Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Điều người khác nghĩ về bạn là bất ổn của họ, đừng nhận lấy về mình. (The opinion which other people have of you is their problem, not yours. )Elisabeth Kubler-Ross
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)

Trang chủ »» Danh mục »» SÁCH TẠP BÚT - TRUYỆN KÝ »» Tây Tạng huyền bí »» CHƯƠNG IV : TRƯỚC THỀM CHÍNH ĐIỆN »»

Tây Tạng huyền bí
»» CHƯƠNG IV : TRƯỚC THỀM CHÍNH ĐIỆN

Donate

(Lượt xem: 3.833)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Tây Tạng huyền bí - CHƯƠNG IV : TRƯỚC THỀM CHÍNH ĐIỆN

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Tôi noi theo con đường đưa đến tu viện Chakpori. Tu viện này vừa là một đạo viện, vừa là một trường y khoa có tiếng là kỷ luật rất gắt gao. Tôi đi bộ vượt qua mấy cây số đường trường dưới ánh sáng bình minh càng lúc càng tỏ rạng.

Đến ngoài cổng lớn đưa vào sân mặt tiền của tu viện, tôi gặp hai đứa trẻ khác cũng như tôi, đến để xin được thu nhận. Chúng tôi nhìn nhau một cách dè dặt, nhưng không ai nói với ai lời nào. Tôi định bụng là hãy tỏ ra lịch sự với nhau nếu chúng tôi sẽ cùng thụ huấn trong một tu viện. Chúng tôi gõ cửa một cách e dè trong một lúc, nhưng không thấy ai trả lời.

Một bạn đồng cảnh ngộ của tôi lúc ấy cúi xuống lượm một viên đá lớn đập vào cửa để làm cho người ta chú ý. Một vị sư xuất hiện, tay quơ một cây gậy làm chúng tôi sợ sệt đến nỗi tưởng chừng như cây gậy to lớn hơn bội phần. Vị sư cất tiếng hỏi:

– Chúng bay muốn gì, lũ tiểu quỉ? Chúng bay tưởng rằng ta không còn việc gì làm khác hơn là mở cửa cho lũ tiểu yêu như tụi bây sao?

Tôi đáp:

– Chúng tôi muốn trở thành tu sĩ.

– A! Tu sĩ? Tụi bay giống một lũ khỉ thì đúng hơn. Hãy đứng đợi tại đây. Vị Chưởng môn đoàn Sơ cơ sẽ tiếp chúng bay khi nào người có thời giờ.

Cánh cửa lớn đóng sầm lại rất mạnh, và một bạn nhỏ vô ý đứng gần bên suýt nữa đã bị té ngửa.

Chúng tôi ngồi xuống đất vì đứng lâu đã mỏi chân. Lác đác có người vào tu viện. Mùi thức ăn xào nấu ngon lành từ nhà bếp bay lọt ra ngoài cửa sổ và phảng phất trong không khí, làm cho tôi cảm thấy như đang chịu cực hình vì cơn đói mỗi lúc một gia tăng. Ôi! Thức ăn ngon lành ấy tuy ở gần kề một bên, nhưng đồng thời lại xa cách chúng tôi xiết bao!

Sau cùng, cánh cửa lớn cũng mở rộng, một vị sư vóc cao và gầy ốm xuất hiện. Ông ta quát to:

– Lũ tiểu yêu, chúng bây muốn gì đây hả?

– Chúng tôi muốn trở thành tu sĩ.

Ông ta nói lớn:

– Lạy trời, đời nay sao có chuyện lạ vậy?

Người tu sĩ ra hiệu cho chúng tôi bước vào bên trong bức tường rào của tu viện. Người ấy hỏi chúng tôi làm gì, là con nhà ai, và thậm chí tại sao chúng tôi lại sinh ra đời để làm gì! Thật không khó để hiểu rằng chúng tôi không tạo ra được nơi người ấy một ấn tượng tốt lành nào cả!

Ông ta nói với người bạn nhỏ đầu tiên, tự xưng là con của một người du mục:

– Vào đây mau lên. Nếu mày vượt qua được những cuộc thử thách, mày sẽ được thu nhận.

Kế đó, ông ta nói với một bạn nhỏ khác:

– Còn thằng kia? Sao, mày nói gì?... Cha mày làm nghề đồ tể hả? A! Đó là người bán thịt, một người phạm giới sát sinh, không tuân theo giới luật của Phật. Vậy mà mày còn dám tới đây? Cút đi mau, kẻo tao lại cho mày ăn gậy bây giờ!

Nói xong ông ta nhảy tới chộp lấy thằng bé. Thấy nguy, cậu bé quên cả mọi sự mệt nhọc và cố gắng lấy lại tinh thần, rồi nhanh như chớp, nó quày đầu phóng ra đường lộ và chạy một mạch vắt giò lên cổ, làm cho con đường dậy lên từng đám bụi nhỏ.

Chỉ còn lại một mình tôi. Người tu sĩ quay lại nhìn tôi với cặp mắt hung tợn và tôi cảm thấy sợ sệt đến nỗi suýt nữa đã ngất xỉu ngay tại chỗ! Ông ta bèn hươi gậy một cách hăm dọa và quát lớn:

– Còn thằng nhỏ này! Mày là ai?... A ha! Con một vị hoàng thân quốc thích mà muốn trở thành tu sĩ. Nhưng trước hết, mày phải chứng minh giá trị của mày tới đâu, và có được những gì trong bụng. Đây không phải là chỗ dành cho con nhà quý tộc yếu hèn, nhu nhược. Mày hãy lùi lại bốn chục bước và ngồi yên một chỗ theo tư thế ngồi thiền cho đến khi có lệnh mới. Cấm không được cựa quậy, dù chỉ một sợi lông nheo!

Nói xong, ông ta quay gót đi ngay. Tôi lặng lẽ thu nhặt khăn gói và lùi lại đúng bốn chục bước. Tôi ngồi xuống trong tư thế kiết-già theo như lời dặn. Tôi cố ngồi yên như thế suốt ngày không cựa quậy. Những cơn gió lốc hất vào mình tôi bụi bặm của đường sá. Dần dần, cát bụi bám vào người tôi, đọng thành từng đống nhỏ trên hai lòng bàn tay lật ngửa của tôi, trên vai tôi và len lỏi vào tóc tai.

Khi ánh nắng mặt trời càng lúc càng yếu dần, tôi càng cảm thấy đói khát hơn. Một cơn khát như cực hình làm khô cả cuống họng tôi, vì từ lúc sáng sớm đến giờ tôi chưa ăn uống gì cả.

Những nhà sư trong tu viện rất đông, họ đi qua lại không ngớt, nhưng không ai để ý đến tôi. Vài con chó hoang thỉnh thoảng ngừng lại, đưa mỏ vào mình tôi để đánh hơi một cách tò mò, rồi lại bỏ đi. Một đám trẻ nhỏ đi ngang qua. Một đứa trong bọn không có việc gì làm, chắc hẳn là ngứa tay, bèn ném vào mình tôi một viên sỏi trúng nơi màng tang, máu chảy ròng ròng. Nhưng tôi vẫn không cựa quậy. Tôi đã quá sợ hãi. Nếu tôi thất bại trong cuộc thử thách này, cha tôi sẽ không cho tôi trở về nhà và tôi sẽ không biết phải đi đâu. Tôi không còn có thể làm gì hơn là cố gắng ngồi yên, âm thầm chịu khổ sở với các bắp thịt đau đớn như rần và những khớp xương tê cứng.

Mặt trời đã khuất dạng sau những dãy núi, và đêm tối đã đến. Các vì tinh tú chói lập lòe trên nền trời u ám. Hàng nghìn ngọn đèn nhỏ thắp bằng bơ chiếu sáng ở các cửa sổ của tu viện. Một ngọn gió lạnh như băng đã dậy lên vì tôi nghe tiếng gió rít lạnh lùng và tiếng lá xào xạc trên những cành liễu, cùng với những tiếng động làm thành một khúc nhạc lạ lùng bí hiểm của ban đêm.

Dù có việc gì xảy ra, tôi vẫn phải ngồi yên bất động, vì hai lý do chính. Một là vì tôi quá sợ hãi, và hai là vì tứ chi của tôi đã quá tê cứng, không thể cử động được nữa.

Khi đó, tôi nghe có tiếng dép đi trên đất cát và tôi nhận ra đó là những bước chân của một ông lão đang lần mò tìm đường đi trong bóng tối. Một bóng đen xuất hiện trước mặt tôi, đó là một vị sư già đã còng lưng và mệt mỏi sau bao nhiêu năm khổ hạnh. Những bàn tay của người đã run rẩy nên tôi không lấy làm ngạc nhiên khi tôi thấy ông ta làm đổ nghiêng chén trà cầm nơi tay. Trong bàn tay kia, ông ta cầm một bát tsampa, và đưa cho tôi cả hai thứ. Tôi vẫn ngồi yên không cử động. Ông ta nói:

– Này con, hãy cầm lấy, vì con có quyền cử động trong những giờ ban đêm.

Tôi bèn uống chén trà, và sớt món tsampa vào cái chén riêng của tôi. Ông lão lại nói:

– Bây giờ con hãy ngủ đi, nhưng khi trời hừng sáng, con hãy ngồi lại trong tư thế cũ, vì đây là một cuộc thử thách chứ không phải một hình phạt vô ích như con có thể tưởng trong lúc này. Chỉ những ai vượt qua cuộc thử thách này mới có thể được thu nhận vào dòng tu của chúng ta.

Nói xong, ông lão cầm lấy chén bát và đi thẳng. Tôi bèn đứng dậy, vươn vai, duỗi thẳng tay chân, rồi nằm xuống nghỉ lưng. Tôi vừa nằm nghiêng một bên vừa ăn chén tsampa. Quả thật là tôi đã quá kiệt sức. Sau khi ăn no, tôi kê cái gói áo để gối đầu và nằm luôn dưới đất.

Bảy năm đầu tiên của cuộc đời tôi trên thế gian này thật không được sung sướng chút nào. Cha tôi luôn luôn tỏ ra nghiêm khắc trong mọi việc, nghiêm khắc một cách kinh khủng. Tuy vậy, đây là lần đầu tiên tôi ngủ xa nhà và suốt ngày hôm đó tôi không hề sửa đổi tư thế, hoàn toàn ngồi yên bất động và thể xác bị giày vò vì cơn đói khát. Tôi không biết ngày mai sẽ đưa đến cho tôi cái số phận như thế nào, và người ta sẽ bắt tôi phải chịu đựng những điều gì nữa. Nhưng bây giờ tôi phải ngủ, ngủ dưới màn trời lạnh lẽo, cô đơn, một mình với sự sợ hãi bóng tối, một mình với sự sợ hãi những ngày sắp tới.

Dường như tôi chỉ nhắm mắt được không bao lâu thì đã thức giấc vì tiếng kèn thổi vang tai. Tôi vừa mở mắt thì đã thấy ánh bình minh phản chiếu trên nền trời đằng sau những dãy núi. Tôi hối hả thức dậy và liền trở lại với tư thế ngồi thiền.

Trước mặt tôi, cả tu viện đều đã dần dần thức giấc. Lúc đầu nó giống như một thành phố đang đắm chìm trong giấc ngủ. Kế đó, những tiếng động nhẹ đầu tiên mỗi lúc một lớn dần và rồi cả tu viện trở thành ồn ào náo nhiệt như cái tổ ong vò vẻ trong một ngày mùa hạ.

Khi mặt trời vừa ló dạng, những tốp nhà sư đầu cạo sạch bóng đi qua lại trong các cửa sổ của tu viện. Mặt trời càng lên cao, tôi càng cảm thấy tê buốt các khớp xương, nhưng tôi không dám cử động; tôi không dám ngủ thêm, vì chỉ một cử động là tôi đã thất bại, và sau đó tôi biết đi đâu? Cha tôi đã nói rõ ràng là nếu tu viện không bằng lòng thu nhận tôi thì cha tôi cũng sẽ không cho tôi trở về.

Từng nhóm nhỏ các nhà sư bước ra khỏi những căn phòng của tu viện để đi làm công việc hằng ngày. Vài thiếu niên đi rảo ngoài sân; đôi khi chúng lấy chân đá một cái, hất văng cát bụi bay mù mịt và những viên sỏi nhỏ về phía tôi ngồi, hoặc chúng đua nhau thốt ra những lời thô bỉ, tục tằn, cố ý nhắm vào tôi làm mục tiêu. Thấy tôi không đáp lại, chúng liền chán nản bỏ đi tìm những nạn nhân khác dễ chọc ghẹo hơn.

Một ngày nữa rồi cũng qua đi; dần dần mặt trời lại ngả về tây và những ngọn đèn bơ của tu viện lại được thắp sáng. Trong giây lát, tôi đã ngồi dưới ánh sao, vì đó là ngày về cuối tháng, trăng lên muộn.

Bỗng nhiên tôi cảm thấy lo sợ. Hay là người ta đã quên tôi rồi? Hay đây là một cuộc thử thách, trong thời gian đó tôi phải chịu nhịn đói? Tôi không hề cử động suốt ngày hôm đó, một ngày kéo dài vô tận, và sự đói khát đã làm cho tôi mệt nhừ.

Thình lình, một tia hy vọng nhen nhúm trong lòng tôi và làm tôi muốn nhảy dựng lên. Tôi nghe có tiếng chân đi và một bóng đen tiến về phía tôi. Nhưng than ôi, đó là một con chó ngao đen lớn đang kéo lê một vật gì. Không một mảy may chú ý đến tôi, nó vẫn tiếp tục đi thẳng, cũng không chút xót thương cho cái tình trạng khó khăn của tôi. Niềm hy vọng của tôi bèn sụp đổ. Tôi cảm thấy muốn khóc. Để chống lại sự yếu hèn đó, tôi bèn tự nhắc nhở lấy mình rằng chỉ có đàn bà con gái mới dại dột mà xử sự như thế.

Sau cùng, tôi nghe tiếng bước chân của vị sư già. Lần này, ông lão nhìn tôi với đôi mắt dịu hiền, và nói:

– Này con, đây là những đồ ăn thức uống cho con, nhưng sự thử thách chưa phải là hết. Còn ngày mai nữa. Con hãy nhớ đừng làm một cử động nào, vì có nhiều người đã thất bại vào giờ phút chót.

Nói xong, ông lão từ biệt đi ngay. Trong khi vị sư già nói chuyện, tôi uống chén trà bơ và sớt món tsampa vào cái bát riêng của tôi. Một lần nữa, tôi lại nằm dài dưới đất, thật ra cũng không sung sướng gì hơn đêm trước. Vừa nằm tôi vừa suy nghĩ về cách đối xử bất công này, tôi không còn muốn làm tu sĩ nữa. Người ta không để cho tôi có quyền định đoạt số phận của tôi, chẳng khác nào tôi là một con lừa bị bắt buộc phải trèo qua một truông núi, thế thôi. Tôi ngủ thiếp đi với cái ý nghĩ đó.

Hôm sau, cuộc thử thách bước qua ngày thứ ba. Khi tôi ngồi dậy theo tư thế tọa thiền, tôi cảm thấy yếu sức hơn ngày trước và đầu óc tôi choáng váng. Tôi thấy tu viện dường như xoay tít trong một khối sa mù gồm những tòa dinh ốc, những màu sắc sặc sỡ, những đốm đỏ với những núi non và những nhà sư quay cuồng lẫn lộn với nhau một cách vô cùng hỗn độn. Tôi phải làm một cố gắng phi thường để vượt qua được cơn chóng mặt đó.

Tôi cảm thấy kinh hoàng với ý nghĩ rằng tôi có thể thất bại sau khi đã chịu tất cả những sự đau khổ trong những ngày qua. Tôi có cảm giác rằng những tảng đá mà tôi ngồi lên dần dần đã trở nên bén nhọn như dao cắt, làm cho tôi đau nhức ở những bộ phận nhạy cảm nhất trong người tôi.

Mặt trời dường như đứng yên một chỗ; ngày ấy kéo dài dường như vô tận. Nhưng sau cùng, ánh nắng bắt đầu dịu bớt, vầng hồng đã xuống thấp và ngọn gió chiều đã thổi phất phơ một sợi lông chim do một con chim én bay qua bỏ rớt lại. Lại một lần nữa, những ánh đèn bơ lần lượt nối tiếp nhau thấp thoáng qua các khung cửa sổ. Tôi thầm nghĩ:

– Tôi mong sao được chết trong đêm nay, tôi không còn chịu đựng được nữa.

Ngay lúc ấy, cái bóng đen cao lớn của vị Chưởng môn đoàn Sơ cơ xuất hiện nơi khung cửa. Ông ta nói:

– Này con, hãy lại đây!

Tôi thử đứng dậy, nhưng hai chân tôi đã tê cứng đến nỗi tôi phải nằm dài trên mặt đất. Người lại nói:

– Nếu con muốn nằm nghỉ, con có thể ở lại đây một đêm nữa. Ta không thể chờ đợi lâu hơn.

Tôi bèn hối hả thu lượm khăn gói và tiến lại gần vị Chưởng môn với những bước đi khập khiễng. Ông ta nói:

– Vào đây. Con hãy dự cuộc lễ tối và sáng mai con hãy đến gặp ta.

Bên trong tu viện, không khí rất ấm áp và mùi hương trầm làm cho tôi cảm thấy khỏe lại. Vì quá đói, giác quan nhạy cảm của tôi cho tôi biết rằng cách đó không xa chắc chắn có thức ăn no lòng. Tôi bèn đi theo một nhóm các nhà sư hướng về phía tay mặt. À, có đồ ăn đây rồi, tsampa và trà bơ! Tôi rán chen lên hàng đầu dường như tôi đã quen làm như vậy suốt đời tôi! Các nhà sư sãi toan nắm chóp tóc tôi khi tôi bò bằng cả hai tay và hai chân luồn qua dưới chân họ để đi tới trước; nhưng vô ích, tôi đang muốn ăn, và không gì có thể ngăn cản tôi được nữa.

Sau khi đã ăn uống no lòng, tôi theo chân các nhà sư vào trong nội điện để dự cuộc lễ tối. Tôi đã quá mệt mỏi để có thể hiểu được những gì xảy ra, nhưng không ai để ý đến tôi.

Sau cuộc lễ, khi các nhà sư xếp hàng một đi ra ngoài tôi mới lẻn ra phía sau một cây cột lớn, nằm dài xuống mặt sàn bằng đá, gối đầu trên cái bọc vải đựng quần áo của tôi và ngủ một giấc ngon lành.

Tôi đang mơ màng giấc điệp thì những tiếng động chung quanh đánh thức tôi dậy một các phũ phàng. Có những giọng nói thốt lên:

– À, một con ma mới. Một đứa con nhà giàu. Ta hãy giã cho nó một trận!

Một chú tiểu ném lên trời cái áo dài thay đổi mà chú đã rút ra từ bọc quần áo gối đầu của tôi. Một chú khác đoạt lấy đôi ủng của tôi. Một nắm tsampa mềm và ướt từ đâu ném tới trúng vào giữa mặt tôi. Những cú đấm đá tới tấp như mưa nhắm vào tôi từ tứ phía, nhưng tôi không tự vệ. Đó có thể là một cuộc thử thách để xem tôi có tuân theo lời răn thứ 16 hay không, vì lời răn ấy dạy rằng: “Hãy chịu đựng đau khổ và tai họa một cách kiên nhẫn và an phận.”

Bỗng nghe có tiếng quát lớn:

– Chuyện gì xảy ra ở đây vậy?

Kế đó là những tiếng thì thầm sợ hãi:

– Chết rồi! Vị Chưởng môn đã đến! Chúng ta đã bị bắt quả tang!

Tôi đang lo gỡ miếng tsampa ra khỏi mắt thì vị Chưởng môn đoàn Sơ cơ liền quay về phía tôi, nắm lấy cái bím tóc và kéo tôi đứng dậy.

– Đồ gà mái ướt! Đồ nhu nhược! Thế mà cũng muốn trở thành một nhà lãnh đạo tương lai sao? Hãy nhận lấy mấy quả đấm này!

Kế đó, tôi bị đòn dưới một trận mưa quả đấm tàn bạo.

– Đồ vô dụng, đồ hèn! Thậm chí mày cũng không biết tự vệ nữa sao...

Những cú đấm đá vẫn tiếp tục dường như không bao giờ ngừng. Tôi bèn nhớ lại lời nói của võ sư Tzu lúc ông từ giã tôi:

– Con hãy làm tròn bổn phận, và hãy nhớ tất cả những gì ta đã dạy con.

Tôi bèn giữ thế thủ và lừa dịp đưa tay đẩy nhẹ theo một thế võ Tây Tạng mà võ sư Tzu đã dạy tôi. Vị Chưởng môn, trong lúc bất thần không phòng vệ, vừa thốt lên một tiếng kêu đau đớn, vừa bay bổng lên khỏi đầu tôi, rơi xuống sàn gạch trong tư thế nằm sấp rồi chuồi tới trước trên cái sống mũi, làm sống mũi bị lột da, và ngừng lại khi đầu ông ta va vào cái cột lớn với một tiếng động kinh hồn!

Tôi thầm nghĩ:

– Thôi rồi! Phen này mình chắc chết. Âu cũng đành vậy để chấm dứt tất cả mọi nỗi lo âu.

Thời gian dường như ngừng lại. Những chú tiểu quanh đó đều nín thở. Một tiếng hét lớn, trong chớp mắt vị Chưởng môn cao lớn và xương xẩu đã đứng phắt dậy. Máu từ trong hai lỗ mũi ông ta tuôn ra đỏ lòm. Thật là một cảnh tượng quái gở, vì khi đó ông ta cất tiếng cười vang trong một chuỗi cười dài cởi mở và thật tình! Ông ta nói với tôi:

– À, vậy ra mày là một con gà chọi, phải không? Gà chọi hay chuột ướt, mày là giống nào thì để còn xem lại mới biết.

Rồi vị Chưởng môn quay lại phía một thiếu niên khoảng mười bốn tuổi, có thân hình to lớn, đưa tay ra hiệu và nói:

– Nga Quyết, mày là con trâu mộng nặng cân nhất của tu viện này. Mày hãy tỏ cho mọi người thấy rằng con nhà lái buôn có giá trị hơn con nhà vương giả hay không trong một cuộc đấu võ.

Lần đầu tiên trong đời, tôi thầm tạ ơn ông Tzu, vị võ sư già của tôi. Thuở thiếu thời, ông ta từng là một chuyên gia về môn võ thuật Tây Tạng, một tay vô địch xuất xứ từ vùng Kham. Theo lời ông ta nói, ông ta đã truyền lại cho tôi tất cả các thế võ bí truyền, nhờ đó tôi có thể đối địch cả với những người lớn. Tôi đã tiến bộ rất nhiều về môn võ thuật này, trong đó sức mạnh và tuổi tác hầu như không có ích lợi gì cả.

Vì cuộc đấu võ này sẽ quyết định tương lai của tôi, nên sau cùng tôi cảm thấy an tâm. Nga Quyết là một thiếu niên lực lưỡng và khỏe mạnh, nhưng thiếu lanh lẹ mềm dẻo trong cử động. Hiển nhiên là anh ta từng quen với những cuộc đánh đấm hung hăng trong đó bạo lực giúp cho anh ta nắm ưu thế.

Anh ta lao mình tới trước để nắm lấy tôi và quyết hạ cho bằng được tôi. Tôi không nao núng, nhờ đã có học võ với ông Tzu và trong sự huấn luyện, đôi khi ông ta cũng đã tỏ ra rất hung bạo. Khi Nga Quyết khởi thế công, tôi bước qua một bên để tránh và thuận tay tôi vặn một cánh tay của anh ta. Hai chân bị mất thăng bằng, anh ta lảo đảo xoay nửa vòng trước khi té ngã chúi đầu xuống đất. Anh ta nằm rên một hồi trên sàn gạch, rồi thình lình đứng dậy và phóng tới tôi. Tôi thụp xuống, ngã mình trên sàn gạch và đưa tay vặn một chân của anh ta vào lúc sắp sửa đè lên mình tôi. Lần này anh ta xoay trọn một vòng, lảo đảo trên hai chân và té ngã, vai trái nện xuống đất.

Nhưng Nga Quyết còn chưa thật sự đo ván. Anh ta cố đứng lên và đi thận trọng từng bước quanh tôi, rồi thình lình nhảy ngang qua một bên, chụp lấy một cái đỉnh bằng đồng có dây xích và quay tít nó trên không. Nhưng một vũ khí như vậy đối với tôi thật là chậm chạp, nặng nề và dễ tránh. Tôi bước tới trước, luồn mình dưới nách anh ta và đưa một ngón tay nhẹ nhàng điểm vào chỗ nhược ở phía dưới cổ, đúng như võ sư Tzu thường dạy cho tôi. Anh ta liền ngã lăn xuống đất như một tảng đá, hai tay buông sợi dây xích, cái đỉnh đồng bị hất văng vào đám trẻ và nhóm các sư đang đứng chung quanh nhìn xem cuộc đấu võ, gây nên một cuộc náo động ồn ào.

Nga Quyết nằm bất tỉnh trong nửa giờ. Với cách điểm huyệt đặc biệt đó, nạn nhân thường phải ngất đi rất lâu.

Vị Chưởng môn đoàn Sơ cơ tiến đến gần tôi, vỗ vai tôi một cái thật mạnh làm tôi tưởng như suýt nữa cũng đã nằm đo ván:

– Này con, quả thật con là một người hùng.

Tôi đánh bạo đáp lại:

– Như vậy, bạch thầy, con có xứng đáng được ăn uống chút ít gì chăng? Từ mấy ngày nay, con chưa bữa nào được ăn uống đầy đủ.

Vị Chưởng môn nói:

– Này con, con hãy ăn uống cho no bụng. Sau đó, con hãy bảo một đứa trong nhóm Sơ cơ dẫn đường cho con đến gặp ta. Từ nay con sẽ làm trưởng đoàn để dạy võ nghệ cho chúng nó.

Vị sư già đã đem thức ăn cho tôi hai đêm trước cũng vừa đến ngay khi đó. Ông ta nói:

– Này con, con đã hành động xứng đáng. Nga Quắn đã tỏ ra rất hống hách đối với nhóm sơ cơ. Con hãy thay nó giữ chức vụ trưởng đoàn, nhưng con hãy có lòng từ bi nhân hậu trong mọi quyết định. Con đã có một sự giáo dục rất tốt. Con hãy sử dụng tài nghệ của con đúng chỗ và chớ nên truyền thụ võ nghệ cho những kẻ không xứng đáng. Bây giờ con hãy theo ta và ta sẽ cho con ăn uống no lòng.

Sau đó, khi tôi đến tư thất của người, vị Chưởng môn đoàn Sơ cơ tiếp đón tôi một cách rất ưu ái. Người nói:

– Con hãy ngồi đi. Ta muốn biết xem về mặt trí thức con có xuất sắc như môn võ nghệ hay không. Con hãy coi chừng, ta sẽ hỏi khó con đấy!

Kế đó, người đưa ra cho tôi rất nhiều câu hỏi, vừa sát hạch, vừa viết tay. Chúng tôi ngồi đối diện nhau trên những chiếc nệm, và cuộc trắc nghiệm diễn ra suốt sáu tiếng đồng hồ, trước khi người tuyên bố hài lòng về sự ứng đáp của tôi. Khi tôi cảm thấy đã mệt mỏi, người bèn đứng dậy và nói:

– Con hãy đi theo ta. Ta sẽ đưa con vào trình diện với vị Sư trưởng. Đó là một vinh dự đặc biệt, con sẽ hiểu lý do tại sao.

Tôi đi theo vị Chưởng môn qua những hành lang rộng lớn, những văn phòng, những nội điện, những lớp học v.v... Chúng tôi bước lên một thang lầu, vượt qua những hành lang chằng chịt như mê cung, đi ngang những thánh điện thờ các vị thần và kho chứa các loại dược thảo. Lại lên một cầu thang nữa, sau cùng chúng tôi bước lên sân thượng, trên nóc bằng của tu viện và đi về phía tịnh thất của vị Sư trưởng.

Đến trước cửa, có một tượng Phật bằng vàng, biểu tượng của ngành y học. Qua khỏi cửa, chúng tôi bước vào tư thất của Sư trưởng. Vị Chưởng môn dặn tôi:

– Con hãy vái chào đảnh lễ và làm theo ta.

Người cúi lạy vị Sư trưởng sau khi đã chắp tay vái ba lần. Tôi làm theo, trong lòng hồi hộp. Vị Sư trưởng điềm nhiên nhìn chúng tôi, và nói:

– Các con hãy ngồi đi.

Chúng tôi ngồi trên những chiếc nệm, hai chân xếp bằng. Vị Sư trưởng im lặng nhìn tôi một lúc rất lâu. Kế đó người nói:

– Này Lâm Bá, ta biết tất cả về con, tất cả những gì đã được tiên tri từ trước. Cuộc thử thách mà con đã phải trải qua thật là gian lao. Vài năm nữa, con sẽ hiểu lý do tại sao. Nhưng còn bây giờ, con hãy biết rằng trong một ngàn nhà sư, chỉ có một hai người là có khả năng học hỏi những việc sâu xa và có thể đạt tới một trình độ tiến hóa cao. Những người còn lại chỉ có thể làm các bổn phận thông thường hằng ngày. Họ là những người làm việc bằng tay chân, và lần chuỗi tụng niệm mà thôi, không cần phải học hỏi gì nhiều. Ở đây không thiếu những người như thế. Chúng ta chỉ thiếu những người có thể giữ gìn kho tàng kiến thức huyền vi khi đất nước trải qua loạn lạc. Con sẽ nhận được một nền giáo dục đặc biệt, một sự huấn luyện gấp rút để trong vài năm ngắn ngủi con sẽ có nhiều kiến thức hơn là một vị Lạt-ma có thể thu thập được suốt cả một đời. Con đường đạo sẽ cam go, hiểm trở và thường dẫy đầy gian khổ. Thật vậy, tu luyện để có được nhãn quang trí huệ đòi hỏi nhiều công phu rất khó nhọc, đòi hỏi người tu phải có một ý chí vững vàng không gì lay chuyển nổi và cứng rắn như sắt đá.

Tôi chăm chú nghe với tất cả tâm hồn, không bỏ sót một chữ nào. Những điều đó đối với tôi dường như quá khó khăn. Tôi không nghĩ là mình có một nghị lực cứng cỏi đến như thế! Vị Sư trưởng nói tiếp:

– Ở đây con sẽ được học về y khoa và chiêm tinh học. Chúng ta sẽ giúp đỡ con về mọi mặt. Con cũng sẽ được học các pháp môn bí truyền. Con đường của con đã được vạch sẵn, hỡi Lâm Bá. Tuy con mới có bảy tuổi, ta nói với con như nói với một người lớn, vì con đã được giáo dục như một người trưởng thành.

Nói xong, Sư trưởng khẽ nghiêng đầu, vị Chưởng môn đoàn Sơ cơ bèn đứng dậy và cúi rạp mình chào rất sâu. Tôi làm y theo vị Chưởng môn và chúng tôi cùng lui ra. Khi về đến tư thất, vị Chưởng môn mới phá tan sự im lặng:

– Này con, con sẽ phải làm việc nhiều. Nhưng chúng ta sẽ giúp đỡ con hết lòng. Bây giờ, con hãy theo ta, để ta chỉ chỗ cho con cắt tóc.

Ở Tây Tạng, khi một thiếu sinh bước vào tu viện thì phải cạo hết tóc, chỉ trừ một cái chỏm nhỏ ở đỉnh đầu. Chỏm tóc này cũng sẽ được cạo sạch vào ngày nhận pháp danh và từ bỏ tên gọi cũ.

Vị Chưởng môn đưa tôi đi qua một dãy hành lang, đến một gian phòng nhỏ dùng làm nơi cạo tóc. Tại đây, người ta bảo tôi ngồi xuống đất. Vị Chưởng môn nói:

– Tâm Chu, ngươi hãy cạo sạch tóc cho thiếu niên này. Hãy cạo luôn cả chỏm tóc, vì ngay hôm nay nó sẽ được nhận pháp danh.

Người tên là Tâm Chu bước tới, rồi với bàn tay mặt ông ta nắm lấy cái bím tóc của tôi, giở hỏng lên, và nói:

– À! cậu nhỏ này. Bím tóc đẹp thật, thoa bơ láng bóng và giữ gìn cẩn thận. Được cắt nó đi thật là sướng tay.

Ông ta bèn lấy ra một cây kéo rất lớn, giống như loại kéo mà những gia nhân nhà tôi dùng để xén cây làm vườn và gọi to:

– Tư Tỷ, lại đây cầm giúp một đầu.

Tư Tỷ, người phụ tá của ông ta, chạy đến và kéo cái bím tóc của tôi mạnh đến nỗi tôi gần như bị giở hỏng lên khỏi mặt đất. Miệng há hốc, Tâm Chu bắt tay vào việc với cây kéo cùn. Sau nhiều cơn bực mình và cằn nhằn, cái bím tóc cũng đã cắt xong. Nhưng đó chỉ là mới bắt đầu. Người phụ tá đem tới một thau nước nóng bỏng đến nỗi, khi y dội nước lên đầu tôi, tôi phải giật mình nhảy nhổm một cái. Người thợ cạo hỏi:

– Có gì không ổn hả, cậu nhỏ? Phỏng nước sôi chăng?

– Phải đấy, nước nóng quá.

– Đừng sợ, không việc gì đâu. Nước nóng như vậy cạo tóc dễ hơn!

Ông ta vừa đáp vừa lấy một con dao ba cạnh, hình tam giác, loại dao ở nhà tôi người ta thường dùng để cạo sàn gỗ mỗi khi rửa nhà. Sau một thời gian dài tưởng chừng như vô tận, đầu tôi cũng đã được cạo sạch.

Sau đó, vị Chưởng môn gọi tôi vào phòng riêng và đặt cho tôi một pháp danh, nghĩa là một tên gọi mới dành riêng cho cuộc sống tu sĩ. Đó là một tên Tây Tạng rất dài, nhưng trong sách này tôi vẫn dùng tên cũ cho dễ gọi.

Kế đó, tôi được đưa vào một lớp học. Đầu tôi trơn trụi như một quả trứng gà mới đẻ. Vì tôi đã được hấp thụ một nền giáo dục tốt trong gia đình, người ta cho rằng tôi có những kiến thức cao hơn mức trung bình nên xếp tôi vào lớp học của những thiếu niên mười bảy tuổi. Tôi cảm thấy như một người tí hon sống giữa những người khổng lồ. Những thiếu niên này đã thấy tôi đánh ngã Nga Quyết, nên không ai dám quấy rầy tôi, trừ một đứa lớn xác và ngu xuẩn.

Anh ta tiến đến từ phía sau lưng tôi rồi đặt hai bàn tay to lớn và dơ bẩn lên đầu tôi, hãy còn đau rát và ê ẩm vì mới cạo trọc. Tôi đứng phắt dậy và với một đầu ngón tay, tôi điểm nhẹ vào phía dưới cùi chỏ của anh ta, làm cho anh ta phải lùi lại và kêu thét lên vì đau đớn. Sau vụ ấy, các đứa trẻ khác bèn để tôi yên.

Vị Chưởng môn vừa quay lưng khi đứa trẻ đặt hai tay lên đầu tôi, sau đó mới được biết những gì đã xảy ra. Nhưng kết quả của vụ xung đột làm cho vị Chưởng môn bất giác cười lớn đến nỗi người vui lòng để cho chúng tôi về sớm.

Lúc ấy đã gần tám giờ rưỡi, chúng tôi còn được tự do trong ba khắc đồng hồ trước khi dự cuộc lễ tối đúng chín giờ một khắc. Nhưng sự vui mừng của tôi là quá sớm. Một vị Lạt-ma ra hiệu cho tôi bước lại gần vào lúc tôi vừa ra khỏi lớp học. Tôi bước đến gần, người nói:

– Hãy theo ta.

Tôi vâng lời đi theo và tự hỏi không biết chuyện gì đang chờ đợi tôi đây. Vị Lạt-ma bước vào một phòng âm nhạc, tại đây có độ hai chục thiếu nhi mới, cũng như tôi. Ba nhạc công sắp sửa chơi nhạc, một người đánh trống, một người thổi tù và, và người thứ ba thổi kèn bằng bạc. Vị Lạt-ma nói:

– Tất cả mọi người cùng hát, để ta có thể sắp đặt giọng hát từng nhóm trong cuộc hợp ca.

Các nhạc công đánh một bản nhạc rất quen thuộc mà ai cũng hát được. Chúng tôi vừa cất tiếng hát... thì cặp chân mày của vị nhạc sư đã nhướng lên rất cao! Sự ngạc nhiên hiện trên gương mặt của người, kế đó sắc diện của người lộ vẻ đau đớn khôn tả. Người đưa hai tay lên tỏ dấu phản đối và kêu to:

– Ngưng lại! Ngưng lại tất cả! Các em xé cả lỗ tai của các đấng thánh thần! Hát lại từ đầu và coi chừng!

Chúng tôi hát lần nữa, nhưng người cũng ngăn chúng tôi lại. Lần này, người bước đến trước mặt tôi và nói:

– Thằng ngốc, mày định chế nhạo ta chăng? Lần này, khi trổi nhạc mày sẽ phải hát một mình, vì mày không muốn hòa giọng với những đứa khác.

Một lần nữa, nhạc công lại trổi nhạc, và một lần nữa tôi lại hát, nhưng không được lâu. Vị nhạc sư hoàn toàn thất vọng và giận dữ, hoa chân múa tay trước mặt tôi:

– Lâm Bá, âm nhạc không có trong số những tài năng của mày. Trong năm chục năm trời, từ ngày ta đến đây, ta chưa bao giờ nghe một giọng hát vụng về như thế. Vụng về ư? Được vậy còn tốt. Giọng hát của mày hoàn toàn sai, vô phương cứu vãn. Này thằng nhỏ, mày sẽ không được hát nữa. Trong giờ âm nhạc, mày sẽ phải học môn khác. Khi dự lễ trong nội điện, mày phải câm miệng lại, nếu không mày sẽ làm hỏng hết cả. Bây giờ mày hãy cút đi, đồ lỗ tai trâu!

Thế là tôi cút đi chỗ khác. Tôi đi dạo chơi cho đến khi những tiếng kèn điểm giờ hành lễ cuối cùng trong ngày. Chỉ mới bước chân vào tu viện ngày hôm qua, nhưng tôi có cảm tưởng như tôi đã có mặt nơi đây từ thuở xa xăm nào! Tôi cảm thấy tôi đang đi như người mê ngủ và bắt đầu cảm thấy đói. Có lẽ như vậy còn hay hơn, vì nếu lúc ấy no bụng thì chắc tôi đã ngủ gật. Có người nắm lấy áo tôi và dở hỏng tôi lên trên không. Một vị Lạt-ma cao lớn, vẻ mặt hiền hòa, đặt tôi ngồi lên hai vai rộng của người và nói:

– Này con, hãy coi chừng, nếu đến trễ giờ dự cuộc lễ tối thì con sẽ bị quở trách. Khi ấy, con sẽ không được ăn, và bụng con sẽ rỗng không như một cái trống!

Khi vị Lạt-ma bước vào nội điện, người vẫn còn để tôi trên vai. Người ngồi ngay phía sau những tấm nệm dành riêng cho các chú tiểu và cẩn thận đặt tôi ngồi xuống trước mặt người. Người nói:

– Con hãy nghe đây và lặp lại những gì ta nói. Nhưng khi ta cất tiếng hát thánh ca, thì con hãy im lặng chớ mở miệng đó nhé.

A ha! Tôi thầm biết ơn vị Lạt-ma đã có lòng ưu ái đối với tôi. Từ trước đến giờ, ít có người tỏ ra tốt bụng đối với tôi. Sự giáo dục mà tôi đã hấp thụ được trong quá khứ chỉ đặt trên một nền tảng quát tháo, thịnh nộ hay đánh đập. Tôi đã ngủ thiếp đi một lúc. Khi tôi giật mình thức dậy, tôi nhận thấy rằng cuộc lễ tối đã chấm dứt tự bao giờ. Vị Lạt-ma đã cõng tôi đến phòng ăn khi tôi còn đang mê ngủ, và đặt tôi ngồi xuống trước bàn, trên đó người đã đặt sẵn trà bơ, tsampa và rau đậu nấu chín. Người nói:

– Con hãy ăn no, rồi đi ngủ! Ta sẽ chỉ cho con biết phòng ngủ của con. Đêm nay, con có quyền ngủ thẳng giấc đến năm giờ sáng. Con hãy đến gặp ta khi con thức dậy.

Đó là những lời cuối cùng mà tôi nghe trước khi tôi thức giấc vào lúc năm giờ sáng. Một thiếu niên đã tỏ ra có thiện cảm với tôi từ đêm trước, đến đánh thức tôi dậy một cách rất khó khăn giữa lúc tôi còn mê man giấc điệp. Khi thức tỉnh tôi mới thấy rằng tôi đã nằm trên ba tấm nệm giữa một căn phòng lớn. Người thiếu niên nói:

– Đại đức Minh Gia đã dặn tôi đến đánh thức sư huynh đúng năm giờ sáng.

Tôi ngồi dậy và xếp ba tấm nệm chồng lên nhau sát vách tường giống như những đứa trẻ khác. Tất cả các chú tiểu đều đã ra ngoài, người bạn trẻ của tôi bèn nói:

– Chúng ta hãy đi ăn điểm tâm, rồi sau đó tôi sẽ đưa sư huynh đến gặp Đại đức Minh Gia.

Tôi bắt đầu cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn. Không phải tôi thích tu viện hay muốn ở lại đây, nhưng vì tôi nghĩ rằng không thể làm gì khác hơn nên tốt nhất là nên êm thuận và hòa mình vào hoàn cảnh.

Đến giờ ăn điểm tâm, vị sư xướng ngôn đọc bằng giọng trầm trầm một đoạn kinh rút trong 112 quyển của bộ Kangyur của Phật giáo Tây Tạng. Vị sư hẳn đã nhìn thấy tôi lơ đễnh, vì thình lình người gọi giật tôi lại:

– Ê, thằng nhỏ, ta vừa nói những gì? Hãy trả lời mau!

Nhanh như chớp và không suy nghĩ một giây, tôi đáp ngay:

– Bạch sư ông, ngài vừa nói rằng thằng nhỏ này đãng trí, không nghe ta đọc kinh, ta phải bắt nó tại trận!

Câu trả lời ấy làm cả cử tọa bất giác cười ầm lên, và nhờ đó tôi khỏi bị đòn vì tội vô kỷ luật. Vị sư cũng mỉm cười (đó là một việc hiếm có) và giải thích rằng người muốn tôi lặp lại đoạn kinh của người vừa đọc, nhưng thôi, lần này thì như vậy cũng được.

Mỗi bữa ăn, vị sư xướng ngôn đều ngồi trước một bàn nhỏ và đọc những đoạn kinh Phật. Các sư sãi không được phép nói chuyện trong giờ ăn, hoặc nghĩ đến những chuyện riêng tư, mà phải lắng tai nghe đọc kinh. Họ phải hấp thụ Thánh giáo cùng một lúc với thức ăn.

Chúng tôi tất cả đều ngồi trên những chiếc nệm đặt dưới đất và ăn trên những chiếc bàn nhỏ cao độ năm tấc tây. Không ai được gây tiếng động hoặc để cùi chỏ trên mặt bàn, vì đó là những điều bị tuyệt đối cấm.

Tại tu viện Chakpori, người ta luôn áp dụng kỷ luật sắt. Danh từ Chakpori có nghĩa là Thiết Sơn, hay “núi sắt”. Trong đa số các tu viện, kỷ luật thường lỏng lẻo và thời biểu không được áp dụng chặt chẽ. Các nhà sư có thể làm việc hoặc nghỉ ngơi tùy ý. Có thể chỉ có một trong số hàng ngàn tu sĩ là thật tình muốn tiến bộ tâm linh, và chính người đó mới trở thành một vị Lạt-ma, vì danh từ Lạt-ma có nghĩa là “thượng nhân”, và không phải áp dụng dễ dãi cho bất cứ người nào.

Trong tu viện của chúng tôi, kỷ luật rất chặt chẽ và thậm chí còn khắt khe là khác. Chúng tôi phải trở thành những người lãnh đạo của giai cấp tu sĩ. Đối với chúng tôi thì trật tự và giáo dục là tuyệt đối cần thiết. Chúng tôi không được phép mặc áo trắng là màu áo thông thường của người mới học đạo. Áo của chúng tôi mặc phải là màu đỏ sậm như áo của các nhà sư. Chúng tôi cũng có những kẻ giúp việc để sai khiến, nhưng đó là những nhà sư lao dịch, có phận sự quét dọn, lau chùi và coi sóc phần sinh hoạt hằng ngày của tu viện.

Chúng tôi thay phiên nhau làm công việc lao dịch hèn mọn và cực nhọc này, để cho những ý nghĩ tự phụ, kiêu căng không có chỗ mà chen vào đầu óc. Chúng tôi phải luôn luôn ghi nhớ câu châm ngôn Phật giáo này: “Hãy tự mình nêu gương tốt cho kẻ khác. Hãy làm điều thiện và tránh mọi điều ác. Đó chính là giáo lý của Phật.”

Vị Sư trưởng của tu viện là Lạt-ma Champa La, cũng nghiêm khắc như cha tôi và đòi hỏi một sự vâng lời tuyệt đối. Một trong những lời người thường dạy là: “Đọc và viết là những then chốt của mọi đức tính.” Bởi thế, trên lãnh vực này chúng tôi luôn có rất nhiều việc phải làm.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 15 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Hoa nhẫn nhục


Bát-nhã Tâm kinh Khảo luận


Hát lên lời thương yêu


Truyện tích Vu Lan Phật Giáo

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.129.45.144 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (249 lượt xem) - Hoa Kỳ (16 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Saudi Arabia (3 lượt xem) - Đức quốc (3 lượt xem) - Nga (2 lượt xem) - Hungary (1 lượt xem) - ... ...