Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV

Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Đừng cố trở nên một người thành đạt, tốt hơn nên cố gắng trở thành một người có phẩm giá. (Try not to become a man of success, but rather try to become a man of value.)Albert Einstein
Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Nếu muốn tỏa sáng trong tương lai, bạn phải lấp lánh từ hôm nay.Sưu tầm
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1 »» 1. Giải thích Phẩm Tựa »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1
»» 1. Giải thích Phẩm Tựa

(Lượt xem: 20)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - 1. Giải thích Phẩm Tựa

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

([Thưa rằng:] Phật ra đời khó gặp, được nghe Phật thuyết dạy là khó; chuyển dịch kinh văn lưu truyền là khó, tự mình khai mở giác ngộ càng khó; được nghe thầy thuyết giảng là khó, nghe qua một lần ghi chép lại càng khó. Bản thân tôi năm 27 tuổi ở đất Kim Lăng được nghe nhận pháp này, đến 69 tuổi mới ở núi Đan Khâu làm việc sửa sang thêm bớt [bản văn này]. Nay ghi chép lưu lại tặng các bậc hiền giả đời sau, cùng được hưởng nhờ trí tuệ Phật.)[1]

KINH VĂN

Phẩm Tựa, thứ nhất

Giải thích tên phẩm

Về nguyên ủy bản sớ giải kinh này đã nói rõ ở phần trên. [Chữ] tựa [trong phẩm tựa] có nghĩa là giải rõ tường tận. Đó là nói [ý nghĩa phân chia] rõ ràng vai trò người thuyết pháp và người nghe pháp, người thưa hỏi và người trả lời. Các nhà nghiên cứu kinh điển dựa theo ý nghĩa này mà phân chia thành ba nghĩa: th t (trình bày các thứ lớp), do t (trình bày nguyên do) và thut t (trình bày đi vào nội dung). [Chẳng hạn] như năm việc nêu ra ở phần đầu của mỗi bản kinh,[2] đó là th t. Đức Phật phóng hào quang, hiện sáu điềm lành[3] trước khi thuyết giảng kinh này, đó là do tự. Những lời hỏi đáp thích hợp [giữa Bồ Tát Di-lặc và Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi] để dẫn vào phần thuyết giảng chính văn, đó là thuật tự. Có đầy đủ ba ý nghĩa [th t, do tthut t] nên gọi là tựa.

[Chữ] phẩm, trong kinh Trung A-hàm gọi là bạt-cừ, Hán dịch là phẩm.[4] Phẩm có nghĩa là phân loại ý nghĩa tương đồng với nhau. Gồm chung [những ý nghĩa tương đồng] vào trong một phần nên gọi là phẩm. [Việc xác lập mỗi phẩm kinh và tên gọi] hoặc do đức Phật tự nói ra, như kinh Phạm võng,[5] hoặc do người kết tập sắp xếp đặt tên, như Đại luận, hoặc do người dịch kinh thêm vào cho đầy đủ, như [cách làm của] ngài La-thập.[6] Nay [xét như trong kinh Pháp hoa này thì] phẩm Dược Vương [Bồ Tát] Bổn Sự là do chính đức Phật xác định và đặt tên,[7] các phẩm Diệu Âm [Bồ Tát], Quán Thế Âm [Bồ Tát] là những vị chép kinh ghi vào.[8] Chưa nghe [có phẩm nào trong kinh này do] người dịch [thêm tên gọi vào].

Vì [phẩm này] mở đầu cho tất cả các phẩm nên gọi là thứ nhất.[9] Phật tùy theo nhân duyên [của chúng sanh][10] mà [thuyết kinh văn, như] rải hoa khắp nơi [hoặc thuyết kệ tụng, như] xâu hoa thành chuỗi.[11] Các vị kết tập y theo lời Phật đã thuyết mà truyền lại [kinh này]. Các bậc luận sư dựa vào kinh văn mà suy diễn giảng rộng thêm, hết thảy đều không phân chia tiết mục. Các bậc giảng sư từ xưa cũng chỉ giảng rộng nghĩa lý mà không phân chia chương đoạn. Nếu chỉ hoàn toàn theo cách này thì người đời sau e rằng không hiểu hết [được nghĩa kinh].

Lại nữa, đức Phật thuyết kệ tụng (quán hoa) hoặc kinh văn (tán hoa) [là hình thức khác nhau], nhưng các vị kết tập phải tùy theo ý nghĩa mà xác lập, [phân chia] phẩm loại. Kinh Tăng Nhất A-hàm nói rằng: [Giáo pháp của Phật gồm] một phần Khế kinh, một phần Luật, một phần Luận [A-tỳ-đàm].

Khế kinh lại chia ra làm bốn phần, gồm: kinh Tăng Nhất A-hàm, kinh Trường bộ, kinh Trung bộ và kinh Tạp A-hàm.[12] Kinh Tăng Nhất A-hàm làm sáng tỏ nhân quả trong hai cõi trời, người. Kinh Trường A-hàm phá tà kiến. Kinh Trung A-hàm làm rõ nghĩa sâu xa. Kinh Tạp A-hàm nói rõ về thiền định.

Phần Luật tạng có Ngũ bộ [luật][13] và Bát thập tụng [luật].[14] Luận A-tỳ-đàm thì chia ra có Lục túc luận, Bát kiền-độ luận[15] v.v.

Kinh A-hàm nói Bố thí độ, Trì giới độ, Trí tuệ độ... Lục độ đều có đủ; nói đủ căn tánh, đạo, định v.v. trong Bát chủng tụ.[16]

Những phương thức phân chia trước đây[17]

Ngài Thiên Thân[18] tạo [Pháp hoa kinh] luận dùng bảy công đức [thành tựu][19] để phân chia phẩm Tựa, lấy năm phần thị hiện[20] [để phân chia] phẩm Phương tiện. Các phẩm khác cũng đều có chỗ phân chia. Từ xưa ở Hà Tây có [Thích Đạo] Bằng,[21] Giang Đông có [Thích Pháp] Dao,[22] đều dựa theo cách này để phân chia tiết mục kinh văn, hết sức rườm rà. Đến ngài Quang Trạch[23] chuyển sang hướng phân chia tinh tế. [Nhưng chia nhỏ như vậy khác nào như] sương mù dày đặc che lấp bầu trời cao rộng, khiến cho ánh sáng mặt trời, mặt trăng và tinh tú đều ẩn khuất. Đây không phải chỗ đáng trân quý của người cầu học đạo.[24]

Ngài Đàm Loan nói: Phân chia tiết mục kinh văn quá chi ly, khác nào như khói bụi hỗn tạp gặp cơn gió lộng, [che lấp yếu chỉ của kinh. Cho nên, từ trước đến giờ việc phân tiết mục kinh văn] hoặc [chi ly] thái quá, hoặc sơ sài không đủ. Long sư ở Lô sơn phân chia kinh văn [thành ba phần là] phần Tựa, phần Chánh văn và phần Lưu thông. Toàn bộ kinh 27 phẩm[25] được chia thành hai nhóm. Từ phẩm Tựa đến phẩm Pháp sư [là nhóm thứ nhất] nói pháp phương tiện (quyền pháp) và pháp chân thật (thật pháp), lẽ thật tuy chỉ có Nhất [thừa] nhưng giảng nói thành Tam thừa. Từ phẩm [Hiện] tháp báu trở về sau [là nhóm thứ hai, nói về] thân phương tiện và thân chân thật. Đó là [ý nghĩa thành Phật từ] lâu xa mà [mượn việc thành đạo] gần đây [nơi Bồ-đề Đạo tràng] để nói.[26]

Lại từ phẩm Phương tiện đến phẩm Hạnh an vui là nói nhân môn, từ phẩm Từ lòng đất vọt lên trở về sau là nói quả môn. Ngài Huyền Sướng chùa Tề Hưng (Trung Hưng) và ngài Pháp Dao chùa Tiểu Sơn đều theo ngài Long Thụ, phân chia kinh văn như nhau. Ngài Huyền Sướng lấy từ phẩm Tựa cho đến phẩm Hiện tháp báu[27] là phần nhân, từ phẩm Khuyến khích thọ trì đến phẩm Thần lực Như Lai là phần quả, từ phẩm Giao phó về sau cho đến hết kinh là phần hộ trì.

Lại có bậc thầy cho rằng, từ phẩm Tựa cho đến phẩm Thụ ký cho hàng hữu học và vô học là thể của Pháp hoa, từ phẩm Pháp sư cho đến phẩm Giao phó về sau là nói rõ công đức của việc thọ trì [kinh này]. Từ phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương cho đến hết kinh là ngợi khen bổn nguyện của chư vị Bồ Tát.

Lại có bậc thầy phân chia [kinh văn] làm bốn phần. Phẩm Tựa là phần đầu tiên. Từ phẩm Phương tiện cho đến phẩm Hạnh an vui là [phần thứ hai] giảng rộng Tam thừa để nêu rõ Nhất thừa. Từ phẩm Từ lòng đất vọt lên đến hết phẩm Phân biệt công đức là phần [thứ ba] giảng rộng nghĩa [thành đạo] gần đây để làm rõ nghĩa [Như Lai vốn đã thành Phật từ] lâu xa. Phần còn lại từ đó về sau là phần lưu thông.

Ngài Quang Trạch [Pháp] Vân thì đối với ba phần kinh văn, tất cả đều chia hai, [như trong phần Tựa (Tự phẩm) thì chia ra] có thông tự và biệt tự, trong phần chánh văn thì chia thành nhân môn và quả môn, trong phần lưu thông thì chia thành hóa tha (giáo hóa người khác) và tự hành (tự mình hành trì). [Như vậy] phần tựa có năm đoạn, tất cả đều chia hai thành mười, phần chánh văn có bốn đoạn, tất cả đều chia hai thành tám, phần lưu thông có ba đoạn, tất cả đều chia hai thành sáu. Toàn bộ hợp lại thành hai mươi bốn đoạn. Đại lược là như vậy.

Nói chung, việc phân chia tiết mục kinh văn [như trên] hết thảy đều dựa theo cảm nhận của mỗi người. Hoa lan, hoa cúc mỗi loại đều có vẻ đẹp riêng. Người đời sau không nên vì sự khác biệt mà tranh biện đúng sai, [như vậy là] chẳng được ba lợi ích, mất đi một mối đạo. Ba lợi ích là nói [ba tất đàn, gồm] thế giới tất đàn, [vị nhân tất đàn và đối trị tất đàn]. Một mối đạo là nói Đệ nhất nghĩa tất đàn.[28]

Ngài Thiên Thai Trí Giả phân chia toàn kinh làm ba phần. Phẩm đầu là phần Tựa. Từ phẩm Phương tiện đến [phần đầu] phẩm Phân biệt công đức, [vừa hết] 19 đoạn kệ tụng,[29] gồm cả thảy mười lăm phẩm rưỡi, là phần Chánh văn. Từ sau phần kệ tụng ấy cho đến hết kinh, gồm cả thảy mười một phẩm rưỡi, là phần Lưu thông.[30]

Lại có khi [toàn kinh] được chia làm hai phần. Từ phẩm Tựa đến phẩm Hạnh an vui, gồm 14 phẩm, xếp thành phần Tích [môn] khai trừ phương tiện, hiển bày lẽ thật. Từ phẩm Từ lòng đất vọt lên đến hết kinh, gồm 14 phẩm, xếp thành phần Bản [môn] khai trừ phương tiện, hiển bày lẽ thật.

[Hai phần] Bản môn và Tích môn, [mỗi phần] đều bao gồm đủ các phần tựa (tự), chánh văn (chánh) và lưu thông. [Như trong phần Tích môn,] phẩm đầu tiên là phần Tựa, từ phẩm Phương tiện đến phẩm Thụ ký cho hàng hữu học và vô học là phần Chánh văn, từ phẩm Pháp sư đến phẩm Hạnh an vui là phần Lưu thông. [Trong phần Bản môn thì chia hai] phẩm Từ lòng đất vọt lên , [từ đầu] cho đến [câu Di-lặc] “đã thưa hi vic này ri, nay Pht s tr li, các ông nhân đó s t mình đưc nghe”][31] là phần Tựa, từ câu “Bấy giờ, Phật bảo Bồ Tát Di-lc[32] đến hết [19 đoạn] kệ tụng trong phẩm Phân biệt công đức là phần Chánh văn, từ đó cho đến hết kinh là phần Lưu thông. Nay ghi lại [cách phân chia] ba phần như trên để hiểu rõ ý nghĩa trong kinh.[33]

● [Có người] hỏi rằng: [Nếu nói như trên, vậy chỉ] một bản kinh sao có đến hai phần Tựa?

● Đáp: Trong kinh Hoa nghiêm, mỗi nơi hội chúng vân tập [đều có phần Tựa].[34] Trong kinh A-hàm mỗi phần cũng đều [mở đầu bằng] “như thị” [giống như một bản kinh riêng biệt].[35] Kinh Đại Phẩm hai phần trước sau đều có Phó chúc.[36] [Những điều ấy] đều không ngăn ngại [việc hình thành] một bộ kinh. [Nên trong kinh này có] hai phần Tựa cũng không trở ngại gì. Nay [nếu không như vậy thì] không thiết lập đủ năm nghĩa,[37] phần Bản môn không phân vạch được chỗ khởi đầu, phần Tích môn chỉ có riêng phần Lưu thông, việc thuyết pháp chưa rốt ráo. Ý nghĩa có hay không chỉ là như vậy mà thôi.

Cách phân chia trong sách này

Nay tạm phân trong kinh văn có bốn ý.

Thứ nhất là trình bày theo số lượng, thứ hai là nêu lý do, thứ ba là nêu dẫn chứng và thứ tư là chỉ rõ tướng thật.

Trình bày theo số lượng là kể ra: Thứ nhất nhân duyên, thứ hai ước giáo, thứ ba là [ý nghĩa] bản môn và tích [môn], thứ tư là quán tâm. Bắt đầu từ “Như thị [ngã văn]” (Tôi nghe như thế này) cho đến kết thúc “[tác lễ] nhi khứ” (lễ bái lui ra), hết thảy đều phải vận dụng bốn ý này để nhận hiểu kinh văn. Ngày nay ghi chép giản lược, hoặc chỉ còn ba, hai hay một ý. Điều quan trọng là nhận hiểu được ý kinh, không cần đến văn tự rườm rà.

Thứ hai là nêu lý do. Có người hỏi rằng, nếu nói giản lược ắt chỉ còn một ý, nếu giảng rộng ra ắt không chỉ bốn ý, lý do vì sao? Đáp rằng, nếu giảng rộng [quá] sẽ làm cho trí tuệ [người học] suy kém, còn nói giản lược [quá] thì không trọn ý. Nay ta ở khoảng giữa hai điều ấy mà giảng nói, làm cho ý nghĩa [kinh văn] dễ được sáng tỏ hơn.

Nhân duyên cũng gọi là cảm ứng. Chúng sinh thiếu cơ duyên thì dẫu kề bên cũng không thấy được. [Ngược lại], có đủ lòng từ và căn lành thì dù xa xôi vẫn tự thông suốt, là do có sự cảm ứng giao hòa trong mối đạo. Đó là dùng lẽ nhân duyên để giải thích.

Nhìn chung những chúng sinh cầu giải thoát với căn cơ như vậy rất nhiều, bậc thánh khởi lên sự ứng hiện ắt cũng phải nhiều tương ứng như vậy. Ý nghĩa [kinh] này rộng lớn như thế, [nói] khoảng giữa biết là ở chỗ nào? Nhưng kinh điển Đại thừa dạy rằng: Sức mạnh của lòng từ với căn lành có vô lượng phương thức, nói đơn giản là các thần thông. Nếu như căn cơ [chúng sanh] và sự cảm ứng trong mười phương rộng lớn như hư không, thì nay chỉ xét trong thế giới Ta-bà, những âm thanh làm Phật sự chính là rộng mở cửa cam lồ. Y theo giáo pháp giải thích, chọn cách trung dung để giảng nói rõ ràng. Nếu tùy theo căn cơ mà thiết lập giáo pháp, thì giáo pháp ấy phải có quyền, có thật, có nông cạn, có sâu xa chẳng đồng nhau, nên phải biết quên đi ngón tay mà nhận lấy mặt trăng, quên đi tích [môn] để tìm cầu bản [môn].

Thầy Tăng Triệu[38] nói: “Không có bản [môn] thì chẳng lấy gì để truyền lại tích [môn], không có tích [môn] thì chẳng lấy gì để hiển bày bản [môn].” Cho nên dùng bản [môn] và tích [môn] để giải thích. Nếu tìm cầu tích [môn “khai quyền hiển thật”] thì tích [môn] rộng lớn mênh mông, [kẻ tìm cầu chỉ] nhọc công vô ích. Nếu tìm cầu [bản môn “khai cận hiển viễn”] thì bản môn cao vời, [kẻ tìm cầu] không thể theo đến cùng cực. Suốt ngày đêm chỉ lo đếm châu báu của người khác thì tự mình không có được [dù chỉ] nửa đồng xu. Chỉ cần quán xét sự cao rộng của tự tâm mình, khơi dậy sự cảm ứng vô cùng của bậc thánh. Cơ duyên đạt đến sự cảm ứng mới có được lợi ích cho bản thân mình. Cho nên dùng sự quán xét [tự] tâm để giải thích.

Thứ ba là nêu dẫn chứng. Phẩm Phương tiện nói rằng: “Mười phương chư Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.” [Như vậy thì giáo pháp] Nhân thừa, Thiên thừa, Tiểu thừa chẳng phải Nhất thừa, chẳng phải Đại thừa. Hơn nữa, không có Phật sự thì không thành tựu cơ duyên cảm ứng. Thật tướng gọi là Nhất thừa, rộng khắp gọi là Đại thừa. Đức Phật chỉ rõ việc này, đó là “sự”, [Phật] xuất hiện ở đời gọi là một “đại sự nhân duyên”. [Cũng trong phẩm Phương tiện] còn nói rằng: “Dùng đủ mọi pháp môn, để chỉ bày Phật đạo.” Nên biết rằng, [đức Phật dạy] hết thảy mọi giáo pháp bằng âm thanh, hoặc tinh tế nhỏ nhiệm, hoặc sáng tỏ rõ ràng, hoặc quyền biến phương tiện, hoặc chân thật rốt ráo, tất cả đều chỉ là vì đạo giải thoát của Phật mà tạo phương tiện, [cũng giống như] nơm [để bắt cá], lưới [để bắt thỏ] mà thôi.

Kinh điển Đại thừa dạy rằng “lời nói thô thiển hay nhu nhuyễn cũng đều quy về nơi đệ nhất nghĩa”, chính là nói lên ý nghĩa như thế. Trong phẩm Tuổi thọ của Như Lai, [đức Phật] nói: “Trong thế gian này, tất cả chư thiên, loài người cho đến a-tu-la đều cho rằng: ‘Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện nay là từ hoàng cung họ Thích xuất gia, đến ngồi nơi đạo tràng không xa thành Già-da, chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.’ Nhưng này các thiện nam tử, thật ra ta thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp.”

Trong phẩm Phương tiện cũng có kệ rằng:

“Phật xưa đã thệ nguyện,
Độ hết thảy chúng sinh,
Được như Phật không khác.”[39]

Lại trong phẩm Năm trăm đệ tử được thụ ký có kệ rằng:

Trong giấu hạnh Bồ Tát,
Ngoài hiện tướng Thanh văn...

...Tự thanh tịnh cõi Phật.
Thị hiện có ba độc,
Lại có tướng tà kiến.
Đệ tử Phật như thế,
Phương tiện độ chúng sinh.

Như vậy thì cả Phật và đệ tử đều làm sáng tỏ ý nghĩa Bản môn, Tích môn. Đại lược là như thế.

Trong [kệ trùng tuyên] ở phẩm Thí dụ, [đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất] rằng: “Nếu như ai có thể, tin lời ông nói ra, đó là người thấy Phật, cũng thấy được chính ông, cùng chư tỳ-kheo tăng, và chư vị Bồ Tát.”[40] Do đó nên biết rằng, tùy theo chỗ nghe được mà để tâm quán sát thật kỹ thì trong tâm tin tưởng ấy sẽ thấy được Tam bảo. Nghe được lời thuyết dạy, đó là Pháp bảo; liền “thấy Phật”, đó là Phật bảo; thấy được “chư tỳ-kheo tăng...”, đó là Tăng bảo. Đại lược là như thế.

Thứ tư là chỉ rõ tướng thật. Hãy nói ngắn gọn về ba giai đoạn chỉ rõ tướng nhân duyên. Chúng sinh từ lâu xa vẫn mong chờ phương tiện thiện xảo của Phật để giúp gieo trồng nhân duyên Phật đạo. Trong [lúc mong chờ] ấy được gặp [Phật], dùng phương tiện khác giúp hiển bày Đệ nhất nghĩa mà làm cho thành thục [hạt giống Phật]. Ngày nay mưa hoa, mặt đất chấn động, là dùng sự diệt độ của Như Lai để độ thoát [những chúng sinh ấy].[41]

Lại nữa, [nhân duyên] từ rất lâu xa nên [gọi là] gieo trồng, từ trong quá khứ nên được thành thục, trong đời gần đây được giải thoát. Trong phẩm Từ lòng đất vọt lên nói những việc như thế.

Lại nữa, trong thời gian [chưa giác ngộ] là gieo trồng nhân duyên, [trải qua] bốn mùi vị [của sữa][42] là thành thục, [sinh nơi] cung vua là giải thoát, nay làm việc khai mở (khai), chỉ bày (thị) [cho chúng sinh nhận hiểu] (ngộ), thể nhập (nhập) [vào tri kiến Phật].

Lại nữa, [những việc làm trong] đời này là gieo trồng nhân duyên, những đời sau là thành thục và đời sau nữa là giải thoát. Người đời sau được độ thoát chính là [ý nghĩa] như vậy. Tuy chưa phải là Bản môn, nhưng chỉ theo ý mà nói. Thời thời khắc khắc trong suốt thời gian [chưa giải thoát] đó, trải qua ba đời, chín đời gieo trồng nhân duyên, thành thục, rồi giải thoát. Sự cảm ứng [với cơ duyên] cũng không hề chướng ngại. Vì sao vậy? Vì đức Như Lai có sức thần thông tự tại, có sức sư tử phấn chấn, nhanh nhẹn, lớn lao, uy dũng.

Vì để nói đến sức tự tại cùng những năng lực như thế nên [kinh văn] có phần Tựa. Vì đại chúng thấy điềm lành hy hữu liền trang nghiêm khát ngưỡng muốn được nghe đầy đủ [Phật] đạo. Đức Phật tùy cơ duyên ấy lập pháp giáo hóa để khai mở, chỉ bày [cho chúng sanh] nhận hiểu, thể nhập tri kiến Phật, cho nên [kinh văn] mới có phần Chánh văn. Không những chỉ [chúng sanh] đương thời được lợi ích lớn, mà đến hơn 500 năm sau nữa cũng được hưởng nhờ đạo mầu, cho nên [kinh văn] mới có phần Lưu thông.

Lại nữa, [về phương diện] hiển bày hình tướng giáo pháp, phần Tựa [của Kinh văn] chẳng phải vì [hàng phàm phu cầu] thăng tiến trong hai cõi trời người mà nói ra, chẳng phải vì hàng Nhị thừa cầu đạo hạn hẹp mà nói ra, chẳng phải vì [hàng Duyên giác quán “pháp] không” thông suốt ba cõi mà nói ra, chẳng phải riêng vì giáo pháp dành cho hàng Bồ Tát mà nói ra, nhưng là vì sự chân chánh ngay thật buông bỏ [các pháp] phương tiện, chỉ vì thuyết dạy Phật đạo vô thượng mà nói ra phần Tựa này. Sự chân chánh này, chẳng xem pháp thế gian là chân chánh, chẳng xem trí tuệ [phàm phu] phân biệt chia chẻ [ví như] ánh sáng đom đóm là chân chánh, chẳng xem trí tuệ [của hàng Nhị thừa thấy được] thực thể các pháp [ví như ánh sáng] đèn đuốc là chân chánh, chẳng xem trí tuệ thấu rõ các pháp thế gian và xuất thế gian[43] [của hàng Bồ Tát ví như ánh sáng] trăng sao[44] là chân chánh, mà chỉ xem trí tuệ rõ biết tất cả [của chư Phật ví như] ánh sáng mặt trời mới là chân chánh.

Phần Lưu thông [của kinh] này không phải vì những phương tiện quyền biến giả tạm[45] mà nói ra, chẳng phải lưu thông giáo pháp không rốt ráo[46] [của hàng Tiểu thừa], chẳng phải lưu thông giáo pháp chung cùng[47] [của hàng Nhị thừa], chẳng phải lưu thông giáo pháp chuyên biệt[48] [của hàng Bồ Tát], hoàn toàn là để lưu thông Kinh điển [Nhất thừa] rốt ráo trọn vẹn.

Kế đến là chỉ bày bản (chỗ phát khởi ban sơ) và tích (hình tích sự phát triển).[49] Từ thuở xa xưa lúc [đức Phật] còn tu hành đạo Bồ Tát, đã tuyên dương kinh Pháp hoa của chư Phật trước đó, cũng có 3 phần thượng, trung và hạ,[50] [trong đó] cũng có đủ bản và tích.

Nhưng dù chư Phật tiếp nối nhau đến vô cùng vô tận, cũng chỉ riêng lấy kinh Pháp hoa do vị Phật thuở tối sơ thuyết giảng gồm 3 phần thượng, trung, hạ mà xem là phần thượng, mới gọi là bản. Vì sao vậy? Vì là do vị Phật thuở tối sơ thuyết giảng nên xem là phần thượng, gọi là bản. Ý nghĩa này có thể biết được.

Rồi trong khoảng giữa thời gian hành hóa, [Bồ Tát][51] trợ giúp các vị Phật như Phật Đại Thông Trí Thắng, Phật Nhiên Đăng... tuyên dương kinh Pháp hoa, cũng gồm 3 phần, đây được xem là phần trung, được gọi là tích. Vì sao vậy? Vì trước đó đã có phần thượng, đã được gọi là bản.

Ngày nay, [kinh Pháp hoa do đức Phật Thích-ca] thuyết giảng tại thành Vương xá có ba phần, được xem là phần hạ, cũng gọi là tích.

Cho đến chư Phật vĩnh viễn trong tương lai về sau sẽ dùng sức mạnh mẽ phấn chấn như sư tử để thuyết giảng [kinh Pháp hoa này] gồm đủ ba phần, nhưng cũng chỉ riêng bản kinh được thuyết giảng vào thuở tối sơ mới được xem là phần thượng, được gọi là bản [mà thôi]. Ví như cây đại thọ tuy có ngàn cành muôn lá, nhưng luận về căn bản thì không thể xem tất cả [những cành lá ấy] đồng như cội gốc. Ví dụ này có thể giải thích rõ [ý nghĩa bản, tích như trên]. Đại lược là như vậy.

Thứ tư nói về tướng trạng của việc quán tâm. Trong việc thúc ước tâm này phải luận đến ba phần là giới, định và tuệ. Tu tập hành trì phải khởi đầu từ giới, tiếp theo là định rồi sau cùng là tuệ. Nhưng [nếu phân chia] về mặt pháp môn thì tuệ được xem là bản, định và giới là tích.

Trong giới, định và tuệ, mỗi yếu tố lại gồm đủ 3 phần [tự, chánh và lưu thông].[52]

Giới có ba phần, các phương tiện trước [để thực hiện là tự], bạch tứ yết-ma [là chánh], đi đến phán quyết chung [là lưu thông].

Định có ba phần, 25 phương tiện [là chuẩn bị, là tự], [tu tập] chân chánh quán chiếu các duyên [là chánh], khéo nhập, xuất hoặc an trụ trong trăm ngàn pháp môn Tam-muội [là lưu thông].

Tuệ có ba phần, hết thảy các pháp đều do nhân duyên mà sinh ra, [nhìn thấy các pháp] đều không [là tự], [nhìn các pháp theo] trung đạo [là chánh], [thấy các pháp đều] giả tạm [là lưu thông].

Tạm phân ba phần như vậy để chỉ rõ bốn chủng tướng, nên vận dụng ý nghĩa như vậy. [Đó là nói] từ câu “như th [ngã văn...] cho đến [cuối kinh văn] “tác lễ nhi khứ”,[53] toàn bộ kinh này có thể chia ra bốn ý chính, nhưng nếu đem so với ý nghĩa vừa nêu ắt thấy có khác biệt. Nếu phân biệt chỉ rõ từ ngữ [theo cách đó] thì rất khó, nên người đọc phải khéo léo tự mình suy xét. [Phải thấy rằng] từ ngữ tuy có chỗ khác biệt nhưng ý nghĩa vẫn tương đồng. Đây chính là ý nghĩa ngàn chiếc xe [đi qua chỉ để lại] cùng một dấu vết, muôn dòng nước [chảy về biển rồi] đều cùng một vị mặn.

Phần tự (lời tựa) có chia ra thông tự (tựa chung) và biệt tự (tựa riêng).[54] Từ chữ “như thị...” cho đến “khước tọa nhất diện” là phần thông tự. Từ “nhĩ thời Thế Tôn” cho đến hết phẩm này là phần biệt tự.

Thông tự nghĩa là tương thông, tương đồng với các giáo nghĩa, kinh điển khác. Biệt tự là phần khác biệt, riêng biệt của một bộ kinh. Phần thông tự [có thể chia ra] 5, 6, 7 ý hoặc nhiều hơn. Chẳng hạn, “như thị” là nêu lên tánh thể của việc nghe pháp, “ngã văn” là nói người nghe có khả năng ghi nhớ, nắm giữ [giáo pháp], “nhất thời” là nói việc nghe pháp và ghi nhớ diễn ra trong cùng một thời điểm, chẳng phải vào lúc khác, “Phật” là nói rõ giáo pháp được nghe chính từ kim khẩu Phật, “Vương Xá thành, Kỳ-xà-quật sơn trung” là nêu rõ địa điểm được nghe kinh và ghi nhớ, “dữ đại tỳ-kheo” là nói những người cùng nghe kinh và ghi nhớ. Những điều này đều là nhân duyên hòa hợp lần lượt tác động lẫn nhau mà sinh ra.

KINH VĂN

Tôi nghe như vậy, vào lúc đức Phật ở tại thành Vương Xá, giữa núi Kỳ-xà-quật.

Giải thích chữ “như vậy”

Chữ “như vậy”, Hán văn chép là “như thị”, có nghĩa là ba đời chư Phật đều an ổn như nhau, đạo hạnh tương đồng, [tùy thuận mà] chẳng tranh chấp với thế gian. Đó là giải thích theo thế giới tất đàn.[55]

Đại [Trí độ] luận nói: “Nêu lên thời điểm và nơi chốn mới có thể khiến người sinh khởi lòng tin.” Đó là giải thích theo [vị] nhân tất đàn.

Lại nữa, đối phá ngoại đạo [vì họ] dùng hai chữ, “a” [là không] và “âu” [là có],[56] vốn chẳng phải “như”, chẳng phải “thị”. Đây là giải thích theo đối trị tất đàn.

Lại nữa, “như thị” là từ ngữ tin thuận. Tin thì có thể nhận hiểu những điều được nghe, thuận thì thành tựu được sự truyền thừa giữa thầy với học trò. Đây là giải thích theo đệ nhất nghĩa tất đàn.

Vì lẽ nhân duyên được giải thích rất rộng nên ở đây không thể ghi chép hết... Lược giải theo giáo nghĩa, kinh là giáo pháp của chư Phật ba đời, ban sơ đều giống nhau nên gọi là “như thị”. Chư Phật trước đây có phân ra các kinh điển Tiệm giáo, Đốn giáo, hoặc Bí mật giáo, hoặc Bất định giáo.[57] Trong Tiệm giáo lại có Tam tạng giáo (hay Tạng giáo), Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo.[58] Chư Phật ngày nay cũng giống như vậy, cũng có phân chia các kinh điển khác nhau, không thể dùng duy nhất một phương thức để khai mở chỉ bày cho hết thảy chúng sinh.

Lại nữa, Phật và A-nan, chỗ nghe không khác nhau, gọi là “như”. Người thuyết giảng làm rõ pháp được thuyết giảng, gọi là “thị”. Ngày nay ngài A-nan truyền lại những lời của Phật như thế nào thì phải giảng giải đúng như thế ấy. Không thể đem pháp tiệm truyền lại thành đốn, pháp quyền thừa truyền lại thành rốt ráo. Nếu sự truyền đạt và giảng giải sai lệch thì kinh văn chẳng gọi là “như”. Kinh văn không “như” thì nghĩa lý chẳng phải “thị”. Ý nghĩa này thật khó nhận hiểu sáng tỏ nên cần phụ giải thêm.

Hơn nữa, nếu y theo Tiệm giáo mà phân biệt, Phật đã giảng rõ, theo tục đế thì có văn tự nhưng nếu thật là chân đế ắt không có văn tự. Ngài A-nan truyền lại văn tự của Phật thuộc tục đế, so với những gì Phật thuyết dạy không hề sai khác, cho nên gọi là “như”. Nhân nơi văn tự thế tục mà nhận hiểu được nghĩa lý của chân đế, cho nên gọi là “thị”. Đây chính là ý nghĩa của hai chữ “như thị” được giảng rõ theo Tạng giáo.

Đức Phật giảng rõ “sắc tức là không, không tức là sắc”; sắc với không, không với sắc vốn chẳng phải hai, chẳng phải khác biệt. Không và sắc chẳng khác biệt nhau, đó là “như”; ngay nơi sự đã có chân, đó là “thị”. Ngài A-nan truyền lại lời Phật không sai khác, ấy là “như”, chỗ giảng giải không khác điều được giảng giải, ấy là “thị”. Đó là ý nghĩa của hai chữ “như thị” theo Thông giáo.

Đức Phật giảng rõ trong vòng sinh tử là có giới hạn, còn đạt đến Niết-bàn là không giới hạn. Vượt khỏi sinh tử vẫn còn giới hạn, thể nhập Niết-bàn không còn giới hạn. Ra khỏi Niết-bàn không giới hạn ấy là thể nhập trung đạo. Ngài A-nan truyền lại ý nghĩa này là “ra ngoài cõi có, nhập vào cõi không, vượt ngoài cõi không, nhập vào trung đạo”. So với lời Phật thuyết dạy không khác nên gọi là “như”, từ cạn đến sâu đều không sai lầm nên gọi là “thị”. Đây chính là ý nghĩa hai chữ “như thị” theo Biệt giáo.

Đức Phật cũng giảng rõ sinh tử chính là Niết-bàn, cũng là trung đạo, lẽ nào Niết-bàn lại không phải trung đạo? Pháp giới chân như, thật tánh thật tế, khắp thảy mọi nơi không đâu không phải là pháp Phật. Ngài A-nan truyền lại ý nghĩa này so với lời Phật thuyết dạy không có gì sai khác nên gọi là “như”, như như không động chuyển nên gọi là “thị”. Đây chính là ý nghĩa hai chữ “như thị” theo Viên giáo.

Nếu dùng nghĩa động của tục đế thể nhập nghĩa “như”, đó là ý nghĩa theo Tạng giáo. Nếu dùng nghĩa chẳng động của tục đế thì chính là ý nghĩa theo Thông giáo. Nếu dùng các nghĩa “động như”, “nhập như”, ấy là ý nghĩa của Biệt giáo. Nếu dùng nghĩa “bất động như” thì là ý nghĩa của Viên giáo. Đại lược là như vậy.

Nếu theo Đốn giáo thì ý nghĩa của “như thị” tương đồng với Viên giáo. Theo Bất định giáo thì ý nghĩa “như thị” trước sau có sự hỗ tương cho nhau. Theo ý nghĩa Bí mật giáo thì ẩn khuất không truyền. Bày ra [tấm lưới] tám giáo[59] như vậy rộng trùm khắp biển pháp giới, chỉ sợ còn có thất thoát, huống chi chỉ như một mắt lưới giăng ra. Lại như người cùng lúc đón bắt bốn mũi tên không cho rơi xuống đất cũng chẳng dám gọi là nhanh,[60] huống gì kẻ chậm chạp như thúc con lừa đần, đuổi con rùa què, dẫu một còn chưa bắt được, nói gì đến bốn?[61] Đại lược là như thế.

Nay lược nói ý nghĩa “bản tích” để giải nghĩa “như thị” (đúng thật như vậy). Mười phương ba đời dọc ngang đều đúng thật như vậy, cho đến quá khứ xa xôi, hiện tại mênh mang, tương lai mãi mãi, hết thảy cũng đều đúng thật như vậy, biết đâu là “bản” (ban sơ), biết đâu là “tích” (dấu vết)? Cho nên tạm nói rằng, đức Thích-ca Thế Tôn từ thuở ban sơ vừa mới thành đạo đúng thật như vậy, đó gọi là bản. Qua thời gian làm Phật giảng kinh đúng thật như vậy, cho đến ngày nay những kinh điển Phật thuyết giảng đúng thật như vậy, đều gọi là tích.

Lại nữa, những gì ngài A-nan truyền lại đúng thật như vậy đều gọi là tích, những gì đức Phật thuyết giảng đúng thật như vậy đều gọi là bản.

Lại nữa, những gì được truyền đạt thông suốt đúng thật như vậy giữa thầy và trò, chẳng phải mới bắt đầu từ hôm nay, cũng chẳng có khoảng chuyển tiếp trung gian, như thế gọi là bản. Những gì có khoảng trung gian chuyển tiếp cho đến ngày nay, đó gọi là tích.

Nếu giải thích theo nghĩa quán tâm thì các ý nghĩa “như thị” theo [tứ] tất đàn, giáo tông, bản tích đã nói ở trước, hết thảy đều là pháp nhân duyên sinh. Đó là quán xét theo Thông giáo. Hết thảy nhân duyên vốn là không, vốn là giả hợp, đó là quán xét theo Biệt giáo. [Nếu xem] hai pháp quán [của Thông giáo và Biệt giáo] đều là phương tiện thì thể nhập được ý nghĩa tột cùng của trung đạo. Lại cùng lúc quán chiếu cả Không và Giả (nhị đế) thì đó là cách quán theo cả Thông giáo cũng như Biệt giáo. Như trên đã thấy, quán xét theo trung đạo thì không phải Thông giáo cũng không phải Biệt giáo.

Phần kinh văn tiếp theo [trong phẩm Thí dụ] nói rằng: “Nếu như ai có thể, tin lời ông nói ra,[62] đó là người thấy Phật, cũng thấy được chính ông, cùng chư tỳ-kheo tăng, và chư vị Bồ Tát.

Đây là đoạn văn giảng rõ việc thực hành quán chiếu. “Tin lời” là luận về “cơ”, còn “thấy được” là luận về “ứng”, tức là nói lẽ nhân duyên. Lại nữa, trong sự “tin nhận” cũng có mức độ cạn hoặc sâu, trong chỗ “thấy được” cũng chia ra quyền biến hay chân thật. Từ đó mà phân biệt đủ mọi hạng loại chẳng giống nhau, tức là giáo nghĩa phân biệt.

Lại nữa, tin nhận kinh văn Pháp hoa là thấy được chỗ ban sơ của thật tướng. Thấy được sự hóa hiện của Xá-lợi-phất[63] thì thấy được chỗ ban sơ vốn là Phật Kim Long Đà.[64] Nếu thấy được đức Thích Tôn vừa mới thành đạo, thì cũng thấy được chư Phật trước đây đã thành đạo từ lâu. Nếu thấy được 1.200 tỳ-kheo, 80.000 Bồ Tát, thì cũng thấy được chỗ ban sơ của các vị ấy.

Lại nữa, khi nghe kinh khởi tâm tin nhận không nghi, hiểu rõ được tâm tin nhận sáng suốt thanh tịnh đó tức là thấy Phật; trí tuệ thường sáng suốt phân biệt tức là thấy Xá-lợi-phất; phân biệt số lượng sáng suốt rõ ràng là chúng tỳ-kheo; tâm từ bi thanh tịnh là thấy các vị Bồ Tát. Lược giải về tâm có bốn ý như vậy xoay vần giảng rõ.

Nếu giảng giải những kinh điển khác chỉ dùng ba ý, vì chưa có nghĩa “phát bản hiển tích” (nêu chỗ ban sơ để làm sáng rõ ý nghĩa hình tích). Nên biết rằng, kinh điển này giảng rõ ba ý tương đồng với những kinh khác, riêng có một ý khác biệt. Đến đây trọn vẹn bốn lượt giải thích ý nghĩa [hai chữ] “như thị”. Đại lược là như vậy.

Giải thích chữ “tôi nghe”

[Hai chữ] “tôi nghe”, Hán văn là “ngã văn”, hoặc [cũng có kinh chép là] “văn như thị”. Tuy kinh bản không giống nhau nhưng trước sau đều nêu việc “nghe kinh”. Nay xin dẫn ra bốn cách giải thích.

Luận Đại Trí độ nói: “Lỗ tai bình thường không hư hoại, âm thanh phát ra trong phạm vi có thể nghe, người khởi tâm muốn nghe. Các duyên như vậy hòa hợp đủ nên nói rằng ‘tôi nghe’.”

Có người hỏi: “Lẽ ra nên nói ‘tai nghe’, sao lại nói ‘tôi nghe’?” Đáp rằng: “Nói ‘tôi’ đó là chủ thể của lỗ tai. Nêu chữ ‘tôi’ lên là để gồm hết các duyên [như trên]. Đó là giải thích theo thế giới [tất đàn].”[65]

Ngài A-nan lên tòa cao cất tiếng nói “tôi nghe” thì đại chúng đều bi thương, bởi vừa thấy đức Như Lai đó mà nay đã phải nói lại rằng “tôi nghe”. Các vị A-la-hán đều nói kệ, nhắc rõ lời Phật dạy. Ngài Văn-thù [khi chủ trì] kết tập, trước tiên nêu đề kinh, tiếp theo phải nói “tôi nghe như vậy”. Khi ấy “đại chúng buồn thương”, đó là giải thích theo vị nhân [tất đàn].

Ngài A-nan khi lên tòa cao cất tiếng nói “tôi nghe” là để xua tan sự nghi hoặc của đại chúng. Vì thân hình ngài A-nan tương tự như Phật, chỉ thấp hơn Phật ba lóng tay, [nên khi vừa lên tòa cao thì trong] đại chúng [khởi sinh ba mối nghi]. [Một là có người] nghi rằng đức Thích Tôn xuất hiện trở lại, [hai là có người] nghi rằng Phật từ phương khác đến, [ba là có người] nghi rằng ngài A-nan nay đã thành Phật. Khi nói rõ “tôi nghe” thì ba mối nghi ngờ như thế liền tiêu tan. Đây là giải thích theo nghĩa đối trị [tất đàn].

[Lại nữa,] ngài A-nan chứng quả hữu học, do tùy thuận thế tục mới nói là “ngã văn” (tôi nghe). Theo nghĩa rốt ráo (đệ nhất nghĩa) thì không có “tôi”, cũng không có “nghe”. Các giải thích từ xưa đến nay đều đồng thuận theo ý nghĩa nhân duyên như vậy. Đó là giải thích theo giáo nghĩa.

Luận giải nói rằng, phàm phu có ba loại chấp ngã là ngã kiến, ngã mạn và ngã danh tự. Người chứng quả hữu học có hai loại, bậc chứng quả vô học vẫn còn một loại. Ngài A-nan chứng quả hữu học, không còn chấp ngã tà vạy, có khả năng chế phục ngã mạn, nhưng tùy theo thế tục mà dùng “ngã danh tự” nên không có lỗi. Đây là giải thích ý nghĩa của “ngã” theo Tạng giáo.

Theo luận Thập trụ Tỳ-bà-sa thì rơi vào bốn câu chấp “ngã” đều là tà kiến.[66] Trong chánh pháp của Phật không có ngã, ai là người nghe? Đây là nói theo ý nghĩa của Thông giáo.

Kinh điển Đại thừa nói rằng, ngài A-nan là bậc đa văn, biết rằng “ngã” và “vô ngã” vốn chẳng phải hai, đồng thời cũng phân biệt rõ “ngã” và “vô ngã”. Đây là giải thích theo ý nghĩa của Biệt giáo.

Lại nữa, ngài A-nan rõ biết ngã và vô ngã vốn chẳng phải hai, nhưng vì phương tiện [thị hiện] làm thị giả cho [Phật] để truyền nối giữ gìn trí tuệ vô ngại của Như Lai, dùng âm thanh tự tại để truyền [thừa giáo pháp] quyền và thật, nên chẳng có gì là không làm được. Đây là giải thích ý nghĩa của “ngã” theo Viên giáo.

Lại nữa, kinh Chánh pháp niệm giải thích rõ là có ba vị [mang tên] A-nan. [Vị thứ nhất là] A-nan-đà (Ānanda), Hán dịch là Hoan Hỷ, là vị truyền giữ tạng kinh điển Tiểu thừa. [Vị thứ hai là] A-nan-bạt-đà (Ānandabhadra), Hán dịch là Hoan Hỷ Hiền, [là người] thọ trì Tạp tạng. [Vị thứ ba là] A-nan-sa-già (Ānandasāgara), Hán dịch là Hoan Hỷ Hải, [là người] thọ trì Phật tạng. Trong kinh A-hàm thì có Điển Tạng A-nan, [là người] thọ trì Bồ Tát tạng. Nói chung thì đây chỉ là một vị có đủ bốn đức, truyền thừa bốn loại giáo pháp.[67] Ý nghĩa này tự nó đã rõ ràng. Đại lược là như vậy.

Theo ý nghĩa “bản tích” để giải thích thì nếu chưa hội nhập, có thể nói rằng ngài A-nan tùy thuận thế tục nên tự xưng là “ngã”, còn đi vào chỗ “phát tích hiển bản”, nêu rõ việc hiện nay để hiển bày bản nguyên, thì [thuở ban sơ ở] chỗ đức Phật Không Vương, [ngài A-nan với Phật] đồng thời phát tâm, ngày nay [ngài A-nan] dùng phương tiện thị hiện làm người thọ trì truyền giữ giáo pháp, có gì là không thể?

Giải thích theo ý nghĩa quán tâm thì các pháp đều do nhân duyên sinh, tức là không, tức là giả, tức là trung đạo. Tức không, là nói “ngã” và “vô ngã”. Tức giả, là nói sự phân biệt ngã. Tức trung, là nói chân ngã nhiệm mầu. Đại lược là như vậy.

Theo các bản thích nghĩa kinh văn thì ngài A-nan sinh ra vào đêm đức Phật thành đạo, [sau đó] theo làm thị giả cho Phật hơn 20 năm. Vậy lúc chưa làm thị giả thì lẽ ra không nghe [những lời Phật dạy]. Luận Đại trí độ nói: “Lúc ngài A-nan kết tập giáo pháp có tự nêu ra: ‘Khi Phật chuyển pháp luân lần đầu, tôi chưa được gặp Phật, về sau mới dần dần được nghe.’ Như vậy thì biết rằng, không nhất thiết là nghe [theo nghĩa thông thường].”

Các bản giảng giải xưa thì cho rằng, ngài A-nan được sức [gia trì của] Tam-muội Phật giác[68] nên tự mình có thể nghe được [những kinh Phật thuyết trước đó].

Kinh Báo Ân nói rằng: “Ngài A-nan thỉnh cầu bốn việc. Trong đó có nguyện ‘những kinh chưa được nghe xin Phật giảng [cho nghe]’.” Lại nói: “Từ kim khẩu Phật bí mật [nói riêng] cho A-nan nghe.”

Thai kinh[69] nói rằng: “Đức Phật [sau khi nhập Niết-bàn], từ trong kim quan đưa cánh tay vàng [ra bên ngoài], vì ngài A-nan mà tái hiện hình tướng nhập thai.” Cho nên, các kinh [từ lúc nhập thai ngài] đều được nghe, huống là những kinh thuyết ở nơi khác [sau này]. Kinh văn này nói rằng ngài A-nan ghi nhớ được là do bổn nguyện thọ trì giáo pháp của chư Phật trước đây, cũng đều giống như ngày nay [thọ trì giáo pháp của Phật Thích-ca]. Đó là giải thích theo nhân duyên.

Nếu [giải thích theo] giáo nghĩa thì ngài A-nan-đà (Hoan Hỷ) khuôn mặt sáng như trăng tròn, mắt đẹp như hoa sen xanh, tự thân đón nhận lời Phật dạy như [nước rót] vào bình, rồi truyền giáo pháp lại để giáo hóa chúng sinh như [rót nước] sang bình khác [không hề vơi mất]. Đây là truyền lại giáo pháp phàm phu có thể nghe được.[70] Ngài A-nan-bạt-đà (Hoan Hỷ Hiền) thì trụ nơi địa vị hữu học, chứng đắc Không, vô tướng, vô nguyện,[71] các căn như mắt, tai, mũi, lưỡi... đều không khiếm khuyết, [có khả năng] thọ trì truyền lại giáo pháp mà phàm phu không thể nghe.[72] Ngài Điển Tạng A-nan thì đa phần những điều [Phật thuyết đều] thọ nhận giữ gìn, cũng giống như đám mây lớn chứa giữ nước mưa. Đây là thọ trì truyền lại giáo pháp của hàng Bồ Tát.[73] Ngài A-nan-sa-già (Hoan Hỷ Hải) là bậc đa văn, tự nhiên có thể hiểu rõ ý nghĩa thường và vô thường. Nếu ai biết rằng Như Lai thường không thuyết pháp thì được gọi là bậc Bồ Tát có đủ phẩm hạnh đa văn. [Có câu rằng:] “Phật pháp như nước biển lớn chảy cả vào tâm ngài A-nan.”[74] Đây gọi là thọ trì truyền lại giáo pháp rốt ráo chân đế.[75] Kinh điển ngày nay đều là do ngài A-nan-sa-già (Hoan Hỷ Hải) thọ trì truyền lại, thuộc giáo pháp chân đế rốt ráo nhiệm mầu.

Nếu giải thích theo ý nghĩa bản tích thì cả bốn ý nói trên đều thuộc về tích, còn chỗ phát khởi ban sơ thì không thể nghĩ bàn. Đại lược là như thế.

Nếu giải thích theo ý nghĩa quán tâm thì quán pháp nhân duyên là quán về giáo pháp phàm phu có thể nghe hiểu được. Quán các pháp đều không là quán về giáo pháp phàm phu không thể nghe hiểu được. Quán các pháp giả tạm là quán về giáo pháp của hàng Bồ Tát. Quán pháp trung đạo là quán về giáo pháp rốt ráo chân đế. Đại lược là như vậy. Mỗi một niệm quán chiếu đều là sự quán chiếu nhiệm mầu.

Giải thích chữ “vào lúc”

[Bây giờ nói về] hai chữ “vào lúc”, Hán văn là “nhất thời”. Ngài Tăng Triệu[76] nói rằng: “[Thời ở đây] là thời điểm đấng Pháp Vương khai mở vận hội tốt lành.”

Về [chữ thời theo] thế giới [tất đàn], luận giải nói rằng: “[Có thật thời và giả thời,] ca-la là thật thời, là thời điểm chỉ bày cho đệ tử. Như giờ ăn đắp y [trì bát] là [hiểu theo] vị nhân [tất đàn]. Tam-ma-da là giả thời, phá trừ tà kiến ngoại đạo, là đối trị [tất đàn]. Nếu thời và đạo hòa hợp nhau, đó là đệ nhất nghĩa tất đàn. Đại lược là như thế.

Nếu [trong hội chúng nghe kinh gồm những bậc] chứng bốn thánh quả[77] thì nghĩa “nhất thời” thuộc về bậc hạ; nếu như người trong ba thừa[78] cùng chứng đắc đệ nhất nghĩa thì nghĩa “nhất thời” thuộc về bậc trung; nếu đều là [Bồ Tát] đăng địa[79] trở lên thì nghĩa “nhất thời” thuộc về bậc thượng; nếu đều là Bồ Tát Sơ trụ trở lên thì nghĩa “nhất thời” thuộc bậc thượng thượng. Nay [xét hội chúng] trong kinh này là thuộc về bậc thượng thượng. Đó là phân biệt giải thích theo Tạng giáo.

[Nếu xét chữ “nhất thời” theo nghĩa] bản tích thì những giải thích như vừa nói trên đều thuộc về tích, rất lâu xa về trước mới thuộc về bản.

Lại theo nghĩa quán tâm mà xét thì trước tiên là quán tánh không, tiếp theo là quán sự giả tạm và sau cùng quán lẽ trung đạo. Đó là thứ tự của sự quán tâm. Nếu ngay nơi sự quán tâm thấy được [vạn pháp] là rỗng không, là giả tạm, là trung đạo, thì đó là quán tâm viên mãn nhiệm mầu.

Giải thích chữ “Phật”

Vào thuở kiếp sơ [chúng sanh] không có bệnh, đến giai đoạn kiếp tận thì nhiều bệnh. Vào thuở tuổi thọ trung bình được lâu dài thì chúng sinh vui thú, đến giai đoạn tuổi thọ ngắn ngủi thì khổ đau. Cõi phía đông thiên hạ[80] thì chúng sinh giàu có và trường thọ. Cõi phía tây thiên hạ[81] có nhiều châu báu, nuôi nhiều trâu dê. Cõi phía bắc thiên hạ[82] [chúng sinh sống bình đẳng], không có người trị vì, không có kẻ thần thuộc.

Những thời gian và xứ sở như kể trên không thể cảm ứng được Phật ra đời. [Trong khoảng thời gian từ lúc tuổi thọ loài người là] 80.000 tuổi [giảm dần đến] lúc còn 100 tuổi, nơi cõi phía nam thiên hạ,[83] [chúng sinh tuy] chưa thấy quả nhưng đã biết tu nhân, cho nên Phật ra đời ở xứ này.

[Trong kinh Đại thừa, Bà-la-môn Vô Thắng bảo] Ly-xa tử rằng: “Đức Phật ra đời ở nước Ma-kiệt-đà như hoa sen lớn mọc lên trong hồ nước lớn.”[84] Vô Thắng lại nói: “Phật đối với chúng sinh bình đẳng không phân biệt, do các ông mê đắm năm món dục nên không thấy Phật, chẳng phải Phật tránh các ông mà ra đời tại xứ Ma-kiệt-đà.”[85] Đây là giải thích theo nghĩa thế giới tất đàn.

Nếu mặt trời không mọc lên thì các loại hoa chưa sinh hoặc đã sinh ra trong hồ kia chắc chắn đều phải héo úa mà chết. Đức Phật ra đời liền có các hạng sát-đế-lợi, bà-la-môn, cư sĩ, Tứ thiên vương cho đến chư thiên cõi trời Hữu đỉnh[86] [vây quanh]. Đây là giải thích theo vị nhân tất đàn.

Do những chúng sinh có căn tánh thuộc ba thừa[87] mà cảm ứng được sự ra đời của Phật, còn những hạng chúng sinh khác không thể cảm được. [Cho nên nói rằng:] “Khéo dứt trừ nhân sinh về cõi trời Hữu đỉnh mới có thể vĩnh viễn vượt qua dòng sinh tử.”[88] Đây là nói theo đối trị tất đàn.

Đối với tánh pháp thì Phật chẳng hề dao động, cũng không có ra đời, tuy có thể khiến cho chúng sinh do cảm ứng mà thấy như Phật có hoạt động, có ra đời, nhưng đức Như Lai thật không có hoạt động, không có ra đời. Đây là nói theo đệ nhất nghĩa tất đàn.

Những giải thích như trên cũng đều là lý nhân duyên [cảm ứng].

Phật là danh xưng của bậc giác ngộ rõ biết. Ngài ngồi dưới gốc [bồ-đề] nơi đạo tràng mà giác ngộ rõ biết hết thảy các tướng chung và riêng của [các pháp] thế gian và xuất thế gian. Giác ngộ các pháp thế gian, đó là khổ đế và tập đế. Giác ngộ các pháp xuất thế gian, đó là diệt đế và đạo đế. Phật cũng có khả năng giáo hóa giúp người khác giác ngộ. [Đó là hiện tướng] thân hình cao một trượng sáu thước, sống đến 80 tuổi, hình dáng như vị tỳ-kheo già. Dưới gốc bồ-đề, ngài đoạn trừ được cả 34 tâm chánh sử và tập khí.[89] Đây là [hình tượng] Phật tự giác, giác tha theo Tạng giáo.

Lại nữa, Phật mang hình dạng tỳ-kheo, thị hiện thân tôn quý đặc biệt, ngồi dưới gốc cây [bồ-đề] chỉ trong một niệm tương ưng liền đoạn sạch hết thảy tàn dư tập khí. Đây là [hình tượng] Phật tự giác, giác tha theo Thông giáo.

Chỉ nói việc hiện tướng tôn quý đặc biệt ngồi trên tòa sen nhận danh xưng Phật, đó là [hình tượng] Phật tự giác, giác tha theo Biệt giáo.

Nếu ẩn đi ba tướng vừa nêu, chỉ thị hiện tướng như hư không không thể nghĩ bàn, thì đó là [hình tượng] Phật tự giác, giác tha theo Viên giáo.

Cho nên, trong kinh dạy rằng: “Hoặc thấy thân Như Lai cao một trượng sáu thước, hoặc thấy thân [Như Lai] có nhỏ hoặc lớn, hoặc thấy [thân Như Lai] ngồi trên tòa sen vì trăm ngàn vị Thích-ca thuyết giảng pháp môn tâm địa, hoặc thấy thân [Như Lai] đồng với hư không, biến hiện khắp pháp giới không có sự phân biệt.” Chính là những ý nghĩa này. Đây là cách phân biệt theo Tạng giáo.

Nếu giải thích theo ý nghĩa bản tích thì có một vị Phật là bản (ban sơ), ba vị Phật là tích (hình tích về sau). Trong khoảng trung gian lại thị hiện vô số lần sinh, vô số lần diệt, hết thảy đều là hình tích, nhưng chỉ có bốn vị Phật căn bản được xem là bản.

Hoặc giải thích theo ý nghĩa quán tâm thì là quán tâm do nhân duyên sinh. Trước hết [thấy các pháp] là rỗng không, thứ đến là giả tạm, sau thấy khoảng giữa hết thảy đều là chỗ nhận hiểu còn thiên lệch hẹp hòi. [Chỉ khi ngay lúc] quán tâm [thấy tất cả đều] là không, là giả tạm, là trung đạo thì đó mới chính là chỗ giác ngộ viên mãn. Đại lược là như vậy.

Giải thích chữ “ở tại”

[Chữ “ở tại”], Hán văn là “trụ”, có nghĩa là “năng trụ” (chủ thể) ở tại nơi “sở trụ” (nơi trụ). Nơi trụ ở đây chính là thành Vương [Xá] thuộc cõi Ta-bà.[90] Chủ thể trụ là [đức Thế Tôn với] bốn oai nghi[91] đang còn trụ thế chưa diệt độ. Đó là giải thích chữ “trụ” bằng lý nhân duyên theo thế giới tất đàn.

Lại nữa, trụ có nghĩa là trụ nơi mười nghiệp lành,[92] trụ nơi bốn cảnh giới thiền. Đó là giải thích chữ trụ bằng lý nhân duyên theo vị nhân tất đàn.

Lại nữa, trụ có nghĩa là trụ nơi ba pháp tam-muội.[93] Đây là giải thích chữ trụ bằng lý nhân duyên theo đối trị tất đàn.

Lại nữa, trụ có nghĩa là trụ nơi [Tam-muội] Thủ-lăng-nghiêm. Đây là giải thích chữ trụ bằng lý nhân duyên theo đệ nhất nghĩa tất đàn. Đại lược là như vậy.

Nếu giải thích theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng Phật từ nơi tích môn phát khởi đức vô lậu chân thật, trụ nơi Niết-bàn hữu dư, vô dư; Thông giáo cho rằng Phật từ nơi thể môn phát khởi đức chân thật, trụ nơi Niết-bàn hữu dư, vô dư; Biệt giáo cho rằng Phật tuần tự theo các pháp môn mà vào, trụ nơi tạng bí mật; Viên giáo cho rằng Phật từ các pháp môn chẳng theo thứ tự mà vào, trụ ở tạng bí mật. Ba vị Phật [theo giải thích] của Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo thì năng trụ, sở trụ đều thô. Vị Phật [theo giải thích của] Viên giáo thì năng trụ, sở trụ đều mầu nhiệm. Theo kinh Pháp hoa này thì chính là Phật của Viên giáo trụ nơi chỗ nhiệm mầu.

Nếu dùng nghĩa “bản tích” để giải thích thì theo Tạng giáo, đức Phật đúng ra đã nhập Niết-bàn, do tâm từ bi thương xót [chúng sanh] mà để lại hình tích thân Phật vẫn trụ ở đời. Thông giáo thì cho rằng Phật do thệ nguyện từ bi cứu giúp hóa độ chúng sinh, thực hiện các Phật sự. Biệt giáo và Viên giáo đều cho rằng Phật dùng tâm từ bi huân tập pháp tánh, thương xót chúng sinh nên rủ lòng ứng hiện vào pháp giới. Cho nên biết rằng [theo bốn giáo lý ấy thì] Phật vốn trụ ở nơi Phật trụ, [đó là theo nghĩa bản], vì lòng từ bi [thị hiện] trụ nơi thành Vương Xá thuộc cõi Ta-bà [với hình thể đủ bốn] oai nghi, đó gọi là trụ [theo nghĩa] tích.

Nếu dùng nghĩa quán tâm để giải thích thì việc quán trụ nơi ngoại cảnh, hoặc trụ nơi cảnh giới vô thường, đó tức là những cảnh rỗng không, giả tạm, trung đạo. Dùng pháp không chỗ trụ để trụ trong những cảnh ấy nên mới gọi là trụ.

Giải thích tên gọi “thành Vương Xá”

Thành Vương Xá, tên Phạn ngữ là La-duyệt-kỳ Già-la (Rājagṛha). Chữ La-duyệt-kỳ, Hán dịch là Vương Xá, chữ Già-la dịch là thành.

Nước này tên là Ma-già-đà,[94] có nghĩa là bất hại, vì ở đây không dùng những hình phạt giết hại. Tên nước này cũng gọi là Ma-kiệt-đề, Hán dịch là Thiên La.[95] Thiên La là tên của một vị vua [xưa kia], được dùng làm tên nước. Vua Thiên La là phụ vương của vua Bác Túc. Trong một kiếp xa xưa trước đây, vua Thiên La cai trị một ngàn nước nhỏ. Một lần vua đi tuần thú ngang qua vùng núi, bỗng gặp một con sư tử cái, mọi người đều chạy tứ tán, [bỏ vua ở lại đơn độc]. Khi ấy sư tử cái lại cùng vua giao phối. Về sau, khi [mang thai] đã đủ ngày tháng, sư tử đi vào cung điện của vua sinh con. Vua biết đó là con của mình [với sư tử] nhưng lại nói dối rằng do mình không có con nên [đứa con này] có lẽ trời ban cho, liền nhận làm con nuôi, [rồi phong] làm thái tử. Trên hai chân thái tử có màu vằn vện nên người thời ấy gọi là Bác Túc.[96]

Về sau [thái tử] nối ngôi vua, rất thích ăn thịt, ban lệnh cho nhà bếp không được thiếu thịt. Có một lần bị thiếu thịt, người đầu bếp gấp rút quá liền dùng thịt của một đứa bé vừa mới chết ở phía tây trong thành để nấu dâng lên vua. Vua khen thịt rất ngon, ban lệnh phải thường dùng đúng loại thịt này. Từ đó người đầu bếp mỗi ngày đều phải bắt một đứa bé để giết thịt, khiến cho khắp nước kinh sợ oán hận. Một ngàn nước nhỏ cùng nhau khởi binh lật đổ vua Bác Túc, giam vua vào trong vùng núi Kỳ-xà-quật.

Các quỷ la-sát [trong vùng] theo giúp vua, tôn làm Quỷ vương. Nhân đó vua liền cùng với thần núi ở đây lập lời nguyền sẽ bắt 1.000 vị vua [nước nhỏ] để cúng tế thần núi. Sau đó bắt được 999 vua, chỉ còn thiếu vua Phổ Minh, lại tiếp tục tìm kiếm bắt được. [Vua Phổ Minh] khóc lóc to tiếng, nói rằng suốt đời chỉ nói lời chân thật mà nay phải thất hứa [vì có việc chưa làm xong]. Vua Bác Túc [nghe vậy] liền thả cho về nước.

Vua Phổ Minh về nước rồi lập tức mở hội đại bố thí và lập thái tử. [Xong việc quay trở lại chịu chết,] nhưng đến lúc bị mang ra giết vẫn tỏ ra vui vẻ, trong lòng hết sức an ổn. Vua Bác Túc [lấy làm lạ lùng nên] hỏi, [vua Phổ Minh] liền trả lời là do đã được nghe giáo pháp của bậc thánh [nên dù chết cũng vui vẻ].

Nhân đó liền thuyết pháp cho vua Bác Túc nghe, hết lời xưng tán tâm từ và chê trách sự giết hại. Tiếp theo liền nói kệ về bốn ý nghĩa vô thường.[97] Đại lược là như vậy.

Vua Bác Túc nghe pháp rồi liền chứng đắc địa vị Không, bình đẳng, tức là Sơ địa. Sau đó, một ngàn vị vua [của các nước nhỏ] mỗi người đều lấy một giọt máu và ba sợi tóc để cúng tế thần núi như lời thề nguyền [trước đây].[98]

Vua Bác Túc với 1.000 vị vua [nước nhỏ] cùng nhau dựng lập thành quách nhà cửa, đặt kinh đô giữa 5 ngọn núi lập thành một nước lớn, mỗi vua trong số 1.000 vua nước nhỏ đều được truyền lại cho con cháu nối dõi, lần lượt thay nhau cai trị nước lớn.

[Bấy giờ,] nhân dân trong vùng giữa năm ngọn núi, 7 lần làm nhà là 7 lần bị hỏa hoạn. Mọi người đều bàn tán với nhau rằng: “Do chúng ta phước mỏng nên mới bị lửa thiêu đốt nhiều lần, còn đức vua phước lớn nên cung vua không bị cháy, từ nay nên xây dựng nhà cửa theo như cung vua.” Nhờ đó không còn bị hỏa hoạn nữa, liền gọi tên thành là Vương Xá, [nghĩa là nhà của vua].

Lại nữa, vua Bác Túc cùng với 1.000 vị vua đều dựng lập nhà cửa trong thành này, cho nên gọi là Vương Xá.

Lại nữa, vua Bác Túc sau khi chứng đạo liền tha [chết], trả tự do cho 1.000 vị vua. Thành này có 1.000 vị vua được xá tội nên gọi là Vương Xá (王赦), nhưng trải qua nhiều đời nên âm xá (赦) [là tha tội] đã chuyển dần thành chữ xá (舍) là nhà cửa.

Các nhân duyên như trên được trích từ luận Đại Trí độ và các kinh điển khác.

Nếu giải thích theo giáo nghĩa thì trong kinh Tượng Pháp quyết nghi nói rằng: “Chỗ thấy của mỗi người trong đại chúng không giống nhau, hoặc thấy nơi rừng Sa-la toàn đất cát, cây cỏ, vách đá... hoặc thấy bảy món báu thanh tịnh trang nghiêm. Hoặc thấy khu rừng này là nơi đi đến của ba đời chư Phật. Hoặc thấy rừng này là cảnh giới pháp thể chân thật không thể nghĩ bàn của chư Phật. Theo đó mà xét thì biết rằng ý nghĩa về chỗ trụ có bốn cách nhìn không giống nhau. Về chỗ trụ đã như vậy thì đối với chủ thể trụ cũng vậy. Đây là cách phân biệt [giải thích] theo giáo nghĩa.

[Những cách giải thích theo ý nghĩa] bản tích và quán tâm sẽ bàn đến sau.

Giải thích tên gọi “núi Kỳ-xà-quật”

Núi Kỳ-xà-quật là phiên âm từ Phạn ngữ Gṛdhrakūṭa, Hán dịch là Linh Thứu, cũng gọi là Thứu Đầu, cũng gọi là Lang Tích. [Chim thứu][99] cũng gọi là lương thư[100] hay vương sư, chính là loài chim mà tác giả bài thơ vịnh trong Kinh Thi gọi là chim thư cưu.[101] Sách Nhĩ nhã nói chim này giống với chim cú.[102]

Lại có giải thích rằng, đỉnh núi có hình dạng tương tợ như [đầu] chim thứu nên đặt tên là núi Thứu.

Lại có người nói rằng, phía nam của núi có rừng thi-đà,[103] chim thứu ăn [xác người chết ở đó] rồi tụ về đậu trên đỉnh núi này, nên người thời ấy gọi là núi Thứu.

Lại có giải thích rằng, chư Phật trước đây và hiện nay đều trụ tại núi này. Sau khi Phật diệt độ thì có các vị A-la-hán trụ. Chánh pháp diệt mất thì có các vị Phật Bích-chi trụ.[104] Khi không có Phật Bích-chi thì quỷ thần trụ ở đây.

Vì là nơi các bậc thánh linh cư ngụ, lại có ba nguyên nhân nói trên nên người đời gọi là núi Linh Thứu.

[Nơi đây] có 5 chỗ yên tĩnh tu tập.[105] [Thứ nhất là] Bệ-bà-la-bạt-thứ, Hán dịch là động Thiên chủ, thứ hai là Tát-đa-bát-na-cầu-ha, Hán dịch là động Thất Diệp, thứ ba là Nhân-đà-thế-la-cầu-ha, Hán dịch là núi Xà Thần, thứ tư là Tát-bá-thứ-hồn-trực-ca-bát-bà-la, Hán dịch là núi Thiếu Độc Lực, thứ năm là núi Kỳ-xà-quật.

Có người hỏi rằng: “Vào thời kiếp hỏa, trời đất rỗng rang trong sáng, làm sao có thể nói chư Phật trước sau đều trụ tại núi này?”

Trả lời: “Khi kiếp sau đó đang hình thành vừa sắp hiện ra, những người có thần thông đều biết được tên gọi trước kia, liền lấy đó làm tên gọi hiện tại. Lấy ví dụ như người kiếp trước có họ Cù-đàm [thì sinh ra] cũng dùng họ ấy đặt tên hiện nay.”

Nếu giải thích theo giáo nghĩa [về tên] núi [Kỳ-xà-quật] thì ý nghĩa cũng tương tự như cách giải thích về thành [Vương Xá]. Đại lược là như vậy.

Nếu giải thích về [tên thành và tên núi] theo ý nghĩa quán tâm thì chữ vương [trong Vương Xá] tức là tâm vương, chữ xá tức là năm ấm.[106] Tâm vương tạo ra nhà cửa [ấy là năm ấm]. Nói theo nghĩa tích thì nhà cửa năm ấm ấy đều là không. Nghĩa không ấy là thành quách Niết-bàn.

Nếu quán xét cạn cợt thì chỉ thấy đất đai, cây cối. Nếu quán xét thấu triệt thể tánh căn nhà năm ấm đó thì thấy là rỗng không. Tánh không ấy là thành quách Niết-bàn. Đó là giải thích theo Thông giáo.

Nếu quán xét căn nhà năm ấm đó, khi nhân [tạo ra chúng] đã diệt thì sắc [ấm] sẽ đạt đến sắc chân thường. Thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm cũng đều như vậy.

Bốn phẩm đức [thường, lạc, ngã, tịnh] vốn thường là chỗ dạo chơi của chư Phật. Nếu quán chiếu năm ấm chính là tánh pháp thì tánh pháp vốn không có thọ, tưởng, hành, thức, hết thảy chúng sinh chính là Niết-bàn, không thể lại có diệt mất. Đó là ngôi nhà rốt ráo rỗng không vắng lặng. Niết-bàn như vậy chính là thực thể chân như. Đại lược là như vậy.

[Bây giờ] giải thích tên núi theo ý nghĩa quán tâm. Nếu quán sắc ấm [tự nó vốn không biết], đó là núi; thức ấm là Linh; ba ấm [còn lại] là Thứu. Quán chiếu “Linh Thứu” ấy là vô thường, tức là quán xét phân tích. Quán “Linh Thứu” ấy vốn là không, tức là quán chiếu tánh thể.

Quán “Linh” tức là tánh của trí, rõ biết nhân trí tuệ trang nghiêm. [Quán] “Thứu” tức là nhân duyên tụ tập, là phước đức trang nghiêm. [Quán] “núi” tức là tánh pháp chánh nhân không lay động. Ba pháp như vậy gọi là tạng bí mật, [chư Phật] tự mình an trụ trong [các pháp] ấy và cũng vận dụng để hóa độ người.

Phần tiếp theo nói rằng “Phật tự mình an trụ trong Đại thừa”, đó là hai cách quán của Biệt giáo và Viên giáo. Đại lược là như vậy.

Giải thích chữ “giữa”

Chữ “giữa”, Hán văn là “trung”, [nghĩa là khoảng giữa]. Đức Phật chuộng theo khoảng giữa. [Ngài] thăng lên giữa cõi trời, vào khoảng giữa ngày, đản sinh vào một đất nước ở khoảng giữa [thế giới] và nhập Niết-bàn vào khoảng giữa đêm. Tất cả đều biểu thị ý nghĩa khoảng giữa, tức là Trung đạo. Nay [Phật] ở [trong thành Vương Xá] giữa núi [Kỳ-xà-quật] thuyết giảng giáo pháp Trung đạo.


______________________________________

CHÚ THÍCH

[1] Hòa thượng Huyền Lãng đích thân viết lời dẫn này. Hòa thượng sinh năm 673, hoàn tất việc chỉnh sửa sách này năm 69 tuổi, tức là năm 741. Lời tựa của ngài Thần Quýnh lại ghi là sách này được ngài Huyền Lãng thực hiện năm 748. Trong Lời tựa nói “bị Đan Khâu chi thiêm tước” (備丹丘之添削), có thể hiểu là hoàn tất việc chỉnh sửa. Như vậy, có thể suy đoán là thời gian thực hiện việc chỉnh sửa này đã kéo dài từ năm 741 đến năm 748.

[2] Theo Đại sư Trí Khải trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh huyền nghĩa (妙法蓮華經玄義) (ĐCT, T33, 1716, tr.682a, d.4-5) thì phần đầu của tất cả các bản kinh đều nêu ra 5 việc, bao gồm: 1. Như thị, 2. Ngã văn, 3. Nhất thời, 4. Phật trụ, 5. Thính chúng. Cũng năm việc này nhưng có sự phân chia khác thường gặp hơn là Lục chủng thành tựu bao gồm: 1. Tín thành tựu (như thị), 2. Văn thành tựu (ngã văn), 3. Thời thành tựu (nhất thời), 4. Chủ thành tựu (Phật), 5. Xứ thành tựu (trụ hay tại), 6. Chúng thành tựu (thính chúng). Như vậy, cả hai cách giảng giải này vẫn thống nhất với nhau về nội dung ở phần đầu của tất cả các kinh điển do Phật thuyết.

[3] Sáu điềm lành, cũng gọi là Pháp hoa lục thụy (法華六瑞). 1. Thuyết pháp thụy: Trước khi khai giảng kinh Pháp hoa, đức Phật đã giảng kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa, là điềm lành thứ nhất 2. Nhập định thụy: Sau khi giảng kinh Vô lượng nghĩa, đức Phật nhập Vô lượng nghĩa xứ Tam-muội, đó là điềm lành thứ hai. 3. Vũ hoa thụy: Trong lúc Phật nhập định, trời mưa xuống các loại hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la v.v. Đó là điềm lành thứ ba. 4. Địa động thụy: Sau khi trời mưa hoa thì mặt đất chấn động sáu cách. Đó là điềm lành thứ tư. 5. Chúng hỷ thụy: Đại chúng khi ấy nhìn thấy được các việc thù thắng hy hữu, đều sinh lòng hoan hỷ. Đó là điềm lành thứ năm. 6. Phóng quang thụy: Cuối cùng, đức Phật phóng hào quang từ bạch hào (lông trắng) ở khoảng giữa hai chân mày, soi chiếu khắp các cõi thế giới. Đó là điềm lành thứ sáu.

[4] Nguyên tác là “Trung A-hàm vân bạt-cừ” (中阿含云 跋渠), là nói cách phiên âm trong kinh Trung A-hàm, từ Phạn ngữ là varga. Pháp hoa nghĩa sớ ghi: “品者外國名跋渠此稱為品“ (Phẩm giả, ngoại quốc danh bạt-cừ, thử xưng vi phẩm - Chữ phẩm này, tiếng nước ngoài là bạt-cừ, Trung quốc gọi là phẩm.) Như vậy, cách phiên âm này cũng là phổ biến.

[5] Ở đây chỉ kinh Phạm Võng trong Trường A-hàm, cũng gọi là Phạm động. Mục đích nêu ví dụ ở đây là chính đức Phật sau khi thuyết giảng xong phẩm kinh thì cũng xác lập nội dung và tự nói ra tên gọi phẩm kinh ấy.

[6] La Thập, tức Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva - 鳩摩羅什), một trong các Đại dịch giả giữ vai trò quan trọng trong sự hình thành Đại Tạng Kinh Trung Hoa. Ngài chủ trương phương pháp dịch thuật lấy việc chuyển tải ý kinh là chính mà không nhất thiết đi sát theo từng câu chữ trong nguyên tác. Do đó, có những chỗ ngài mạnh dạn thay đổi cách diễn đạt hoặc sắp xếp lại kinh văn sao cho đạt được mục đích cao nhất là chuyển tải ý nghĩa. Do vậy, việc sắp xếp và đặt tên các phẩm kinh là do chính ngài thực hiện trong quá trình dịch, cụ thể như khi dịch kinh Đại Bát-nhã đã phân chia và đặt tên 90 phẩm.

[7] Vào cuối phẩm kinh, đức Phật dạy: “Nếu có người nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này cũng được vô lượng vô biên công đức.” Cho nên, nội dung và tên gọi phẩm kinh này là do chính đức Phật nói ra.

[8] Vào cuối phẩm Diệu Âm có câu: “Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ Tát lai vãng này, bốn mươi hai nghìn vị Thiên tử được vô sinh pháp nhẫn...” Cuối phẩm Phổ Môn thì có câu: “Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sinh đều phát tâm vô đẳng đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Những câu kinh này xác lập nội dung và tên gọi phẩm kinh, được xem là do người chép kinh ghi lại, không phải do Phật tự nói ra.

[9] Trong kinh văn cũng như Văn Cú, tên mỗi phẩm đều kèm theo các chữ đệ nhất, đệ nhị... Vì chỉ mang ý nghĩa cho biết thứ tự của phẩm kinh nên chúng tôi thay bằng số đếm đặt trước tên phẩm.

[10] Nguyên tác dùng phó duyên (赴緣), Hòa thượng Tịnh Không giải thích rằng: “赴緣,就是感應,眾生有感,佛就有應。Phó duyên, tựu thị cảm ứng, chúng sinh hữu cảm, Phật tựu hữu ứng.” Do ý nghĩa này, chúng tôi chuyển dịch là “tùy theo nhân duyên của chúng sanh”.

[11] Tán hoa (rải hoa) và quán hoa (xâu hoa thành chuỗi): Cách nói thí dụ về cách giảng giải giáo pháp trong kinh điển. Ở đây ví kinh văn diễn giảng phân tán như hoa rải khắp nơi, còn kệ tụng thì gồm thâu ý nghĩa lại một cách cô đọng, súc tích nên ví như hoa được xâu lại thành chuỗi.

[12] Nội dung này dẫn trích từ kinh Tăng Nhất A-hàm (ĐCT, T2, 125, tr.549c, d.26-29), nguyên văn như sau: 契經一分,律二分,阿毘曇經復三分。過去三佛皆三分:契經,律,法為三藏。契經今當分四段,次名增一,二名中,三名曰長多瓔珞,雜經在後為四分。” (Khế kinh nhất phần, Luật nhị phần, A-tỳ-đàm kinh phục tam phần. Quá khứ tam Phật giai tam phân: Khế kinh, Luật, Pháp vi Tam tạng. Khế kinh kim đương phân tứ đoạn, thứ danh Tăng nhất, nhị danh Trung, tam danh viết Trường đa anh lạc, Tạp kinh tại hậu vi tứ phần.)

[13] Ngũ bộ luật (5 bộ luật) bao gồm: 1. Luật Tứ phần (Đàm-vô-đức bộ), 2. Luật Thập tụng (Tát-bà-đa bộ), 3. Luật Ngũ phần (Di-sa-tắc bộ), 4. Luật Trì giải thoát (Ca-diếp-di bộ) và 5. Luật Tăng-kỳ (Ma-ha Tăng-kỳ bộ).

[14] Bát thập tụng luật: Bộ luật đầu tiên do Tôn giả Ưu-ba-ly tụng lại trong kỳ kết tập lần thứ nhất để lưu truyền. Từ bộ luật này, về sau mới phân chia thành Ngũ bộ luật của các tông phái khác nhau.

[15] Bát kiền-độ luận (八犍度論), Phạn ngữ là Khandha, do ngài Ca-chiên-diên soạn bằng cách phân chia các pháp môn thành 8 nhóm, bao gồm: Tạp kiền-độ, Kết sử kiền-độ, Trí kiền-độ, Hành kiền-độ, Tứ đại kiền-độ, Căn kiền-độ, Định kiền-độ và Kiến kiền-độ.

[16] Bát chủng tụ (八種聚) cũng tức là bát kiền-độ (八 犍度) vừa nói trên. Căn tánh là chỉ Căn kiền-độ, đạo là chỉ Trí kiền-độ. Ở đây chỉ nêu ba kiền độ làm tiêu biểu.

[17] Tiêu đề tiểu mục do chúng tôi thêm vào khi Việt dịch để người đọc tiện theo dõi.

[18] Tức Vasubandhu, còn gọi là Bồ Tát Thế Thân, một trong những vị Luận sư lỗi lạc của Phật giáo. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, cũng là một vị Luận sư Đại thừa nổi tiếng.

[19] Bảy công đức thành tựu: 1. Tự phần thành tựu, 2. Chúng thành tựu, 3. Như Lai dục thuyết pháp thời chí thành tựu, 4. Sở y thuyết pháp tùy thuận uy nghi trụ thành tựu, 5. Y chỉ thuyết nhân thành tựu, 6. Đại chúng hiện tiền dục văn pháp thành tựu, 7. Văn-thù-sư-lợi đáp thành tựu. (Diệu Pháp Liên Hoa kinh luận Ưu-ba-đề-xá - ĐCT, T26, 1520, tr.10c, d.20 - 24)

[20] Tức Ngũ thị hiện hay Ngũ phần, bao gồm: 1. Thán pháp thắng diệu phần, 2. Thán pháp sư công đức phần, 3. Trí chúng định nghi phần, 4. Định ký phần, 5. Đoạn nghi phần.

[21] Tức ngài Thích Đạo Bằng (釋道憑), một danh tăng thời Bắc Ngụy, sinh vào khoảng năm 488, từng chú giải rất nhiều kinh luận.

[22] Tức ngài Thích Pháp Dao (釋法瑤), hay Đàm Dao (曇瑤), tăng sĩ vào đời Tống, ở chùa Tiểu Sơn (小山寺) quận Ngô Hưng. Đến đời Tùy quận này đổi thành Hồ Châu, tức huyện Ô Trình. Ngài thị tịch trong khoảng niên hiệu Nguyên Huy (473-477)

[23] Quang Trạch: tức ngài Thích Pháp Vân (467-529), trụ trì chùa Quang Trạch. Ngài cùng với hai vị Tăng Mân và Trí Tạng được tôn xưng là Tam Đại Pháp Sư của triều Lương. Ngài từng giảng kinh Pháp hoa tại chùa Quang Trạch vào khoảng những năm đầu thế kỷ 6 (502-505).

[24] Nguyên tác ghi “問津者所不貴 - Vấn tân giả sở bất quý.” Pháp hoa văn cú ký giải thích rõ hơn: “津者,濟渡處也。- Tân giả, tế độ xứ dã.” Đoạn tiếp theo, ngài Trạm Nhiên nêu hàm ý, như người hỏi đường đi, kẻ đáp không chỉ ngay lối cần đi mà chỉ nói rộng về các ngả đường quanh đó, thật không phải chỗ người hỏi đường cần biết.

[25] Bản Hán dịch ban đầu của ngài Cưu-ma-la-thập chỉ có 27 phẩm. Về sau được bổ sung phẩm Đề-bà-đạt-đa ngay sau phẩm Hiện Bảo Tháp, thành ra bản kinh hiện nay có 28 phẩm. Văn Cú có giải thích việc này trong quyển 8.

[26] Cách phân chia này cũng được hiểu khái quát là Tích môn và Bản môn. Phần Tích môn gồm 14 phẩm đầu tiên phá bỏ Tam thừa làm phương tiện để hiển bày Nhất thừa là chân thật, rốt ráo. Phần Bản môn gồm 13 (hay 14) phẩm sau nêu việc đức Phật thành đạo trong hiện kiếp để chỉ rõ thật ra ngài đã thành Phật từ nhiều kiếp lâu xa về trước.

[27] Nguyên tác gọi phẩm này là phẩm Đa Bảo.

[28] Tất đàn (悉檀), với nghĩa tất (悉) là rộng khắp, biến khắp; đàn (檀) là nói tắt của đàn-na, phiên âm chữ dāna, nghĩa là ban cho, thí cho. Giáo pháp của đức Phật được phân chia thành bốn phạm trù, gọi là Tứ tất đàn (Siđhānta), bao gồm: 1. Thế giới tất đàn (世 界悉檀): tùy thuận theo sở kiến của thế gian mà nêu rõ thuyết nhân duyên, duyên khởi, chỉ rõ tất cả các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, nên tự chúng không có thực thể. Phần giáo pháp này giúp chúng sinh phàm phu có được trí tuệ chân chánh, đạt được niềm vui. Do đó, đây cũng gọi là Lạc dục tất đàn (樂欲悉檀). 2. Các các vị nhân tất đàn (各各為人悉檀): cũng nói tắt là Vị nhân tất đàn. Phần giáo pháp này tùy theo căn cơ, năng lực khác biệt của mỗi chúng sinh mà dạy các pháp thực tiễn, giúp chúng sinh sinh khởi căn lành. Do đó, đây cũng gọi là Sinh thiện tất đàn (生善悉檀). 3. Đối trị tất đàn (對治悉檀): tùy theo tánh xấu ác của chúng sinh như tham lam, sân hận, si mê... mà dạy các pháp đối trị, giúp trừ dứt các phiền não của chúng sinh. Phần giáo pháp này có thể đoạn trừ được mọi điều xấu ác, nên cũng gọi là Đoạn ác tất đàn (斷惡悉檀). 4. Đệ nhất nghĩa tất đàn (第一 義悉檀): Phần giáo pháp này phá trừ tất cả mọi luận thuyết sai trái, dùng nghĩa lý đệ nhất nêu lên lẽ thật tướng của các pháp, giúp chúng sinh chân chính khế nhập giáo pháp, nên cũng được gọi là Nhập lý tất đàn (入理悉檀). Ba loại tất đàn đầu tiên là mang lại lợi ích cho chúng sinh trong đời sống (lạc dục, sinh thiện, đoạn ác), nên trong văn này gọi là ba lợi ích. Loại cuối cùng là Đệ nhất nghĩa tất đàn chính là con đường giải thoát rốt ráo, nên trong văn này gọi là một mối đạo.

[29] Tức là 19 đoạn kệ do Bồ Tát Di-lặc nói ra trong Pháp hội, thuộc phẩm Phân biệt công đức. Mỗi đoạn kệ có 4 câu, tổng cộng là 76 câu kệ. Nguyên tác dùng “十九行偈” (thập cửu hàng kệ) vì trong sách này dùng chữ hàng (行) để chỉ một khổ kệ gồm 4 câu.

[30] Theo đoạn này thì tổng cộng toàn kinh có 28 phẩm. Như vậy, vào thời điểm này phẩm Đề-bà-đạt-đa đã được thêm vào.

[31] Nguyên tác kinh văn: “以問斯事,佛今答之,汝等自當因是得聞”. (ĐCT, T9, 262, tr.41a, d.12-13)

[32] Trong Văn Cú, câu này là “從佛告阿逸多” (tùng Phật cáo A-dật-đa), hẳn là nói đại lược theo ý. Chúng tôi dẫn đúng theo kinh văn là: “爾時釋迦牟尼佛告彌勒菩薩”. (ĐCT, T9, 262, tr.41a, d.14)

[33] Nguyên tác dùng “tiêu văn” (消文), chỉ một trong bốn giai đoạn học hiểu và thực hành một bản kinh Phật, bao gồm: tiêu văn (消文), thích nghĩa (釋義), nhập lý (入 理), đàm huyền (談玄). Tiêu văn là giai đoạn trước tiên, người học cần phải phân tích và nhận hiểu chính xác ý nghĩa từ ngữ, câu văn trong bản kinh. Cách phân chia vừa được trình bày trên là để giúp cho giai đoạn này. Tiếp theo, phần thích nghĩa là trên căn bản các ý nghĩa nền tảng đã hiểu mà mở rộng, giảng giải thêm ra, giải thích đầy đủ các ý nghĩa trong kinh. Nhập lý là giai đoạn vận dụng ý nghĩa kinh văn đã học, so sánh quán chiếu trong chính nội tâm mình để thể nhập được ý nghĩa chân thật trong kinh điển. Đàm huyền là giai đoạn phát triển từ sự thể nhập chân lý để phát huy diệu dụng của Phật pháp, đạt đến cảnh giới bất khả tư nghị với trí tuệ chân chánh của bậc giác ngộ.

[34] Trong kinh Hoa nghiêm có nhiều Hội xứ khác nhau, mỗi một Hội xứ như vậy khi Kinh văn đề cập đến đều có phần mô tả về Hội chúng vân tập nghe pháp, tương đương như phần Tựa của các kinh. Cụ thể như ở đầu các phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm, phẩm Như Lai Danh Hiệu, phẩm Quang Minh Giác v.v.

[35] Kinh A-hàm là tên chung, trong đó gồm những kinh ngắn, nhiều kinh trong đó đều có phần “Như thị ngã văn...” như một bản kinh độc lập.

[36] Trong kinh này có phẩm Lụy giáo được xem là Tiền Phó chúc, lại có phẩm Chúc lụy được xem là Hậu Phó chúc.

[37] Ở đây chỉ 5 điều thường được nêu ra ở phần đầu của một bản kinh, bao gồm: 1. Như thị, 2. Ngã văn, 3. Nhất thời, 4. Phật trụ, 5. Thính chúng.

[38] Tăng Triệu (僧肇,378-414): bậc luận sư xuất sắc của Trung quốc vào đầu thế kỷ 5, theo học với ngài Cưu-ma-la-thập. Ngài để lại các tác phẩm nổi tiếng được gọi chung là Triệu luận, bao gồm: 1. Bát-nhã vô tri luận (般若無知論), 2. Bất chân không luận (不真空論), 3. Vật bất thiên luận (物不遷論) và 4. Niết-bàn vô danh luận (涅槃無名論).

[39] Văn Cú trích phần kệ này là: “我本立誓願。普令一 切眾。亦同得此道。如我等無異。 - Ngã bản lập thệ nguyện, phổ linh nhất thiết chúng, diệc đồng ngã thử đạo, như ngã đẳng vô dị. “ Như vậy là theo ý mà không đúng nguyên văn trong kinh, chúng tôi đã điều chỉnh lại. Xem kinh văn đã dẫn ( tr.8b, d.4-5).

[40] Văn Cú ở đây chỉ trích ý kinh, không dẫn nguyên kinh văn. Đoạn kệ trùng tuyên trong phẩm Thí dụ này như sau: “若人有能信汝所說,則為見我,亦見於汝,及比丘僧,并諸菩薩。” (Nhược nhân hữu năng, tín nhữ sở thuyết, tắc vi kiến ngã, diệc kiến ư nhữ, cập tỳ-kheo tăng, tịnh chư Bồ Tát.) Chúng tôi dẫn lại theo kinh văn.

[41] Đoạn này trình bày một phần giáo nghĩa của tông Thiên Thai gọi là Chủng thục thoát (種熟脫). Giáo lý này phân chia sự giáo hóa chúng sinh của một vị Phật thành ba giai đoạn. Chủng (種), hay hạ chủng (下種), là giai đoạn đầu tiên gieo hạt giống Phật, tức nhân duyên đến với Phật pháp. Thục (熟), hay điều thục (調熟), là giai đoạn truyền bá, giảng dạy giáo pháp, làm cho hạt giống Phật đã gieo trong tâm thức chúng sinh được thành thục, chín mùi. Thoát (脫), hay giải thoát (解脫), là giai đoạn thực sự chứng đắc, thoát khỏi khổ đau, thành tựu đạo quả. Các đoạn tiếp theo cũng trình bày giáo nghĩa này nhưng từ nhiều góc độ khác nhau để làm rõ hơn.

[42] Bốn mùi vị: nguyên tác dùng tứ vị (四味), cần được hiểu theo một khái niệm so sánh đặc thù của tông Thiên Thai, trong đó toàn bộ tiến trình tu chứng trải qua các giai đoạn được ví như quá trình chế biến các sản phẩm khác nhau từ sữa tươi, bao gồm: nhũ (sữa tươi), lạc (sữa nấu đặc thành cao sữa), sinh tô (váng sữa sống), thục tô (váng sữa chín) và đề-hồ. Đề-hồ là sản phẩm cuối cùng quý giá nhất, có vị ngon nhất, được dùng để ví như quả Phật viên mãn. Do đó, toàn bộ tiến trình tu tập trước khi thành Phật được ví như trải qua bốn mùi vị: nhũ, lạc, sinh tô và thục tô.

[43] Nguyên tác dùng “đạo chủng trí” (道種智), chỉ trí tuệ của hàng Bồ Tát có thể thấy rõ được sự sai biệt của hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Theo Phật Quang Đại từ điển, Đại Trí Độ luận (大智度論), quyển 84 có nói về ba loại trí tuệ là nhất thiết trí (一 切智) của hàng Thanh văn, đạo chủng trí (道種智) của hàng Bồ Tát và nhất thiết chủng trí (一切種智) là trí tuệ của chư Phật.

[44] Nguyên tác dùng “tinh nguyệt” (星月 - sao và trăng), Pháp hoa văn cú ký (法華文句記) giải thích: “Địa tiền như tinh, đăng địa như nguyệt.” (地前如星登地如月) Nghĩa là: Bồ Tát khi chưa chứng Thập địa (địa tiền), trí tuệ chỉ như ánh sao, sau khi lần lượt chứng đắc các quả vị (đăng địa) thì trí tuệ tỏa sáng như ánh trăng.

[45] Nguyên tác dùng “dương diệp, mộc ngưu, mộc mã” (楊葉木牛木馬). Dương diệp tức “dương thụ hoàng diệp”, nghĩa là chiếc lá màu vàng của cây dương. Mộc ngưu, mộc mã là trâu gỗ, ngựa gỗ. Các ví dụ này đều được rút ra từ kinh Đại Bát Niết-bàn, phẩm Anh nhi hạnh. Đức Phật dùng những thí dụ này để chỉ các phương tiện quyền biến được ngài sử dụng dẫn dắt chúng sinh, cũng như phẩm Thí dụ Hóa thành trong kinh Pháp hoa.

[46] Nguyên tác dùng “bán tự” (半字 - nửa chữ) để chỉ giáo pháp quyền biến dẫn dắt, không rốt ráo. Pháp hoa văn cú ký cũng giải thích rằng “bán tự” dùng để chỉ 9 bộ kinh quyền thừa.

[47] Nguyên tác dùng “cộng tự” (共字) để chỉ các giáo pháp được chia sẻ với hàng Nhị thừa.

[48] Nguyên tác dùng biệt tự (別字) để chỉ giáo pháp riêng biệt của hàng Bồ Tát.

[49] Bản tích là giáo lý đặc thù của tông Thiên Thai, do ngài Trí Khải đề ra. Bản (本) là gốc, chỉ cội nguồn, căn nguyên ban đầu. Tích (迹) là dấu tích, vết tích thấy được, chỉ những hiện tướng về sau, gần gũi hơn.

[50] Đoạn này giải thích về bản tích đối với kinh Pháp hoa. Vốn đã được chư Phật trước đây thuyết giảng là bản, nay Phật Thích-ca trùng tuyên là tích.

[51] Ở đây chỉ đức Phật Thích-ca trong thời gian còn tu hành đạo Bồ Tát.

[52] Theo phân tích ở đây cần hiểu tự hay tựa là phần mở đầu, chuẩn bị, chánh hay kinh văn là phần nội dung thực hiện chính yếu, và lưu thông là phần vận dụng nội dung chính yếu đó.

[53] Bản Hán văn ghi “tác lễ nhi thối” (作禮而退) nhưng đúng theo kinh văn thì câu cuối này phải là “tác lễ nhi khứ” (作禮而去). Mặc dù ý nghĩa không khác nhau nhiều nhưng chúng tôi điều chỉnh theo đúng kinh văn.

[54] Thông tự (通序), hay tựa chung, là phần có những thông tin tổng quát, thường chung cho tất cả hay hầu hết các kinh. Phần biệt tự (別序) hay tựa riêng gồm những thông tin cụ thể chỉ riêng cho kinh này.

[55] Thế giới tất đàn (世界悉檀), là một trong Tứ tất đàn hay bốn pháp mà chư Phật vận dụng để giáo hóa chúng sinh, bao gồm thế giới tất đàn (世界悉檀), các các vị nhân tất đàn (各各為人悉檀) hay nhân tất đàn, đối trị tất đàn (對治悉檀) và đệ nhất nghĩa tất đàn (第一義悉檀).

[56] Chữ a, chữ âu là nói theo Phạn ngữ. Ở đây muốn nói đến hai cực đoan của ngoại đạo là chấp không và chấp có. Lý “như thị” của Phật giáo là chỉ thẳng vào hiện thực như nó đang hiện hữu mà không có sự bám chấp rằng đó là không hay là có.

[57] Bất định giáo là giáo pháp đặc biệt khi thuyết giảng trong một Pháp hội thì mỗi chúng sinh tùy theo căn cơ riêng biệt mà có thể nhận hiểu khác nhau.

[58] Đây là trình bày theo hệ thống Ngũ thời bát giáo của tông Thiên Thai, trong đó bát giáo được chia làm bốn Giáo hóa nghi và bốn Giáo hóa pháp. Bốn Giáo hóa nghi gồm Đốn giáo, Tiệm giáo, Bí mật giáo và Bất định giáo. Bốn Giáo hóa pháp gồm Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo.

[59] Nguyên văn dùng bát giáo (八教), chỉ tám phương thức thuyết giảng hay tám giáo nghĩa do Phật thuyết dạy. Ở đây nhắc lại để tóm lược như trên đã nêu gồm Đốn giáo, Tiệm giáo, Bí mật giáo, Bất định giáo, Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo. Mỗi giáo nghĩa này là một phương thức truyền dạy khác nhau, phù hợp với một số đối tượng chúng sinh. Do vậy nói “bày ra tám giáo” là để có thể giáo hóa hết thảy chúng sinh.

[60] Câu này nhắc đến một ví dụ trong Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 38, đại ý kể chuyện Bồ Tát Ca-diếp thưa hỏi: “Người có trí nên quán niệm và niệm diệt như thế nào?” Phật dạy: “Như có bốn người đều giỏi thuật bắn tên, cùng lúc quay ra bốn hướng để bắn tên và đều nghĩ rằng: ‘Chúng ta cùng lúc bắn tên ra, các mũi tên sẽ cùng lúc rơi xuống.’ Lại có một người khác nghĩ rằng: ‘Nay ta sẽ cùng lúc bắt lấy các mũi tên, không cho rơi xuống đất.’ Này Ca-diếp! Người đón bắt các mũi tên kia, dù làm được như thế cũng chưa gọi là nhanh... ...sự vô thường còn nhanh hơn thế nữa.” (ĐCT, T12, 374, tr.589c, d.11-19)

[61] Đoạn này ý nói Phật pháp phương tiện dùng cả 8 giáo nghĩa linh hoạt nhiệm mầu còn chưa đủ nhiếp hóa hết thảy chúng sinh, huống chi nếu chỉ có một hai phương tiện chậm lụt như lừa đần, rùa què thì làm sao giáo hóa?

[62] Nội dung này nằm trong đoạn kệ tụng, đức Phật đang nói với ngài Xá-lợi-phất.

[63] Nguyên tác dùng Thân Tử (身子), là dịch tên ngài Xá-lợi-phất theo Cựu dịch.

[64] Văn cú dùng chữ Long Đà (龍陀), có thể hiểu theo 2 cách. Theo sách này, ở quyển 5 có nói ngài Xá-lợi-phất vốn đã thành Phật từ lâu, hiệu là Kim Long Đà (金龍陀). Lại theo Pháp hoa văn cú ký, quyển 1, thì Đại trí độ luận có dẫn kinh Đại Bảo Tích nói ngài Tu-bồ-đề thành Phật hiệu là Thanh Long Đà (青龍陀). Đoạn này đang nói về ngài Xá-lợi-phất (Thân Tử) nên nghĩa thứ nhất thích hợp hơn.

[65] Nghĩa là tùy thuận theo chỗ hiểu của chúng sinh mà giải thích.

[66] Bốn câu “chấp ngã” được nhắc tới ở đây là: 我所非我所,亦我非我所, 非我非我所,是亦為邪論 – Ngã sở phi ngã sở, diệc ngã phi ngã sở, phi ngã phi ngã sở, thị diệc vi tà luận. (Thập trụ Tỳ-bà-sa luận - 十住毘婆沙論 - ĐCT, T26, 1521, tr.28c, d.17-18)

[67] Quan điểm cho rằng các danh xưng khác nhau như trên chỉ là dành cho một người, do có bốn (hoặc ba) phẩm đức, được nhắc đến trong Phiên dịch danh nghĩa tập (翻譯名義集) và Viên giác kinh lược sớ (圓覺經略疏). Có thể nhận xét ở đây là dựa vào các sách ấy.

[68] Tam-muội Phật giác: do sức Tam-muội của Phật gia trì mà có được trí giác ngộ đồng với Phật, do đó mà nói “tự mình nghe được”, có nghĩa là có những kinh tự biết mà không nhất thiết phải nghe từ kim khẩu Phật thuyết.

[69] Thai kinh (胎經), tức Xử thai kinh (處胎經) hay Bồ Tát xử thai kinh (菩薩處胎經), 5 quyển, chỉ thấy ghi lại trong các bản Mục lục kinh điển, hiện tại chúng tôi chưa tìm được nội dung kinh. Chúng kinh mục lục (眾經目錄), quyển 1, cho biết kinh này do ngài Trúc Phật Niệm dịch tại Trường An vào thời Tiền Tần.

[70] Nguyên tác là “傳聞聞法 - truyền văn văn pháp”, tức là nói về giáo pháp có thể nghe được qua nhĩ căn của phàm phu.

[71] Nguyên tác là “得空無相願 - đắc không vô tướng nguyện”, đề cập đến Tam giải thoát môn tức là Không, vô tướng và vô nguyện.

[72] Nguyên tác là “傳持聞不聞法 - truyền trì văn bất văn pháp”, tức là nói về giáo pháp mà nhĩ căn của phàm phu không thể nghe được.

[73] Nguyên tác là “傳持不聞聞法 - truyền trì bất văn văn pháp”, tức là nói về giáo pháp của hàng Bồ Tát, không thể truyền dạy qua sự nghe biết.

[74] Nguyên tác là “佛法大海水 流入阿難心 - Phật pháp đại hải thủy, lưu nhập A-nan tâm“. Câu này nằm ở một bài kệ tán trong Luận Đại Trí độ, quyển 3.

[75] Nguyên tác là “傳持不聞不聞法 - truyền trì bất văn bất văn pháp”, tức là nói về giáo pháp rốt ráo chân đế. Đại Bát Niết-bàn Kinh sớ, quyển 20 giải thích: “不聞不聞此但真諦絕無見聞 – bất văn bất văn thử đãn chân đế tuyệt vô kiến văn.“ (ĐCT, T38, 1767, tr.156b, d.9-10)

[76] Nguyên tác dùng “肇師 – Triệu Sư”, chỉ ngài Tăng Triệu (384-414), tác giả của bộ Triệu luận, là một trong bốn đệ tử lớn của ngài Cưu-ma-la-thập.

[77] Nguyên tác là “見諦已上無學已下 – kiến đế dĩ thượng, vô học dĩ hạ”. Kiến đế chỉ bậc chứng đắc sơ quả Tu-đà-hoàn. Vô học chỉ bậc chứng tứ quả A-la-hán. Do vậy câu này chỉ hết thảy các vị chứng bốn thánh quả.

[78] Nguyên tác dùng “三人 - tam nhân“ để chỉ người tu học trong cả ba thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa.

[79] Bồ Tát đăng địa, chỉ các vị Bồ Tát từ Sơ địa trở lên.

[80] Tức là nói Đông Thắng thần châu.

[81] Tức là nói Tây Ngưu hóa châu.

[82] Tức là nói Bắc Câu-lô châu.

[83] Tức là nói cõi Nam Diêm-phù-đề.

[84] Nguyên tác chỗ này là “離車子云 - Ly-xa tử vân”, nghĩa là lời của Ly-xa tử. Tuy nhiên, Pháp hoa văn cú ký dẫn trọn nội dung kinh thì đoạn này là do một bà-la-môn tên Vô Thắng (tức A-dật-đa) nói với Ly-xa tử.

[85] Lời giải thích này của Bà-la-môn Vô Thắng là vì trước đó Ly-xa tử tự trách rằng: “Do chúng ta lười nhác phóng túng nên Phật mới ra đời ở xứ Ma-kiệt-đà mà không ra đời ở đây.” Vô Thắng giải thích rằng không phải như vậy, chỉ vì những ai mê đắm năm món dục thì đều không thấy được Phật, dù có ở ngay nơi Phật ra đời cũng vậy thôi.

[86] Cõi trời Hữu đỉnh (有頂天), tên Phạn ngữ là Akaniṣṭha-deva, phiên âm là A-ca-ni-trá, cũng gọi là Sắc cứu cánh thiên (色究竟天), là tầng trời cao nhất thuộc Sắc giới.

[87] Tức là nói những chúng sinh biết tu tập, thuộc về một trong ba thừa.

[88] Đoạn này có nghĩa là những chúng sinh tạo nhân lành sinh lên cõi trời Hữu đỉnh tuy được hưởng phước báo lớn nhưng không có nhân duyên thích hợp tu đạo giải thoát. Cho nên, muốn vượt thoát sinh tử thì không nên tạo nhân hướng về việc sinh lên cõi trời.

[89] Chánh sử (正使) là những phiền nào chánh thể (chủ thể) hiện khởi có khả năng sai sử, thôi thúc chúng sinh khiến tạo nghiệp trôi lăn trong luân hồi. Tập khí (習氣) là những phiền não tích tập từ lâu đời. 34 tâm được đề cập ở đây bao gồm bát nhẫn và bát trí có khả năng đoạn trừ kiến hoặc, cửu vô ngại và cửu giải thoát có khả năng đoạn trừ tư hoặc.

[90] Nguyên tác dùng Nhẫn độ (忍土), là cách gọi khác để chỉ cõi Ta-bà, cũng gọi là cõi Kham nhẫn.

[91] Bốn oai nghi: chỉ đủ các tư thế đi, đứng, nằm và ngồi.

[92] Nguyên tác là “十善道 - thập thiện đạo”, là cách nói tắt của “thập thiện nghiệp đạo”, nghĩa là mười điều hiền thiện phải vâng theo để tạo nghiệp lành, ngược lại với “thập bất thiện đạo”.

[93] Nguyên tác là “三三昧 - tam tam-muội”, nghĩa là ba pháp tam-muội. Theo Pháp hoa huyền nghĩa, quyển 4, thì bao gồm Chân đế Tam-muội, Tục đế Tam-muội và Trung đạo Tam-muội. Theo một cách hiểu phổ biến hơn trong các Kinh điển Đại thừa thì bao gồm Không Tam-muội, Vô tướng Tam-muội và Vô nguyện Tam-muội. Một số luận giải cũng đưa ra những cách hiểu khác.

[94] Nguyên tác là “摩伽陀 – Ma-già-đà”, nhưng tên thông dụng hơn của nước này là Ma-kiệt-đà, cũng đọc là Ma-yết-đà, đều chỉ là những cách phiên âm khác nhau từ tên Phạn ngữ là Magadha.

[95] Chúng tôi không biết có sự nhầm lẫn nào ở đây không, nhưng theo Từ điển Phật Quang thì nước Thiên La (天羅國) có tên Phạn ngữ là Devala, dịch âm là Đề-bà-la, khác biệt khá xa so với Ma-kiệt-đề.

[96] Nguyên tác là “bác túc - 駁足”. Chữ bác (駁) có nghĩa là loang lỗ, vằn vện, chữ túc (足) có nghĩa là chân. Người thời ấy thấy đôi chân thái tử có màu vằn vện nên gọi tên như vậy.

[97] Nguyên tác là “四非常偈 - tứ phi thường kệ”. Pháp hoa văn cú ký giải thích rằng đây là tên khác của Tứ vô thường kệ. Thật ra là bài kệ nói về bốn ý nghĩa: khổ, không, vô thường và vô ngã.

[98] Trước đây vua Bác Túc thề sẽ bắt 1.000 vị vua này làm phẩm vật cúng tế thần núi. Nay đã giác ngộ không giết hại nên lấy mỗi người một giọt máu và ba sợi tóc để thay thế.

[99] Chim thứu: loài chim kên kên chuyên ăn xác động vật chết, kể cả xác người.

[100] Nguyên tác là “梁武 – lương vũ”, Pháp hoa văn cú ký cho rằng chữ vũ (武) đúng ra phải là chữ thư (睢) trong thư cưu (睢鳩), tức là tên một loài chim. Xét văn cảnh đang mô tả so sánh chim thứu và chim thư cưu ở Trung Hoa thì nhận xét này hoàn toàn hợp lý.

[101] Ở đây nói đến bài thơ “Quan quan thư cưu” trong Kinh Thi: “關關雎鳩, 在河之洲。窈窕淑女,君子好逑。- Quan quan thư cưu, tại hà chi chu. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu.”

[102] Nguyên tác chép: “爾雅云似鵄 - Nhĩ nhã vân tự si.“ (Nhĩ nhã nói [chim này] giống với chim cú.) Nhĩ nhã là một tự điển Hán ngữ.

[103] Rừng thi-đà (尸陀林), phiên âm từ Phạn ngữ śītavana, không phải tên riêng mà là danh từ chỉ những khu rừng hoang được dân địa phương dùng để bỏ xác người chết cho chim thú ăn. Cũng gọi là hàn lâm (rừng lạnh).

[104] Nguyên tác là “支佛 - chi Phật”, tức là nói tắt để chỉ Phật Bích-chi hay Bích-chi-ca, phiên âm từ Phạn ngữ là Pratyeka.

[105] Nguyên tác dùng tinh xá (精舍) nhưng ở đây không chỉ các kiến trúc dành cho chư tăng tập trung cư trú và tu tập, mà chỉ cho những nơi yên tĩnh cách biệt được dùng cho mục đích tu tập.

[106] Năm ấm, tức là năm uẩn, do các dịch giả chuyển dịch trước sau khác biệt.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 11 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự tham dục


Chuyện Vãng Sanh - Tập 1


Hoa nhẫn nhục


Học đạo trong đời

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.170 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...