Lo lắng không xua tan bất ổn của ngày mai nhưng hủy hoại bình an trong hiện tại. (Worrying doesn’t take away tomorrow’s trouble, it takes away today’s peace.)Unknown
Những chướng ngại không thể làm cho bạn dừng lại. Nếu gặp phải một bức tường, đừng quay lại và bỏ cuộc, hãy tìm cách trèo lên, vượt qua hoặc đi vòng qua nó. (Obstacles don’t have to stop you. If you run into a wall, don’t turn around and give up. Figure out how to climb it, go through it, or work around it. )Michael Jordon
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ yếu ớt không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh mẽ. (The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong.)Mahatma Gandhi
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Chấm dứt sự giết hại chúng sinh chính là chấm dứt chuỗi khổ đau trong tương lai cho chính mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Tôi đọc Đại Tạng Kinh »» CHƯƠNG IV. NHÂN DUYÊN VỚI LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH »»

Tôi đọc Đại Tạng Kinh
»» CHƯƠNG IV. NHÂN DUYÊN VỚI LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH

Donate

(Lượt xem: 1.708)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Tôi đọc Đại Tạng Kinh - CHƯƠNG IV. NHÂN DUYÊN VỚI LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Tôi đã bắt đầu đọc Đại Tạng Kinh tiếng Việt này từ mùa thu năm 2013, tại Tu Viện Viên Đức thuộc vùng Ravensburg, miền Nam nước Đức, sau khi chấm dứt việc tịnh tu, nhập thất mỗi năm 3 tháng trong 10 năm (2003-2012), tại Á Châu và Sydney, Úc Đại Lợi. Đọc xong 17 tập này thì tiếp vào các kinh tụng như Đại Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Đại Bảo Tích, Pháp Hoa, Niết Bàn v.v…

Tôi đã không đi vào phần này, vì lẽ đã có nhiều bộ kinh mà Đại chúng Chùa Viên Giác đang trì tụng, như bộ Đại Bát Nhã mà Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm ở Nha Trang đã dịch ra 24 tập; mỗi đêm trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ chúng tôi chỉ tụng 20 trang. Do vậy thời gian chắc còn lâu nữa mới xong phần này. Riêng Hoa Nghiêm và Đại Bảo Tích 9 quyển thì tôi và Đại chúng chùa Viên Giác đã trì tụng xong. Còn bộ Pháp Hoa cũng như 2 quyển kinh Đại Bát Niết Bàn, chúng tôi lạy mỗi chữ một lạy trong nhiều năm, cho đến đầu năm 2019 khi chúng tôi 70 tuổi thì đã lạy hết những kinh văn này. Thời gian sau đó là nghỉ ngơi và chưa biết là nên đọc tập nào tiếp theo.

Bỗng dưng thế giới lại xôn xao về nạn Covid 19 xảy ra tại Vũ Hán vào đầu năm 2020 tại Trung Hoa. Thế mà mãi đến tháng 3 năm 2020 Âu Châu mới bắt đầu thông báo là có một nạn dịch nguy hiểm đang hoành hành đó đây trên khắp thế giới. Từ đó những chuyến đi xa của tôi bắt đầu hủy bỏ, có nơi phải trả vé máy bay lại. Vì dịch Covid 19 bùng phát dữ dội tại Ý rồi Pháp, Đức v.v… khiến cho mọi người hốt hoảng. Riêng tôi tự nghĩ rằng: Nếu mình không đi đâu xa được thì ở nhà đọc kinh đọc sách v.v… vì đó cũng là niềm vui của tôi.

Bỗng đâu có Phật tử Minh Đăng Trần Tế Thế liên lạc qua email, cho tôi biết rằng Anh ta đang đọc lại và rà soát những chữ cũng như nghĩa sai trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, Anh đang gặp khó khăn là không thể đoán được những chữ cần sửa lại nên phải làm sao. Tôi bảo rằng: Hãy gởi qua để Thầy xem thử. Đó là những ngày giữa tháng 3 năm 2020. Bắt đầu là bộ Sự Vựng 1; thứ tự Kinh văn theo Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng kinh mang số 2121 và tập này có tất cả 1.962 trang chữ lớn.

Ban đầu tôi phải tự viết tay những việc như sau: Trang dòng thứ từ trên xuống từ dưới lên sai đúng 16 6 x an ăn 17 15 x ơ ở 29 29 x lạ lại 30 4 x mặt mặc 30 1 x sẽ xẻ

Tôi cặm cụi đọc và sửa lỗi chính tả như vậy cho đến trang 363 thì Minh Đăng làm cho tôi một bảng mẫu đã đánh máy sẵn, chỉ cần điền chữ sai và chữ đúng cũng như số trang vào là được. Ví dụ như sau:

Tập 195 Bộ Sự Vựng, Quyển 1 Trang câu có chữ sai chữ đúng Ghi chú 363 viên ngọc rơi xuống biển viết dính liền 363 vượt bao khó khăn viết liền câu 364 tìm châu báo báu 1961 địa ngục này. hoặc Hoặc

Đọc 1.962 trang chữ lớn của tập 195 này, tôi phải mất rất nhiều ngày. Nếu mỗi ngày tôi đọc từ 100 đến 200 trang chữ lớn thì cũng phải mất ít nhất là 20 ngày hay 10 ngày. Đó là chưa kể những ngày còn những chuyện khác phải làm nữa. Như vậy chỉ riêng tập 195 này của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, tôi phải mất gần 1 tháng trời. Sửa lại tất cả 61 trang viết tay kể cả chữ sai và chữ đúng. Sau đó mới chuyển hết lại cho Minh Đăng để Minh Đăng sửa vào máy chính bên Pháp.

Đến tập thứ 196 thuộc về Pháp Uyển Châu Lâm, Kinh văn số 2122 quyển 1 đến 33, Bộ Sự Vựng, quyển 2. Tập này có tất cả 1.761 trang và tôi phải viết cả chữ sai lẫn chữ đúng vào 50 trang viết tay như thế. Đến tập này thì tôi có ghi chú rằng: đọc xong tập này vào ngày 23.4.2020.

Tập 197 có 1.730 trang chữ lớn. Từ quyển 34 đến quyển thứ 66. Kinh văn số 2122 thuộc Pháp Uyển Châu Lâm - Bộ Sự Vựng, quyển 3. Tôi viết tay, sửa lại 55 trang và bên dưới có đề thêm mấy chữ là: Đọc xong ngày 4.5.2020.

Tập 198 từ quyển thứ 67 – 100. Tập này có tất cả 1.472 trang chữ lớn. Tập này cũng còn nằm trong phần Pháp Uyển Châu Lâm - thuộc Bộ Sự Vựng, quyển thứ 4. Tôi đọc liên tục sau tập thứ 197 và đã sửa lại lỗi chính tả tất cả gồm 65 trang; đến ngày 16.5.2020 thì hoàn tất tập này.

Tập 199 thứ tự Kinh văn từ số 2123 – 2126 thuộc Chư Kinh Tập Yếu - Bộ Sự Vựng, quyển thứ 5. Có 1.447 trang chữ lớn. Có 36 trang được sửa lại lỗi chính tả và tôi đọc tập này đến ngày 27.5.2020 thì xong.

Tập 200 thuộc Kinh văn số 2127 – 2128. Tiêu đề là: Thích Thị Yếu Lãm - Bộ Sự Vựng, quyển thứ 6. Tập này dày 1.433 trang chữ lớn. Tập này có 67 trang sai đã sửa lại lỗi chính tả và tập này tôi đã đọc xong vào ngày 6.6.2020 nhằm ngày Rằm tháng Tư âm lịch năm Canh Tý.

Tập 201 thuộc Kinh văn số 2128 của phần Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa - Bộ Sự Vựng, quyển thứ 7. Tập này có 3.094 trang chữ lớn, tôi bắt đầu đọc tập này vào ngày 8.6.2020 đến ngày 3.7.2020, gồm có 234 trang phải chỉnh sửa lại trong 23 ngày đọc và làm việc liên tục mới hoàn thành được tập này. Tập này có thể nói là tập bị sai nhiều lỗi chính tả nhất, trong các tập đã được đọc qua.

Tập 202 là tập cuối của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, bắt đầu từ Kinh văn số 2128 – 2131, và tôi đã bắt đầu đọc từ ngày 4.7.2020 qua 2.882 trang chữ lớn, để đến ngày 25.7.2020 nhằm ngày mùng 5 tháng 6 năm Canh Tý thì đọc xong. Có tất cả 88 trang cần phải sửa lại lỗi chính tả. Từ tập 195 đến tập 202 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh đã được quý Thầy Cô ở Việt Nam dịch trực tiếp từ quyển thứ 53 và quyển thứ 54 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh bản chữ Hán. Tổng cộng 2 quyển chữ Hán này là 2.260 trang (gồm 1.030 trang quyển 53 và 1.230 trang quyển 54; nhưng khi dịch ra 8 tập này (từ tập 195 đến tập 202) tổng cộng có 15.781 trang chữ Việt đánh máy loại chữ lớn. Tính trung bình 1 trang chữ Hán gồm 3 cột thượng, trung, hạ dịch sang tiếng Việt được 7 trang loại chữ lớn.

Kinh mang số 2131 là chấm dứt bên Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh; nhưng quyển thứ 54 này phần chữ Hán còn đến Kinh số 2144 vẫn chưa được dịch sang Việt ngữ; nghĩa là 13 Kinh văn trong quyển này cho đến quyển thứ 85, thuộc Kinh văn số 2920 vẫn chưa được dịch sang Việt ngữ. Bởi lẽ những tập sau này viết về Phật giáo Nhật Bản, Trung Hoa và Triều Tiên; nên Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh đã cho dừng ở đó.

Tôi những tưởng là mình được nghỉ ngơi sau khi đọc xong 8 tập cuối (từ tập 195 đến tập 202); nhưng Phật tử Minh Đăng yêu cầu tôi cố gắng xem tiếp giùm từ tập 190 đến tập 194 nữa. Do vậy tôi lại bắt đầu đọc cũng như sửa lại những lỗi chính tả từ tập 190 trở đi.

Tập 190 này có tất cả là 2.419 trang chữ lớn. Dịch sang tiếng Việt từ Kinh văn số 2081 – 2101. Phần này thuộc Đại Chánh Tân Tu, quyển thứ 51 - Sử Truyện Bộ thứ 3 từ trang 783 trở đi (phần chữ Hán). Tập 190 này thuộc Sử Truyện Bộ thứ 12 và tôi đã đọc đến ngày 5.11.2020 thì xong với 175 trang cần phải sửa lại lỗi chính tả.

Đến ngày 9.11.2020 tôi bắt đầu đọc tập thứ 191. Tập này có tất cả là 1.274 trang, bắt đầu từ Kinh văn số 2102 – 2103 thuộc Sử Truyện Bộ thứ 13. Tập này có 22 trang lỗi chính tả cần phải được sửa lại và đến ngày 19.11.2020 thì tôi đã đọc xong tất cả tập này.

Ngày 23.11.2020 tôi bắt đầu đọc tập thứ 192 với 1.334 trang khổ chữ lớn. Tập 192 này thuộc Sử Truyện Bộ thứ 14, quyển 19 – 30. Đọc đến ngày 2.12.2020 thì xong và tập này chỉ sai có 12 trang cần phải sửa lại lỗi chính tả.

Tập 193 có tất cả 1.338 trang thuộc Kinh văn số 2110–2115 - Sử Truyện Bộ thứ 15, quyển 1 - 8. Tôi bắt đầu đọc tập này vào ngày 3.12.2020, đến ngày 15.12.2020 thì xong với 19 trang cần phải sửa lại lỗi chính tả.

Tập 194 bắt đầu từ Kinh văn số 2115-2120 là chấm dứt. Phần này thuộc Sử Truyện Bộ thứ 16, quyển 11 - 19. Tôi bắt đầu đọc 1.084 trang này vào ngày 16.12.2020 và đến ngày 23.12.2020 thì xong với 14 trang cần sửa lại chính tả.

Như vậy tôi đã đọc được tất cả 13 tập sau cùng của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh (từ tập 190 – 202). Tuy nhiên những lần xuất bản trước, khi còn Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh điều hành và mãi cho đến sau khi Ngài viên tịch (2015), thì đã in ra được 187 tập và có 500 bộ đã được xuất bản. Như vậy kể từ tập 188 đến tập 202 phải hiệu đính lại. Tuy mới được chỉnh sửa lỗi chính tả thôi; nhưng ít ra cũng còn ít sai hơn là không dò lại và mang đi in thì phải nói là rất bất cập. Phần đối chiếu thì tôi không có thời gian để vừa đọc bên chữ Hán và sửa lại bên chữ Việt. Dĩ nhiên còn rất nhiều nơi dịch sai, bất cập do nhiều lý do khác nhau. Ví dụ như điển tích không rành, ngôn ngữ không thông nên dịch sai ý câu văn của tác giả v.v… Việc này cần phải có một Hội đồng phiên dịch mới có thể lo chu toàn được.

Như chúng ta được thấy sự hình thành của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh ở Nhật Bản từ năm 1922 đến năm 1934 không phải là kết quả của một ngày, một tháng, một năm, mười năm, một trăm năm, mà cả gần 2.000 năm lịch sử dịch thuật mới được như vậy. Do vậy Đại Tạng Kinh của Việt Nam chúng ta hay Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh cũng cần phải có thời gian dài lâu như thế mới có thể hoàn chỉnh được. Đồng thời việc ấy không phải chỉ có 1 người, 10 người, 100 người mà phải là hàng ngàn người trải qua thời gian lâu dài mới có thể thành tựu. Công việc này đòi hỏi sự bền bỉ của ý chí và tâm nguyện mới thực hiện được.

Sau khi đọc được 13 tập rồi thì Phật tử Minh Đăng có đề nghị với tôi là cố gắng đọc giùm thêm 2 tập nữa, từ tập 188 đến tập 189 để được trọn vẹn 15 tập sau cùng, và năm 2022 những tập này dự định sẽ được xuất bản để được trọn vẹn 202 tập tất cả. Tôi nể lời và nghĩ rằng: Chỉ còn có 2 tập nữa, nên hãy cố gắng lên. Thế là tôi bắt đầu đọc tập thứ 188, mà lẽ ra theo thứ tự; nên đọc từ tập này đến tập 202 thì thuận chiều hơn. Còn phần tôi thì khác, đọc tập 195 đến 202 trước. Kế đó đọc tập 190 đến tập 194 và sau cùng là 2 tập 188 và 189. Do vậy quý vị có thể thấy rằng ngày tháng đọc trước sau khác nhau; nhưng nếu sắp lại theo thứ tự của các tập từ 188 trở đi thì không có gì thay đổi cả.

Tập 188 tôi bắt đầu đọc vào ngày 28.12.2020 đến ngày 4.1.2021 thì xong 1.504 trang khổ chữ lớn với 30 trang lỗi chính tả sai, cần phải sửa lại. Tập này bắt đầu từ Kinh văn số 2076 - 2077 thuộc Bộ Sử Truyện thứ 10, quyển 11 - 30.

Tập 189 là tập cuối cùng của tôi đã đọc trong 15 tập bắt đầu từ ngày 5.1.2021 và đến ngày 19.1.2021 nhằm ngày mồng 8 tháng 12 năm Canh Tý; kỷ niệm lễ vía Đức Phật Thích Ca Thành Đạo thì đọc xong 1.734 trang. Tập này bắt đầu từ Kinh văn số 2077-2080 là chấm dứt. Đây thuộc Sử Truyện Bộ thứ 11, quyển 11-36, với 53 trang sai lỗi chính tả cần phải sửa lại.

Những tập 188 đến tập 194 (gồm 7 tập) được dịch từ tập thứ 51 (ở giữa) từ trang 196 đến trang 1.135 (gồm 939 trang) và tập thứ 52 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh từ Kinh văn số 2105-2115 (gồm 750 trang chữ Hán). Đặc biệt là Kinh văn số 2116 đến Kinh văn số 2120 (gồm 5 Kinh văn) chưa được dịch ra Việt ngữ không hiểu lý do vì sao. Tổng cộng có 1.689 trang chữ Hán gồm 3 cột thượng, trung, hạ.

Tổng cộng của 7 tập này (188-194) phần tiếng Việt có 10.687 trang. Nếu cộng tất cả 15 tập (từ tập 188-202) có tất cả là 26.468 trang loại chữ lớn. Kể từ tháng 3 năm 2020 tôi bắt đầu đọc và mãi cho đến ngày 19.1.2021 mới xong. Có nghĩa là đọc ròng rã trong vòng gần 11 tháng như vậy. Nếu chia trung bình mỗi tháng tôi đọc từ 20 đến 25 ngày, thì mỗi ngày tôi phải đọc được khoảng 120 trang hơn, trong suốt 220 ngày. Nếu tôi đọc trong 275 ngày của 11 tháng ấy thì trung bình mỗi ngày tôi đã đọc được trên 97 trang kinh khổ chữ lớn. Ở tuổi 72, 73 rồi mà tôi còn được con mắt sáng, sức khỏe dẻo dai như vậy, không bịnh hoạn trong suốt một thời gian dài như thế, quả là một việc bất khả tư nghì. Tôi chỉ thầm niệm ân Tam Bảo chứ chẳng có gì hơn. Vì nếu không có lực của Tam Bảo gia hộ thì tôi đã không làm được việc này. Còn chuyện đúng sai, xin để lại đời sau phán đoán, khi nắp quan tài đã đậy lại rồi (cái quan luận sự).

Khi đọc đến đoạn nào trong các Kinh văn của 15 tập trên (từ 195-202) tôi đều ghi chép lại. Có khi dùng để viết bài. Ví dụ như bài viết về “Tổ Sư Khương Tăng Hội”, bài “Cửa ngõ an vui ra khỏi ba cõi” đăng trong Đặc San Văn Hóa Phật giáo số 3 xuất bản năm 2021 chẳng hạn. Đó là những việc tiêu biểu mà tôi đã làm. Hôm nay tôi lần lượt viết lại hết những gì đã ghi chú khi đã đọc qua cả mấy chục ngàn trang kinh trong 15 tập cuối này của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh để quý vị liễu tri. Ví dụ như đoạn cuối của Kinh văn số 2131, quyển thứ 8, trang 2848 thuộc Bộ Sự Vựng được viết như sau:

“Khi biên soạn đến đây thì đã 64 tuổi rồi, may mà mắt chưa mù, còn viết được chữ nhỏ. Dứt bút rất mừng. Bèn có tụng rằng:

Tiếng Phạn phân rành khó khắp cầu
Viết bài nêu yếu hội mọi người
Tổng trì (nắm vững) ba tạng như xem (chỉ trong) bàn tay
Rất mong Hậu Hiền viết tiếp cho”.

“Tập phiên dịch danh nghĩa này là của Ngài Phổ Nhuận Đại Sư Pháp Vân, ở Chùa Cảnh Đức tại Cô Tô biên soạn ra. Sách này đến nước này (Trung Quốc) có năm tháng rõ ràng (có hơn một năm) cho nên thường thường khắc bản in ra mà truyền cho đời cũng rất ưa chuộng. Có bản đời Đường để kiểm điểm. Vì quá rộng nên bản có nhiều chỗ thoát giản (dịch thoát, giản đơn). Thế nên khảo đính mà bổ sung chỗ thiếu và lược. Lại Bàn Gia uy điểm, thì điểm ấy chẳng phải là một chuẩn thỉnh ở mọi nơi trường học có người viết chép, ắt biết có chỗ phải, cũng có chỗ sai. Rất mong những bậc sáng suốt nên thêm hoặc bớt cho. Liêu mạng công thọ mộc để rộng truyền vậy. Năm Khang Vĩnh thứ 5, năm Mậu Thìn (1629?) thượng tuần tiết trọng đông (ngày thượng tuần tháng 11)”.

Đọc đoạn văn trên đây tôi rất cảm động. Vì lẽ ngày xưa không phải như bây giờ có đầy đủ tiện nghi. Ví dụ như muốn viết chữ Hán thì trước tiên phải mài mực, sau đó lấy bút lông chấm vào nghiên mực rồi lấy giấy súc ra viết chữ lên đó. Chắc chắn rằng ngày xưa giấy không tốt bằng bây giờ và mực thấm trên bút lông cũng chỉ có thể viết 5 đến 10 chữ là phải thấm lại mực khác vào đầu bút lông. Cũng có nhiều vị kính trọng Kinh Văn là lời dạy của Đức Phật và chư Tổ Sư truyền thừa; nên khi muốn viết Kinh thì họ chấm mực và viết xong mực lại ra bên ngoài hít thở, sau đó vào bên trong chấm lại mực khác để viết những dòng chữ tiếp theo. Đây là hình thức cung kính, tôn trọng lời người xưa để lại. Còn bây giờ lại khác hoàn toàn, làm cái gì cũng phải cho nhanh, cho gấp. Thế nhưng kết quả lại chẳng bằng người xưa.

Ngày xưa các vị Tổ ngồi cả ngày Thiền định để viết một hai chữ với nét bút thật là thiền vị; còn bây giờ một ngày viết được không biết bao nhiêu là trang giấy; nhưng phần nội dung thì chẳng có ý nghĩa gì sâu sắc. Ngày xưa đa phần là đi bộ; nhưng vững chắc vô cùng. Bây giờ hầu như đi đâu cũng đi máy bay, xe hơi, hay tàu lửa, tàu thủy; nhưng nguy hiểm, chết chóc nhiều hơn ngày xưa rất nhiều. Ngày xưa người ta ăn nói rất chất phác, thật thà. Còn bây giờ nói toàn là những lời hoa mỹ, nhưng nội dung thì chẳng có gì cả. Đúng là đời sống tinh thần giữa xưa và nay cách nhau một trời một vực là như vậy. Viết hay dịch xong một trang kinh, sau khi để bút xuống rất nhẹ nhàng; nhưng người xưa cũng rất khiêm cung. Bởi lẽ việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác không phải là chuyện đơn giản, nên có chỗ đúng lẫn chỗ sai và cầu người khác giảo chánh lại cho mình.

Khi đọc dò lại lỗi chính tả cho Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, bộ Sự Vựng quyển thứ 8, từ trang 2847-2848 Kinh văn số 2131. Nếu tra bên chữ Hán của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh chúng ta sẽ thấy ở trang 1.185 của quyển thứ 54, phần giữa được dịch như sau:

“Luận Bà Sa nói: Ở thế giới này tu đạo có hai. Một là khó làm ở trong đời ác năm trược, ở trong Vô Lượng đời Phật mà cầu A Bệ Bạt Trí (Bất thối chuyển) thật là khó được. Vô số khó này trần sa kiếp cũng chẳng thể nói hết. Hai là Đạo dễ làm, nghĩa là tin lời Phật dạy, niệm Phật tam muội, nguyện sanh Tịnh Độ, nương sức nguyện của Phật A Di Đà nhiếp trì, thì quyết định vãng sanh; nên gọi là Đạo dễ làm. Bảng nghĩa môn này hiện có Phật độ. Dẫu số hơn bụi đất, thì lý đồng cảnh tượng. Duỗi ra tuy có vạn hóa, nhưng cuốn lại thì một pháp cũng chẳng lập“.

Như thế đủ biết rằng ở đời ác năm trược này khó tu và khó chứng quả vị vô thượng Bồ Đề. Cái khó ấy theo Luận Tỳ Bà Sa nói thì nhiều như cát và hạt bụi nhỏ, nói làm sao hết được. Nếu người có thượng căn thượng trí thì may ra có thể đạt được giải thoát sanh tử chỉ trong một hai kiếp, nhưng số người này ít ỏi lắm. Chi bằng trong đời ác này hãy nhất tâm niệm Phật và nương vào nguyện lực của Đức Phật A Di Đà, thì chắc chắn việc vãng sanh về Tây Phương Tịnh Độ không còn gì nghi ngờ nữa. Nên đây là con đường dễ làm nhất mà chư Tổ đã dạy cho chúng ta như vậy.

Ở phần “Pháp Uyển Châu Lâm” có nhiều câu chuyện được trích ra rất hay, còn phần Sự Vựng hơi khô khan một chút. Tuy nhiên thỉnh thoảng vẫn có những câu chuyện tích rất sâu sắc về Pháp môn Tịnh Độ.

Ví dụ trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh quyển thứ 189 thuộc Kinh văn số 2080 Bộ Sử, truyện thứ 11, phần: Truyền pháp chánh tông luận, quyển 1, trang 1710 có ghi lại phần trong Đại Trí Độ Luận như sau:

Tôn Giả Long Thọ nói: “Trì giới là da, Thiền định là thịt, trí tuệ là cốt, vi diệu thiện tâm là tủy.”

Chỉ cần đọc, học và thực hành một lời dạy ngắn của Ngài Long Thọ, chúng ta cũng có thể lãnh hội được pháp rồi. Bởi vì giới, định, tuệ là tam vô lậu học, đối nghịch lại với tham, sân, si của chúng sanh mà chúng ta thường thấy gặp. Nhưng Ngài bảo rằng những người trì giới mới chỉ là việc ở ngoài da thôi. Ai thiền định miên mật thì người ấy đã vào trong thịt. Còn kẻ nào đạt được trí tuệ; đó mới chỉ là xương cốt. Chỉ khi nào được vi diệu thiện tâm. Ấy mới chính là tủy của mỗi người học đạo và hành đạo.

Ngày 17 tháng 7 năm 2000 tôi đọc đến tập thứ 202 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh thuộc Kinh văn số 2128 phần Nhất Thiết Âm kinh nghĩa, quyển 99, trang 1646 Bộ Sự Vựng thứ 8 ở phần tựa ghi là: Trùng hiệu nhất thiết kinh âm nghĩa tựa. Nội dung ở Kinh văn này nói việc dịch kinh có đúng sai và nhiều lý do khác nhau như lúc khắc bản in kinh hoặc do giới hạn bởi ngôn ngữ của người dịch. Những bản kinh này có liên quan đến bản Đại Tạng của Cao Ly và Nhật Bản. Như vậy khi đọc kinh, luật hay luận được dịch ra bất cứ ngôn ngữ nào, chúng ta cũng phải nắm bắt nội dung của kinh văn hơn là hình thức. Vì người dịch và người nói, hai người khác nhau. Khi ý viết nên thành lời nó không giống hệt nhau; rồi từ dó “tam sao thất bổn”, nghĩa là 3 lần sao đi sao lại sẽ mất đi bản chính. Cho nên Đức Phật hay dạy rằng: Nương vào Pháp để tu; chứ đừng nương vào người. Vì lẽ người thì có đúng có sai; còn pháp không đúng thì thôi, chứ không bao giờ sai cả. Việc này cũng giống như ngón tay chỉ mặt trăng vậy. Mặt trăng tượng trưng cho chơn lý. Khi ngón tay chỉ mặt trăng, có nghĩa là chúng ta nương vào phương tiện của ngón tay để thấy mặt trăng; chứ đừng lầm ngón tay là mặt trăng.

Ngài Thiền Sư Đức Tốn ở Huệ Lâm dạy rằng: “Bồ Tát Văn Thù lấy vô trú làm gốc. Tổ Sư Tào Khê lấy vô niệm làm Tông. Tông của vô niệm là tông của muôn pháp. Gốc của vô trú là gốc của muôn pháp.” (Trích Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, tập thứ 189. Kinh văn số 2077 ở mục Tục Truyền Đăng Lục quyển 16, trang 317).

Quả là tuyệt vời! Đã là vô trú thì đâu có chỗ nào là gốc? Đã là vô niệm, không nghĩ thiện, không nghĩ ác thì đó chính là Tông chỉ của Thiền. Muôn pháp đều từ vô niệm mà sanh. Gốc của vô trú cũng là gốc của muôn pháp vậy.

Việc phiên dịch kinh Đại Bát Nhã được mô tả ở Kinh văn số 2119, tập thứ 194 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh ở trang 846 thuộc Sử Truyện Bộ 16 có nói về biểu khải của Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang rằng: “Khởi đầu từ ngày mồng Một tháng Giêng niên hiệu Hiển Khánh thứ 5 (661), bắt đầu phiên dịch Kinh Đại Bát Nhã từ tiếng Sanskrit sang chữ Hán và đến ngày 23 tháng 10 năm Long Sóc thứ 3 (663), là hoàn tất gồm 600 quyển”. Như vậy chỉ trong vòng gần 2 năm, Ngài Huyền Trang đã chủ trì việc phiên dịch này thành công như vậy. Riêng bộ này đã được Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm bắt đầu dịch ra tiếng Việt từ năm 1972 và hình như 20 năm sau Ngài mới dịch xong Bộ Đại Bát Nhã 600 quyển này. Trong lời tựa của lần xuất bản thứ nhất Hòa Thượng bảo rằng gần nơi thất của Ngài dịch kinh ở chùa Long Sơn tại Nha Trang có một cây mít và chính ngày ấy 6 bông mít đã đậu thành quả. Tiếng Anh gọi quả mít là jackfruit; trong khi đó tiếng Sanskrit gọi là quả paramita, đồng âm với Ba La Mật Đa cũng có nghĩa là đáo bỉ ngạn hay Bát Nhã.

Ngày xưa khi Ngài Huyền Trang chủ trì việc phiên dịch này ở Ngọc Hoa cung, có cả hàng trăm người giỏi Hán-Phạn hay Phạn-Hán theo cùng để đối chiếu dịch và được Vua Đường Thái Tông ủng hộ hết mình, từ vật chất đến tinh thần, các Ngài chỉ chuyên chú vào việc dịch thuật nên mới được như vậy.

Còn Việt Nam chúng ta vào thời ấy, tuy rằng đến năm 1973 Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã chủ trương cho phiên dịch Đại Tạng Đại Chánh từ chữ Hán sang tiếng Việt (xem thêm phần Hội Nghị toàn thể Hội Đồng phiên dịch ở phần phụ lục phía sau). Từ cuối năm 1973 đến tháng 4 năm 1975 các Ngài chưa dịch được bao nhiêu kinh, luật, thì ngày 30.4.1975 biến cố đã ập đến với dân tộc Việt. Thuở ấy khốn khổ vô cùng; cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Tư tưởng thì bị theo dõi kiểm soát ở mọi nơi, mọi chỗ nên vị nào nhập thất để tu thì có thể làm việc nghiên tầm dịch thuật, như cố Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm. Nhờ vậy mà ngày nay chúng ta mới có đầy đủ 600 quyển Kinh Đại Bát Nhã này để đọc tụng và hành trì. Ban đầu thì Hòa Thượng Thích Đỗng Minh có chủ trương in ấn những kinh sách mà Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch sang Việt ngữ, nhưng trong nước cách đây chừng 10 hay 20 năm về trước không có phương tiện, nên ở Hoa Kỳ đã thành lập một ban hỗ trợ tài chánh, để in ấn những kinh sách đã được dịch ra Việt ngữ. Ban đầu bộ Đại Bát Nhã này đã được Hòa Thượng Thích Thiện Siêu hiệu đính lại phần Việt ngữ, in ra 12 tập khổ lớn, trông rất trang trọng, và sau này ở Việt Nam khi kinh tế khá hơn, các nhà in đã bắt đầu in kinh sách của Phật giáo, ngay cả bộ Đại Tạng của Linh Sơn cũng đã được in chui, không có sự đồng ý bên Pháp và Đài Loan. Bởi lẽ từ tập 188 đến tập 202 chưa hoàn chỉnh. Tuy vậy đó cũng chỉ là sự cố gắng ở phương diện thương mại; chứ chưa phải ở lãnh vực nghiên cứu và học thuật.

Ở Nhật thời Thiên Hoàng Đại Chánh và Chiêu Hòa từ năm 1922 đến năm 1934, trong 13 năm đó Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh đã được hình thành và được triều đình hai vị Thiên Hoàng này bảo trợ. Trong khi đó Việt Nam chúng ta dân chúng còn nghèo quá làm sao kêu gọi đóng góp; còn chính quyền hiện tại không phải là một chính quyền có chính sách thân thiện với tôn giáo. Do vậy chờ đợi việc chính quyền giúp đỡ in ấn Đại Tạng Kinh là chuyện không tưởng. Đứng từ điểm này, cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh đã có lý khi chỉ một mình Ngài ở Đài Loan từ năm 1994 đã về nước tìm người phiên dịch và đi khắp nơi trên thế giới, vận động tài chánh để in bộ Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh. Cho đến năm 2015 khi Ngài viên tịch thì cũng chỉ mới in được 187 tập, còn 15 tập nữa kể từ tập thứ 188 đến tập 202 sẽ xuất bản trong năm 2022, để hoàn thành tâm nguyện của Hòa Thượng Tịnh Hạnh.

Tuy rằng bộ Đại Tạng dịch ra Việt ngữ này cũng chưa phải hoàn hảo lắm, nhưng nó cũng là một sự khởi đầu để cho những công trình sau có thể tiếp tục phần vụ của mình, miễn sao Phật giáo Việt Nam có được một Đại Tạng Kinh hoàn chỉnh như của Trung Hoa, Tây Tạng, Mông Cổ, Triều Tiên và Nhật Bản là quý hóa lắm rồi.

Năm 2019 là năm tôi đúng 70 tuổi Tây (71 tuổi ta), nhân sự kiện trọng đại này quý Thầy đệ tử xuất gia và các đệ tử tại gia chủ trương trì tụng bộ Kinh Đại Bát Nhã 24 tập gồm 600 quyển do cố Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch, nhưng vì thời gian tụng 100 người trong vòng 10 ngày (từ ngày 17 đến ngày 26 tháng 6 năm 2019) thì không thể xong 24 tập được. Cho nên Thầy Hạnh Tấn sau đó chia riêng ra từng nhóm nhiều vị để tụng nhiều tập khác nhau cho xong 24 tập; chứ không tụng chung như mấy ngày đầu nữa. Kể ra như vậy cũng là một việc làm đáng tán dương khi nghĩ đến Thầy mình, khi Thầy mình còn đang có mặt trên trần thế này.

Vào giữa năm 2019 đến năm nay 2021, trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ, Thầy trò chúng tôi mỗi tối thay vì lạy kinh mỗi chữ một lạy như mấy mươi năm trước đây, thì chúng tôi bắt đầu trì kinh Đại Bát Nhã 600 cuốn này. Mỗi đêm Thầy trò chúng tôi chỉ tụng 20 trang, sau đó niệm Phật, ngồi thiền độ 15 đến 20 phút, đoạn xả thiền. Và bây giờ là cuối tháng 6 năm 2021, gần ngày sinh nhật của tôi (28.6), Đại chúng đã tụng được 6 tập rồi, còn 18 tập nữa, mỗi tập dày từ 500 trang trở lên, chắc còn phải trì tụng trong nhiều mùa An Cư Kiết Hạ như thế mới mong xong được.

Ngày 23.4.2020 tôi đọc tập thứ 196 bộ Sự Vựng, quyển 2 thuộc Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh. Kinh văn số 2122 về Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 29, trang 1410 đến trang 1472 phần Thánh Tích, có nói về việc Ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh ở Ấn Độ. Ngoài ra còn bộ Đại Đường Tây Vực Ký ở tập 51 thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 2087 thuộc Sử Truyện bộ 12 từ trang 867 và Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh ở tập 190.

Sau khi Ngài Huyền Trang về lại Trung Quốc vào năm 645, đã được Vua Đường Thái Tông thỉnh Ngài ở Ngọc Hoa cung để chủ trì việc dịch các Kinh điển, trong đó có Kinh Đại Bát Nhã này và Bát Nhã có 8 bộ tất cả như trong tập thứ 194 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, thuộc Luận Chiết nghi 1 về phá hữu quy không, nên gọi Bát Nhã là Không tông. Đây thuộc Sử Truyện bộ thứ 16 và Kinh văn số 2118. Tám bộ Bát Nhã là:

1) Đại phẩm Bát Nhã

2) Trung phẩm Bát Nhã

3) Phóng quang Bát Nhã

4) Quang Tán Bát Nhã

5) Đạo hạnh Bát Nhã

6) Kim Cương Bát Nhã

7) Thắng Thiên Vương Bát Nhã

8) Văn Thù Bát Nhã

Ở quyển 194 này cũng có dịch phần biểu văn của Ngài Huyền Trang xin vào núi Tung, để nhập thất vào những ngày cuối đời và Ngài không về lại cung như vua đã thỉnh. Đây thuộc Kinh văn số 2119, trang 837.

Kinh văn số 2088 về Thích Ca Phương Chí ở Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh thuộc quyển hạ và Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh tập 190 thuộc bộ Sử Truyện 2, trang 1255 loại chữ lớn có đề cập đến Ngài Khương Tăng Hội và Ngô Tôn Quyền (xem thêm bài về Tổ Sư Khương Tăng Hội ở phần phụ lục phía sau). Theo sử sách cho biết (Thiền Sư Nhất Hạnh và Giáo Sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát), thì cha của Ngài Khương Tăng Hội là người nước Khương Cư, đến Giao Châu lấy vợ người Việt Nam và sinh ra Ngài Khương Tăng Hội. Cho đến bây giờ đa phần các sử sách đều chưa ghi rõ năm sinh của Ngài Khương Tăng Hội, nhưng được biết rằng vào năm 247 nhằm Xích Ô năm thứ 10, Ngài Khương Tăng Hội sau 21 ngày dùng thần thông hóa hiện ra Xá lợi, khiến cho Ngô Tôn Quyền phải kính nể, đã hỏi Hám Trạch về sự linh ứng này thì Hám Trạch trả lời rằng: Nếu đem sự sâu xa của 2 nhà Khổng Tử và Lão Tử để sánh với sự sâu xa của Phật Pháp thì là rất xa vậy. Tại sao?

“Lão Tử thiết lập giáo, phép tắc tại trời chế định, chẳng dám trái với trời; còn chư Phật thiết lập giáo, phép trời phụng hành, không dám trái với Phật. Lấy đó để nói thì thật không thể đối sánh rõ ràng vậy.”

Tôn Quyền vui mừng, chọn Hám Trạch làm Thái tử thái phó.

Từ Đại Tạng Kinh đã chép lại với những sự tích như vậy, còn tin hay không là do mỗi người chúng ta tự khảo sát lấy. Tuy nhiên cho đến nay các sử gia Phật giáo đều chủ trương rằng: Nên tôn xưng Ngài Khương Tăng Hội là Sơ Tổ của Phật giáo Việt Nam.

Theo nội dung của “Lục Độ Tập Kinh” trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh có nói về việc này, và theo sự nghiên cứu về luật tạng của Thượng Tọa Thích Tâm Nhãn, thì giới đàn Tỳ kheo được truyền cho Ngài Khương Tăng Hội là giới đàn đầu tiên ở Giao Châu và giới đàn này xảy ra trước những giới đàn Tỳ Kheo ở miền nam Trung Quốc. Bởi vậy nhiều sử gia cho rằng khi Ngài Khương Tăng Hội đến kinh đô Kiến Nghiệp, lúc ấy miền này do Ngô Tôn Quyền cai trị, Phật giáo vẫn chưa có mặt và hầu như chưa được thịnh hành như miền Bắc của xứ Trung Hoa. Do vậy có nhiều người cho rằng: Đạo Phật Việt Nam được truyền vào Trung Quốc, chứ không phải đạo Phật được truyền từ Trung Quốc vào Việt Nam.

Sự trả lời của Hám Trạch cho Ngô Tôn Quyền nghe về sự khác biệt giữa Khổng, Lão và Phật. Rõ ràng là ngay từ những ngày đầu của lịch sử dân tộc Trung Hoa, họ đã lấy Khổng và Lão làm nền tảng tâm linh để phát triển quốc gia này, nhưng so với Phật thì Lão và Khổng vẫn còn giậm châm tại chỗ nơi đời sống ngũ trược ác thế này, nên mới không dám trái mệnh trời. Còn trời, theo Phật giáo vẫn còn trong vòng luân hồi sanh tử và ngược lại trời lại phụng hành lời Phật dạy. Ví dụ như những vị Trời ở cõi Tứ Thiên Vương, bao giờ cũng có ý nguyện đi bảo hộ Phật và giáo pháp của Ngài. Kể từ đó Ngô Tôn Quyền cho xây dựng chùa chiền to lớn ở đất Kiến Nghiệp, để cho dân chúng lễ bái nguyện cầu.

Lâu nay chúng ta hay nghe nói lúc Thái tử Tất Đạt Đa được sinh ra tại vườn Lâm Tỳ Ni thì hoa Vô Ưu nở rộ, chim chóc ca hót đón mừng sự ra đời của Thái tử. Từ trên không có con rồng 9 đầu phun 2 dòng nước ấm và lạnh để tắm gội cho Thái tử và sau đó Thái tử bước đi 7 bước, dưới mỗi bước chân đều mọc lên một đóa sen. 7 bước này lâu nay có nhiều Pháp Sư giải thích khác nhau, nhưng theo Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, tập 194, trang 594 ở phần Kinh văn số 2118 về Luận Chiết Nghi thì 7 bước ấy là: Bảy đức tài, gồm: Tín, Tấn, Giới, Tàm quý, Văn xả, Định và Huệ.

Tín chính là niềm tin. Niềm tin ấy như trong kinh Pháp Hoa nói là mẹ sinh ra mọi công đức vậy. Tấn là sự siêng năng tu học. Giới chính là những sự ngăn che, không cho chúng ta rơi vào tội lỗi. Tàm quý là việc biết xấu hổ và thẹn lòng, khi chúng ta đã tạo ra tội lỗi. Văn xả là nghe và bỏ, có nghĩa là nếu những điều gì chúng ta nghe, nhưng nếu không đúng chánh pháp thì hãy bỏ đi. Định ấy là thiền định, chính nhờ sự định tĩnh chúng ta sẽ sinh ra được trí tuệ và chính nhờ trí tuệ ấy con người đi đúng hướng để đến mục đích giải thoát sanh tử luân hồi.

Một bậc Thánh đã xuất hiện nơi trời Tây (so với Trung Quốc). Đó là xứ Ấn Độ, nên Khổng Tử mới nói rằng: “Người ở phương Tây có bậc Thánh, không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, không hóa mà tự lành. Mênh mông thay! Dân không thể gọi tên vậy.”

Một bậc “vạn thế sư biểu” như Khổng Tử mà còn thốt lên những lời ca ngợi Đức Thích Ca Mâu Ni Phật tuyệt vời như vậy thì chẳng có vĩ nhân nào hơn Đức Phật được cả.

Trong khi đó thì Tăng Tử nói rằng: “Người ưa chuộng thiện, phước tuy chưa đến, mà cái họa đã xa vậy. Còn người thích làm ác, chuyện hung hăng tuy chưa đến, mà cái họa rất gần vậy.”

Rõ ràng những bậc Thánh nhân xuất hiện trong đời này, từng lời nói, từng cử chỉ của họ đã giúp cho đời sống tâm linh của con người cải thiện không ít. Đức Phật cũng đã từng dạy rằng: Tuy vào rừng trầm không bẻ cành hay lá, nhưng ra khỏi rừng trầm rồi, trên áo vẫn còn thơm mùi trầm. Đó là những hiền nhân quân tử. Còn kẻ ác cũng giống như người đi chợ cá. Tuy chưa hay không mua cá, nhưng khi ra khỏi chợ cá rồi thì mùi cá tanh hôi vẫn còn bám chặt nơi quần áo của chúng ta.

Lâu nay tôi cũng thường hay nghe nói đến Tam Hoàng, Tam Vương và Ngũ Đế ở thời cổ đại của Trung Hoa, nay nhân việc đọc Đại Tạng Kinh mới hiểu rõ được như sau. Đó là: Mạnh Tôn, Quý Tôn và Thúc Tôn. Có nơi cũng gọi là: Phục Hy, Thần Nông và Hiên Viên. Khi mới vào học Trung Học, trong giờ lịch sử chúng tôi vẫn được học là: Cháu ba đời của Thần Nông là Đế Minh; Đế Minh kết duyên với nàng tiên sinh ra Lộc Tục; Lộc Tục đến sinh sống ở Hồ Động Đình, sau đó sinh ra Lạc Long Quân; Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh ra 100 cái trứng, nở thành 100 người con, 50 người theo cha lên núi và 50 người theo mẹ xuống biển. Đây cũng là Tổ Tiên của người Việt Nam, vốn là giống rồng và tiên hội tụ lại. Đây là huyền sử, vì sử này chẳng có ghi lại ngày tháng nào những vị này xuất hiện cả, nhưng chúng ta cứ tin là đã có một ông gọi là Thần Nông như vậy. Còn ai sinh ra ông Thần Nông thì thiên hạ vẫn còn đang đi tìm nguồn gốc xa xưa ấy.

Tam Vương ở đây là chỉ cho Nhà Hạ, Nhà Thương và Nhà Chu. Các vị vua này trị vì bên Trung Quốc. Cách mấy ngàn năm trước khi Đức Chúa bên Trung Đông ra đời.

Còn năm Đế ấy là: Thiếu Hạo, Hiên Viên, Cao Tân, Đường Nghiêu và Ngu Thuấn. Nghiêu và Thuấn là hai triều đại rất thái bình thịnh trị bên Trung Hoa, nên hai bài kệ hô chung buổi tối và sáng các chùa trong khi gióng đại hồng chung thường nguyện bằng tiếng Việt như sau:

“Nguyện cầu Phật nhựt tăng huy
Pháp luân thường chuyển gió hòa dân an,
Tứ sinh ba cõi nhờ ân,
Luân hồi sáu đạo lụy thân đã nhiều.

Nguyện cầu báo chướng đều tiêu,
Mười loài chín cõi an, siêu vẹn toàn.
Trần gian duyên nghiệp lầm than,
Nguyện tiêu tất cả tội mang nhiều loài.

Bão lụt đói khát nạn tai,
Nam hòa Đông thuận như thời Thuấn Nghiêu.
Nghiệp phiền khổ chướng tiêu diêu,
Trận vong binh tướng nguyện siêu liên hồng.

Nhân hòa địa lợi đều thông,
Chim bay thú chạy bẫy vòng chớ vương.
Cô thân lãng tử tha hương,
Mau về quê mẹ trọn thương nghĩa tình.

Nguyện cầu chư Phật độ sinh,
Vô biên thế giới đất trời gần xa.
Viễn cận Tăng tín đàn-na,
Thiền môn an tịnh lợi tha đạo vàng.

Long thần thổ địa hân hoan,
Hộ Tăng hộ Pháp đạo tràng hưng long.
Mẹ, cha, sư, hữu tồn vong,
Mất còn lợi lạc vẫn trong chơn thường.

Đường về bến giác quê hương,
Đồng đăng bỉ ngạn Tây phương Di Đà”.
(Trích Nghi thức thỉnh Đại hồng chung – Chùa Bảo Vương Melbourne, Úc Châu – Hòa Thượng Huyền Tôn dịch từ chữ Hán sang thơ lục bát tiếng Việt).

Ngày còn nhỏ khi chúng tôi mới vào chùa (1964) chỉ hô chung theo chữ Hán; trong đó có câu: “Nam mẫu đông giao, câu triêm Nghiêu Thuấn chi nhựt” chẳng hiểu là gì cả. Nay được Hòa Thượng Thích Huyền Tôn cho dịch hoàn toàn ra tiếng Việt, nên chúng ta biết rằng: Phía nam thì mưa hòa; phía đông thì gió thuận như thời của Vua Nghiêu và Vua Thuấn trị nước. Quả là những bậc quân chủ hiền tài, nên đất nước mới được thái bình thịnh trị như vậy.

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, với Kinh văn số 2122 phần Pháp Uyển Châu Lâm quyển thứ 48, tương đương với Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, quyển thứ 197 ở trang 749 phần Sự Vựng 3, có đề cập đến việc Ngài Thích Đạo An coi sóc chùa Đại Trung Hưng ở chốn kinh sư, đã viết ra 9 điều răn cho người xuất gia rất là hay. Nội dung không khác với quyển Quy Sơn Cảnh Sách của Ngài Linh Hựu khuyên người xuất gia là mấy. Đọc những đoạn văn như vậy cảm thấy thấm thía vô cùng. Vì lẽ không thể viết hết vào sách này được. Quý vị nào muốn đọc, chỉ cần tra cứu theo Kinh văn số mấy mà tôi đã nêu ra, thì có thể tìm ra ngọn ngành của mọi câu chuyện. Khi tôi dò Kinh văn cảm thấy chỗ nào hay, mang nhiều ý nghĩa đặc biệt thì tôi ghi chú vào một miếng giấy nhỏ và từ đó trích ra viết vào sách này để giới thiệu với quý vị. Nếu quý vị tìm được những Kinh văn mà tôi đã đọc và giới thiệu như trên thì sẽ cảm nhận được những gì mà chư Tổ ngày xưa đã truyền đạt lại. Ví dụ như thông tin sau đây:

Tập 51 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh thuộc bộ Sử Truyện thứ 13, thứ tự Kinh văn số 2102 thuộc Hoằng Minh Tập quyển thứ 5, thì Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh nhằm tập 191 từ trang 174 đến trang 186, có 5 thiên luận về Sa Môn Bất Kính Vương Giả của Pháp Sư Huệ Viễn. Đó là 5 việc Ngài đã nêu ra như: 1) Tại gia, 2) Xuất gia, 3) Cầu tông chẳng thuận hóa, 4) Thể cực chẳng gồm ứng và 5) Hình tận mà thần chẳng diệt. Nội dung của luận này rất hay. Quý vị có thể mở tập chữ Hán thứ 51 tìm Kinh văn số 2102 hay Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh tập 191, sẽ đọc được lý luận sắc bén của Ngài Huệ Viễn và kể từ đó về sau Sa Môn không phải lễ lạy khi vua đến chùa nữa.

Chứng Đạo Ca của Đại Sư Huyền Giác ở Vĩnh Gia được dịch sang phần Việt ngữ trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, quyển thứ 188; thứ tự Kinh văn số 2076 thuộc bộ Sử Truyện 10, mục Cảnh Đức truyền đăng lục, quyển thứ 30 trang 990 có đăng nhiều câu chuyện và nhiều pháp ngữ rất hay. Ví dụ như sau đây là một câu tiêu biểu. “Khi mê thì người chạy theo pháp. Khi ngộ thì pháp do (nơi) người.” Đây là ngữ lục của Hòa Thượng Tuệ Hải ở Đại Châu - Việt Châu, Trung Quốc. Rõ ràng là như vậy, kẻ tìm pháp cũng giống như kẻ chăn trâu. Nếu chưa hàng phục được tâm của mình, thì con trâu trong tâm ấy vẫn còn hung hăng lắm. Chỉ khi nào mình làm chủ được mình thì giữa trâu và mình không có khoảng ngăn cách nào cả. Pháp không nằm bên ngoài. Nếu ta có chạy đi tìm kiếm khắp đông, tây, nam, bắc, thì cũng không bằng tìm lại nơi chính mình. Khi nào mình thấy được mình, chính là thấy được tánh giác rồi vậy. Để từ đó ta có thể thỏng tay vào chợ và vạn pháp sẽ sinh ra từ đó.

Linh Sơn Bảo Pháp Đại Tạng Kinh quyển 190, Kinh văn số 2089 thuộc bộ Sử Truyện 12, phần Du Phương ký sao trang 1365 tường thuật lại như sau:

Vào ngày 13.12 năm Khai Nguyên thứ 18 (730) thời Tiền Đường. Ngài Tăng Chánh Bồ Đề Tiên Na cùng những đồng bạn của Lâm Ấp là Sa môn Phật Triết, Sa môn Tăng Duệ người Trung Hoa theo thuyền đi đường biển để đến Trung Quốc.

Kinh văn này nếu đọc hết thì có nội dung như sau: Ngài Phật Triết người nước Lâm Ấp. Vậy nước Lâm Ấp nằm ở đâu mà ngày nay chúng ta không thấy trên bản đồ? Nước này liên hệ với Chiêm Thành và lập quốc từ năm 192. Theo học giả Đào Duy Anh thì “Kinh đô Lâm Ấp nằm ở địa phận Quảng Nam bây giờ” và sau khi Huyền Trân Công chúa thời Nhà Trần, con gái Vua Trần Nhân Tông được gả cho Chế Mân vào cuối thế kỷ thứ 12 đầu thế kỷ thứ 13 (1206), thì Lâm Ấp đã không còn nữa. Vì hai Châu Ô và Châu Rí, Chế Mân đã lấy đó làm sính lễ cưới Huyền Trân và từ đó địa phương này không thấy nhắc đến nữa. Từ năm 730 đã có Ngài Bồ Đề Tiên Na người Ấn Độ đến Lâm Ấp và Ngài Phật Triết nhận làm Thầy. Dĩ nhiên là tình Thầy trò không phải được nối kết chỉ tại Lâm Ấp, mà trước đó Ngài Phật Triết đã sang Ấn Độ để học Phật. Đường đi như thế nào thì nay vẫn chưa rõ. Có thể Ngài đi bằng đường biển từ cửa biển Hội An qua Thái Lan rồi qua Bombay chẳng hạn, chứ thời đó mà đi qua những cánh rừng của Thủy Chân Lạp, rồi Lục Chân Lạp và để đến cho được Ấn Độ không phải đơn giản, vì nước độc và thú dữ thời bấy giờ xuất hiện không ít.

Sau khi ở Ấn Độ, Ngài Phật Triết đã nói chuyện với Thầy mình bằng ngôn ngữ địa phương. Có thể bằng tiếng Sanskrit và sau đó hai Thầy trò trở về lại Lâm Ấp. Tại Lâm Ấp, Ngài Bồ Đề Tiên Na người Ấn Độ học tiếng Lâm Ấp để nói chuyện với người địa phương, rồi học tán tụng trong các chùa viện tại đây cũng như học những điệu múa dân gian khi lễ hội Vu Lan về hay Tết đến v.v… để sau đó cả hai Thầy trò đi thuyền sang Trung Hoa với những người đi buôn và lần này còn kết hợp thêm Ngài Tăng Duệ người Trung Quốc nữa. Họ đã đến Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông và họ ở đó từ năm 730 đến năm 751, thì Thánh Vũ Thiên Hoàng của Nhật Bản cho người sang Trung Hoa, thỉnh Thầy trò hai Ngài sang Nara để làm lễ chú nguyện khai nhãn cúng dường tượng Tỳ Lô Giá Na Phật, được đúc bằng đồng từ năm 751 và nay vẫn còn được tôn thờ tại chùa Đông Đại tự ở Nara. Thánh Vũ Thiên Hoàng đối xử với các Ngài như là bậc Thầy và được phong là Tăng Chánh.

Sau khi làm lễ khai nhãn cúng dường tượng Tỳ Lô Giá Na Phật xong, quý Ngài còn được Thiên Hoàng và Hoàng gia thỉnh ở lại để dạy tán tụng cho chư Tăng Nhật Bản, cũng như dạy những điệu múa dân gian của Lâm Ấp cho dân chúng. Do vậy, mãi cho đến ngày nay ở thế kỷ 21 này, mỗi năm Phật giáo Nhật Bản đều có lễ hội tán tụng lễ nhạc Phật giáo Lâm Ấp tại Hoàng cung của Nhật Bản. Đây là những điều mà người Việt chúng ta ngày nay ở trong cũng như ngoài nước nên trân quý.

Cũng trong tập 190, Kinh văn số 2089 trang 1370 (loại chữ lớn) phần thứ 7 có đề cập đến truyện của Hòa Thượng Đông Chinh thời Tiền Đường rất hay. Đó là Ngài Giám Chân Hòa Thượng, đọc theo âm tiếng Nhật là Kanrin Osho. Vào năm Khai Nguyên thứ 21 (733) thời Tiền Đường, Ngài đã rời Trung Hoa sang Nhật Bản để truyền luật tông theo chí nguyện của Ngài, cũng như do sự thỉnh cầu của chư Tăng Nhật Bản, như Vinh Duệ và Phổ Chiêu thuở bấy giờ đã sang Trung Quốc du học và cung thỉnh Ngài về quê hương của họ để dạy luật. Ngài cùng đệ tử của mình ra đi từ Quảng Châu rồi Thượng Hải và đã nhiều lần như vậy, nhưng không thành do sóng to gió lớn hoặc giả quan lại triều đình nhà Tiền Đường lúc bấy giờ muốn ngăn cản Ngài; nhưng sau hơn 6 lần tìm đủ mọi cách, thì Ngài cùng đoàn tùy tùng đã cập bến ở đảo Kushyu (Cửu Châu), Nhật Bản vào năm Thiên Bảo thứ 1 (742). Đó là năm Nhâm Ngọ, năm Thiên Bình thứ 14 ở Nhật Bản (có nơi nói năm 753).

Năm 1972 khi vừa đến Nhật đã có nhiều Thầy rủ tôi đi xem phim này rồi, nhưng thuở ấy vì tiếng Nhật chưa rành, nên khi xem đa phần chỉ nhìn thấy hình ảnh thôi nhưng rất động tâm, khi thấy một bậc Thầy có ý chí cang cường như vậy. Nào chống cự với Hải tặc, với sóng to gió lớn, với triều đình can ngăn không cho Ngài rời khỏi Trung Quốc, nhưng cuối cùng với ý chí mãnh liệt sắt đá, Ngài đã thắng và đã đến được Nhật Bản. Nhờ sau này xem phim bằng tiếng Việt, nên hiểu rõ ngọn ngành hơn.

Trong những chuyến hành hương đến Nhật Bản vào những năm trước, chúng tôi thường đến thăm các chùa của các Tông phái tại Kyoto và đặc biệt, hầu như không có lần nào là không đến thăm Nara, nơi có Chùa Đông Đại Tự (Todaiji) và Chùa Đường Chiêu Đề. Chùa này do Ngài Giám Chân Hòa Thượng người Trung Hoa cho xây dựng trên đất Nhật vào năm 759. Thời gian này Ngài đã 71 tuổi và đến năm 75 tuổi (764) thì Ngài thị tịch cũng ở chùa này. Đây là ngôi chùa truyền thừa Luật tông tại Nhật Bản đầu tiên từ Trung Quốc được truyền sang và sau hơn 1.257 năm (2021-764) ngôi chùa này chỉ còn đóng vai trò lịch sử của tông phái này, chứ ở Nhật Bản, Luật tông không còn truyền thừa liên tục nữa. Bởi lẽ chư Tăng Nhật Bản ngày nay chỉ còn giữ Bồ Tát giới thôi, còn giới Tỳ kheo họ không tiếp tục nữa, vì đa phần chư Tăng Nhật Bản đã lập gia đình từ thế kỷ 13, kể từ thời Ngài Thân Loan Thánh Nhơn (Shinran Shonin) chủ xướng việc lập gia đình cho chính Ngài, thì Phật giáo Nhật Bản đã bị thế tục hóa từ lâu rồi. Có thể chư Ni Nhật Bản còn gìn giữ giới Tỳ kheo Ni, còn bên Tăng thì hầu như hoàn toàn không còn nữa.

Theo tiểu sử của Hòa thượng Giám Chân thì Ngài sinh năm 688 tại Dương Châu (nay thuộc Giang Tô, Trung Quốc). Năm Ngài 14 tuổi (702) Ngài xuất gia tu học, chuyên về Luật tạng; đến năm 26 tuổi (713) Ngài đã tìm cách sang Nhật và mãi đến năm 732 Ngài mới bắt đầu xuống thuyền, sau 5 lần thất bại và lần thứ 6 trong 11 năm liên tục như thế, Ngài đã thành công và Ngài đã đến Nhật Bản vào năm 742. Lúc ấy Ngài đã 54 tuổi (742-688). Ngài được Thiên Hoàng Hiếu Liêm, Thánh Võ Thái Thượng Hoàng và Hoàng Thái Hậu rất kính trọng, và những vị này là những người được dân chúng tôn sùng nhất, đã quy y với Ngài Kanrin Osho (Giám Chân Hòa Thượng). Kế đó hơn 400 người của hoàng tộc cũng lần lượt xin thọ giới và về sau này, các cao Tăng Nhật Bản cũng đã đến xin thọ giới ngày càng nhiều.

Trong tập 189 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, phần Kinh văn số 2077, Truyền Pháp Chánh Tông Ký quyển 2 có kể ra nhiều câu chuyện thật đặc biệt; trong đó có chuyện của Ngài Khế Tung ở trang 1273 cũng như câu chuyện thứ 11 ở quyển 3; câu chuyện thứ 9 ở quyển 4 có 5 vị tất cả. Quyển 5 có đề cập đến 3 vị; quyển 6 có 5 vị. Tất cả là chư Tăng người Trung Hoa và những mẩu chuyện về Truyền Pháp Chánh Tông Ký này, kéo dài cho đến trang 1473 mới chấm dứt.

Lâu nay chúng ta vẫn thường nghĩ rằng bài thơ sau đây là của Ngài Minh Châu Hương Hải Thiền Sư người Việt Nam được truyền lại như sau:

Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm

Dịch sát nghĩa như sau:

Nhạn bay trên không trung
Ảnh chìm trong nước lạnh
Nhạn không có ý để lại dấu vết
Nước cũng không có tâm lưu giữ ảnh (của nhạn) lại.

Tuy nhiên ở tập 188 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh thì bài thơ này là của Ngài Thiền Sư Nghĩa Hoài ở Thiên Y người Trung Quốc chứ không phải của Ngài Minh Châu Hương Hải Thiền Sư người Việt Nam như lâu nay chúng ta vẫn thường hay hiểu. Bài thơ này thuộc Kinh văn số 2077 - bộ Sử Truyện 10, Tục Truyền đăng lục quyển 6, trang 1277. Bài thơ này được dịch ra Việt ngữ như sau:

Nhạn bay ngang sông
Ảnh không lắng nước
Nhạn không có ý lưu vết
Sông không tâm niệm giữ hình.

Dịch sang Việt ngữ như vậy cũng hay. Nhờ vậy mà chúng ta biết thêm một điều mà lâu nay chúng ta vẫn thường đọc tụng, bây giờ có gốc gác để truy tìm.

Ở tập thứ 196 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh thuộc Kinh văn số 2122 – Pháp Uyển Châu Lâm, trang 495 bộ Sự Vựng 2 có giải thích về việc Thái Tử Tất Đạt Đa có 3 người vợ. Phu nhân của Bồ Tát thuộc họ Cù Đàm. Nhạc phụ là Thủy Quang; nhạc mẫu là Nguyệt Nữ. Tên là Cù Di.

Phu nhân thứ nhất là Da Du Đà La, đa phần chúng ta đều biết. Bà là mẹ của La Hầu La.

Phu nhân thứ hai là La Vân; tên Na Duy Đàn. Cha là Di Thí. Bà này chúng ta ít thấy đề cập nơi sách sử.

Phu nhân thứ ba là Lộc Dã. Phụ thân của bà là Trưởng giả họ Thích (Kinh Ngũ Mộng).

Trong Đại Tạng Kinh phần Pháp Uyển Châu Lâm đã ghi như vậy; còn việc đúng sai như thế nào, cứ theo lịch sử mà tra cứu để tìm ra sự thật vậy.

Vào ngày 25 tháng 11 năm 2020 tôi đã đọc tập 192 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, trang 146 thuộc bộ Sử Truyện thứ 14. Kinh văn số 2103, Quảng Hoằng Minh Tập quyển 24 đến phần “Thư can ngăn Pháp Sư Nhân Sơn Thâm bỏ đạo” của Trần Từ Lăng mà cảm động vô ngần. Thư được viết như sau:

“Trộm nghe người xuất gia nhà rộng như hư không, ở trong lòng thế tục dụ như ở lao ngục.

“Chẳng như có văn đã rõ, tự thế gian cũng thấy. Chợt nghe Pháp Sư úp ghe thuyền kia đến ngược việc của người tu sĩ, đây là cái giỏi dưới mắt chứ chẳng phải kế hay lâu dài. Vì sao mà biết? Vì từ khổ vào vui chưa biết cái vui trong vui. Từ vui vào khổ mới biết cái khổ trong khổ. Đệ tử lâu nay cho Pháp Sư dẫu không là người xưa cũ, mà từ khi biết nhau đến nay cũng lại chẳng sợ, phàm thuốc hay thì không ngọt, lời ngay can ngăn quyết trái lỗ tai, nhờ thấy kia vắng vẻ do đây bất nhẫn không nói.

“Vả lại trong ba mươi năm tạo nghiệp đâu lớn, vì sao trong một sớm lại bỏ công đã thành, ai thật là đáng tiếc, kính vượt tâm cao, chưa hiểu ý sâu, e chẳng phải kế sách nhà binh, muốn nhóm Lưu hầu, hình loại rồng nằm xa cầu họ cát đá vàng, binh pháp đâu thể gặp lại, ba đều là tranh lau, không do hai lần gặp gỡ. Phong tước năm đẳng chỉ thấy chứ không gặp, trong lầu ngoài cửa khó đỏ dễ trắng. Kèn lá ống phụng chẳng được đều nghe, vũ nữ, kỹ nữ không nhọc quen lờn, tìm đó giống như lông trâu, được giống như sừng trâu, ngoài ra chỗ nào nhìn trộm lỗ?

“Nay nếu Pháp Sư thoái chuyển chưa hẳn có một điều xứng tâm, giao mất mười món đại lợi hiện tiền. Vì sao? Vì Phật pháp không phân biệt dòng nhỏ, người vào thì tôn trọng, quy y thì quý kính, trên không hầu Thiên Tử, dưới không nhượng chư hầu, riêng dạo chơi thế gian vô vi tự tại. Đây là điều lợi thứ nhất.

“Thân không làm lụng nhọc nhằn, miệng ăn cơm ngon, tâm chẳng lo việc vợ con, thân mặc áo thô sơ, sáng không lo tiền bạc, chiều không thể ngàn dặm, cúi ngước dạo chơi đâu không vui. Đây là điều lợi thứ hai.

“Thân không trách nhiệm nặng, ở quyết là cõi mới vách trắng cửa đỏ, lý nhiên rất kính. Tối cầm sáng sắc là tự vui đùa, sáng sớm bút chiều lại thì luận tình luận đủ. Đây là điều lợi thứ ba.

“Dù cho gai sinh ở đường vua đi cầu hóa thành cống dài, hẻm nhỏ cửa bé nhờ đâu mà thay đổi, tấc lụa không vận tải, quan kho đấu gạo, không tiến kho công thương, ty bội thương, đâu cần tìm cầu, đây là điều lợi thứ tư.

“Trước cửa quấy rối ta lại an giấc ngủ, trong hẻm vân vân không vẻ kinh sợ, nhà thôi điêu khắc lớn nhỏ, cửa dừng đinh cứng mềm, vào ra tùy tâm, qua lại tự tại. Đây là điều lợi thứ năm.

“Tăng xuất gia không đúng vẫn hơn kẻ ở thế tục, dù cho tâm còn nghĩ giết chóc, tay không lỗi đoạn mạng, trong sâu kín thông tình quyết hơn đèn sáng rỡ, cầu tục như thế phiền cấu muôn lần còn hơn người tại gia, nếu vào sông ái thì chìm mãi chẳng đường ra. Đây là điều lợi thứ sáu.

“Nghe tiếng chuông mà chí kính, tìm hương thơm để sinh tâm, sáng thấy tôn nghi chiều khác trục báu, điều lành khoảnh khắc theo đây mà sinh, công nhỏ như giọt nước mà lần đầy chum lớn, chưa biết nhân duyên quả báo thiện ác rõ ràng, nói theo đây thì lợi kia khó bày. Dù cho hiểu tướng người tại gia vẫn có việc trần ai, dầu khiến xa gởi búng móng tay xa gần cúi đầu, hình bỏ tâm giữ thân dời ý qua, người có rảnh được như thế. Người nghèo khổ thường không nhân, gần ở trước mắt không nói có thể thấy. Đây là điều lợi thứ bảy.

“Trong núi dưới cây cho nên tự khó hẹn, gối trên đã, dòng nước súc miệng thật ít có, loại như thế không thể nghĩ bàn, người như thế khó gặp, nhất tâm người ít gặp, Pháp sư chưa thể không học, giao tập nhân thông minh thù thắng, một sớm thối tâm đối lý xa mù. Đây là điều lợi thứ tám.

“Dệt chỉ thành màn thấy nhân quá khứ, truyền quyển lưu ly nghiệm quả đời sau. Biết nhân biết quả không cho là lỗi, biết phước biết quả báo do đâu gây tội? Trên không ghe và mái chèo sẽ thấy cái buồm bị chìm đắm, dưới mất phao nổi thì có cái họa chìm thân. Đây là điều lợi thứ chín.

“Rộng giúp chúng sanh làm thầy trời người, nước, đất bằng, hư không, đều là chỗ tôn quý, nói quyết là Xà-lê, Hòa thượng. Thư liền gửi đến cung kính đảnh lễ, xa gần ca hát, sang hèn kính ngưỡng. Nay Pháp sư quyết thoái chuyển lập thành đáng nghiệm, vừa cởi ca sa, gặp người liền xưng “ông tôi” mới hiểu họ tên trịch vai thì cũng đáng gọi, bằng người cho nên tự không bàn, thấp kém cũng sợ không nhường, lời mỏng xưng mình, giường chõng tre khác theo đến. Nhỏ được tự ở, được vua phong, nếu không quì gối nghiêm này tự hiểu không nhân, cúi ngước nương đón chưa rảnh hợp độ, chuyên chú như thế do đâu mà cho. Đây là điều lợi thứ mười.

“Lược nói mười việc không mất cơ này, trong kia đạo sâu đâu cho nói đủ. Ngước độ người nhân từ, tâm ở cảnh ma bị ma mê hoặc, ý nương đường tà đổi tánh, dù cho mày như liễu nhỏ, đâu đáng quan hệ tấm lòng, gò má như trái hồng đâu thể lâu dài, đồng chăn chia gối vẫn có buồn tin dài, khi ngồi nằm quên, không khỏi oán thù, lạc sông thần nữ còn lại không lầm đông a. Trên đời bọn ca kỹ đâu quan hệ gì đến việc vua, phàm tâm là mặt. Nếu nói về quyến luyến thì chung khí chung lòng, một lần lỗi triền miên thì luôn đêm nhàm thức dậy. Pháp sư chưa thông phản chiếu đâu ngộ bán hoa, chưa chứng tha tâm thông thì đâu biết ý kia. Than ôi! Cây quế đem làm đuốc lớn để đốt, đáng tiếc hạt minh châu mà để trong bùn.

“Đệ tử ngày nay bàn ngang quyết được Pháp sư mỉm cười. Trên đời người tại gia đâu nói xấu đâu hạn cuộc, vả lại một người thối đạo mà không an nguy, nói theo đây thì thật khó hiểu. Thí như ngói đá đầy đường người không kinh sợ, mảnh vàng ròng muôn phàm dứt bước, chánh nói công Pháp sư vào đạo đã đủ, pháp nhiễm tục chưa nhiều khác gì vàng mà đổi đồng đỏ, bạc mà đổi lấy chì thiếc, đáng thương, đáng tiếc, vẫn đáng buồn, lượng có thể nhẫn khó nhẫn, mới biết kia rất mong bỏ việc đời dứt trần lao, chánh niệm tương ưng, hạnh chí cả hai hoàn toàn, thêm rõ lo lự liền có thể suy nghĩ, hối ở trước không nhọc lo hận về sau. Nếu đệ tử tính xa thì mười mấy năm, ở giữa sẽ biết so lường, gần thì ba năm, năm năm, trong xướng trống thế nào, muôn hận nạn buồn đâu biết xa đến. Tự lầm tự lẫn bỏ hẳn mất một đời, bèn biết dây đàn đứt có thể nối, tính cách khó giữ. Hoặc như trong lửa sinh hoa có thể gọi là ít có, người mê biết ngược bỏ đạo không xa, mau chóng suy xét, gấp lên đường chánh. Pháp sư chẳng phải vô trí, nên bị người ngu làm mê, giống như A Nan bị ma quấy nhiễu, còn phải nhờ năng lực Tam Bảo chế bày sự hung dữ kia, dựng tràng Bát Nhã thiên na tự vâng lệnh. Ý chỉ lời này đáng nên cởi bỏ sự quê mùa, nếu không hội lòng cao, may mắn dừng quái sâu.”

Khi đọc đến tập 197 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh để sửa lỗi chính tả, tôi đã phát hiện ra nhiều chỗ hay và rất cảm động. Tôi vì tuổi đã lớn, nên Phật tử Minh Đăng đã tăng độ chữ lớn gấp đôi bình thường cho dễ đọc. Do vậy đôi khi số trang tôi ghi sai biệt với số trang của kinh được ấn hành, thì đó cũng là lẽ tự nhiên. Mong quý vị hoan hỷ cho. Ví dụ tôi ghi Kinh văn số 2122 – Pháp Uyển Châu Lâm quyển 48 - Bộ Sự Vựng 3, trang 749 (loại chữ lớn); thì ở bản in chính sẽ là trang 376, không phải trang 749. Do vậy quý vị khi tìm; nên tìm Kinh văn số mấy trước cũng như ở quyển thứ mấy thì sẽ tìm ra ngay.

Khi đọc đến Kinh văn này ở phần “Nhân Duyên Cảm Ứng” tôi rất xúc động, mà xúc động nhất phải nói đến 9 điểm của Ngài Thích Đạo An đã nói về tâm tư của người xuất gia, thật là ý vị và ở tận đáy lòng, tôi cảm kích vô cùng. Do vậy xin được trích đăng lại đây để người đời sau khi đọc được những bản văn, hay lời khuyên chí thành của những bậc Tổ Đức như thế này, thì có thể làm cho ý chí càng vững mạnh hơn nữa để gìn giữ ý chí của người xuất gia là: “Phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, thượng báo tứ ân, hạ tế tam hữu. Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân”; nghĩa là: “Người xuất gia cất bước vượt lên phương trời cao rộng; tâm hình khác tục; làm hưng long hạt giống Thánh, nhiếp phục ma quân, trên đền bốn ơn, dưới cứu ba cõi. Nếu chẳng như vậy là lạm mang hình tướng xuất gia.” (Trích Quy Sơn cảnh sách văn)

Dĩ nhiên khi đi vào Đại Tạng Kinh Bắc Truyền cũng giống như đi vào biển cả bao la diệu vợi, không bờ bến; người lữ hành cô độc chèo một chiếc thuyền con bé tẻo teo thì khó định dạng được phương hướng. Tuy nhiên mặt trời mặt trăng tượng trưng cho ngày và đêm cũng như sao Bắc Đẩu là cái đích để con người có thể định hướng cho lối đi của mình. Điều quan trọng là mình hướng đến đâu và muốn đi về đâu. Đó mới là vấn đề chính của hành giả khi tu học Phật pháp vậy.

NHÂN DUYÊN CẢM ỨNG

“Sơ lược dẫn ra bốn chuyện:

1. Sa môn Thích Chi Độn, thời Tấn;

2. Sa môn Thích Vong Danh, thời Chu;

3. Sa môn Thích Đạo An, thời Chu;

4. Sa môn Thích Tăng Phạm, thời Tề.

1.

Thời nhà Tấn ở núi Ốc Châu vùng Diệm có Chi Độn tự là Đạo Lâm, vốn là người họ Quan vùng Trần Lưu, có nơi nói là người vùng Lâm Lự, Hà Đông, tuổi thơ có thần thái thông minh xuất chúng. Tấn Vương Hi Chi trông thấy Chi Độn có tài năng văn chương tuyệt vời hiếm gặp, liền cởi áo mũ cân đai lưu luyến không muốn rời, nhiều lần mời đến ở tại chùa Linh Gia, ý giữ lại gần bên nhau. Nhưng lại tìm đến núi Diệm, ở một ngọn núi nhỏ tại Ốc Châu dựng chùa hành đạo, Tăng chúng hơn trăm người thường theo học. Lúc ấy có người lười nhác, Chi Độn bèn viết bài minh đặt bên phải chỗ ngồi, để khuyên nhủ rằng:

“Hãy chịu khó chăm chỉ, đến đạo không cần mẫn, sao trở thành nấn ná, chìm mất nét thần kỳ! Ba cõi mênh mông mịt mù, dừng lại lâu dài tăm tối, ngoại cảnh tiếp cận buồn phiền, nội tâm rong ruổi sâu xa. Chết vì khát khao kính trọng, lui lại xa rời quên mệt, con người sống chỉ một đời, nhỏ nhoi như hạt sương rơi. Thân ta chẳng phải là ta, nói rằng do ai tạo ra, người thông hiểu nhớ ân đức, biết yên lành ắt nguy nan, tất cả trống rỗng rõ ràng, hồ thiền trong veo thấu đáy, giữ chặt cấm giới sáng ngời, nói rõ quy phạm sâu xa, tâm bình yên trong thần đạo, chí ngang bằng với vô vi, ba Tế sáng ngời lặng lẽ, sau Tì sửa trĩ dung thông, năm Ấm trống rỗng có gì, bốn chi rõ ràng giả dối, không ngón tay ví ngón tay, đoạn tuyệt mà chẳng rời xa, Diệu Giác đã bày rõ ràng, lại khó biết được sâu xa, khéo léo tùy ý bình thường, cùng với mọi vật đổi thay, vượt qua từ đây về trước, đừng suy nghĩ đừng bàn luận!

2.

Thời nhà Chu ở vùng Vị Tân có Sa môn Vong Danh, tự mình khuyên nhủ rằng:

“Dùng sức mạnh xoay chuyển Trời đất kéo lại thời gian, trong vòng một ngày đã sớm tàn tạ, kiên cố như ngọn Thái Sơn hùng vĩ, bỗng chốc làm sao trở thành tro bụi? Chắc chắn biết rằng tướng thế gian vô thường phù sanh hư ngụy, ví như sương buổi sáng dừng lại được bao lâu? Bậc đại trượng phu sống nên làm cho ma quân phải khuất phục chết nên làm thức ăn nuôi hổ đói, nếu như không phải vậy thì sống uổng phí nào ích lợi gì? Không bằng tu thiền định đủ để nuôi thiền định chí nguyện, đọc tụng Kinh điển đủ để tự làm cho vui vẻ, phú quý danh dự chỉ uổng công người mà thôi. Thế là cởi bỏ áo mũ cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa chống tích trượng nghe giảng giải bàn luận nghĩa lý nhiệm mầu, đất nước loạn lạc chưa yên không có nơi nào an thân được, tự chán ngán hình hài có lắm điều trói buộc, nghĩ đến cùng nguồn gốc khổ đau chẳng làm sao biết được bến bờ. Trong kinh Đại Thừa nói: “Như thuyết tu hành, mới gọi là Thánh, không chỉ là lời nói của miệng.”

Tiểu Thừa có kệ nói:

Luôn luôn thực hành nói là đúng
Không thực hành nói dựa vào đâu?
Nếu nói mà không thể thực hành,
Thì không gọi là người có trí.

Vì lẽ đó Nhan Hồi hiếu học chịu khó sửa đổi sai lầm trước đây, Quý Lộ chưa tự sợ hãi nghe đến lời nói mai sau, công lao trí tuệ hỗn loạn làm nhọc tinh thần tổn thương tính mạng, vì đạo ngày càng giảm sút đâu cần biết nhiều, thế cần phải hình hài như cây khô, suy nghĩ như tro nguội, làm cho tai họa dây dưa này phải thuần phục để mong cầu rỗng rang vắng lặng, mới làm bài khuyên răn Tuyệt Học, cũng gọi là Tức Tâm Nghĩ Phu Chu Miếu, bài minh ấy rằng:

“Trong Pháp giới có người là vật báu Như ý, miệng họ mãi im lặng mà lòng họ khắc sâu rằng: Người nhiếp tâm của cổ xưa vậy. Khuyên nhủ thay! Không nghĩ nhiều không biết nhiều, biết nhiều thì nhiều tai họa, không bằng dừng ý nghĩ, nghĩ nhiều thì tâm rối loạn, tâm rối loạn thì sanh phiền muộn, chí phân tán thì chướng ngại đạo. Chớ bảo rằng đâu tổn hại, khổ đau ấy thật dài lâu, dừng nói là đâu sợ hãi, tai họa ấy thật ầm ỉ. Nước chảy không ngừng bốn biển sẽ tràn đầy, bụi nhỏ không lau, năm núi sẽ tạo thành. Phòng giữ ngọn ở gốc, tuy nhỏ mà không xem thường, đóng bảy Khiếu như thế, bít sáu Tình như vậy, đừng nhìn trộm đối với Sắc, chớ lắng nghe đối với Thanh, nghe thấy Thanh là điếc, trông thấy Sắc là đui. Một lời văn một nghệ thuật là con ve nhỏ giữa hư không, một kỹ năng một tài cán, là ngọn đèn lẻ dưới mặt Trời. Người anh hiền tài nghệ, đều là hạng ngu dại vụng về, vứt bỏ sự thuần phác, chìm đắm trong vẻ đẹp dâm ô, ngựa thức dễ chạy khỉ tâm khó kìm, tinh thần đã hao tổn vất vả, thì hình hài ắt phải thương tổn, nẻo tà hoàn toàn mê hoặc thì đường tu vĩnh viễn nhầy nhụa. Người anh hiền tài năng, đều nói là hạng hồ đồ dốt nát, bày kém cỏi mà muốn khéo léo, đức hạnh không nhiều, danh xưng nặng mà công hạnh nhẹ, cao thì mau sụp, viết vẽ bừa bãi trên sách vở, tác dụng lại không bình thường, trong lòng thì tự khoe khoang, ngoài mặt làm cho căm ghét. Có lúc bàn luận nơi miệng, có lúc viết chép bằng tay, muốn người khác phải khen ngợi, cũng là cái hố xấu xa, mà phàm phu nói là tốt đẹp, bậc Thánh cho là điều dữ, thưởng thức vui vẻ chốc lát mà buồn lo đau thương muôn kiếp, sợ bóng hình sợ dấu tích mà càng đi càng dữ, ngồi lặng dưới bóng cây che mát thì dấu tích không còn mà bóng hình cũng mất, chán ngán sinh lo sợ lão cứ suy nghĩ là tạo ra, tâm tưởng nếu diệt đi thì sanh tử vĩnh viễn không còn, chẳng tử chẳng sanh không có tướng không có danh, một nẻo đường rỗng rang vắng lặng thì muôn vật bình đẳng như nhau, có gì hơn có gì kém, có gì nặng có gì nhẹ, có gì sang có gì hèn, có gì nhục có gì vinh? Trời quang mây tạnh mặt trời tỏa sáng, tâm tàm quý thanh tịnh hiện bày, làm cho ngọn thái sơn ấy yên ổn cõi Kim Thành kia vững chắc, kính tặng các bậc hiền triết đạo lý trung trinh lợi ích này!”

3.

Thời nhà Chu có Sa môn Thích Đạo An có Chùa Đại Trung Hưng chốn kinh sư, người họ Diêu ở vùng thành cổ Bằng Dực, hiểu biết nghĩa lý huyền vi sớm dựa theo pháp môn, thần khí cao vời trong sáng, tiết tháo chính trực xa xăm, mới làm chín chương Di Giới để khuyên bảo học trò. Lời văn ấy nói:

“Chân thành xin lỗi các vị đệ tử! Người xuất gia vì đạo rất sâu nặng rất khó khăn, không thể tự tùy tiện, không thể tự coi thường. Vốn nói là sâu nặng, ấy là gánh vác đạo đức mang nặng nhân nghĩa, phụng trì tịnh giới đến chết mới thôi. Vốn nói là khó khăn, ấy là đoạn tuyệt thế tục cắt bỏ thân ái, thay đổi tính tình không giống với mọi người, làm việc mà người ta không thể làm được, cắt bỏ điều mà người ta không thể cắt bỏ được, nhẫn nhục chịu khổ tổn hại thân mạng. Nói là khó khăn, ấy gọi là Đạo nhân; Đạo nhân ấy là người dẫn dắt vậy. Việc làm nhất định phải được thực hiện, lời nói nhất định phải thích hợp với cách thức, khoác y phục xuất gia luôn luôn làm đúng pháp tắc, không tham không tranh không gièm pha không che giấu, học vấn cao xa chí ở tại lặng im sâu kín, đây là danh xưng dựa vào địa vị tam Tôn xuất Hiền nhập Thánh. Gột sạch tinh thần cho nên hàng vua chúa không mong đợi sự đền đáp của họ, cha mẹ không mong đợi sức lực của họ, người khắp thiên hạ không ai không quay về nương tựa, xa vợ xa con giảm bớt sự nuôi sống cung phụng cơm áo, cong lưng làm tất cả mọi việc không từ gian khổ chông gai. Tiếc rằng vì chí hạnh thanh khiết thông với thần minh, sợ hãi không có được gì đáng khác lạ đáng quý trọng, cho nên tự mình không xác định được làm cho đạo pháp phải suy tàn! Người mới học chưa nhận thức được pháp tắc, bỏ tà theo chánh mong cầu chân thật, mà lấy sự ranh mãnh nhỏ nhoi làm trí, lấy sự ngưỡng mộ nhỏ nhoi làm đầy đủ, ăn no suốt ngày không hề dụng tâm tự mình lui sụt nhìn lại thật cũng đáng xót xa! Suy nghĩ người xuất gia bây giờ, hoặc có năm tháng, mà sự nghiệp trải qua chưa thông văn từ không dứt khoát, uổng phí một đời không có gì đáng nói. Sự tình chưa thông văn từ không dứt khoát. Sự tình như vậy không thể suy nghĩ sâu sắc, hạn định vô thường không sớm thì muộn, quả báo đau khổ của ba nẻo không mạnh không yếu. Nghĩa Thầy trò sâu nặng cho nên đem ra trình bày rõ ràng, lưu truyền cho hữu tình đáng làm lời khuyên suốt cuộc đời của bản thân mình!

“Thứ nhất: Người đã xuất gia vĩnh viễn xa cách cha mẹ sanh ra, cạo bỏ râu tóc hủy hoại hình dáng mặc pháp phục vào thân. Ngày từ biệt cha mẹ người thân thì mọi người đều ứa lệ đau thương, cắt ái trong đạo lý hướng cao vút Trời xanh, nên theo chí nguyện này mà tu học hiểu thông Kinh điển đạo pháp; tại vì sao vô tâm cố tình giữ lại sắc Thanh, nhởn nhơ suốt ngày Kinh điển sự nghiệp không thành, đức hạnh ngày càng giảm sút mà việc làm xấu xa thì thừa ra, Thầy bạn hổ thẹn phàm tục khinh chê, xuất gia như vậy chỉ tự bôi nhọ tên họ của mình, cho nên nay dạy bảo khích lệ hãy tự mình nên chuyên cần tinh tiến!

“Thứ hai: Người đã xuất gia chí nguyện xa rời thế tục từ biệt quân vương, nên tự khuyên răn động viên mình theo chí hướng như tận mây xanh, tài sắc không quan tâm đến khác nhau so với thế tục, vàng ngọc không quý chỉ có đạo là châu báu, kiềm thúc bản thân giữ gìn tiết tháo cam chịu khổ sở vui với nghèo hèn, đức hạnh tăng thêm tự độ mình lại có năng lực độ cho người khác, tại vì sao thay đổi tiết tháo chạy theo thói phong trần sai lạc, ngồi chưa nóng chỗ đã chạy đi từ nơi này đến nơi khác, vội vàng như tội đồ lao dịch bị quan binh truy bắt, Kinh điển đạo lý không thông giới đức không trọn vẹn, bạn bè giễu cợt đồng học lánh xa, xuất gia như vậy chỉ uổng phí tuổi Trời, nay cố tình chỉ bày khuyến khích tất cả nên tự thương lấy mình.

“Thứ ba: Người đã xuất gia thì vĩnh viễn lìa xa họ hàng quyến thuộc, không có người thân thiết không có kẻ xa lạ, thanh tịnh không còn ham muốn, tốt lành thì không vui mừng, hung dữ thì không muốn buồn rầu, ung dung vượt ra ngoài rõ ràng lìa xa thế tục, chí nguyện giữ huyền diệu theo chân lý còn mãi sự chất phác, có thể độ mình mà cứu giúp nhiều người khắp nơi được nhờ phước thiện; tại vì sao vô tâm mà vẫn tiếp xúc với trước nhiễm, tranh giành tốt xấu tính toán chi ly một cách tệ hại, cùng với thế tục tranh danh đoạt lợi khác gì tôi tớ trong nhà, Kinh điển đạo lý không hiểu rõ đức hạnh không đầy đủ, xuất gia như vậy chỉ tự hủy hoại làm nhục mình, nay vì thế mà chỉ bày nêu rõ hãy tự tắm gội gột rửa chính mình!

“Thứ tư: Người đã xuất gia thì gọi là Đạo nhân, cha mẹ không người cung kính quân vương không có bề tôi, khắp nơi đều tôn trọng hầu hạ như thần linh, cúi rập đầu kính chào không kể gì giàu sang hay nghèo hèn, tôn trọng sự tu tập trong sáng tự lợi mình lợi người, giảm bớt một hạt gạo mang nặng ân tình để chu cấp tại vì sao khinh mạng lười nhác không thể nào báo ân, ỷ lại mà phóng túng thân ý một cách vô ích, không có giới hạnh mà ăn của bố thí thì chết rồi đi vào địa ngục, sắt nóng làm thức ăn nước đồng rót vào họng, sự đau khổ như vậy trong kinh Pháp Cú đã trình bày. Nay vì thế mà chỉ bày kiềm chế nên tự sửa chữa lại bản thân mình!

“Thứ năm: Người đã xuất gia thì gọi là Tức Tâm, không đắm theo những tạp nhiễm xấu xa chỉ có đạo là kính trọng, chí hướng trong sáng như ngọc như băng tuyết, nên tu tập kinh Pháp giới luật để giúp cho tinh thần, chúng sanh được giúp đỡ cứu độ cho người thân của mình; tại vì sao vô tâm chìm nổi thuận theo thế tục, buông thả bốn đại phóng túng năm căn, đạo đức thì cạn cợt mà chuyện thế tục càng sâu dày; xuất gia như vậy cùng với thế gian nào khác gì đâu? Nay vì thế mà khuyên nhủ kiềm thúc mong tự làm thông suốt tinh thần cho mình!

“Thứ sáu: Người đã xuất gia thì rời bỏ thân hình thế tục, nên cốt phải dốc hết tình ý phù hợp với Niết bàn; tại vì sao ồn ào náo loạn không ở nơi vắng lặng, Kinh điển đạo lý hao tổn mà chuyện thế tục có thừa, nơi trong sáng sạch sẽ không đi mà lại tiến vào nơi bùn lầy dơ bẩn, mạng sống mong manh chỉ trong chốc lát, đau khổ chốn địa ngục khó có thể viết hết được. Nay vì thế mà khuyên nhủ khích lệ nên kính trọng mô phạm chuẩn mực!

“Thứ bảy: Người đã xuất gia thì không thể tự rộng lượng với mình, hình hài tuy thô lậu quê mùa mà việc làm thật đáng nhìn, y phục tuy không quý mà đứng ngồi phải đoan trang, ăn uống tuy đạm bạc mà lời nói ra đáng được làm cho no lòng, mùa hạ thì nén chịu nóng bức mùa đông thì nén chịu đựng giá lạnh, luôn luôn tự mình giữ gìn tiết tháo không uống trộm dòng nước, không tụ tập với người phẩm hạnh xấu xa, chân không duỗi thẳng về phía trước, ở mãi trong phòng riêng như đứng trước bậc chí tôn, học tuy không nhiều mà có thể sánh với bậc Thượng Hiền, xuất gia như vậy đủ để đền đáp công ân của cha mẹ, họ hàng bà con bạn bè tri thức đều được nhờ ân. Nay vì thế mà khuyên nhủ mọi người nên tự sách tấn mình!

“Thứ tám: Người đã xuất gia thì tánh có tối tăm và sáng suốt, học không bao nhiêu mà quan trọng là ở sự chuyên cần thực hành, người căn bậc Thượng thì ngồi thiền, người căn bậc Trung thì tụng kinh, người căn bậc Hạ thì có thể luôn luôn bảo quản giữ gìn chùa tháp sạch sẽ trang nghiêm, há có thể suốt ngày không có được chút gì hay sao? Ứng xử giữa đời mà không nghe nhận thì có thể nói là sống đời uổng phí, nay vì thế mà chỉ bày cho mọi người nên tự đoan trang tính tình phẩm hạnh của mình!

“Thứ chín: Người đã xuất gia thì vĩnh viễn cách xa cha mẹ đạo pháp thay đổi tính cách y phục thế tục rời thân hình, ngày từ biệt thân thích quyến thuộc thoắt buồn thoắt vui, gần xa đoạn tuyệt thế gian vượt ra ngoài chốn trần ai, nên tu tập Kinh điển đạo lý kiềm chế bản thân thực hành chân thật; tại vì sao vô tâm mà lại nhiễm nhân tố thế gian, Kinh điển đạo lý đã ít mà thực hành chẳng có chút nào, lời nói chẳng đáng coi trọng đức hạnh chẳng đáng quý báu, làm cho Thầy bạn phải liên lụy oán hận ngày càng sâu nặng. Xuất gia như vậy chỉ làm hại giáo pháp bôi nhọ chính mình, hãy suy nghĩ, hãy nhớ lấy mà tự sửa chữa bản thân tốt hơn!”

4.

Thời nhà Tề có Sa môn Thích Tăng Phạm ở Chùa Đại Giác vùng Nghiệp Đông, người họ Lý vùng Bình Hương, giới đức thanh cao tuân theo cấm giới không hề thiếu sót, đã từng ở lại chùa khác ý muốn được nghe giới, vào đêm 15 thuyết giới, đại chúng bàn bạc cùng nhau dừng thuyết giới mà tiến hành quy tập giáo pháp, có vị Tăng lên tòa cao sắp giảng về nghĩa lý. Nói rằng: Luận thẳng về pháp tướng thì phải hiểu sâu sắc ngôn từ của bậc Thánh, lúc Bồ tát thường nghe vấn nạn là được rồi. Bỗng nhiên trông thấy một vị thần hình dáng cao hơn trượng tướng mạo rất nghiêm khắc oai hùng, cao vút kinh người đi đến trước tòa cao, hỏi người luận về nghĩa lý (Thụ nghĩa), nay là ngày gì? Đáp rằng: Là ngày Bố tát. Vị thần liền đưa tay túm lấy, kéo xuống khỏi tòa cao mệt mỏi gần chết. Tiếp đó hỏi vị Thượng tọa, hỏi đáp như trước, túm lấy cũng gần chết. Làm cho hai ba vị Thượng tọa khiếp sợ rồi, vị thần còn vẫy cánh tay mà đi ra. Lúc ấy đạo tục cùng nhìn thấy không phải là ít. Tăng Phạm đã thấy điều kỳ lạ này, mới tự mình cố gắng chịu khó và khuyên răn đại chúng cho đến suốt đời không dám thuyết dục (vắng mặt lúc Bố tát), cho dù có bệnh nặng không thể nào tham dự được, thì thỉnh Tăng đến nơi người bệnh cung kính thuyết giới. Tăng Ni cả khu vực tiếp sau lần trừng phạt cảnh cáo này, đến ngày Bố tát cũng không ai thiếu sót.”

Bốn chuyện trên đây trích từ Lương Cao Tăng Truyện.

Có những đoạn thì quý Thầy, Cô dịch rất hay. Có thể là do văn dễ hiểu; nên khi đọc lên, người dịch rõ ý và từ đó phóng bút một cách dễ dàng. Hoặc đôi khi trích lại những bài văn đã được dịch sẵn ra Việt ngữ; nên khi đọc, cảm xúc vô cùng.

Ví dụ ở tập thứ 200 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 2128; loại chữ lớn, trang 1091 (loại ấn bản trang 636) thuộc tất cả 2 kinh nghĩa kinh thứ 15 và Kinh Đại Bảo Tích thứ 116 - Hội Văn Thù Sư Lợi. Ở đây giải thích về chữ viết, ngôn ngữ cũng như cách dùng, thế nào là đúng, thế nào là sai.

Ví dụ như chữ La Hầu Lặc – Ma Hầu La Dà là tên của chư Thiên v.v…

Từ khi Phật pháp được truyền sang phương Đông, trong quá trình phiên dịch, ở đời Tây Tấn (247-300) thời Phan Nhạc, khi Phật giáo mới được truyền vào Trung Quốc, ít người rành chữ Phạn. Do vậy việc dịch kinh rất vụng về. Trong khi các vị Sư Ấn Độ đến Trung Hoa ở thời gian đầu này cũng không rành chữ Hán mấy, nên từ tiếng Sanskrit chuyển qua Hán tự cũng cả là một vấn đề không nhỏ. Mãi cho đến thời Ngài Huyền Trang (602-664) sau khi từ Ấn Độ thỉnh kinh sách tiếng Phạn về lại Trung Quốc thì việc dịch kinh mới được san định lại một cách rõ ràng, mạch lạc.

Năm 13 tuổi Ngài Huyền Trang xuất gia học đạo, năm 21 tuổi thọ giới Tỳ kheo. Năm 629 Ngài liều mình ra đi thỉnh kinh ở Ấn Độ; đến năm 645 thì Ngài trở lại kinh đô Tràng An, gồm có 2 năm đi, 2 năm về và hơn 12 năm tu học tại Ấn Độ (645-629). Kể từ đó những Kinh Văn được Ngài chủ trì cho phiên dịch ra Hán văn có độ chính xác hơn là những bản dịch đã có trước đó và sau này những bộ Đại Tạng Kinh của Trung Hoa như Vĩnh Lạc, Kiền Long v.v… đều y cứ vào văn phong dịch thuật thời của Ngài Huyền Trang. Chỉ tiếc là Ngài có tuổi thọ không cao, chỉ hơn 60 tuổi, nên nhiều người khi nghiên cứu đến đời Ngài rất lấy làm tiếc và bảo rằng: Nếu Ngài sống thêm được vài chục năm nữa thì chúng sanh ngày nay đã được lợi lạc nhiều hơn. Tuy nhiên đây là một thành quả tuyệt vời của Phật giáo Trung Quốc nói riêng và Phật giáo thế giới nói chung, chưa có vị Tam Tạng Pháp Sư nào trong lịch sử của Phật giáo thế giới, có một cuộc đời và một hành trạng lịch lãm như Ngài Huyền Trang.

Đại Tạng Kinh Linh Sơn Pháp Bảo, đã được Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh cho bắt đầu phiên dịch từ năm 1994, đến năm 2015 Ngài viên tịch thì đã in được 187 tập. Những tập còn lại từ 188 đến tập 202 sẽ in trong năm 2022. Tuy nhiên Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng kinh cũng chỉ mới dịch đến Kinh văn số 2131 là kinh cuối cùng của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyo). Kinh này gọi là Phiên dịch danh nghĩa tập gồm có 7 cuốn; nằm phần giữa của tập 54 thuộc Bộ Sự Vựng, Bộ Ngoại giáo. Như vậy những Kinh văn nào chưa dịch ra tiếng Việt, tôi chỉ xin tóm tắt phần Kinh văn, tên gọi và có thể chua thêm phần Kinh ấy thuộc quốc gia Phật giáo nào; chứ sẽ không ghi rõ tác giả hay dịch giả v.v…

Kinh văn 2132 Tất đàn tự ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2133 Phạn ngữ thiên tự văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2134 Đường Phạn văn tự gồm 1 quyển.

Kinh văn 2135 Phạn ngữ tạp danh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2136 Đường Phạn lưỡng ngữ song đối tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2137 Kim thất thập luận gồm 3 quyển.

Kinh văn 2138 Thắng tông thập cú nghĩa luận gồm 1 quyển.

Kinh văn 2139 Lão Tử hóa Hồ kinh quyển 1, quyển 10.

Kinh văn 2140 Ma Ni giáo hạ bộ tán gồm 1 quyển.

Kinh văn 2141 A - Ma Ni Quang Phật giáo pháp nghi lược gồm 1 quyển. B - Ba Tư Giáo tán kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2142 Tự thông mê thơ sở kinh gồm 1 quyển

Kinh văn 2143 Cảnh giáo tam uy mông độ tán gồm 1 quyển.

Kinh văn 2144 Đại Tần cảnh giáo lưu hành Trung Quốc bi tụng gồm 1 quyển.

Tập thứ 55

Mục lục bộ toàn của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2145 Xuất tam tạng ký tập gồm 15 quyển.

Kinh văn 2146 Chúng kinh mục lục gồm 7 quyển.

Kinh văn 2147 Chúng kinh mục lục gồm 5 quyển đời Tùy.

Kinh văn 2148 Chúng kinh mục lục gồm 5 quyển đời Đường.

Kinh văn 2149 Đại Đường nội điển lục gồm 10 quyển.

Kinh văn 2150 Tục Đại Đường nội điển lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2151 Cổ kim dịch kinh đồ kỉ gồm 4 quyển.

Kinh văn 2152 Tục cổ kim dịch kinh đồ kỷ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2153 Đại Chu san định chúng kinh mục lục gồm 15 quyển.

Kinh văn 2154 Khai nguyên Thích giáo lục gồm 20 quyển.

Kinh văn 2155 Khai nguyên Thích giáo lục lược xuất gồm 5 quyển.

Kinh văn 2156 Đại Đường Trinh Nguyên tục khai nguyên Thích giáo lục gồm 3 quyển.

Kinh văn 2157 Trinh nguyên tân định Thích giáo mục lục gồm 30 quyển.

Kinh văn 2158 Tục Trinh nguyên Thích giáo lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2159 Truyền Giáo Đại Sư tương lai Đài Châu lục gồm 1 quyển. Chuyện tích Nhật Bản.

Kinh văn 2160 Truyền Giáo Đại Sư tương lai Việt Châu lục gồm 1 quyển. Chuyện tích Nhật Bản.

Kinh văn 2161 Ngự thỉnh lai mục gồm 1 quyển Nhật Bản.

Kinh văn 2162 Căn Bổn Đại Hòa Thượng Chơn Tích sách tử đẳng mục lục gồm 1 quyển (từ đây trở đi nói về sử tích Phật giáo Nhật Bản).

Kinh văn 2163 Thường Nhiêu Hòa Thượng thỉnh lai mục lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2164 Linh Nham tự Hòa Thượng thỉnh lai pháp môn đạo cụ đẳng mục lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2165 Nhật Bản quốc Thừa Hòa ngũ niên nhập Đường cầu pháp mục lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2166 Từ Giác Đại Sư tại Đường tống tiến lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2167 Nhập Đường tân cầu Thánh giáo mục lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2168 A- Huệ Vận Thiền Sư tương lai giáo pháp mục lục gồm 1 quyển. B- Huệ vận Luật Sư thơ mục lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2169 Khai Nguyên tự cầu đắc kinh sớ kỷ đẳng mục lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2170 Phước Châu, Ôn Châu, Đài Châu cầu đắc kinh, luật, luận sớ ký ngoại thơ đẳng mục lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2171 Thanh Long tự cầu pháp mục lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2172 Nhật Bản Tỳ Kheo Viên Trân nhập Đường cầu pháp mục lục gồm một quyển.

Kinh văn 2173 Trí Chứng Đại Sư thỉnh cầu mục lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2174 A- Tân thơ tả thỉnh lai pháp môn đẳng mục lục gồm 1 quyển. B- Thiền Lâm Tự Tông Duệ Tăng Chánh mục lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2175 Lục ngoại kinh đẳng mục lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2176 Chư A Xà Lê Chơn Ngôn Mật Giáo bộ loại tổng lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2177 Hoa Nghiêm Tông chương sớ tinh Nhơn Minh lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2178 Thiên Thai Tông chương sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2179 Tam Luận Tông chương sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2180 Pháp Tướng Tông chương sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2181 Chú tiến Pháp Tướng Tông chương sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2182 Luật Tông chương sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2183 Đông vực truyền đăng mục lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2184 Tân biên chư Tông giáo tạng tổng lục gồm 1 quyển.

Tập thứ 56

Tục kinh sớ bộ nhứt của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2185 Thắng Phát kinh nghĩa sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2186 Duy Ma kinh nghĩa sớ gồm 5 quyển.

Kinh văn 2187 Pháp Hoa nghĩa sớ gồm 4 quyển.

Kinh văn 2188 Pháp Hoa lược sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2189 Diệu Pháp Liên Hoa kinh thích văn gồm 3 quyển.

Kinh văn 2190 Pháp Hoa kinh khai đề gồm 1 quyển và 1 quyển khác.

Pháp Hoa kinh thích gồm 1 quyển và có 2 bản khác.

Pháp Hoa kinh khai đề gồm 1 quyển và 3 quyển khác.

Pháp Hoa kinh mật hiệu gồm 1 quyển và 4 quyển khác.

Pháp Hoa kinh bí thích gồm 1 quyển và 5 quyển khác.

Pháp Hoa khai đề gồm 1 quyển và 6 quyển khác.

Kinh văn 2191 Pháp Hoa kinh bí thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2192 Nhập Chơn Ngôn môn trụ như thật kiến giảng diễn Pháp Hoa lược nghi gồm 2 quyển.

Kinh văn 2193 Chú Vô Lượng nghĩa kinh gồm 3 quyển.

Kinh văn 2194 Phật thuyết quán Phổ Hiền Bồ Tát hành Pháp Hoa ký gồm 2 quyển.

Kinh văn 2195 Pháp Hoa khai thị bao gồm 28 quyển.

Phụ: Vô lượng nghĩa kinh khai thị sao gồm 1 quyển.

Phổ Hiền kinh khai thị sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2196 Kim Quang Minh tối thắng vương kinh huyền xu gồm 10 quyển.

Kinh văn 2197 Kim Quang Minh tối thắng vương kinh chú thích gồm 10 quyển.

Kinh văn 2198 Tối Thắng Vương kinh vũ túc gồm 1 quyển.

Kinh văn 2199 Tối Thắng Vương kinh khai đề gồm 1 quyển.

Kinh văn 2200 Nhơn Vương kinh khai đề gồm 1 quyển.

Tập 57

Tục kinh sớ bộ nhị thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2201 Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật kinh khai đề gồm 1 quyển.

Kinh văn 2202 Bát Nhã tâm kinh thuật nghĩa gồm 1 quyển.

Kinh văn 2203 A- Bát Nhã tâm kinh bí kiện gồm 1 quyển.

B- Bát Nhã tâm kinh bí kiện lược chú gồm 1 quyển.

Kinh văn 2204 Bát Nhã tâm kinh bí kiện khai môn quyết gồm 3 quyển.

Kinh văn 2205 Hoa Nghiêm diễn nghĩa sao toản thích gồm 38 quyển.

Kinh văn 2206 A- Tân dịch Hoa Nghiêm kinh âm nghĩa gồm 1 quyển. B- Trinh Nguyên Hoa Nghiêm kinh âm nghĩa gồm 1 quyển.

Kinh văn 2207 Tịnh Độ tam bộ kinh âm nghĩa tập gồm 4 quyển.

Kinh văn 2208 A- Tịnh Độ nghi đoạn gồm 4 quyển.

B- Quán kinh nghĩa hiền vấn ngu đáp sao gồm 1 quyển.

C- Quán kinh nghĩa chuyết nghi xảo đáp nghiêm hạch sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2209 Quán kinh sớ truyền thông ký gồm 15 quyển.

Kinh văn 2210 A Di Đà kinh lược ký gồm 1 quyển.

Tập 58

Tục kinh sớ bộ tam thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2211 Đại Nhựt kinh khai đề gồm 1 quyển.

Đại Nhựt kinh khai đề gồm 1 quyển và 1 quyển khác.

Đại Nhựt kinh lược khai đề gồm 1 quyển và 2 quyển khác.

Đại Nhựt kinh khai đề gồm 1 quyển và 3 quyển khác.

Đại Nhựt kinh khai đề gồm 1 quyển và 4 quyển khác.

Đại Nhựt kinh khai đề gồm 1 quyển và 5 quyển khác.

Đại Nhựt kinh khai đề gồm 1 quyển và 6 quyển khác.

Kinh văn 2212 Đại Tỳ Lô Giá Na kinh chỉ quy gồm 1 quyển.

Đại Tỳ Lô Giá Na thành đạo kinh tâm mục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2213 Đại Nhựt kinh sớ Diệu Ấn sao gồm 80 quyển.

Kinh văn 2214 Đại Nhựt kinh sớ Diệu Ấn sao khẩu truyền gồm 10 quyển.

Kinh văn 2215 Đại Nhựt kinh trụ tâm phẩm sớ tư ký gồm 16 quyển.

Tập 59

Tục kinh sớ bộ tứ, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2216 Đại Nhựt kinh sớ Diễn Áo sao gồm 60 quyển.

Kinh văn 2217 Đại Nhựt kinh sớ Chỉ Tâm sao gồm 16 quyển.

Tập 60

Tục kinh sớ bộ ngũ, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2218 Đại Nhựt kinh sớ sao gồm 85 quyển.

Kinh văn 2219 Đại Nhựt kinh trụ tâm phẩm sớ tư ký gồm 20 quyển.

Kinh văn 2220 Đại Nhựt kinh cúng dường thứ đệ pháp sớ tư ký gồm 8 quyển.

Tập 61

Tục kinh sớ bộ lục, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2221 Kim Cang đảnh kinh khai đề gồm 1 quyển.

Kinh văn 2222 Giáo Vương kinh khai đề gồm 1 quyển.

Kinh văn 2223 Kinh Cang đảnh đại giáo vương kinh sớ gồm 7 quyển.

Kinh văn 2224 Kim Cang đảnh kinh kệ thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2225 Kim Cang đảnh đại giáo vương kinh tư ký gồm 19 quyển.

Kinh văn 2226 Tam thập quyển giáo vương kinh văn thứ đệ gồm 2 quyển.

Kinh văn 2227 Tô Tất Địa Yết La kinh lược sớ gồm 7 quyển.

Kinh văn 2228 Kim Cang Phùng Số Các nhứt thiết Du Già Chi kinh tu hành pháp gồm 3 quyển.

Kinh văn 2229 Du Chi tổng hành tư ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2230 Bồ Đề Trường kinh lược nghi thích gồm 5 quyển.

Kinh văn 2231 Liên Hoa thai tạng giới nghi quỹ giải thích gồm 3 quyển.

Kinh văn 2232 Phạm Phược Nhựt La Là Đỗ tư ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2233 Đại Phật Đảnh kinh khai đề gồm 1 quyển.

Kinh văn 2234 Chú Đại Phật Đảnh chơn ngôn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2135 Đại Phật Đảnh Như Lai phóng quang tất hằng tha bát hằng la Đà La Ni khám chú gồm 1 quyển.

Kinh văn 2236 Lý thú kinh khai đề gồm 1 quyển.

Lý thú kinh khai đề gồm 1 quyển và 1 quyển khác

Lý thú kinh khai đề gồm 1 quyển và 2 quyển khác.

Kinh văn 2237 Chơn thật kinh văn cú gồm 1 quyển.

Kinh văn 2238 Lý thú kinh chủng tử thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2239 Đại Lạc kinh hiển nghĩa sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2240 Lý thú thích trọng thích ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2241 Lý thú thích bí yếu sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2242 Đại Tùy cầu Đà La Ni kham chú gồm 1 quyển.

Kinh văn 2243 Thiên thủ kinh nhị thập bát bộ chúng thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2244 Khổng Tước kinh âm nghĩa gồm 3 quyển.

Kinh văn 2245 Bất Không La Tố Tỳ Lô Giá Na Phật đại quán đảnh quang minh chơn ngôn cú nghĩa thích gồm 1 quyển.

Tập 62

Tục luật sớ bộ toàn của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2246 Phạm Võng kinh khai đề gồm 1 quyển.

Kinh văn 2247 Phạm Võng giới bổn sớ Nhựt Châu sao gồm 50 quyển.

Kinh văn 2248 Thư hành sao gồm 28 quyển.

Tập 63

Tục luận sớ bộ nhứt thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2249 Câu Xá Luận bổn nghĩa sao gồm 48 quyển.

Kinh văn 2250 A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận chỉ yếu sao gồm 30 quyển.

Tập 64

Tục luận sớ bộ nhị, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2251 A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận Pháp nghĩa gồm 30 quyển.

Kinh văn 2252 A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận khể cổ gồm 2 quyển.

Kinh văn 2253 Câu Xá Luận tụng sớ chánh văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2254 Câu Xá Luận tụng sớ sao gồm 29 quyển.

Tập 65

Tục luận sớ bộ tam thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2255 Trung luận sớ ký gồm 8 quyển.

Kinh văn 2256 Trung Quán luận nhị thập thất phẩm biệt thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2257 Thập nhị môn luận sớ văn tư ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2258 Chưởng Trân Lượng Đạo gồm 1 quyển.

Kinh văn 2259 Du Già luận vấn đáp gồm 7 quyển.

Kinh văn 2260 Thành Duy Thức luận thuật ký tự thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2261 Duy Thức nghĩa Đăng Tăng Minh ký gồm 4 quyển.

Kinh văn 2262 Thành Duy Thức luận bổn văn sao gồm 45 quyển.

Tập 66

Tục luận sớ bộ tứ, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2263 Duy Thức luận đồng học sao gồm 68 quyển.

Kinh văn 2264 Duy Thức luận văn thơ gồm 27 quyển.

Kinh văn 2265 Duy Thức luận huấn luận nhật ký gồm 1 quyển.

Tập 67

Tục luận sớ bộ ngũ, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2266 Thành Duy Thức luận thuật ký tập thành biên gồm 45 quyển.

Tập 68

Tục luận sớ bộ lục, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2267 Thành Duy Thức luận lược sớ gồm 6 quyển.

Kinh văn 2268 Chú tam thập tụng gồm 1 quyển.

Kinh văn 2269 Nhiếp Đại Thừa luận thích lược sớ gồm 5 quyển.

Kinh văn 2270 Nhơn Minh luận sớ Minh Đăng sao gồm 12 quyển.

Kinh văn 2271 Nhơn Minh đại sớ sao gồm 41 quyển.

Tập 69

Tục luận sớ bộ thất, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2272 Nhơn Minh đại sớ dung quán sao gồm 9 quyển.

Kinh văn 2273 Nhơn Minh đại sớ đạo gồm 3 quyển.

Kinh văn 2274 Nhơn Minh đại sớ khỏa thơ gồm 6 quyển.

Kinh văn 2275 Nhơn Minh tứ chủng tương vi tứ ký gồm 3 quyển.

Kinh văn 2276 Nhơn Minh luận sớ tứ tương vi lược chú thích gồm 3 quyển.

Kinh văn 2277 Nhơn Minh tứ chủng tương vi lược tư ký gồm 2 quyển.

Kinh văn 2278 Tứ chủng tương vi đoạn lược ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2279 Nhơn Minh toản yếu lược ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2280 Nhơn Minh đại sớ tứ chủng tương vi sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2281 Minh bổn sao gồm 13 quyển.

Kinh văn 2282 Minh yếu sao gồm 5 quyển.

Kinh văn 2283 Khởi Tín luận sao xuất gồm 2 quyển.

Kinh văn 2284 Thích Ma Ha Diễn luận chỉ sự gồm 2 quyển.

Kinh văn 2285 Thích Ma Ha Diễn luận chỉ sự gồm 1 quyển.

Kinh văn 2286 Thích Ma Ha Diễn luận quyết nghi phá nan hội thích sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2287 Thích Ma Ha Diễn luận lập nghĩa phân lược thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2288 Thích Ma Ha Diễn luận ứng giáo sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2289 Thích Ma Ha Diễn luận tư ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2290 Thích Ma Ha Diễn luận khám chú gồm 24 quyển.

Tập 70

Tục luận sớ bộ bát, tục Chư Tông bộ nhất thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2291 Kim Cang đảnh Du Già trung phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm luận bí thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2292 Kim Cang đảnh phát Bồ Đề Tâm luận tư sao gồm 4 quyển.

Kinh văn 2293 Kim Cang đảnh tông Bồ Đề Tâm luận khẩu quyết gồm 1 quyển.

Kinh văn 2294 Bồ Đề Tâm luận kiến khai gồm 4 quyển.

Kinh văn 2295 Bồ Đề Tâm luận dị bản gồm 1 quyển.

Phụ: Bồ Đề Tâm luận ngu nghi gồm 1 quyển.

Kinh văn 2296 Đại Thừa tam luận đại nghĩa sao gồm 4 quyển.

Kinh văn 2297 Nhứt thừa Phật tánh Huệ Nhựt sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2298 Đại Thừa chánh quán lược tư ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2299 Tam luận huyền sớ văn nghĩa yếu gồm 10 quyển.

Kinh văn 2300 Tam luận huyền nghĩa kiểm u tập gồm 7 quyển.

Kinh văn 2301 Tam luận huyền nghĩa sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2302 Tam luận huyền nghĩa dụ mông gồm 3 quyển.

Kinh văn 2303 Đại Thừa huyền vấn đáp gồm 12 quyển.

Kinh văn 2304 Nhứt Thừa nghĩa tư ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2305 Bát thức nghĩa chương nghiêm tập sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2306 Tam luận danh giáo sao gồm 15 quyển.

Kinh văn 2307 A- Tam luận hưng duyên gồm 1 quyển.

B- Tam luận tông lạm thương gồm 1 quyển.

Kinh văn 2308 Tam luận tông sơ tâm sơ học sao gồm 1 quyển.

Tập 71

Tục Chư Tông bộ nhị, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2309 Đại Thừa Pháp Tướng Nghiêm Thần Chương gồm 5 quyển.

Kinh văn 2310 Pháp Tướng Chứng Minh ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2311 Tâm Yếu sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2312 Quán tâm giác mộng sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2313 Chơn tâm yếu quyết gồm 3 quyển.

Kinh văn 2314 Nhị quyển sao gồm 2 quyển.

Kinh văn 2315 Lược thuật Pháp Tướng nghĩa gồm 3 quyển.

Kinh văn 2316 Đại Thừa nhứt thiết Pháp Tướng huyền luận gồm 2 quyển.

Kinh văn 2317 Pháp Uyển nghĩa cảnh gồm 6 quyển.

Kinh văn 2318 Ngũ tâm nghĩa lược ký gồm 2 quyển.

Kinh văn 2319 Duy Thức nghĩa tư ký gồm 12 quyển.

Kinh văn 2320 Pháp Tướng tông hiền thánh nghĩa lược vấn đáp quyển đệ tứ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2321 Duy Thức phân lượng quyết gồm 1 quyển.

Kinh văn 2322 Tứ phần nghĩa cực yếu tư ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2323 Đại Thừa Pháp Uyển nghĩa lâm chương Sư Tử hống sao gồm 22 quyển.

Kinh văn 2324 Thất thập ngũ pháp danh mục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2325 Hữu Tông thất thập ngũ pháp ký gồm 3 quyển.

Tập 72

Tục Chư Tông bộ tam, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2326 Hoa Nghiêm Tông, nhứt thừa khai tâm luận gồm 6 quyển.

Kinh văn 2327 Hoa Nghiêm nhứt thừa nghĩa tư ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2328 Hoa Nghiêm Tông chủng tánh nghĩa sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2329 Hoa Nghiêm luận thảo gồm 1 quyển.

Kinh văn 2330 Hoa Nghiêm tín chủng nghĩa gồm 1 quyển.

Kinh văn 2331 Hoa Nghiêm tu thiền quán chiếu nhập giải thoát môn nghĩa gồm 2 quyển.

Kinh văn 2332 Hoa Nghiêm Phật Quang Tam Muội quán bí bảo tạng gồm 2 quyển.

Kinh văn 2333 Hoa Nghiêm Tông hương huân sao gồm 7 quyển.

Kinh văn 2334 Hoa Nghiêm Tông đại ý sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2335 Hoa Nghiêm Tông yếu nghĩa gồm 1 quyển.

Kinh văn 2336 Hoa Nghiêm Tông sở lập ngũ giáo thập tông đại ý lược sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2337 Hoa Nghiêm ngũ giáo chương chỉ sự gồm 6 quyển.

Kinh văn 2338 Hoa Nghiêm ngũ giáo chung danh mục gồm 3 quyển.

Kinh văn 2339 Ngũ Giáo chương thông lộ ký gồm 52 quyển.

Kinh văn 2340 Hoa Nghiêm ngũ giáo chương vấn đáp sao gồm 50 quyển.

Tập 73

Tục Chư Tông bộ tứ, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2341 Hoa Nghiêm ngũ giáo chương thâm ý sao gồm 10 quyển.

Kinh văn 2342 Hoa Nghiêm ngũ giáo chương kiến văn sao gồm 8 quyển.

Kinh văn 2343 Hoa Nghiêm ngũ giáo chương bất thẩm gồm 20 quyển.

Kinh văn 2344 Hoa Nghiêm ngũ giáo chương Khuông Chơn sao gồm 10 quyển.

Kinh văn 2345 Hoa Nghiêm ngũ giáo chương Diễn bí sao gồm 5 quyển.

Kinh văn 2346 Kim Sư Tử chương khảm văn gồm 1 quyển.

Tập 74

Tục Chư Tông bộ ngũ, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2347 Giới luật truyền lai ký gồm 3 quyển.

Kinh văn 2348 Luật Tông cương yếu gồm 2 quyển.

Kinh văn 2349 Đông Đại Tự thọ giới phương quỹ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2350 Đông Đại Tự giới đàn viện, thọ giới thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2351 Đường Chiêu Đề tự giới đàn biệt thọ giới thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2352 Bồ Tát giới bổn tông yếu tạp văn tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2353 Bồ Tát giới thông thọ di nghi sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2354 Bồ Tát giới thông biệt nhị thọ sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2355 Thông thọ Tỳ Kheo Sám Hối lưỡng tự bất đồng ký gồm 1 quyển

Kinh văn 2356 Bồ Tát giới bổn tông yếu phụ hành văn tập gồm 2 quyển.

Kinh văn 2357 Ứng lý tông giới đồ thích văn sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2358 A- Bồ Tát giới vấn đáp động nghĩa sao gồm 1 quyển. B- Bồ Tát giới cương yếu sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2359 Luật tông hành sự mục tâm sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2360 Đại Thừa viên giới hiển chánh luận gồm 1 quyển.

Kinh văn 2361 Nguyện văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2362 Thủ hộ quốc giới chương gồm 9 quyển.

Kinh văn 2363 Pháp Hoa trường giảng hội thức gồm 2 quyển.

Kinh văn 2364 Trường giảng Kim Quang Minh kinh hội thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2365 Trường giảng Nhân Vương Bát Nhã kinh hội thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2366 Thiên Thai Pháp Hoa Tông nghĩa tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2367 Thọ quyết tập gồm 2 quyển.

Kinh văn 2368 Chư gia giáo tướng đồng dị lục tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2369 Định tông luận gồm 1 quyển.

Kinh văn 2370 Nhứt thừa yếu quyết gồm 3 quyển.

Kinh văn 2371 Hán quang loại tụ gồm 4 quyển.

Kinh văn 2372 Thiên Thai Chơn Ngôn nhị tông đồng dị chương gồm 1 quyển.

Kinh văn 2373 Viên Mật Tông nhị giáo danh mục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2374 Tông Yếu Bách Nguyên án lập gồm 6 quyển.

Kinh văn 2375 Thiên Thai Viên Tông tứ giáo ngũ thời tứ cốc danh mục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2376 Hiển giới luận gồm 3 quyển.

Kinh văn 2377 Sơn gia học sanh thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2378 Thọ Bồ Tát giới nghi gồm 1 quyển.

Kinh văn 2379 Truyền thuật nhất tâm giới văn gồm 3 quyển.

Kinh văn 2380 Hiển Dương Đại Giới luận gồm 8 quyển.

Kinh văn 2381 Phổ thông thọ Bồ Tát giới quảng thích gồm 3 quyển.

Kinh văn 2382 Tân học hạnh yếu sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2383 Bồ Tát viên đốn thọ giới quán đảnh ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2384 Viên giới chỉ chưởng gồm 3 quyển.

Tập 75

Tục Chư Tông bộ lục, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2385 Thai tạng giới hư tâm ký gồm 2 quyển.

Kinh văn 2386 Kim Cang giới tịnh địa ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2387 Tô Tất Địa diệu tâm đại gồm 1 quyển.

Kinh văn 2388 Diệu thành tự ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2389 Chơn Ngôn sở lập tam thân vấn đáp gồm 1 quyển.

Kinh văn 2390 Thai Tạng giới đại pháp đối thọ ký gồm 7 quyển.

Kinh văn 2391 Kim Cang giới đại pháp đối thọ ký gồm 8 quyển.

Kinh văn 2392 Tô Tất Địa đối thọ ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2393 Quán Trung viện soạn định sự nghiệp quán đảnh cụ túc chi phần gồm 10 quyển.

Kinh văn 2394 Đại Nhựt kinh cúng dường trì tụng bất đồng gồm 7 quyển.

Kinh văn 2395 A- Giáo thời tránh gồm 1 quyển. B- Giáo thời tránh luận gồm 1 quyển.

Kinh văn 2396 Chơn Ngôn Tông giáo thời nghĩa gồm 4 quyển.

Kinh văn 2397 Thai tạng Kim Cang Bồ Đề Tâm nghĩa lược vấn đáp sao gồm 5 quyển.

Kinh văn 2398 Thai tạng tam mật sao gồm 5 quyển.

Kinh văn 2399 Tam mật sao liệu giảng gồm 2 quyển.

Kinh văn 2400 Kim Cang tam mật sao gồm 5 quyển.

Kinh văn 2401 Đông Mạn Trà La sao gồm 3 quyển

Kinh văn 2402 Tây Mạn Trà La sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2403 Ngũ tướng thành thân tư ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2404 Thai Tạng giới sanh khởi gồm 1 quyển.

Kinh văn 2405 Bí mật đàn đô pháp đại A Xà Lê thường niệm tụng sanh khởi gồm 1 quyển.

Kinh văn 2406 Kim Cang giới thứ đệ sanh khởi gồm 1 quyển. Phụ: Cẩn đáp Kim Cang giới nghi vấn tổng lai thập điều gồm 1 quyển.

Kinh văn 2407 Tùy yếu ký gồm 2 quyển.

Kinh văn 2408 Tứ thập thiếp quyết gồm 15 quyển.

Tập 76

Tục Chư Tông bộ thất, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2409 Hành Lâm sao gồm 82 quyển.

Kinh văn 2410 Khê Lam thập diệp tập gồm 160 quyển.

Tập 77

Tục Chư Tông bộ bát, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2411 Tam Muội lưu khẩu truyền tập gồm 2 quyển.

Kinh văn 2412 Tổng trì sao gồm 10 quyển.

Kinh văn 2413 Tứ độ thọ pháp nhựt ký gồm 4 quyển.

Kinh văn 2414 Liễu Nhơn quyết gồm 48 quyển.

Kinh văn 2415 Quán đảnh tư kiến văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2416 Già Na nghiệp an lập thảo gồm 13 quyển.

Kinh văn 2417 Pháp Hoa sám pháp gồm 1 quyển.

Kinh văn 2418 Lệ thời tác pháp gồm 1 quyển.

Kinh văn 2419 Già Na nghiệp học tắc gồm 1 quyển.

Kinh văn 2420 Tấu tiến pháp ngữ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2421 Niệm Phật tam muội pháp ngữ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2422 Chơn Điều thượng nhơn pháp ngữ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2423 Chơn Hà thượng nhơn pháp ngữ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2424 Chơn Lãng thượng nhơn pháp ngữ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2425 Bí mật mạn trà la thập trụ tâm luận gồm 10 quyển.

Kinh văn 2426 Bí tạng bảo thược gồm 3 quyển

Kinh văn 2427 Biện hiển mật nhị giáo luận gồm 2 quyển.

Kinh văn 2428 - Tức thân thành Phật nghĩa gồm 1 quyển.

- Chơn Ngôn Tông tức thân thành Phật vấn đáp gồm 1 quyển.

- Tức thân thành Phật nghĩa gồm 1 quyển và 2 quyển khác.

- Chơn Ngôn Tông tức thân thành Phật nghĩa gồm 1 quyển và 3 quyển khác.

- Tức thân thành Phật nghĩa gồm 1 quyển và 4 quyển khác.

- Tức thân thành Phật nghĩa gồm 1 quyển và 5 quyển khác.

- Chơn Ngôn Tông tức thân thành Phật nghĩa vấn đáp gồm 1 quyển và 6 quyển khác.

Kinh văn 2430 Hồng tự nghĩa gồm 1 quyển.

Kinh văn 2431 Ngự di cáo gồm 1 quyển.

Kinh văn 2432 A tự quán dụng tâm khẩu quyết gồm 1 quyển.

Kinh văn 2433 Chơn Ngôn phụ pháp soạn yếu sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2434 Biện hiển mật nhị giáo luận huyền cảnh sao gồm 6 quyển.

Kinh văn 2435 Hiển mật sai biệt vấn đáp gồm 2 quyển.

Kinh văn 2436 Tứ chủng pháp thân nghĩa gồm 1 quyển.

Kinh văn 2437 Trụ tâm quyết nghi sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2438 A tự nghĩa gồm 3 quyển

Kinh văn 2439 A tự yếu lược quán gồm 1 quyển.

Kinh văn 2440 Đại kinh yếu nghĩa sao chú giải gồm 1 quyển.

Kinh văn 2441 Bí tông giáo tướng sao gồm 10 quyển.

Kinh văn 2442 Thập trụ tâm luận sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2443 Thập trụ tâm luận đả văn tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2444 Thập trụ Già Nan sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2445 Chơn Ngôn giáo chủ vấn đáp sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2446 Thiên phúc luân tướng hiển mật tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2447 Trinh Ứng sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2448 Chư pháp phân biệt sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2449 Chơn Ngôn danh mục gồm 1 quyển

Kinh văn 2450 Khai tâm sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2451 Kim Cang đảnh Tông Cương khải gồm 1 quyển.

Kinh văn 2452 Đại Nhựt kinh giáo chủ bổn địa gia trì phân biệt gồm 1 quyển.

Kinh văn 2453 Bảo sách sao gồm 10 quyển.

Kinh văn 2454 Thập trụ tâm nghi lâm gồm 2 quyển.

Kinh văn 2455 Đại Nhựt kinh chủ dị nghĩa sự gồm 1 quyển.

Kinh văn 2456 Bảo Kính sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2457 Đại Nhựt kinh giáo chủ nghĩa gồm 1 quyển.

Kinh văn 2458 Chơn Ngôn Tông vị quyết văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2459 Vị quyết đáp thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2460 Đức Nhứt vị quyết đáp thích gồm 1 quyển.

Tập 78

Tục Chư Tông bộ cửu, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2461 Đại Hòa Thượng phụng vì Bình An Thành Thái Thượng Thiên Hoàng quán đảnh văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2462 Tam Muội Da giới tự gồm 1 quyển.

Kinh văn 2463 Bí mật tam muội da Phật giới nghi gồm 1 quyển.

Kinh văn 2464 Ngũ bộ Đà La Ni vấn đáp kệ tán tông bí luận gồm 1 quyển.

Kinh văn 2465 Tằng vĩ khẩu quyết gồm 1 quyển.

Kinh văn 2466 Cao hùng khẩu quyết gồm 1 quyển.

Kinh văn 2467 Ngũ bộ can tâm ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2468 Yếu tôn đạo tràng quán gồm 1 quyển.

Kinh văn 2469 Bất quán linh đẳng ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2470 Cụ chi quán đảnh nghi thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2471 Kim Cang giới cửu hội mật ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2472 Thai tạng giới tam bộ mật thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2473 Tiểu dã lục thiếp gồm 7 quyển.

Kinh văn 2474 Ngũ tướng thành thân nghĩa vấn đáp sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2475 Thập bát khế ân nghĩa thích sanh khởi gồm 1 quyển.

Kinh văn 2476 Biệt hành gồm 7 quyển.

Kinh văn 2477 Thị Đại gồm 1 quyển.

Kinh văn 2478 Yếu tôn pháp gồm 1 quyển.

Kinh văn 2479 Thắng ngữ tập gồm 2 quyển.

Kinh văn 2480 Sự tướng liệu giản gồm 1 quyển.

Kinh văn 2481 Chuyển phi mệnh nghiệp sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2482 Truyền giới tập gồm 4 quyển.

Kinh văn 2483 Hậu tạo chỉ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2484 Chư tôn yếu sao gồm 15 quyển.

Kinh văn 2485 Mật tạng kim bảo sao gồm 10 quyển.

Kinh văn 2486 Huyền bí sao gồm 4 quyển.

Kinh văn 2487 Trị thừa ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2488 Trạch sao gồm 10 quyển

Kinh văn 2489 Bí sao gồm 18 quyển.

Kinh văn 2490 Dị tôn sao gồm 2 quyển.

Kinh văn 2491 Hữu ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2492 Tả ký gồm 1 quyển

Kinh văn 2493 Ngự ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2494 Truy ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2495 Bạc song chỉ gồm 16 quyển

Kinh văn 2496 Biên khẩu sao gồm 6 quyển.

Kinh văn 2497 Thật quy sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2498 Hạnh tâm sao gồm 5 quyển.

Kinh văn 2499 Truyền pháp quán đảnh tư ký gồm 3 quyển.

Kinh văn 2500 Tứ quyển gồm 4 quyển.

Kinh văn 2501 Sư khẩu gồm 4 quyển.

Kinh văn 2502 Hành pháp can diệp sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2503 Thọ Thật Tánh Viện kiên quyết ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2504 Trung Viện lưu tứ độ khẩu truyện gồm 1 quyển.

Kinh văn 2505 Trung Viện lưu sự gồm 1 quyển.

Kinh văn 2506 Trung Viện lưu đại sự văn thơ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2507 Truyền thi bịnh khẩu truyện gồm 1 quyển.

Kinh văn 2508 Truyền thi bịnh chích trị gồm 1 quyển.

Kinh văn 2509 Ngụy thơ luận gồm 1 quyển.

Tập 79

Tục Chư Tông bộ thập, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2510 Hiển mật bất đồng tụng gồm 1 quyển.

Kinh văn 2511 Chơn Ngôn Tông tức thân thành Phật nghĩa chương gồm 1 quyển.

Kinh văn 2512 tự bí thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2513 tự nghĩa gồm 1 quyển.

Kinh văn 2514 Ngũ luân cửu tự minh bí mật thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2515 Mật Nghiêm Tịnh Độ lược quán gồm 1 quyển.

Kinh văn 2516 Bí mật trang nghiêm truyền pháp quán đảnh nhứt di nghĩa gồm 1 quyển.

Kinh văn 2517 Thập bát đạo sa thái gồm 1 quyển.

Kinh văn 2518 Kim Cang đảnh kinh Liên Hoa bộ tâm niệm tụng thứ đệ sa thái gồm 1 quyển.

Kinh văn 2519 Thai tạng giới sa thái gồm 1 quyển.

Kinh văn 2520 Tâm nguyệt luân bí thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2521 Chơn Ngôn Tịnh Bồ Đề Tâm tư ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2522 A Di Đà bí thích gồm 1 quyển

Kinh văn 2523 Chơn Ngôn Tông nghĩa gồm 1 quyển.

Kinh văn 2524 Bí mật trang nghiêm bất nhị nghĩa chương gồm 1 quyển.

Kinh văn 2525 Chơn Ngôn tam mật tu hành vấn đáp gồm 1 quyển.

Kinh văn 2526 Khuyến phát tụng gồm 1 quyển.

Kinh văn 2527 Mật Nghiêm Viện phát lồ sám hối văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2528 Chư Tông giáo lý đồng dị thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2529 Thập bát đạo khẩu quyết gồm 2 quyển.

Kinh văn 2530 Dã kim khẩu quyết sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2531 Dã thai khẩu quyết sao gồm 2 quyển.

Kinh văn 2532 Hộ Ma khẩu quyết gồm 1 quyển.

Kinh văn 2533 Kim Giới phát huệ sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2534 Thai tạng nhập lý sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2535 Bạ Thảo Tử khẩu quyết gồm 21 quyển.

Kinh văn 2536 Bí sao vấn đáp gồm 22 quyển.

Kinh văn 2537 Thích Ma Ha Diễn luận đệ thập quảng đoản sách gồm 1 quyển.

Kinh văn 2538 Đại sớ bách điều đệ tam trọng gồm 10 quyển.

Kinh văn 2539 Tự chứng thuyết pháp gồm 1 quyển.

Kinh văn 2540 Đại sớ đàm nghĩa gồm 10 quyển.

Kinh văn 2541 Bí mật nhơn duyên quản huyền tướng thành nghĩa gồm 2 quyển.

Kinh văn 2542 Độc thơ nhị thập nhị tắc gồm 1 quyển.

Tập 80

Tục Chư Tông bộ thập nhứt, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2543 Hưng Thiền hộ quốc luận gồm 3 quyển.

Kinh văn 2544 Thánh Nhứt Quốc Sư ngữ lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2545 Bảo Giác Thiền Sư ngữ lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2546 Phật Chiếu Thiền Sư ngữ lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2547 Đại Giác Thiền Sư ngữ lục gồm 3 quyển.

Kinh văn 2548 Viên Thông Đại Ứng Quốc Sư ngữ lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2549 Phật Quang Quốc Sư ngữ lục gồm 10 quyển.

Kinh văn 2550 Viên Giám Quốc Sư ngữ lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2551 Phật Quốc Thiền Sư ngữ lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2552 Nam Viện Quốc Sư ngữ lục gồm 3 quyển

Kinh văn 2553 Nhứt Sơn Quốc Sư ngữ lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2554 Trúc Tiên Hòa Thượng ngữ lục gồm 4 quyển.

Kinh văn 2555 Mộng Song Quốc Sư ngữ lục gồm 3 quyển.

Kinh văn 2556 Nghĩa Đường Hòa Thượng ngữ lục gồm 4 quyển.

Kinh văn 2557 Diêm Phù tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2558 Giám Sơn Phạt Đội Hòa Thượng ngữ lục gồm 6 quyển.

Kinh văn 2559 Vô Văn Thiền Sư ngữ lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2560 Tri Giác Phổ Minh Quốc Sư ngữ lục gồm 8 quyển.

Kinh văn 2561 Tuyệt Hải Hòa Thượng ngữ lục gồm 2 quyển.

Tập 81

Tục Chư Tông bộ thập nhị, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2562 Thường Quang Quốc Sư ngữ lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2563 Đại Thông Thiền Sư ngữ lục gồm 6 quyển.

Kinh văn 2564 Vĩnh Nguyên Tịch Thất Hòa Thượng ngữ lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2565 Phật Đảnh Quốc Sư ngữ lục gồm 5 quyển

Kinh văn 2566 Đại Đăng Quốc Sư ngữ lục gồm 3 quyển.

Kinh văn 2567 Triệt Ông Hòa Thượng ngữ lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2568 Tuyết Giang Hòa Thượng ngữ lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2569 Cảnh Xuyên Hòa Thượng ngữ lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2570 Hổ Huyệt lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2571 Thiếu Lâm vô khổng định gồm 6 quyển.

Kinh văn 2572 Kiến đào lục gồm 4 quyển.

Kinh văn 2573 Tây Nguyên Đức Phương Hòa Thượng ngữ lục gồm 3 quyển.

Kinh văn 2574 Hòa An quốc ngữ gồm 7 quyển.

Kinh văn 2575 Tông Môn vô tận đăng luận gồm 2 quyển.

Kinh văn 2576 Ngũ Gia Tham Tường yếu lộ môn gồm 5 quyển.

Kinh văn 2577 Đại Giám thanh quy gồm 1 quyển

Kinh văn 2578 Chư hồi hướng thanh quy gồm 5 quyển.

Kinh văn 2579 Tiểu tòng lâm thanh quy gồm 3 quyển.

Tập 82

Tục Chư Tông bộ thập tam, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2580 Phổ Khuyến tọa thiền nghi gồm 1 quyển.

Kinh văn 2581 Học đạo dụng tâm tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2582 Chánh pháp nhãn tạng gồm 95 quyển.

Kinh văn 2583 Vĩnh Bình Nguyên Hòa Thượng tụng cổ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2584 Vĩnh Bình thanh quy gồm 2 quyển.

Kinh văn 2585 Truyền quang lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2586 Tọa Thiền dụng tâm ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2587 Tín Tâm Minh thiếp đề gồm 1 quyển.

Kinh văn 2588 Thập chủng sắc vấn tấu đối tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2589 Oánh Sơn thanh quy gồm 2 quyển.

Kinh văn 2590 Quang Minh tạng tam muội gồm 1 quyển.

Kinh văn 2591 Nghĩa Vân Hòa Thượng ngữ lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2592 Thông Huyển Linh Thiền Sư mạn lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2593 Thật Phùng Thiền Sư ngữ lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2594 Phổ Tế Hòa Thượng ngữ lục gồm 3 quyển.

Kinh văn 2595 Nguyệt Pha Thiền Sư ngữ lục gồm 4 quyển.

Kinh văn 2596 Nguyệt Chu Hòa Thượng di lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2597 Độc Am độc ngữ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2598 Đông Lâm ngữ lục gồm 4 quyển.

Kinh văn 2599 Thiền giới quyết gồm 1 quyển.

Kinh van 2600 Báo ân biên gồm 3 quyển.

Kinh văn 2601 Thiền giới sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2602 Tâm học điển luận gồm 4 quyển

Kinh văn 2603 Hoang Điền tùy bút gồm 4 quyển.

Kinh văn 2604 Kiện Khang phổ thuyết gồm 1 quyển.

Kinh văn 2605 Phổ Chiếu Quốc Sư ngữ lục gồm 3 quyển.

Kinh văn 2606 Phổ Chiếu Quốc Sư pháp ngữ gồm 2 quyển.

Kinh văn 2607 Hoàng Bích thanh quy gồm 1 quyển.

Tập 83

Tục Chư Tông bộ thập tứ, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2608 Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2609 Triệt tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập gồm 2 quyển.

Kinh văn 2610 Tuyển trạch truyền hoằng quyết nghi sao gồm 5 quyển.

Kinh văn 2611 Hắc Cốc Thượng Nhơn ngữ đăng lục gồm 15 quyển.

Kinh văn 2612 Thập di Hắc Cốc Thượng Nhơn ngữ đăng lục gồm 3 quyển.

Kinh văn 2613 Mạt đợi niệm Phật thọ thủ ấn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2614 Tịnh Độ nhị tạng nhị giáo lược tụng gồm 1 quyển.

Kinh văn 2615 Quy mệnh bổn nguyện sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2616 Tây yếu sao gồm 2 quyển.

Kinh văn 2617 Phụ tử tương nghinh gồm 2 quyển.

Kinh văn 2618 Đại Nguyên đàm nghĩa văn thơ sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2619 Liên môn học tắc gồm 1 quyển.

Kinh văn 2620 Tuyển trạch mật yếu quyết gồm 5 quyển.

Kinh văn 2621 Tu nghiệp yếu quyết gồm 1 quyển.

Kinh văn 2622 Đương Ma Mạn Đà La cúng thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2623 Mạn Trà La bát giảng luận nghĩa sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2624 Nữ Viện ngự thơ gồm 2 quyển.

Kinh văn 2625 Trấn khuyến dụng tâm gồm 1 quyển.

Kinh văn 2626 Lưu Tổ Thượng Nhơn địch điều danh mục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2627 Quán kinh danh mục chứng cứ thập thất địch điều gồm 1 quyển.

Kinh văn 2628 Tây Sơn khẩu quyết truyền mật sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2629 Tịnh Độ Tông yếu tập gồm 3 quyển.

Kinh văn 2630 Trúc Lâm sao gồm 2 quyển.

Kinh văn 2631 Bồ Tát tạng đốn giáo nhứt thừa hải nghĩa quyết gồm 1 quyển.

Kinh văn 2632 Nan dị nhị đạo huyết mạch đồ luận gồm 1 quyển.

Kinh văn 2633 Hoa Sơn viện gia tứ thập bát vấn đáp gồm 1 quyển.

Kinh văn 2634 Quán kinh tứ phẩm tri thức nghĩa gồm 1 quyển.

Kinh văn 2635 Tiên động tam tâm nghĩa vấn đáp ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2636 Tịnh Độ Tông kiến lập tư ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2637 Tịnh Độ đồng mông chỉ quy danh mục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2638 Tịnh Độ Tông pháp môn đại đồ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2639 Tịnh Độ pháp môn đại đồ danh mục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2640 Tịnh Độ khẩu quyết tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2641 Tọa hữu sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2642 Sơ tâm hành hộ sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2643 Giảng viện học đường thông quy gồm 1 quyển.

Kinh văn 2644 Ngu yếu sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2645 Tây Sơn phục cổ biên gồm 1 quyển.

Kinh văn 2646 Hiển Tịnh Độ Chơn thật giáo hạnh chứng văn loại gồm 6 quyển.

Kinh văn 2647 Tịnh Độ văn loại tụ sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2648 Ngu tú sao gồm 2 quyển.

Kinh văn 2649 Nhập xuất nhị môn kệ tụng gồm 1 quyển.

Kinh văn 2650 Tịnh Độ hòa tán gồm 1 quyển.

Kinh văn 2651 Tịnh Độ Cao Tăng hòa tán gồm 1 quyển.

Kinh văn 2652 Chánh, Tượng, Mạt pháp hòa tán gồm 1 quyển.

Kinh văn 2653 -Hoàng Thái Tử Thánh Đức phụng tán gồm 1 quyển -Hoàng Thái Tử Thánh Đức phụng tán gồm 1 quyển và 1 quyển khác.

Kinh văn 2654 -Tịnh Độ tam kinh vãng sanh văn loại gồm 1 quyển. -Tịnh Độ tam kinh vãng sanh văn loại gồm 1 quyển và 1 quyển khác.

Kinh văn 2655 -Như Lai tam chủng hồi hướng văn gồm 1 quyển. -Vãng tướng hồi hướng, hoàn tướng hồi hướng văn loại gồm 1 quyển và 1 quyển khác.

Kinh văn 2656 Tôn hiệu Chơn tượng danh văn gồm 1 quyển và 1 quyển khác.

Kinh văn 2657 Nhứt niệm đa niệm văn ý gồm 1 quyển.

Kinh văn 2658 Duy Tín sao văn ý gồm 1 quyển.

Kinh văn 2659 Mạt Đăng sao của Nhật Bản.

Kinh văn 2660 Thân Loan Thánh Nhơn ngự tiêu tức tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2661 Thán dị sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2662 Chấp trì sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2663 Khẩu truyền sao gồm 3 quyển.

Kinh văn 2664 Bổn Nguyện tự Thánh Nhơn Thân Loan truyện tăng gồm 2 quyển.

Kinh văn 2665 Báo ân giảng thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2666 Thán đức văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2667 Tịnh Độ chơn yếu sao gồm 2 quyển.

Kinh văn 2668 Liên Như Thượng Nhơn ngự văn gồm 5 quyển.

Kinh văn 2669 Liên Như Thượng Nhơn ngự nhứt địa ký văn thơ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2670 Ngự tục tánh ngự văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2671 Đại danh mục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2672 Tự yếu tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2673 Hiển Chánh lưu nghĩa sao gồm 2 quyển.

Kinh văn 2674 Tây phương chỉ nam sao gồm 6 quyển.

Kinh văn 2675 Duy Tín sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2676 Hậu thế vật ngữ văn thơ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2677 Nhứt niệm đa niệm phân biệt sự gồm 1 quyển.

Kinh văn 2678 Tự lực tha lực sự gồm 1 quyển.

Kinh văn 2679 An tâm quyết định sao gồm 2 quyển.

Tập 84

Tục Chư Tông bộ thập ngũ, tất đàn bộ toàn thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

Kinh văn 2680 Duy thông viên môn chương gồm 1 quyển.

Kinh văn 2681 Khí Phạc luận gồm 3 quyển.

Kinh văn 2682 Vãng sanh yếu tập gồm 3 quyển.

Kinh văn 2683 Vãng sanh thập nhơn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2684 Quyết định vãng sanh tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2685 An dưỡng tri túc tương đối sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2686 An dưỡng sao gồm 8 quyển.

Kinh văn 2687 Tịnh Độ pháp môn nguyên lưu chương gồm 1 quyển.

Kinh văn 2688 Lập Chánh an quốc luận gồm 1 quyển.

Kinh văn 2689 Khai Mục sao gồm 2 quyển.

Kinh văn 2690 Soạn thời sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2691 Báo ân sao gồm 2 quyển.

Kinh văn 2692 Quán tâm bổn tôn sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2693 Pháp Hoa thu yếu sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2694 Thái Điền Thiền Môn hứa ngự thơ gồm 2 quyển.

Kinh văn 2695 Tam đại bí pháp sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2696 Tứ tín ngũ phẩm sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2697 Như thuyết tu hành sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2698 Chủng chủng ngự Chấn Vũ ngự thơ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2699 Ngự nghĩa khẩu truyền gồm 2 quyển.

Kinh văn 2700 Ngự giảng văn sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2701 Phạn tự Tất Đàm tự mẫu thích nghi gồm 1 quyển.

Kinh văn 2702 Tất Đàm tạng gồm 8 quyển.

Kinh văn 2703 Tất Đàm thập nhị lệ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2704 Tất Đàm lược ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2705 Tất Đàm tập ký gồm 3 quyển.

Kinh văn 2706 Tất Đàm yếu quyết gồm 4 quyển.

Kinh văn 2707 Đa La Diệp ký gồm 3 quyển.

Kinh văn 2708 Tất Đàm bí truyền ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2709 Tất Đàm luân lược đồ sao gồm 10 quyển.

Kinh văn 2710 (chữ Phạn) Tam Mật sao gồm 7 quyển.

Kinh văn 2711 Phạn học Tân lương tổng mục lục gồm 1 quyển.

Kinh văn 2712 Ngư Sơn thanh minh tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2713 Ngư Sơn tư sao gồm 2 tập.

Kinh văn 2714 Ngư Sơn mục lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2715 Đại Nguyên thanh minh Bác sĩ đồ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2716 Âm luật thanh hoa tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2717 Thanh minh khẩu truyền gồm 1 quyển.

Kinh văn 2718 Đại A Xà Lê thanh minh hệ đồ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2719 Thập nhị điều tử sự gồm 1 quyển.

Kinh văn 2720 Thanh minh nguyên lưu ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2721 Âm khúc bí yếu sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2722 Dược Sư Như Lai giảng thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2723 Hoành Xuyên Thủ Lăng Nghiêm viện nhị thập ngũ Tam Muội thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2724 Hoành Xuyên Thủ Lăng Nghiêm viện nhị thập ngũ Tam Muội khởi thỉnh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2725 Vãng sanh giảng thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2726 Ái nhiễm vương giảng thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2727 Cầu Văn trì biểu bạch gồm 1 quyển.

Kinh văn 2728 Quan Âm giảng thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2729 Di Lặc giảng thức gồm 1 quyển.

Kinh văn 2730 Như pháp kinh hiệu tu tác pháp gồm 1 quyển.

Kinh văn 2731 Tứ tọa giảng thức gồm 1 quyển.

1) Niết Bàn giảng thức

2) Thập Lục La Hán giảng thức

3) Di tích giảng thức

4) Xá Lợi giảng thức

Kinh văn từ 2132 thuộc đời Tống; Kinh văn 2133 đến Kinh văn 2144 thuộc Đời Đường. Kinh văn 2145 thuộc Nhà Lương; Kinh văn 2146 và 2147 thuộc Nhà Tùy. Từ Kinh văn 2148 đến Kinh văn 2157 thuộc Nhà Đường và Kinh văn 2158 thuộc Nam Đường.

Bắt đầu từ Kinh văn số 2159 đến Kinh văn số 2731; nghĩa là tổng cộng có 572 kinh và (2731-2159) thuộc về Phật giáo Nhật Bản và ở đâu đây được chia ra làm nhiều thời kỳ khác nhau trong 30 tập (tập 84 - tập 54) và các vị Tổ Sư của Phật giáo Nhật Bản đã sao ra để giảng thuyết bằng Hán văn và Nhật ngữ cho Tăng Ni cũng như Phật tử Nhật Bản nghe về Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Thức, Tam Luận, Luật, Tịnh Độ, Thiền, Mật, A Tỳ Đạt Ma Câu Xá, Nhơn Minh Luân, Thiên Thai Pháp Hoa, Định Tông, Chơn Ngôn Tông, lịch sử truyền thừa của chư Tổ Sư và việc thực hành Phật giáo tại Nhật Bản.

Kể từ tập thứ 85 đến cuối tập này trình bày về Phật giáo Trung Hoa từ Đời Đường về trước và sau đó, nên có tên gọi là: Cổ Dật Bộ và Nghi Tợ bộ.

Kinh văn 2732 Lương triều truyện Đại Sĩ tụng Kim Cang kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2733 Ngự chú Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật kinh tuyên diễn gồm 2 quyển.

Kinh văn 2734 Kim Cang Anh quyển thượng gồm 1 quyển.

Kinh văn 2735 Kim Cang Bát Nhã kinh chỉ tán gồm 2 quyển.

Kinh văn 2736 Kim Cang Bát Nhã kinh y Thiên Thân Bồ Tát luận tán lược thích Tần bản nghi ký quyển thượng gồm 1 quyển.

Kinh văn 2737 Kim Cang kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2738 Kim Cang kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2739 Kim Cang Bát Nhã kinh hiệp chú gồm 1 quyển.

Kinh văn 2740 Kim Cang Bát Nhã nghĩa ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2741 Kinh Cang Bát Nhã kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2742 Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa truyền ngoại truyền quyển hạ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2743 Trì tụng Kim Cang kinh linh nghiệm công đức ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2744 Nhơn Vương Bát Nhã Thật Tướng luận quyển đệ nhị gồm 1 quyển.

Kinh văn 2745 Nhơn Vương kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2746 Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Hoàn Nguyên thuật gồm 1 quyển.

Kinh văn 2747 Hiệp Chú Ba La Mật Đa Tâm Kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2748 Pháp Hoa nghĩa ký quyển đệ tam gồm 1 quyển.

Kinh văn 2749 Pháp Hoa kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2750 Pháp Hoa kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2751 Pháp Hoa kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2752 Pháp Hoa vấn đáp gồm 1 quyển.

Kinh văn 2753 Hoa Nghiêm kinh chương gồm 1 quyển.

Kinh văn 2754 Hoa Nghiêm lược sớ quyển đệ tam gồm 1 quyển.

Kinh văn 2755 Hoa Nghiêm kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2756 Hoa Nghiêm kinh nghĩa ký quyển đệ nhứt gồm 1 quyển.

Kinh văn 2757 Hoa nghiêm kinh sớ quyển đệ tam gồm 1 quyển.

Kinh văn 2758 Thập Địa nghĩa ký quyển đệ nhứt gồm 1 quyển.

Kinh văn 2759 Vô Lượng Thọ kinh nghĩa ký quyển hạ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2760 Vô Lượng Thọ Quán kinh nghĩa ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2761 Thắng Man kinh ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2762 Thắng Man kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2763 Hiệp Chú Thắng Man kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2764 A- Niết Bàn kinh nghĩa ký gồm 1 quyển.

B- Đại Niết Bàn kinh nghĩa ký đệ tứ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2765 Niết Bàn kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2766 Dược Sư kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2767 Dược Sư kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2768 Duy Ma nghĩa ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2769 Duy Ma kinh nghĩa ký quyển đệ tứ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2770 Duy Ma kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2771 Duy Ma kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2772 Duy Ma kinh sớ quyển đệ tam, đệ lục gồm 2 quyển.

Kinh văn 2773 Duy Ma kinh sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2774 Duy Ma kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2775 Duy Ma sớ thích tiền tiểu tự sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2776 Thích Triệu Tự gồm 1 quyển.

Kinh văn 2777 Tịnh Danh kinh tập giải quan trung sớ gồm 2 quyển.

Kinh văn 2778 Tịnh Danh kinh quan trung thích sao gồm 2 quyển.

Kinh văn 2779 Phật thuyết Lăng Già kinh Thiền môn tất đàm chương gồm 1 quyển.

Kinh văn 2780 Ôn thất kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2781 Vu Lan Bồn kinh tán thuật gồm 1 quyển.

Kinh văn 2782 Đại Thừa Đạo Dụ kinh tùy thích sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2783 Đại Thừa Đạo Dụ kinh tùy thích sớ quyết gồm 1 quyển.

Kinh văn 2784 Đại Thừa tứ pháp kinh thích sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2785 Đại Thừa tứ pháp luận quảng thích khai quyết ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2786 Thiên thỉnh vấn kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2787 Tứ phần giới bổn sớ quyển đệ nhứt, đệ nhị, đệ tam gồm 3 quyển.

Kinh văn 2788 Luật giới bổn sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2789 Luật giới bổn sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2790 Luật Tạp sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2791 Tông Tứ Phần Tỳ Kheo tùy môn yếu lược hành nghi gồm 1 quyển.

Kinh văn 2792 Tỳ Ni tâm gồm 1 quyển.

Kinh văn 2793 Tam bộ luật sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2794 Luật sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2795 Tứ bộ luật biện luận yếu dụng sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2796 Luật sao đệ tam quyển thủ quyết gồm 1 quyển.

Kinh văn 2797 Phạm Võng kinh thuật ký quyển đệ nhứt gồm 1 quyển.

Kinh văn 2798 Bổn Nghiệp Anh Lạc kinh sớ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2799 Thập Địa luận nghĩa sớ quyển đệ nhất, đệ nhị gồm 2 quyển.

Kinh văn 2800 Quảng bách luận sớ quyển đệ nhứt gồm 1 quyển.

Kinh văn 2801 Du Già Sư Địa luận phân môn ký gồm 6 quyển.

Bổn Địa phân tiền thập nhị địa.

Bổn Địa phân Thanh Văn Địa.

Bổn Địa phân Độc Giác Địa.

Bổn Địa phân Bồ Tát Địa đệ nhị, đệ tam.

Nhiếp quyết trạch phân đệ nhị.

Kinh văn 2802 Du Già Luận Thủ Ký gồm 4 quyển.

Kinh văn 2803 Địa Trì nghĩa ký quyển đệ tứ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2804 Duy Thức tam thập tụng yếu thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2805 Nhiếp Đại Thừa giảng sớ quyển đệ ngũ, đệ thất gồm 2 quyển.

Kinh văn 2806 Nhiếp Đại Thừa luận sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2807 Nhiếp Đại Thừa luận chương quyển đệ nhứt gồm 1 quyển.

Kinh văn 2808 Nhiếp luận chương quyển đệ nhứt gồm 1 quyển.

Kinh văn 2809 Nhiếp Đại Thừa luận chương quyển đệ tứ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2810 Đại Thừa bách pháp minh môn luận khai tông nghĩa ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2811 Đại Thừa bách pháp minh môn luận khai tông nghĩa ký tự thích gồm 1 quyển.

Kinh văn 2812 Đại Thừa bách pháp minh môn luận khai tông nghĩa quyết gồm 1 quyển.

Kinh văn 2813 Đại Thừa khởi tín luận lược thuật gồm 2 quyển.

Kinh văn 2814 Đại Thừa khởi tín luận quảng thích quyển đệ tam, tứ, ngũ gồm 3 quyển.

Kinh văn 2815 Khởi Tín luận chú gồm 1 quyển.

Kinh văn 2816 Nhơn duyên tâm thích luận khai quyết ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2817 Đại Thừa kinh toản yếu nghĩa gồm 1 quyển.

Kinh văn 2818 Đại Thừa nhị thập nhị vấn bổn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2819 Chư kinh yếu sao gồm 1 quyển.

Kinh văn 2820 Bồ Tát tạng tu đạo chúng kinh sao quyển đệ thập nhị gồm 1 quyển.

Kinh văn 2821 Chư kinh yếu lược văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2822 Đại Thừa yếu ngữ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2823 Đại Thừa nhập đạo thứ đệ khai quyết gồm 1 quyển.

Kinh văn 2824 Thiên Thai phân môn đồ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2825 Chơn Ngôn yếu quyết quyển đệ nhứt, đệ tam gồm 2 quyển.

Kinh văn 2826 Lược chư kinh luận niệm Phật pháp môn vãng sanh Tịnh Độ tập quyển thượng gồm 1 quyển.

Kinh văn 2827 Tịnh Độ ngũ hội niệm Phật tụng kinh quán hạnh nghi quyển trung, hạ gồm 2 quyển.

Kinh văn 2828 Đại Thừa Tịnh Độ tán gồm 1 quyển.

Kinh văn 2829 Trì trai niệm Phật sám hối lễ văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2830 A- Đạo An pháp sư niệm Phật tán gồm 1 quyển.

B- Đạo An pháp sư niệm Phật tán văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2831 Vô Tâm luận gồm 1 quyển.

Kinh văn 2832 Nam Thiên Trúc quốc Bồ Đề Đạt Ma Thiền Sư quán môn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2833 Quán Tâm luận gồm 1 quyển.

Kinh văn 2834 Đại Thừa vô sanh phương tiện môn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2835 Đại Thừa khai tâm hiển tánh đốn ngộ Chơn Tông luận gồm 1 quyển.

Kinh văn 2836 Đại Thừa Bắc Tông luận gồm 1 quyển.

Kinh văn 2837 Lăng Già Sư tử ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2838 Truyền Pháp Bảo kỷ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2839 Tán Thiền môn thi gồm 1 quyển.

Kinh văn 2840 Tam giới đồ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2841 Đại Phật lược sám gồm 1 quyển.

Kinh văn 2842 Ấn Sa Phật văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2843 Đại Bi khải thỉnh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2844 Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát vô tướng thập lễ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2845 Áp Tọa văn loại gồm 1 quyển.

Kinh văn 2846 Kỳ nguyện văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2847 Kỳ nguyện văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2848 Hồi hướng văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2849 Đại Thừa tứ tế nhật gồm 1 quyển.

Kinh văn 2850 Địa Tạng Bồ Tát thập tế nhựt gồm 1 quyển.

Kinh văn 2851 Hòa Bồ Tát giới văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2852 Nhập Bố Tát đường thuyết kệ văn đẳng gồm 1 quyển.

Kinh văn 2853 Bố Tát văn đẳng gồm 1 quyển.

Kinh văn 2854 Lễ sám văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2855 Lễ sám văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2856 Lễ sám văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2857 Tố pháp hiệu nghĩa công phúng tụng văn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2858 Đại Mục Kiền Liên minh gian cứu mẫu biến văn tịnh đồ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2859 Huệ Viễn ngoại truyện gồm 1 quyển.

Kinh văn 2860 Phủ Quân Tồn Huệ truyện gồm 1 quyển.

Kinh văn 2861 Tuyền Châu thiên Phật tân trước chư Tổ Sư tụng gồm 1 quyển.

Kinh văn 2862 Đại Phiên Sa Châu Thích môn giáo pháp Hòa Thượng Hồng Thệ tu công đức ký gồm 1 quyển.

Kinh văn 2863 Vương Phạm Chí thi tập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2864 Tiến chỉ gồm 1 quyển.

Kinh văn 2865 Hộ thân mệnh kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2866 Hộ thân mệnh kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2867 Từ nhơn vấn bát thập chủng hảo kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2868 Quyết tội phước kinh gồm 2 quyển.

Kinh văn 2869 Diệu Hảo bảo xa kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2870 Tượng pháp quyết nghi kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2871 Đại thông phương quảng sám hối diệt tội trang nghiêm thành Phật kinh gồm 3 quyển.

Kinh văn 2872 Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quảng Lượng thiên địa phẩm đệ nhị thập cửu gồm 1 quyển.

Kinh văn 2873 Thủ La Tỳ Kheo kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2874 Tiểu pháp diệt tận kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2875 Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm thập ác phẩm kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2876 Thiên Công kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2877 Như Lai tại kim quan Chúc Lụy thanh tịnh trang nghiêm kính phước kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2878 Cứu tật kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2879 Phổ Hiền Bồ Tát thuyết chứng minh kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2880 Cứu cánh Đại Bi kinh quyển đệ nhị, tam, tứ gồm 3 quyển.

Kinh văn 2881 Thiện ác nhơn quả kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2882 Chú mị kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2883 Pháp Vương kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2884 Đại uy nghi thỉnh vấn gồm 1 quyển.

Kinh văn 2885 Phật tánh hải tạng trí huệ giải thoát phá tâm tướng kinh gồm 2 quyển.

Kinh văn 2886 Phật vi tâm vương Bồ Tát thuyết đầu đà kinh quyển thượng gồm 1 quyển.

Kinh văn 2887 Phụ mẫu ân trọng kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2888 Diên thọ mệnh kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2889 Tục mệnh kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2890 Như Lai thành đạo kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2891 Sơn Hải Huệ Bồ Tát kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2892 Hiện báo đương thọ kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2893 Đại Biện tà chánh kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2894 Tam trù kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2895 Yếu hành xả thân kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2896 Thị sở phạm giả Du Già pháp kính kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2897 Thiên Địa Bát Dương thần chú kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2898 Cao Vương Quan Thế Âm kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2899 Diệu Pháp Liên Hoa kinh Mã Minh Bồ Tát phẩm đệ tam thập gồm 1 quyển.

Kinh văn 2900 Tề pháp thanh tịnh kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2901 Pháp Cú kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2902 Pháp Cú kinh sở gồm 1 quyển.

Kinh văn 2903 Vô Lượng đại từ giáo kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2904 Thất thiên Phật thần phù kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2905 Hiện tại thập phương thiên ngũ bách Phật danh tịnh tạp Phật đồng hiệu gồm 1 quyển.

Kinh văn 2906 Tam vạn Phật đồng căn bản thần bí chi ấn tịnh pháp long chủng thượng tôn vương Phật pháp gồm 1 quyển.

Kinh văn 2907 Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nguyện vương kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2908 Đại Phương quảng Phật Hoa Nghiêm kinh Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nguyện vương phẩm gồm 1 quyển.

Kinh văn 2909 Địa Tạng Bồ Tát kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2910 Kim Hữu Đà La Ni kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2911 Tán Tăng công đức kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2912 Vô thường tam khải kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2913 Thất nữ quán kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2914 Quán kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2915 Cứu chư chúng sanh nhứt thiết khổ nạn kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2916 Khuyến thiện kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2917 A- Tân Bồ Tát kinh gồm 1 quyển. B- Tân Bồ Tát kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2918 Thích gia quán hóa hoàn ngu kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2919 Phật mẫu kinh gồm 1 quyển.

Kinh văn 2920 Tăng Già Hòa Thượng dục nhập Niết Bàn thuyết lục độ kinh gồm 1 quyển.

Đến Kinh văn số 2920 là kinh văn cuối cùng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshù Daizokyo) gồm 85 tập. Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh chỉ dịch sang tiếng Việt đến tập thứ 54 thuộc Kinh văn thứ 2131. Như vậy từ tập 54 đến tập 85, tất cả là 31 tập chưa được dịch ra Việt ngữ. Bởi lẽ cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh cho rằng những tập sau này hoàn toàn giới thiệu về những bản Kinh, Sớ thuộc về Phật giáo Trung Hoa cũng như Nhật Bản, nên đây là lý do chính để chúng ta không có được những bản dịch ra tiếng Việt. Tuy nhiên những vị nào rành chữ Hán thì có thể vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh để đọc những tập này và những kinh văn còn lại.

Từ Kinh văn thứ 2131 đến Kinh văn số 2158 gồm 27 kinh thuộc về Phật giáo Trung Quốc và từ Kinh văn số 2159 cho đến hết tập thứ 84 thuộc Kinh văn số 2731, tất cả đều liên quan đến Phật giáo Nhật Bản. Như vậy phần sau này Phật giáo Nhật Bản đã chiếm tất cả là 30 tập (84 - 54) và gồm tất cả là 574 Kinh văn và Sớ giải. Nếu so với Phật giáo Trung Quốc thì phần sau này chỉ gồm tập thứ 85 có tất cả 188 Kinh văn (2920 – 2732) cộng với 27 Kinh văn ở tập 54 thì tất cả là 215 kinh (188 – 27). Tuy là 215 kinh văn so với 574 kinh sớ sai khác không quá lớn; nhưng số tập thì quá khiêm nhường. Vì lẽ Phật giáo Nhật Bản chiếm đến 30 tập; trong khi đó Phật giáo Trung Hoa chỉ hơn 1 tập mà thôi. Đây là lý do có nhiều học giả chỉ trích, phê bình. Tuy nhiên theo chỗ chúng tôi hiểu thì trong những tập trước tập thứ 54 thuộc về sử truyện bộ, kinh sớ bộ, bộ sự vựng v.v… Các vị biên tập người Trung Quốc đã lồng vào đó nhiều câu chuyện của Phật giáo Trung Hoa rồi, nên phía sau của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh thấy ít giới thiệu về Phật giáo Trung Hoa là vì lẽ này và đây có thể là lý do chính.

Từ tập 86 đến tập thứ 100; tất cả gồm 15 tập là những tập thuộc về đồ hình của chùa viện, kinh chú v.v… Ngoài ra còn có 3 quyển thuộc Chiêu Hòa Pháp Bảo Tổng Mục Lục nữa, nhưng phần này thì không cần dịch ra Việt ngữ. Như chúng ta được biết là Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh này được biên tập và xuất bản từ năm 1922 thời Thiên Hoàng Taisho thứ 11 đến năm 1934 thuộc thời Thiên Hoàng Chiêu Hòa (Showa) thứ 9 mới xong và trong gần 13 năm ấy bộ Đại Tạng Kinh này đã được hình thành cũng như xuất bản; nên gọi là “Chiêu Hòa Pháp Bảo Tổng Mục Lục” là vậy.

Kế đến, nếu quý vị nào rành Nhật ngữ thì cũng có thể vào trang 1 đến trang 171 của Mục Lục, thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, thì cũng có thể tra theo thứ tự âm vận Nhật ngữ như; a, i, ư, ê, ô; ka, ki, ku, kê, kô v.v… để tìm kinh văn giống như chúng ta đi tìm theo thứ tự kinh văn theo mẫu tự La Tin: A, B, C, D, E… như Phật tử Nguyên Minh Nguyễn Minh Tiến đã thực hiện, thì cũng tiện lợi vô cùng.

Tôi biết rằng dịch những kinh văn này ra Việt ngữ đã có nhiều vị Tăng Ni cũng như Phật tử thực hiện rồi, nhưng tôi muốn tra cứu lại cho rõ hơn và những gì mà Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Việt Nam đã thực hiện qua việc góp nhặt lại tất cả những gì thuộc về Kinh, Luật, Luận đã được dịch ra Hán văn do Phật giáo Trung Quốc và Phật giáo Triều Tiên cung cấp cho nền văn học Phật giáo đồ sộ này, là việc làm mà những người đi sau như chúng ta cần phải quan tâm đến.

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh là bộ Đại Tạng được các học giả Âu Mỹ đánh giá cao, có tính cách hàn lâm và khoa học. Do vậy Đại Tạng này đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ, trong đó có tiếng Anh là chính.

Phần dịch ra Việt ngữ từ Kinh văn số 2131 đến kinh văn số 2920, tôi chỉ dịch phần đề Kinh hay Sớ cũng như số lượng bao nhiêu tập, còn tác giả của những công trình ấy tôi đã bỏ qua không dịch; bởi lẽ việc này không khó khi đã tìm được kinh văn và số quyển thì chúng ta sẽ dễ biết tác giả soạn ra những luận giải ấy là người Trung Hoa hay người Nhật Bản.


    « Xem chương trước «      « Sách này có 10 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Mục lục Đại Tạng Kinh Tiếng Việt


Kinh nghiệm tu tập trong đời thường


Hai Gốc Cây


Phật pháp ứng dụng

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.118.146.180 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (249 lượt xem) - Hoa Kỳ (16 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Saudi Arabia (3 lượt xem) - Đức quốc (3 lượt xem) - Nga (1 lượt xem) - Hungary (1 lượt xem) - ... ...