bên ngoài thì đều dẫn đến khổ não, cho nên nói “do đó chịu khổ não”. Không chỉ là trong pháp thế gian, trong Phật pháp cũng là như vậy. Quý vị đã biết rằng, trong Phật pháp thì chư Phật Bồ Tát khuyến khích chúng ta phải hoằng pháp lợi sinh. Quý vị bám chấp nơi hình tướng của việc hoằng pháp lợi sinh, ngày ngày cố nghĩ ra đủ mọi phương pháp để hoằng pháp lợi sinh. Như vậy là hỏng! Quý vị bám chấp thành ma, tâm của quý vị toàn chạy theo nơi ngoại cảnh. Cho nên, Bồ Tát phải có đại nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.” Chỉ có điều là tuyệt đối không phải đi tìm chúng sanh để hóa độ. Có nguyện rồi, không được khởi tâm, tức là nói không được có vọng niệm. Chúng sanh phải có cơ duyên thành thục mới có thể được hóa độ. Cơ duyên thành thục thế nào đều là thuận theo tự nhiên, gượng ép tạo ra thì phải chịu khổ não. Xin thưa với quý vị, tùy duyên mà làm thì trong mỗi một niệm đều viên mãn công đức.
凡是心往外面流轉,都要受苦惱,「故受苦惱」。不但是世間法,佛法也是如此。佛法裡面諸位曉得,諸佛菩薩一再勉勵我們要弘法利生,你要著了弘法利生的相,天天要想盡方法我去弘法利生,壞了,你著了魔,你心還是往外面跑。所以,菩薩要有大願,「眾生無邊誓願度」,但是絕不找著去度。又要有願,還又不能有心,就是不能有妄念。眾生是機緣成熟了才能得度,機緣成熟了什麼都是自然的,勉強去造作的,那裡面都有苦惱。機緣沒有成熟的時候修自己,機緣成熟的時候利益眾生,有一絲毫勉強,都是機緣沒有成熟,你要勉強去做,就要受苦惱。隨緣去做,給諸位說,念念功德圓滿。
phàm thị tâm vãng ngoại diện lưu chuyển , đô yếu thụ khổ não , 「 cố thụ khổ não 」 。 bất đãn thị thế gian pháp , phật pháp dã thị như thử 。 phật pháp lí diện chư vị hiểu đắc , chư phật bồ tát nhất tái miễn lệ ngã môn yếu hoằng pháp lợi sinh , nễ yếu trước liễu hoằng pháp lợi sinh đích tướng , thiên thiên yếu tưởng tận phương pháp ngã khứ hoằng pháp lợi sinh , hoại liễu , nễ trước liễu ma , nễ tâm hoàn thị vãng ngoại diện bào 。 sở dĩ , bồ tát yếu hữu đại nguyện , 「 chúng sinh vô biên thệ nguyện độ 」 , đãn thị tuyệt bất hoa trước khứ độ 。 hựu yếu hữu nguyện , hoàn hựu bất năng hữu tâm , tựu thị bất năng hữu vọng niệm 。 chúng sinh thị cơ duyên thành thục liễu tài năng đắc độ , cơ duyên thành thục liễu thập ma đô thị tự nhiên đích , miễn cường khứ tạo tác đích , na lí diện đô hữu khổ não 。 cơ duyên một hữu thành thục đích thời hậu tu tự kỉ , cơ duyên thành thục đích thời hậu lợi ích chúng sinh , hữu nhất ti hào miễn cường , đô thị cơ duyên một hữu thành thục , nễ yếu miễn cường khứ tố , tựu yếu thụ khổ não 。 tùy duyên khứ tố , cấp chư vị thuyết , niệm niệm công đức viên mãn 。
Ví dụ như nói về sự bố thí, tôi xin nêu ra một việc mà chúng ta rất thường thấy. Ở ngôi chùa kia hôm nay có pháp hội, dù có việc gì ta cũng nên đến đó vun bồi phúc đức, đến đó cúng dường một đôi chút. Quý vị dùng hết khả năng của mình để cúng dường, điều đó rất tốt, đó là tu phúc. Lại có người khác không có khả năng, thấy mình không đủ sức cúng dường, liền đi vay mượn tiền lãi cao để cúng dường tạo phúc. Như vậy là sai lầm, cực kỳ sai lầm. Chuyện vượt quá sức mình mà gượng ép miễn cưỡng làm, đó gọi là chạy theo ngoại duyên, không phải tùy duyên. Trong việc tùy hỷ liền có công đức, việc chạy theo ngoại duyên không có công đức, chỉ có khổ não. Một mặt thì làm việc cúng dường tạo phúc, một mặt phải lo tiền vay bạc mượn lãi cao, phải trả ra rất nhiều tiền bạc, có lẽ nào đó lại là bản ý đại từ đại bi của nhà Phật! Chỉ có ma mới bức bách quý vị phải làm như thế, mới khiến cho quý vị đi vay tiền lãi cao để cho ma hưởng thụ, ma mới làm những việc như vậy. Phật thì không, không bao giờ như vậy.
譬如講布施,我舉這一個例子,這都是我們常常見到的。這個佛門今天有法會,有什麼事情了,他要來培點福,到這裡來供養一點。你盡自己的力量,是好,是修福。還有些人不懂得,看到自己不行,他就借高利貸來修福,那就錯了,大錯特錯。超過自己的力量,勉強去做,那叫做攀緣,那不是隨緣。隨喜當中才有功德,攀緣裡面沒有功德,有苦惱。這個地方雖然修了福,那個地方背上高利貸,還要付好多利息,哪裡是佛門大慈大悲的本意!只有魔才會逼迫你,叫你去付高利貸,他去享受,魔才幹這個事情。佛不要,什麼都不要。
thí như giảng bố thí , ngã cử giá nhất cá lệ tử , giá đô thị ngã môn thường thường kiến đáo đích 。 giá cá phật môn kim thiên hữu pháp hội , hữu thập ma sự tình liễu , tha yếu lai bồi điểm phúc , đáo giá lí lai cung dưỡng nhất điểm 。 nễ tận tự kỉ đích lực lượng , thị hảo , thị tu phúc 。 hoàn hữu ta nhân bất đổng đắc , khán đáo tự kỉ bất hành , tha tựu tá cao lợi thắc lai tu phúc , na tựu thác liễu , đại thác đặc thác 。 siêu quá tự kỉ đích lực lượng , miễn cường khứ tố , na khiếu tố phàn duyên , na bất thị tùy duyên 。 tùy hỉ đương trung tài hữu công đức , phàn duyên lí diện một hữu công đức , hữu khổ não 。 giá cá địa phương tuy nhiên tu liễu phúc , na cá địa phương bội thượng cao lợi thắc , hoàn yếu phó hảo đa lợi tức , ná lí thị phật môn đại từ đại bi đích bản ý ! chỉ hữu ma tài hội bức bách nễ , khiếu nễ khứ phó cao lợi thắc , tha khứ hưởng thụ , ma tài cán giá cá sự tình 。 phật bất yếu , thập ma đô bất yếu 。
Chuyện mê muội như vậy nhưng quả thật có không ít người làm theo, chúng ta đều đã từng thấy rất nhiều trường hợp. Miễn cưỡng gượng ép mà làm, đó là sai lầm. Đem hết sức mình mà làm, hoàn toàn không miễn cưỡng, như vậy là công đức viên mãn. Không cần phải so sánh với người khác. Như người có khả năng, có thể quyên góp cả chục ngàn đồng,[12] chúng ta vốn không có khả năng, mỗi tháng thu nhập chỉ được vài ngàn, làm sao có thể so sánh với họ? Người ta mỗi tháng thu nhập đến mấy trăm ngàn, hoặc đến mấy triệu đồng, họ đưa ra mười ngàn vốn không đáng kể, chúng ta đưa ra một trăm, vài trăm đã thấy hết sức rồi. Nhưng một trăm, vài trăm đó của quý vị được phước báo vượt hơn người kia đưa ra mười ngàn, vài chục ngàn, vì thu nhập của họ nhiều, so theo tỷ lệ thì sự góp sức của quý vị lớn hơn, phước báo của quý vị cũng lớn hơn họ. Như vậy mới là thật sự công bằng.
這樣的傻事還真的不少人去做,我都見過很多,勉強去做的,這是錯誤。盡心盡力,一點都不勉強,這個功德就是圓滿的。不要跟人比賽,人家有力量的,他捐一萬塊錢,我們根本就沒有力量,一個月收入才幾千塊錢,怎麼能跟人家相比?人家一個月收入幾十萬、幾百萬的,他拿一萬塊錢算不了什麼,我們拿個一百、兩百就感覺到很吃力。你這一百、兩百的福報超過他那拿一萬、兩萬的,他收入多,按百分比你就超過他,你的福報也就大過他,這個才是真正公平。
giá dạng đích xoạ sự hoàn chân đích bất thiểu nhân khứ tố , ngã đô kiến quá ngận đa , miễn cường khứ tố đích , giá thị thác ngộ 。 tận tâm tận lực , nhất điểm đô bất miễn cường , giá cá công đức tựu thị viên mãn đích 。 bất yếu căn nhân tỉ tái , nhân gia hữu lực lượng đích , tha quyên nhất vạn khối tiền , ngã môn căn bản tựu một hữu lực lượng , nhất cá nguyệt thu nhập tài kỉ thiên khối tiền , chẩm ma năng căn nhân gia tướng tỉ ? nhân gia nhất cá nguyệt thu nhập kỉ thập vạn 、 kỉ bá vạn đích , tha nã nhất vạn khối tiền toán bất liễu thập ma , ngã môn nã cá nhất bá 、 lưỡng bá tựu cảm giác đáo ngận cật lực 。 nễ giá nhất bá 、 lưỡng bá đích phúc báo siêu quá tha na nã nhất vạn 、 lưỡng vạn đích , tha thu nhập đa , án bá phân tỉ nễ tựu siêu quá tha , nễ đích phúc báo dã tựu đại quá tha , giá cá tài thị chân chính công bình 。
Không phải chỉ người có tiền mới có thể tu phúc. Phúc đức tu được của người không có tiền lại nhiều hơn so với người có tiền. Cho nên trong đời sau quý vị sẽ giàu có hơn cả họ. Người giàu không phải là đời đời kiếp kiếp luôn luôn giàu. Người nghèo cũng không phải đời đời kiếp kiếp luôn luôn nghèo. Như vậy thì chẳng có công bằng. Nếu như nói người giàu mới có khả năng tu phúc, người nghèo không thể tu phúc, như vậy thì ông trời không công bằng.
不是有錢的人就能修福,沒有錢的人修的福比有錢的人還多,所以來世你就富有超過他。富人不是生生世世富,貧人不是生生世世貧,這才有公理。如果是富人能修福,窮人不能修福,這個老天爺太不公平了。
bất thị hữu tiền đích nhân tựu năng tu phúc , một hữu tiền đích nhân tu đích phúc tỉ hữu tiền đích nhân hoàn đa , sở dĩ lai thế nễ tựu phú hữu siêu quá tha 。 phú nhân bất thị sinh sinh thế thế phú , bần nhân bất thị sinh sinh thế thế bần , giá tài hữu công lí 。 như quả thị phú nhân năng tu phúc , cùng nhân bất năng tu phúc , giá cá lão thiên gia thái bất công bình liễu 。
Trong Phật pháp là hết sức công bằng. Kinh Phật kể lại cho chúng ta nghe một câu chuyện thời xưa. Có một cô gái nghèo, khổ sở vất vả đến nỗi chẳng kiếm được bữa cơm ăn. Một hôm được gặp Phật, cô gom góp hết toàn bộ tài sản của mình chỉ được một đồng tiền. Cô mang một đồng tiền ấy cúng dường lên Phật, với tâm hết sức thành kính. Đó là cung kính cúng dường toàn bộ những gì mình có được. Đời sau cô sinh ra được quả báo cực kỳ giàu có, cực kỳ sang quý, được làm hoàng hậu. Vì sao vậy? Vì cô cúng dường toàn bộ tài sản, lại hết sức thành tâm thành ý, cho nên được quả báo lớn lao như vậy. Khi được sinh ra làm hoàng hậu như vậy, cô lại sinh tâm kiêu ngạo. Nhưng do căn lành đời trước nên mỗi khi gặp người xuất gia cũng đều cúng dường, gặp chùa, miếu cũng cúng dường rất nhiều. Trong chùa có một vị hòa thượng chứng đắc thần thông, biết được tiền thân của cô gái, nói với cô rằng: “Công đức của cô ngày nay so với công đức đã tạo đời trước thật chênh lệch với nhau rất nhiều, rất nhiều. Công đức đời này của cô chỉ nhỏ nhặt bằng phần ngàn, phần vạn của công đức đời trước. Công đức đời trước của cô là cúng dường toàn bộ những gì mình có.” Nói như vậy mới là công bằng, như vậy mới có ý nghĩa.
佛法裡頭非常公平。 佛在經裡面給我們講的一個故事,說一個貧女,要飯的,苦得不得了,遇到佛了。她全部的財產就是一文錢,一個銅錢,是她討來的。她拿這一個錢供養佛,極其虔誠恭敬把所有的全部都供養了,她來生的果報,在人間大富大貴,做了皇后,為什麼?她全部供養了,而且又誠心誠意,得這樣大的福報。到第二生做了皇后,做皇后就貢高我慢,前生有善根,遇到出家人、寺廟供養了很多很多。那個裡面老和尚有神通,說出她前生因,你今生所做這個功德比起前生差太遠太遠了。你今生所做的功德那是你的千分之幾、萬分之幾,你過去修的功德是全部貢獻出來。這個說法才公平、才有道理。
phật pháp lí đầu phi thường công bình 。 phật tại kinh lí diện cấp ngã môn giảng đích nhất cá cố sự , thuyết nhất cá bần nữ , yếu phạn đích , khổ đắc bất đắc liễu , ngộ đáo phật liễu 。 tả toàn bộ đích tài sản tựu thị nhất văn tiền , nhất cá đồng tiền , thị tả thảo lai đích 。 tả nã giá nhất cá tiền cung dưỡng phật , cực kì kiền thành cung kính bả sở hữu đích toàn bộ đô cung dưỡng liễu , tả lai sinh đích quả báo , tại nhân gian đại phú đại quý , tố liễu hoàng hậu , vi thập ma ? tả toàn bộ cung dưỡng liễu , nhi thả hựu thành tâm thành ý , đắc giá dạng đại đích phúc báo 。 đáo đệ nhị sinh tố liễu hoàng hậu , tố hoàng hậu tựu cống cao ngã mạn , tiền sinh hữu thiện căn , ngộ đáo xuất gia nhân 、 tự miếu cung dưỡng liễu ngận đa ngận đa 。 na cá lí diện lão hòa thượng hữu thần thông , thuyết xuất tả tiền sinh nhân , nễ kim sinh sở tố giá cá công đức tỉ khởi tiền sinh sai thái viễn thái viễn liễu 。 nễ kim sinh sở tố đích công đức na thị nễ đích thiên phân chi kỉ 、 vạn phân chi kỉ , nễ quá khứ tu đích công đức thị toàn bộ cống hiến xuất lai 。 giá cá thuyết pháp tài công bình 、 tài hữu đạo lí 。
Cho nên, khổ, vui từ đâu mà có, chúng ta cần phải hiểu rõ.
所以苦、樂是怎麼樣得來的,我們要曉得。
sở dĩ khổ 、 lạc/nhạc/nhạo thị chẩm ma dạng đắc lai đích , ngã môn yếu hiểu đắc 。
“Bồ Tát lìa trần cảnh, trở lại chân tánh”, tức là trừ thoát năm dục sáu trần, tâm như vậy tuyệt đối không trụ yên trong cảnh giới của sáu trần cảnh. “Trở lại chân tánh”, tánh đó là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì thân cũng thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh thì cảnh giới thanh tịnh, thế gian này đối với sự cảm thọ tự thân của quý vị chính là cõi nước Cực Lạc, chính là Tịnh độ. Tịnh độ từ đâu mà có? Tâm tịnh ắt cõi nước tịnh. Hiện tại được thanh tịnh, đến thế giới Tây phương Cực Lạc cũng thanh tịnh như vậy. Cho nên đạt được tâm thanh tịnh thì mới có thể cảm ứng được Tịnh độ của chư Phật hiện tiền. Chỉ cần có thể “lìa trần cảnh, trở về chân tánh, các vọng tự thoát”, thoát là thoát ly, lìa khỏi, được giải thoát.
「菩薩離塵復性」,擺脫五欲六塵,就是這個心絕不安住在六塵境界上。復性,性就是清淨心,心清淨;心清淨身就清淨,身心清淨,境界就清淨,這個世間在你自己的感受就是極樂國土,就是淨土。淨土從哪兒來?心淨則土淨。在現在就清淨,到西方極樂世界也是這麼清淨。所以到心清淨,才能感到諸佛淨土現前。只要能夠「離塵復性,諸妄自脫」,脫是脫離,解脫了。
「 bồ tát li trần phục tính 」 , bãi thoát ngũ dục lục trần , tựu thị giá cá tâm tuyệt bất an trụ tại lục trần cảnh giới thượng 。 phục tính , tính tựu thị thanh tịnh tâm , tâm thanh tịnh ; tâm thanh tịnh thân tựu thanh tịnh , thân tâm thanh tịnh , cảnh giới tựu thanh tịnh , giá cá thế gian tại nễ tự kỉ đích cảm thụ tựu thị cực lạc/nhạc/nhạo quốc độ , tựu thị tịnh độ 。 tịnh độ tùng ná nhi lai ? tâm tịnh tắc độ tịnh 。 tại hiện tại tựu thanh tịnh , đáo tây phương cực lạc/nhạc/nhạo thế giới dã thị giá ma thanh tịnh 。 sở dĩ đáo tâm thanh tịnh , tài năng cảm đáo chư phật tịnh độ hiện tiền 。 chỉ yếu năng cú 「 li trần phục tính , chư vọng tự thoát 」 , thoát thị thoát li , giải thoát liễu 。
“Có thể khiến cho những chúng sanh khổ não”, tức là nói năng lực như vậy của Bồ Tát có thể gia hộ độ trì cho chúng sanh đang chịu khổ não, chúng sanh chưa được giác ngộ, chúng sanh mê hoặc điên đảo, gia hộ độ trì cho khắp thảy. Tuy Bồ Tát gia hộ cho khắp thảy, nhưng tự thân quý vị tất yếu phải có sự giác ngộ, thì quý vị mới có thể thọ dụng được sức gia trì của Bồ Tát. Điều này cũng giống như tấm gương có khả năng phản chiếu, nhưng quý vị không đặt trước mặt để soi lại đặt phía sau lưng thì không có tác dụng, trong gương không thể có hình. Cho nên, bản thân quý vị phải có sự dụng tâm.
「能令苦惱眾生」,就是他這種力量能夠加持給這些苦惱眾生,沒有覺悟的眾生,迷惑顛倒的眾生,普遍的加持。雖然普遍的加持,可是必須你自己也要覺悟,菩薩加持的力量你才能夠得到受用。就好像鏡子它能照,你不照正面照反面,那沒有辦法,鏡子現不出像來。所以你本身要會用心。
「 năng linh khổ não chúng sinh 」 , tựu thị tha giá chủng lực lượng năng cú gia trì cấp giá ta khổ não chúng sinh , một hữu giác ngộ đích chúng sinh , mê hoặc điên đảo đích chúng sinh , phổ biến đích gia trì 。 tuy nhiên phổ biến đích gia trì , khả thị tất tu nễ tự kỉ dã yếu giác ngộ , bồ tát gia trì đích lực lượng nễ tài năng cú đắc đáo thụ dụng 。 tựu hảo tượng kính tử tha năng chiếu , nễ bất chiếu chính diện chiếu phản diện , na một hữu biện pháp , kính tử hiện bất xuất tượng lai 。 sở dĩ nễ bản thân yếu hội dụng tâm 。
Chỗ này lại nói “trì niệm danh hiệu được Bồ Tát quán chiếu”, nhờ Bồ Tát quán chiếu nên được sức gia hộ, “cũng được giải thoát, đó là nhờ sức quán từ bi chân thật thanh tịnh gia hộ mà được”.
這個地方說,「持名蒙觀」,承蒙菩薩觀照的力量加持,「亦得解脫,乃真淨慈悲觀力加被然也」。
giá cá địa phương thuyết , 「 trì danh mông quan 」 , thừa mông bồ tát quan chiếu đích lực lượng gia trì , 「 diệc đắc giải thoát , nãi chân tịnh từ bi quan lực gia bí nhiên dã 」 。
Đoạn kinh văn này là đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói với ngài Vô Tận Ý, nêu rõ về công đức của Bồ Tát Quán Thế Âm, về năng lực của ngài, về sự thật là ngài cứu độ hết thảy chúng sanh gặp khổ nạn. Chúng ta sở dĩ không nhận được sự cảm ứng, không chỉ là như Đại sư giảng giải ở đây, mà còn do chúng ta xưng niệm danh hiệu Bồ Tát không hề đạt đến sự nhất tâm, chúng ta trong lúc xưng niệm danh hiệu Bồ Tát mà vẫn còn có sự nghi hoặc. Thậm chí ngay từ căn bản chúng ta đã không thể tin nhận. Nhưng đã không tin thì vì sao còn niệm? Là chỉ vì muốn thử nghiệm, muốn thử xem sao. Niệm thử như vậy rồi thấy không hề có sự cảm ứng. Niệm như vậy thì không niệm còn tốt hơn.
這一段是釋迦牟尼佛告訴無盡意,說明觀世音菩薩他的功德、他的能力,他救度一切眾生苦難這些事實。我們之所以不能得到感應,不單單是大師在此地給我們講,我們稱名沒有到一心,我們稱名當中還有疑惑存在。甚至於是根本不能相信,不能相信為什麼也要念?試試看,看看有沒有感應,念總比不念好。
giá nhất đoạn thị thích ca mâu ni phật cáo tố vô tận ý , thuyết minh quan thế âm bồ tát tha đích công đức 、 tha đích năng lực , tha cứu độ nhất thiết chúng sinh khổ nan giá ta sự thật 。 ngã môn chi sở dĩ bất năng đắc đáo cảm ưng , bất đạn đạn thị đại sư tại thử địa cấp ngã môn giảng , ngã môn xưng danh một hữu đáo nhất tâm , ngã môn xưng danh đương trung hoàn hữu nghi hoặc tồn tại 。 thậm chí ư thị căn bản bất năng tướng tín , bất năng tướng tín vi thập ma dã yếu niệm ? thí thí khán , khán khán hữu một hữu cảm ưng , niệm tổng tỉ bất niệm hảo 。
Từ câu “không thể làm gì được” trở đi nói trường hợp bị bức bách không thể nào không xưng niệm, cầu Bồ Tát để thử xem có kết quả không. Dùng tâm như vậy mà niệm, làm sao có thể được thành tựu? Trường hợp như vậy tức là không nhận hiểu được rõ ràng ý nghĩa của việc trì niệm. Xin nhắc lại với quý vị rằng, ý nghĩa này, chúng ta ở đây học tập trong 7 ngày, suốt 7 ngày để lắng nghe học hỏi ý nghĩa này cho thật rõ ràng minh bạch. Nếu thực sự nghe hiểu và tin nhận được thì quý vị đúng là bậc thượng căn, là bậc xuất chúng. Nếu là người bình thường thì sau 7 ngày nghe giảng sẽ đạt được đến mức nào? Chỉ là ở mức bán tín bán nghi thôi. Cho nên, ý nghĩa này phải thường xuyên giảng nói, thường xuyên nghiên cứu thảo luận, như vậy thì mới có thể thực sự nhận hiểu sáng tỏ rõ ràng, rồi mới có thể thực sự tin nhận.
無可奈何之下逼得不能不念幾聲,求著試試看。這樣的心去念,那怎麼會有成就?這就是不明白這些道理。這些道理,再跟諸位說,我們在此地這個七天,七天你要是把它聽明白,真正聽相信了,你是上上根性,你是了不起的人。七天聽了之後,你們的成績如何?半信半疑。因此,這些道理要常常講、常常研究討論,才真正搞清楚,才真相信。
vô khả nại hà chi hạ bức đắc bất năng bất niệm kỉ thanh , cầu trước thí thí khán 。 giá dạng đích tâm khứ niệm , na chẩm ma hội hữu thành tựu ? giá tựu thị bất minh bạch giá ta đạo lí 。 giá ta đạo lí , tái căn chư vị thuyết , ngã môn tại thử địa giá cá thất thiên , thất thiên nễ yếu thị bả tha thính minh bạch , chân chính thính tướng tín liễu , nễ thị thượng thượng căn tính , nễ thị liễu bất khởi đích nhân 。 thất thiên thính liễu chi hậu , nễ môn đích thành tích như hà ? bán tín bán nghi 。 nhân thử , giá ta đạo lí yếu thường thường giảng 、 thường thường nghiên cứu thảo luận , tài chân chính cảo thanh sở , tài chân tướng tín 。
Đó là sự thật. Như bản thân tôi học Phật đến 7 năm mới có thể thực sự tin nhận việc niệm Phật, thời gian trước đó căn bản là chưa tin nhận. Tôi là người đối với Phật học cực kỳ ham thích, rất vui thích trong việc nghiên cứu, học hỏi khảo sát, nhưng phải mất đến 7 năm mới thực sự tin nhận. Làm sao có thể tin nhận? Chỉ là bán tín bán nghi, tức là không chống lại, trong suốt 7 năm chỉ là không chống lại ý nghĩa này, cũng tụng đọc, cũng nghiên cứu những kinh luận liên quan. Nếu quý vị hỏi tôi rằng, vậy khi nào tôi mới thực sự tin nhận? Xin nói thật cùng quý vị, tôi đến hôm nay mới thật sự tin nhận. Bởi vì tín tâm của ngày hôm qua không giống như ngày hôm nay, tín tâm của ngày mai so với ngày hôm nay lại sẽ tiến xa hơn một chút nữa. Điều này quả thật không đơn giản. Mỗi ngày đều có thêm chỗ hiểu.
這個也是事實。我學佛七年,才相信念佛,以前根本不相信。對佛學非常的愛好,喜歡研究、喜歡探討,對這個念佛不相信,七年才相信。怎麼個相信法?半信半疑,就是不反對了,七年是不反對了,也讀誦,也研究這些經論了。你要問我幾時才真信?我告訴你老實話,我今天才真信。因為昨天的信心不如今天,明天的信心又比今天又進步了一點,不容易。天天有悟處。
giá cá dã thị sự thật 。 ngã học phật thất niên , tài tướng tín niệm phật , dĩ tiền căn bản bất tướng tín 。 đối phật học phi thường đích ái hảo , hỉ hoan nghiên cứu 、 hỉ hoan thám thảo , đối giá cá niệm phật bất tướng tín , thất niên tài tướng tín 。 chẩm ma cá tướng tín pháp ? bán tín bán nghi , tựu thị bất phản đối liễu , thất niên thị bất phản đối liễu , dã độc tụng , dã nghiên cứu giá ta kinh luận liễu 。 nễ yếu vấn ngã kỉ thời tài chân tín ? ngã cáo tố nễ lão thật thoại , ngã kim thiên tài chân tín 。 nhân vi tạc thiên đích tín tâm bất như kim thiên , minh thiên đích tín tâm hựu tỉ kim thiên hựu tấn bộ liễu nhất điểm , bất dong dị 。 thiên thiên hữu ngộ xứ 。
Cho nên, quý vị đến đây nghe tôi giảng kinh, trong số chúng ta ở đây cũng có cả nhiều vị đồng tu lớn tuổi, trước đây mười mấy năm cũng đã từng đến nghe tôi giảng. Nếu như tìm lại những băng ghi âm các buổi giảng của tôi trước đây, so với ngày nay sẽ thấy không giống nhau. Cùng một bộ kinh, mỗi lần giảng là một lần khác nhau. Cùng một bộ kinh, từ đầu kinh giảng đến cuối kinh, cảnh giới ban đầu với cảnh giới về sau không giống nhau.
所以你們聽我講經,我們這裡還有幾個老同修,十幾年前就聽我講了。要拿從前的錄音帶,從前你聽經,再聽我現在講的,不相同了。同樣一部經,一遍一個樣子;同樣一部經,從前面講到後面,前面境界跟後面境界不一樣。
sở dĩ nễ môn thính ngã giảng kinh , ngã môn giá lí hoàn hữu kỉ cá lão đồng tu , thập kỉ niên tiền tựu thính ngã giảng liễu 。 yếu nã tùng tiền đích lục âm đái , tùng tiền nễ thính kinh , tái thính ngã hiện tại giảng đích , bất tướng đồng liễu 。 đồng dạng nhất bộ kinh , nhất biến nhất cá dạng tử ; đồng dạng nhất bộ kinh , tùng tiền diện giảng đáo hậu diện , tiền diện cảnh giới căn hậu diện cảnh giới bất nhất dạng 。
Cho nên, nếu quý vị hỏi tôi từ lúc nào mới có tín tâm, tôi sẽ nói với quý vị đến ngay lúc này mới có tín tâm. Nếu như ngày mai nói có tín tâm, thì tất nhiên là ngày hôm nay không tính.
所以你問我幾時才有信心,我告訴你現在才有信心,到了明天如果說的時候,那個時候有信心,今天就不算了。
sở dĩ nễ vấn ngã kỉ thời tài hữu tín tâm , ngã cáo tố nễ hiện tại tài hữu tín tâm , đáo liễu minh thiên như quả thuyết đích thời hậu , na cá thời hậu hữu tín tâm , kim thiên tựu bất toán liễu 。
Hy vọng quý vị có thể nhận hiểu được một chút ý nghĩa trong việc này. Nếu có tâm nhẫn nại, có tâm kiên trì, có nghị lực, làm tốt việc nghiên cứu học hỏi, thì sự lợi ích nhận được không thể nào nói hết.
希望諸位能夠體會到這一點意思,要有耐心、有恆心、有毅力,好好的去研究,那個受用說不盡的。
hi vọng chư vị năng cú thể hội đáo giá nhất điểm ý tư , yếu hữu nại tâm 、 hữu cắng tâm 、 hữu nghị lực , hảo hảo đích khứ nghiên cứu , na cá thụ dụng thuyết bất tận đích 。
Thuở ban sơ tôi bắt đầu tìm hiểu Phật pháp, nhờ một câu nói của Tiên sinh Đông Phương Mỹ đã thôi thúc, làm động cơ cho sự tu học của tôi.
我當初之來探討佛法,就是方東美先生的一句話,把我這個動機引起來。
ngã đương sơ chi lai thám thảo phật pháp , tựu thị phương đông mĩ tiên sinh đích nhất cú thoại , bả ngã giá cá động cơ dẫn khởi lai 。
Khi ấy, tôi theo tiên sinh học triết học, thầy bảo tôi rằng, triết học trong kinh Phật so với hết thảy các loại triết học là cao nhất, là tột bậc, không gì hơn được. Đó chỉ là nói về phương diện học thuật, không hề làm cho tôi động tâm. Sau đó thầy lại nói: “Đọc kinh Phật là sự hưởng thụ cao nhất ở thế gian.” Câu nói này thực sự làm tôi động tâm. “Sự hưởng thụ cao nhất”, như vậy thì tôi nhất định phải đạt đến cho bằng được. Kết quả là thầy không hề dối gạt tôi. Đích thật là khi đạt được rồi mới thấy đó quả là sự hưởng thụ cao nhất. Cho nên lòng tôi đối với ân đức của thầy không giây phút nào quên. Con đường tôi đi chính là nhờ thầy chỉ lối. Tôi thực sự đạt được lợi ích, đó cũng là không phụ công ơn thầy.
我跟他學哲學,他告訴我,佛經的哲學是一切哲學裡面至高無上的。這是在學術上所說的,還不能打動我的心。後來他說了一句話,「讀了佛經是世間最高的享受」,這句話打動我的心,最高的享受,那我是一定要得到。結果他沒有欺騙我,確實得到的是最高的享受。所以我對老師的恩德念念不忘,這個路子是他指給我的,我真正得受用,也沒有辜負他。
ngã căn tha học triết học , tha cáo tố ngã , phật kinh đích triết học thị nhất thiết triết học lí diện chí cao vô thượng đích 。 giá thị tại học thuật thượng sở thuyết đích , hoàn bất năng đả động ngã đích tâm 。 hậu lai tha thuyết liễu nhất cú thoại , 「 độc liễu phật kinh thị thế gian tối cao đích hưởng thụ 」 , giá cú thoại đả động ngã đích tâm , tối cao đích hưởng thụ , na ngã thị nhất định yếu đắc đáo 。 kết quả tha một hữu khi biển ngã , xác thật đắc đáo đích thị tối cao đích hưởng thụ 。 sở dĩ ngã đối lão sư đích ân đức niệm niệm bất vô , giá cá lộ tử thị tha chỉ cấp ngã đích , ngã chân chính đắc thụ dụng , dã một hữu cô phụ tha 。
Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta giảng đến đây thôi.
今天時間到了,我們就講到此地。
kim thiên thời gian đáo liễu , ngã môn tựu giảng đáo thử địa 。

______________________

CHÚ THÍCH

[1] Tức là nói bắt đầu từ câu kinh “Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dĩ hà nhân duyên danh Quán Thế Âm.”

[2] Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 25: “具二莊嚴者能問能答 - Cụ nhị trang nghiêm giả, năng vấn năng đáp.” Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, số 375, trang 767, tờ c, dòng 16.

[3] Ở đây giảng rộng về ý nghĩa “Đại kinh” được dùng trong các tông phái khác nhau. Riêng trường hợp trong câu giảng giải trên là trích từ kinh Đại Bát Niết-bàn như chúng tôi đã dẫn.

[4] Ở đây nhắc lại nội dung phần trước đã giảng về “miễn thất nạn, ly tam độc”.

[5] Hai sự mong cầu được nói trong phẩm Phổ môn là cầu sanh con trai và cầu sanh con gái. Tuy nhiên, đây chỉ là cách nói biểu trưng hàm ý tất cả những sự mong cầu của chúng sanh nếu cảm ứng đến Bồ Tát thì đều được thỏa mãn.

[6] Nguyên bản dùng “công quá cách”, chỉ phương pháp sửa lỗi bằng cách dùng một quyển sổ ghi lại tất cả những điều thiện ác, đúng sai đã làm rồi tự mình xem lại, suy ngẫm và tự sửa chữa.

[7] Tam luân thể không: tức là thấy được rằng cả ba yếu tố liên quan đều không: không có người niệm, không có người được niệm, cũng không có cả việc xưng niệm.

[8] Tức Cư sĩ Lý Bỉnh Nam.

[9] Tức “tứ chủng thanh tịnh minh hối”, Phật răn dạy về việc người tu hành nhất thiết phải đoạn trừ 4 việc là dâm dục, giết hại, trộm cắp và nói dối.

[10] Sáu thức chỉ nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.

[11] Tức là chân tánh quỹ, quán chiếu quỹ và tư thành quỹ. Ba nội dung này cũng nằm trong thập diệu của kinh Pháp Hoa, tức mục thứ năm là Tam pháp diệu.

[12] Hòa thượng giảng tại Đài Loan nên ở đây nói đến đồng tiền của Đài Loan, số tiền 10.000 này tương đương khoảng 8.000.000 đồng Việt Nam.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 4 chương »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.216.167.229 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...