Sự giúp đỡ tốt nhất bạn có thể mang đến cho người khác là nâng đỡ tinh thần của họ. (The best kind of help you can give another person is to uplift their spirit.)Rubyanne

Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus

Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 2 »» 7. Giải thích phẩm Thí dụ Hóa thành »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 2
»» 7. Giải thích phẩm Thí dụ Hóa thành

(Lượt xem: 4)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 2 - 7. Giải thích phẩm Thí dụ Hóa thành

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

KINH VĂN

Phẩm Thí dụ Hóa thành, thứ bảy

Giải thích tên phẩm

“Hóa”, nghĩa là dùng do sức thần thông làm ra. Dùng sức thần thông cho nên từ chỗ không có gì mà bỗng nhiên thành có, cho nên gọi là hóa. “Thành”, nghĩa là ngăn ngừa điều sai trái, chống lại sự đối nghịch, nên gọi là thành. [Hai nghĩa này] xét theo trong giáo pháp thì tương hợp với Niết-bàn của Nhị thừa là do trí tuệ quyền biến tạo ra. [Phật] dùng năng lực của trí quyền biến, từ chỗ không có mà thuyết dạy là có [Niết-bàn của Nhị thừa]. Dùng giáo pháp để hóa ra [quả vị của Nhị thừa], vì ngăn ngừa tư hoặc, chống lại kiến hoặc nên gọi đó là [hóa thành] Niết-bàn.[1] Vì gấp rút cứu vớt mà dùng pháp này để dẫn vào [Phật đạo], thật chưa phải cứu cánh rốt ráo mà vẫn nói là diệt độ. Quyền biến mà lập ra như thế cho nên gọi là “hóa thành”.

Về nghĩa chữ “dụ” là thí dụ thì như trong phẩm [Thí dụ Cỏ thuốc ở] trước đã nói.

Trên đây là giải thích theo nghĩa nhân duyên.

Nếu giải thích dựa theo giáo nghĩa, theo Tạng giáo thì đối với Niết-bàn khởi sanh ý tưởng cho là an ổn, khởi sanh ý tưởng mình đã được diệt độ. Còn theo Thông giáo thì hàng Nhị thừa đối với Niết-bàn cũng giống như Tạng giáo, nhưng hàng Bồ Tát thì khác. Thích luận nói rằng: “Giống như một người cha vượt qua chỗ hiểm nguy, một chân đã bước vào thành [an ổn], một chân còn ở bên ngoài cửa thành, trong lòng nhớ đến vợ con nên từ trong thành [an ổn] lại quay ra chỗ nguy hiểm.” [Đó là nói Bồ Tát] lập thệ nguyện nương theo tàn dư tập khí mà vào trong sanh tử [hóa độ chúng sanh], nên chẳng lấy nghĩa không làm chỗ chứng đắc.

Giải thích theo Biệt giáo thì không nói thành [Niết-bàn đó] như phép biến hóa, mà cho rằng thành là để ngăn ngừa sự nguy hiểm. Do nơi cửa thành mà vượt qua [để tu tập tiến lên], nên dùng thành [Niết-bàn này] làm phương tiện dứt trừ kiến hoặc và tư hoặc, không nói rằng [Niết-bàn này] là rốt ráo cuối cùng.

Giải thích theo Viên giáo là rõ biết chẳng có giặc bệnh thì cũng chẳng cần đến thành, cho nên gọi là hóa thành. Nay kinh này dùng theo ý nghĩa của Viên giáo nên lấy tiêu đề là phẩm Thí dụ Hóa thành (Hóa thành dụ).

Những cách giải thích theo bản tích và quán tâm không ghi chép vào đây.

Hỏi: Phẩm này nói về những việc nhân duyên [thuở trước] giúp hàng hạ căn [ngày nay] được giác ngộ, lẽ ra nên gọi là phẩm Túc thế (Nhân duyên đời trước)?

Đáp: Ở đầu phẩm này nói rộng về nhân duyên, nhưng phần cuối kết lại thì nêu thí dụ hóa thành. Nếu theo phần trước thì nên gọi là phẩm Túc thế. Kinh này dựa theo phần sau nên gọi là phẩm Hóa thành.

Lại nữa, hàng thượng căn tâm nghi ngờ mỏng manh dễ phá, nên chỉ cần nêu việc Phật ngồi dưới cội Bồ-đề tư duy trong 21 ngày để làm rõ cơ duyên. Hàng trung căn tâm nghi có phần nặng hơn, nên dùng thêm thí dụ, tìm hiểu sâu việc hai vạn ức vị Phật [đã từng] giáo hóa [cho họ] bằng giáo pháp Đại thừa vô thượng, lấy đó làm cơ duyên. Hàng hạ căn thì tâm nghi sâu nặng hơn nữa, nên phải nói rõ cơ duyên từ rất lâu xa trong nhiều đời trước.

Nếu lấy việc trong đời trước là khởi đầu, nêu rõ nhân duyên từ rất lâu xa, thì nói đến khoảng giữa gọi là tòa thành biến hóa (hóa thành), nói đến chỗ rốt ráo cứu cánh gọi là chỗ nhiều châu báu (bảo sở). Những người chép kinh khi nêu tên phẩm thấy dùng nghĩa này thuận tiện, thâu tóm được từ trước đến sau, cho nên gọi là phẩm Thí dụ Hóa thành.

Hỏi: Hóa thành là pháp quyền biến, bảo sở là pháp chân thật, do ý nghĩa gì mà bỏ thật lấy quyền [làm tên]?

Đáp: Vì rõ biết hóa thành do biến hóa mà có, tất nhiên cũng rõ biết bảo sở là chân thật, cho nên tuy nêu hóa thành cũng chẳng làm mất nghĩa chân thật.

Phần này kinh văn chia thành 3 tổng đoạn. Nếu theo như phần trước thì lẽ ra có 4, thế nhưng hai ý nghĩa nhận hiểu và trình bày thành tựu đều ở trong phần nói việc thụ ký. Vì sao vậy? Nếu không có sự nhận hiểu thì làm sao được thụ ký để trình bày thành tựu, cho nên có thể gồm chung được 2 ý vào một tổng đoạn.

Lại nữa, 3 ý nghĩa nhận hiểu, trình bày thành tựu và được thụ ký nêu ra trước sau không nhất định. Việc nhận hiểu rồi im lặng hay nói ra cũng chẳng giống nhau. Kinh văn ngắn gọn không đủ để phân chia riêng nên nhập chung vào đoạn khác.

Phẩm này hoàn toàn nói về nhân duyên, 2 phẩm sau sẽ nói về việc thụ ký.

KINH VĂN

Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Trong quá khứ vô số a-tăng-kỳ kiếp không thể nghĩ bàn trước đây, vào lúc đó có đức Phật danh hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi Phật ấy tên là Hảo Thành, thời đại tên là Đại Tướng.

“Này các tỳ-kheo! Từ khi đức Phật ấy nhập Niết-bàn đến nay đã quá lâu xa. Ví như có người đem hết thảy đất đai trong cõi thế giới đại thiên này mài ra làm mực, rồi đi về hướng đông, cứ qua một ngàn cõi nước thì dùng mực chấm một điểm chỉ như hạt bụi cực nhỏ, lại đi tiếp qua một ngàn cõi nước mới chấm một điểm nữa… Như vậy cho đến khi hết số mực đã mài được nói trên. Các ông nghĩ sao? Nếu đếm hết những cõi nước đã đi qua như vậy thì liệu có bậc thầy toán học nào, hoặc các học trò của vị ấy, có thể thấu đạt giới hạn, biết được con số đó hay không?”

“Bạch Thế Tôn! Không thể.”

“Này các tỳ-kheo! Nếu như những cõi nước mà người ấy đã đi qua, dù có hay không có chấm mực như trên, tất cả đều đem nghiền nát thành bụi cực nhỏ, rồi mỗi hạt bụi cực nhỏ đó được tính là một kiếp, thì từ khi đức Phật Đại Thông Trí Thắng nhập Niết-bàn đến nay, thời gian số kiếp còn nhiều hơn số hạt bụi đó đến vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp.

“Ta dùng sức thấy biết của Như Lai nên quán sát được lâu xa như vậy vẫn thấy rõ giống như việc ngày nay.”

Tổng đoạn đầu tiên chia thành 2 đoạn. Đoạn thứ nhất là nêu tri kiến [của đức Như Lai] rất dài lâu, đoạn thứ hai là nói rõ sự kết duyên trong đời trước. Đức Như Lai có 3 năng lực siêu việt,[2] nhìn thấu việc xa xôi trong quá khứ giống như thấy việc ngày nay. Cho nên trước hết dẫn việc đã qua để xác quyết lời Phật không hư dối, sau đó nói rõ về những việc đời trước. Cả hai đoạn này đều gồm đủ văn trường hàng và kệ tụng.

Trong đoạn thứ nhất, tiểu đoạn thứ nhất là văn trường hàng lại chia thành 3 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu những việc Phật nhìn thấy, tức là nói cõi nước tên Hảo Thành, thời đại tên là Đại Tướng, Phật hiệu Đại Thông Trí Thắng v.v. Phân đoạn thứ hai nêu thí dụ để làm rõ thời gian rất lâu xa. Phân đoạn thứ ba kết lại, nói việc Phật có thể nhìn thấy việc thuở xưa giống như ngày nay. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Ta nhớ đời quá khứ,
Vô lượng vô số kiếp,
Có Đấng Lưỡng Túc Tôn,
Hiệu Đại Thông Trí Thắng.

Ví như người dùng sức,
Mài nát cõi đại thiên,
Hết thảy bao đất đai,
Đều nhuyễn ra thành mực.

Đi qua ngàn cõi nước,
Chấm một điểm mực nhỏ,
Cứ vậy mà tiếp tục,
Cho đến khi hết mực.

Bao nhiêu cõi nước ấy,
Có điểm mực hay không,
Đều đem nghiền thành bụi,
Mỗi hạt bụi: một kiếp.

Số hạt bụi như vậy,
Số kiếp còn nhiều hơn.
Phật Đại Thông nhập diệt,
Lâu xa đến như thế.

Trí Như Lai vô ngại,
Thấy Phật ấy diệt độ,
Cùng Thanh văn, Bồ Tát…
Như đang thấy hôm nay.

Các tỳ-kheo, nên biết,
Trí tuệ Phật nhiệm mầu,
Không lậu hoặc, ngăn ngại,
Thông suốt vô số kiếp.

Tiểu đoạn thứ hai gồm 7 khổ kệ, tụng lại 3 ý nghĩa trong văn trường hàng ở trước, y theo kinh văn có thể hiểu được, [không cần giảng giải].

KINH VĂN

Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Đức Phật Đại Thông Trí Thắng sống thọ đến 540 muôn ức na-do-tha[3] kiếp. Khi đức Phật ấy ngồi nơi đạo trường phá trừ hết quân ma, đã sắp đạt được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà pháp của chư Phật vẫn chưa hiện ra trước. Cứ như vậy trải qua một tiểu kiếp, thậm chí cho đến mười tiểu kiếp ngồi kết già, thân tâm không hề dao động, mà pháp của chư Phật cũng vẫn chưa hiện ra trước.

“Bấy giờ, chư thiên ở cõi trời Đao-lợi trước đó đã vì đức Phật ấy mà trải tòa sư tử dưới gốc cây bồ-đề, cao đến một do-tuần. Đức Phật ngồi nơi tòa sư tử này sẽ chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong lúc Phật ngồi nơi tòa này, các vị Phạm thiên vương làm mưa xuống các loại hoa trời, phủ khắp quanh tòa ngồi đến trăm do-tuần, có gió thơm thường thổi qua, cuốn đi những hoa đã héo, lại mưa xuống hoa tươi. Cứ như vậy không dứt, trải qua đủ mười tiểu kiếp cúng dường lên Phật, rồi đến khi Phật diệt độ cũng thường mưa hoa như vậy. Bốn vị thiên vương[4] thường đánh trống trời để cúng dường lên Phật, chư thiên khác thì trỗi lên các loại nhạc trời, trải qua đủ mười tiểu kiếp, rồi đến khi Phật diệt độ cũng cúng dường như vậy.

Đoạn thứ hai từ câu “… Đức Phật… …sống thọ đến 540 muôn ức na-do-tha kiếp” trở đi, nói rõ về sự kết duyên [trong quá khứ]. Về nguyên do lại có 2 tiểu đoạn, nói nguyên do xa và nguyên do gần.

Tiểu đoạn thứ nhất nói nguyên do xa lại chia thành 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói việc đức Phật Đại Thông Trí Thắng thành đạo. Phân đoạn thứ hai nói việc các vị Phạm thiên vương trong mười phương đến thỉnh cầu Phật chuyển pháp luân.

Phân đoạn thứ nhất nói việc thành đạo lại có 5 ý. Ý thứ nhất nói thọ mạng của Phật dài lâu. Ý thứ hai từ câu “Khi đức Phật ấy ngồi nơi đạo trường…” trở đi, nêu những việc trước khi Phật thành đạo. Tuy rằng đạo của chư Phật đều đồng như nhau, nhưng duyên sự khác nhau. Đức Phật Thích-ca tu khổ hạnh 6 năm, [ngồi yên một chỗ,] cỏ mọc xuyên qua đùi chạm lên khuỷu tay vẫn không hay biết, chư thiên gào khóc chấn động cõi đất cũng không nghe, khi dời chỗ ngồi [đến dưới cội Bồ-đề] thì đắc đạo. Đức Phật Di-lặc thì đắc đạo ngay trong ngày xuất gia. Đức Phật Đại Thông Trí Thắng thì [ngồi yên] đến 10 tiểu kiếp “mà pháp của chư Phật cũng vẫn chưa hiện ra trước”. Không phải do căn tánh [chư Phật] lại có sự nhanh nhạy hay trì độn khác nhau, cũng không phải do đạo [của mỗi vị Phật lại] có khó hay dễ khác biệt. Chỉ là do cơ duyên nên gấp rút hay trì hoãn mà cần phải thị hiện thời gian [thành Phật] kéo dài hay nhanh chóng.

KINH VĂN

“Này chư tỳ-kheo! Đức Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua 10 tiểu kiếp như vậy rồi, pháp của chư Phật mới hiện ra trước, thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“Đức Phật ấy khi chưa xuất gia có 16 người con trai. Người con lớn nhất tên là Trí Tích. Mỗi người con này đều có đủ các món đồ chơi trân quý hiếm lạ, khi nghe cha mình đã thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đều vất bỏ hết mọi thứ quý giá, tìm đến chỗ Phật. Những người mẹ khóc lóc đi theo đưa tiễn, ông nội là Chuyển luân Thánh vương, cùng với 100 vị quan đại thần và hơn trăm ngàn muôn ức người dân vây quanh, cũng cùng đi đến đạo trường nơi Phật thành đạo. Tất cả đều mong muốn được gần gũi đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xưng tán.

“Khi đến chỗ Phật rồi, tất cả đều cúi đầu chạm mặt lễ dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật rồi chắp tay một lòng chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Các vương tử cùng đọc kệ rằng:

Thế Tôn đại oai đức,
Vì muốn độ chúng sanh,
Trải vô lượng ức kiếp,
Nay mới thành quả Phật.

Các nguyện đã đầy đủ,
Lành thay, tối thượng hiền.
Thế Tôn rất ít có,
Ngồi xuống mười tiểu kiếp,
Thân thể cùng tay chân,
Đều an nhiên không động.

Trong tâm thường an tĩnh,
Chưa từng có tán loạn,
Rốt ráo thường tịch diệt,
Trụ yên pháp vô lậu.

Nay được thấy Thế Tôn,
An ổn thành Phật đạo,
Chúng con được lợi lành,
Rất hoan hỷ, xưng tán.

Chúng sanh thường khổ não,
Mù, không thầy dẫn đường,
Không rõ đạo dứt khổ,
Không biết cầu giải thoát.
Đêm dài thêm đường ác,
Càng ít sanh cõi trời.
Từ tối đi vào tối,
Không nghe danh hiệu Phật.

Nay Phật đạt tối thượng,
Đạo an ổn, vô lậu,
Chúng con hàng trời, người,
Được lợi ích lớn nhất,
Nên cùng nhau cúi đầu,
Nương theo Đấng Vô Thượng.

Bấy giờ, 16 vị vương tử đọc kệ xưng tán Phật rồi liền thưa thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp luân, cùng nói rằng: “Đức Thế Tôn thuyết pháp mang lại nhiều sự an ổn, thương xót làm lợi ích cho chư thiên và loài người.”

Các vị đọc kệ lặp lại ý này như sau:

Bậc Thế Hùng tối thượng,
Trăm phúc tự trang nghiêm.
Được trí tuệ Vô thượng,
Xin vì đời nói ra.

Để độ thoát chúng con,
Cùng muôn loài chúng sanh.
Xin phân biệt chỉ bày,
Khiến được trí tuệ ấy.

Nếu chúng con thành Phật,
Thì chúng sanh cũng vậy.
Thế Tôn rõ tâm niệm,
Của hết thảy chúng sanh,
Biết pháp họ thực hành,
Cũng như sức trí tuệ,
Chỗ ưa muốn, tu phúc,
Nghiệp đã tạo đời trước,
Thế Tôn đã biết hết,
Nguyện thuyết pháp Vô thượng.

Ý thứ ba là từ câu “Này chư tỳ-kheo! Đức Phật… …trải qua 10 tiểu kiếp…” trở đi, nói về việc thành đạo.

Ý thứ tư, từ câu “Đức Phật ấy khi chưa xuất gia…” trở đi là nói rõ việc sau khi thành đạo, quyến thuộc đến cúng dường.

Ý thứ năm, từ câu “Các vương tử cùng đọc kệ rằng…” trở đi [cho đến hết phần kệ tụng] là nêu rõ việc thỉnh chuyển pháp luân.

Ý thứ nhất kinh văn rõ ràng dễ hiểu. Ý thứ hai nói việc trước khi thành Phật lại có 2 tiểu ý. Tiểu ý thứ nhất nêu việc Phật ngồi nơi đạo tràng, trải qua thời gian. Tiểu ý thứ hai nói việc chư thiên cúng dường.

KINH VĂN

Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Khi đức Phật Đại Thông Trí Thắng chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, 500 muôn ức cõi nước của chư Phật ở mỗi phương trong khắp mười phương đều chấn động theo sáu cách. Trong các cõi nước ấy, những nơi tối tăm ánh sáng mặt trời mặt trăng không soi chiếu đến thì nay đều sáng rực. Những chúng sanh nơi ấy đều nhìn thấy nhau, liền nói rằng: ‘Ở nơi đây sao bỗng dưng lại sanh ra chúng sanh!’

“Lại cũng trong những cõi nước ấy, cung điện của chư thiên, cho đến cung điện của Phạm thiên vương,[5] đều chấn động sáu cách, có hào quang chói sáng soi chiếu mọi nơi, tỏa khắp thế giới, chói sáng hơn hào quang của chư thiên.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo... …chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác…” trở đi, nói việc các vị Phạm thiên vương thỉnh [Phật chuyển pháp luân]. Phân đoạn này chia làm 2 ý. Ý thứ nhất là hào quang soi chiếu chấn động [mười phương]. Ý thứ hai là các vị Phạm thiên vương trong mười phương đến thỉnh Phật chuyển pháp luân.

Ý thứ nhất nói về hào quang soi chiếu, kinh Nhân quả quá khứ[6] nói rằng: “Khi Bồ Tát Tất-đạt-đa ở trong thai mẹ, các cõi nước trong thế giới đại thiên[7] bỗng nhiên có hào quang rực sáng, những nơi mặt trời, mặt trăng không soi chiếu đến bỗng dưng được chiếu sáng, nên ở những nơi đó các chúng sanh liền được nhìn thấy nhau.”[8] Lúc Phật mới thành đạo cũng có hào quang giống như vậy. Kinh Nhân quả quá khứ cũng nói rằng, Bồ Tát buổi sáng [thuyết pháp] vì chư thiên ở cõi Sắc, buổi trưa [thuyết pháp] vì chư thiên ở cõi Dục, rồi buổi chiều vì quỷ thần mà thuyết pháp. Buổi tối cũng lại [thuyết pháp] như vậy.[9]

Giải thích theo quán tâm thì nói “bỗng dưng sanh ra chúng sanh” có nghĩa là nói tâm tánh [chúng sanh] vốn thanh tịnh, chỉ vì ấm, nhập, giới che lấp nên bị tối tăm. Nếu tu tập quán tuệ thì lý của bản tánh sẽ hiển lộ. Lại nữa, [ví như] 2 ngọn núi là 2 chân đế,[10] ở khoảng giữa là trung đạo; ánh sáng mặt trời, mặt trăng là 2 trí [quyền và thật], hào quang của Phật là trung đạo. Ánh sáng của trí tuệ vô phân biệt soi chiếu sáng tỏ cả 3 chân đế[11] vốn có.

KINH VĂN

“Lúc bấy giờ, ở trong 500 muôn ức cõi nước phương đông, những cung điện của Phạm thiên vương đều được soi chiếu rực rỡ, sáng hơn nhiều lần so với bình thường. Các vị Phạm thiên vương trong những cõi nước ấy đều nghĩ rằng: ‘Nay cung điện của ta rực sáng là điều trước đây chưa từng có, không biết do nhân duyên gì mà hiện ra tướng trạng này?’

“Bấy giờ, các vị Phạm thiên vương liền đến gặp nhau để cùng bàn luận việc này. Trong số đó có một vị Phạm thiên vương[12] tên là Cứu Nhất Thiết, vì các Phạm thiên vương khác mà nói kệ rằng:

Cung điện của chúng ta,
Sáng rực chưa từng có,
Là do nhân duyên gì,
Chúng ta nên tìm hiểu.

Thiên tử đại đức sanh,
Hay đức Phật ra đời,
Nên có hào quang lớn,
Soi chiếu khắp mười phương?

“Bấy giờ, các vị Phạm thiên vương ở 500 muôn ức cõi nước phương đông, cùng mang theo cung điện của mình, mỗi vị đều dùng đãy lớn đựng các loại hoa trời, cùng nhau đi về hướng tây để tìm nguyên nhân của sự chiếu sáng. Các vị liền nhìn thấy đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng nơi đạo tràng dưới gốc cây bồ-đề. Đức Phật ngồi trên tòa sư tử, có chư thiên, long vương, càn-thát-bà, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân… đều cung kính vây quanh, lại cũng thấy 16 vị vương tử đang thỉnh Phật chuyển pháp luân.

“Các vị Phạm thiên vương liền cúi đầu chạm mặt lễ kính dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời tung rải phía trên thân Phật. Hoa được tung rải như núi Tu-di,2 cũng dùng để cúng dường cây bồ-đề của Phật. Cây bồ-đề ấy cao đến 10 do-tuần.3 Sau khi cúng dường hoa trời xong, các vị Phạm thiên vương đều dâng cung điện4 của mình lên đức Phật, thưa rằng: ‘Nguyện đức Thế Tôn thương xót làm lợi ích cho chúng con. Nay chúng con dâng cúng những cung điện này, nguyện Phật rủ lòng thương mà thọ nhận.’ Các vị Phạm thiên vương liền đối trước Phật, đồng thanh một lòng đọc kệ xưng tán rằng:

Thế Tôn thật ít có!
Rất khó được gặp Phật.
Đủ vô lượng công đức,
Thường cứu độ tất cả,
Bậc thầy của trời, người,
Thương xót khắp thế gian.
Chúng sanh trong mười phương,
Đều được nhờ lợi ích.

Chúng con đến đây từ
Năm trăm muôn ức nước,
Từ bỏ vui thiền định,
Vì muốn cúng dường Phật.

Nhờ phúc đức đời trước,
Được cung điện trang nghiêm,
Nay xin dâng cúng Phật,
Nguyện xót thương thọ nhận.

“Bấy giờ, các vị Phạm thiên vương đọc kệ xưng tán Phật rồi, mỗi vị đều nói: ‘Nguyện đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp độ thoát chúng sanh, mở đường đến Niết-bàn.’

“Rồi các vị Phạm thiên vương đồng thanh một lòng đọc kệ rằng:

Thế Hùng Lưỡng Túc Tôn,
Cúi xin diễn thuyết pháp,
Dùng sức đại từ bi,
Cứu chúng sanh khổ não.

“Bấy giờ, đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời.

“Lại nữa, này các tỳ-kheo! Các vị Phạm thiên vương ở 500 muôn ức cõi nước về phương đông nam, mỗi vị cũng đều tự thấy cung điện của mình được soi chiếu sáng rực, trước đây chưa từng có. Các vị đều vui mừng phấn khích, khởi tâm cho là việc hy hữu, liền đi đến gặp nhau để cùng bàn luận việc này. Bấy giờ trong số đó có một vị Phạm thiên vương tên là Đại Bi, vì các vị Phạm thiên vương khác mà nói kệ rằng:

Là do nhân duyên gì,
Hiện ra tướng trạng này?
Cung điện của chúng ta,
Sáng rực chưa từng có.

Thiên tử đại đức sanh,
Hay đức Phật ra đời?
Chưa từng thấy tướng này,
Hãy cùng nhau tìm kiếm.

Qua ngàn muôn ức cõi,
Theo ánh sáng mà suy,
Chắc hẳn Phật ra đời,
Độ chúng sanh thoát khổ.

“Bấy giờ, 500 muôn ức vị Phạm thiên vương cùng với cung điện của mình, mỗi vị đều dùng đãy lớn đựng các loại hoa trời, cùng đi về hướng tây bắc để tìm nguyên nhân của sự chiếu sáng. Các vị liền nhìn thấy đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng nơi đạo tràng dưới gốc cây bồ-đề. Đức Phật ngồi trên tòa sư tử, có chư thiên, long vương, càn-thát-bà, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân… đều cung kính vây quanh, lại cũng thấy 16 vị vương tử đang thỉnh Phật chuyển pháp luân. Các vị Phạm thiên vương liền cúi đầu chạm mặt lễ kính dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời tung rải phía trên thân Phật. Hoa được tung rải rơi xuống như núi Tu-di, cũng dùng để cúng dường cây bồ-đề của Phật. Sau khi cúng dường hoa trời xong, các vị Phạm thiên vương đều dâng cung điện của mình lên đức Phật, thưa rằng: ‘Nguyện đức Thế Tôn thương xót làm lợi ích cho chúng con. Nay chúng con dâng cúng những cung điện này, nguyện Phật rủ lòng thương mà thọ nhận.’

“Bấy giờ, các vị Phạm thiên vương liền đối trước Phật, một lòng đồng thanh đọc kệ xưng tán rằng:

Thánh chủ, vua chư thiên,
Tiếng như chim ca-lăng.
Bậc thương xót chúng sanh,
Chúng con xin kính lễ.

Thế Tôn rất ít có,
Thật lâu mới ra đời.
Một trăm tám mươi kiếp,
Trống không, không có Phật.

Ba đường ác đông đảo,
Sanh cõi trời hiếm hoi.
Nay Phật đã ra đời,
Giúp chúng sanh thấy rõ,
Làm chỗ đời nương theo,
Cứu giúp cho hết thảy.

Là cha lành chúng sanh,
Thương xót làm lợi ích
Chúng con nhờ phúc xưa,
Nay được gặp Thế Tôn.

“Bấy giờ các vị Phạm thiên vương đọc kệ tán Phật rồi, mỗi người đều nói rằng: ‘Nguyện đức Thế Tôn thương xót tất cả mà chuyển bánh xe pháp độ thoát chúng sanh.’

“Khi ấy, các vị Phạm thiên vương một lòng đồng thanh đọc kệ rằng:

Đại thánh chuyển pháp luân,
Chỉ bày các tướng pháp.
Độ chúng sanh khổ não,
Khiến cho rất vui mừng.

Chúng sanh nghe pháp này,
Đạt đạo sanh cõi trời,
Ít người vào đường ác,
Người nhẫn thiện nhiều hơn.

“Bấy giờ, đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời.

“Lại nữa, này các tỳ-kheo! Các vị Phạm thiên vương ở 500 muôn ức cõi nước về phương nam, mỗi vị cũng đều tự thấy cung điện của mình được soi chiếu sáng rực, trước đây chưa từng có. Các vị đều vui mừng phấn khích, khởi tâm cho là việc hy hữu, liền đi đến gặp nhau để cùng bàn luận: ‘Do nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta có ánh sáng chói lọi này?’

“Bấy giờ trong số đó có một vị Phạm thiên vương tên là Diệu Pháp, vì các vị Phạm thiên vương khác mà nói kệ rằng:

Cung điện của chúng ta,
Có ánh sáng chói lòa,
Không thể không nhân duyên,
Nên phải tìm hiểu xem.

Trải qua trăm ngàn kiếp,
Chưa từng thấy tướng này.
Thiên tử đại đức sanh,
Hay đức Phật ra đời?

“Bấy giờ, 500 muôn ức vị Phạm thiên vương mang theo cung điện của mình, mỗi vị đều dùng đãy lớn đựng các loại hoa trời, cùng đi về hướng bắc để tìm nguyên nhân của sự chiếu sáng. Các vị liền nhìn thấy đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng nơi đạo tràng dưới gốc cây bồ-đề. Đức Phật ngồi trên tòa sư tử, có chư thiên, long vương, càn-thát-bà, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân… đều cung kính vây quanh, lại cũng thấy 16 vị vương tử đang thỉnh Phật chuyển pháp luân.

“Các vị Phạm thiên vương liền cúi đầu chạm mặt lễ kính dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời tung rải phía trên thân Phật. Hoa được tung rải rơi xuống như núi Tu-di, cũng dùng để cúng dường cây bồ-đề của Phật. Sau khi cúng dường hoa trời xong, các vị Phạm thiên vương đều dâng cung điện của mình lên đức Phật, thưa rằng: ‘Nguyện đức Thế Tôn thương xót làm lợi ích cho chúng con. Nay chúng con dâng cúng những cung điện này, nguyện Phật rủ lòng thương mà thọ nhận.’

“Bấy giờ, các vị Phạm thiên vương liền đối trước Phật, đồng thanh một lòng đọc kệ xưng tán rằng:

Thế Tôn thật khó gặp,
Phá trừ các phiền não.
Hơn trăm ba mươi kiếp,
Nay mới gặp một lần.

Những chúng sanh đói khát,
Được mưa pháp đầy đủ.
Xưa nay chưa từng thấy,
Bậc trí tuệ vô lượng,
Như hoa ưu-đàm-bát,
Đến nay mới được gặp.

Cung điện của chúng con,
Hào quang chiếu trang nghiêm,
Thế Tôn đại từ bi,
Nguyện xót thương thọ nhận.

“Bấy giờ các vị Phạm thiên vương đọc kệ tán Phật rồi, mỗi người đều nói rằng: ‘Nguyện đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, khiến cho hết thảy chư thiên, ma, phạm chí, sa-môn, bà-la-môn trong thế gian đều an ổn mà được độ thoát.’

Khi ấy, các vị Phạm thiên vương đồng thanh một lòng đọc kệ rằng:

Nguyện đức Thiên Nhân Tôn,
Chuyển pháp luân vô thượng,
Đánh tiếng trống pháp lớn,
Thổi vang kèn pháp lớn,
Đổ trận mưa pháp lớn,
Độ vô số chúng sanh.
Chúng con đồng thỉnh nguyện,
Xin giảng pháp sâu xa.

“Bấy giờ, đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời.

“Từ phương tây nam cho đến phương dưới cũng đều [xảy ra những việc] như vậy.

“Bấy giờ các vị Phạm thiên vương ở 500 muôn ức cõi nước về phương trên, mỗi vị cũng đều tự thấy cung điện của mình được soi chiếu sáng rực, trước đây chưa từng có. Các vị đều vui mừng phấn khích, khởi tâm cho là việc hy hữu, liền đi đến gặp nhau để cùng bàn luận: ‘Do nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta có ánh sáng chói lọi này?’

“Bấy giờ trong số đó có một vị Phạm thiên vương tên là Thi Khí, vì các vị Phạm thiên vương khác mà nói kệ rằng:

Nay do nhân duyên gì,
Cung điện của chúng ta,
Có ánh sáng rực rỡ,
Trang nghiêm chưa từng có!

Tướng nhiệm mầu thế này,
Chưa từng được thấy nghe.
Thiên tử đại đức sanh,
Hay đức Phật ra đời?

“Bấy giờ, 500 muôn ức vị Phạm thiên vương mang theo cung điện của mình, mỗi vị đều dùng đãy lớn đựng các loại hoa trời, cùng đi về hướng dưới để tìm nguyên nhân của sự chiếu sáng. Các vị liền nhìn thấy đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng nơi đạo tràng dưới gốc cây bồ-đề. Đức Phật ngồi trên tòa sư tử, có chư thiên, long vương, càn-thát-bà, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân… đều cung kính vây quanh, lại cũng thấy 16 vị vương tử đang thỉnh Phật chuyển pháp luân.

“Các vị Phạm thiên vương liền cúi đầu chạm mặt lễ kính dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời tung rải phía trên thân Phật. Hoa được tung rải rơi xuống như núi Tu-di, cũng dùng để cúng dường cây bồ-đề của Phật. Sau khi cúng dường hoa trời xong, các vị Phạm thiên vương đều dâng cung điện của mình lên đức Phật, thưa rằng: ‘Nguyện đức Thế Tôn thương xót làm lợi ích cho chúng con. Nay chúng con dâng cúng những cung điện này, nguyện Phật rủ lòng thương mà thọ nhận.’

“Bấy giờ, các vị Phạm thiên vương liền đối trước Phật, đồng thanh một lòng đọc kệ xưng tán rằng:

Lành thay gặp chư Phật!
Bậc tôn thánh cứu đời,
Ở trong ngục ba cõi,
Cứu thoát các chúng sanh.

Bậc trí tuệ bao trùm,
Thương xót chúng mê mờ,
Thường mở cửa cam lộ,
Rộng cứu độ hết thảy.

Quá khứ vô số kiếp,
Trống không, không có Phật.
Thế Tôn chưa ra đời,
Mười phương thường tối tăm,
Ba đường ác tăng nhiều,
A-tu-la đông đảo,
Chư thiên ngày càng ít,
Chết sanh đường ác nhiều.

Không theo Phật nghe pháp,
Nên thường làm việc ác,
Hình sắc và trí tuệ,
Cả hai đều suy giảm.
Do nhân duyên tội nghiệp,
Không vui, không ý vui.

Đắm trong pháp tà kiến,
Không rõ phép tắc lành.
Không được Phật giáo hóa,
Thường sa đọa đường ác.

Phật là mắt thế gian,
Rất lâu mới ra đời,
Vì thương xót chúng sanh,
Xuất hiện giữa thế gian,
Siêu việt thành Chánh giác,
Chúng con rất vui mừng,
Cùng bao chúng sanh khác,
Mừng khen: Chưa từng có!

Cung điện của chúng con,
Hào quang chiếu trang nghiêm,
Nay dâng cúng Thế Tôn,
Nguyện xót thương thọ nhận.

Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Chúng con và chúng sanh,
Đều trọn thành Phật đạo.

“Lúc bấy giờ, 500 muôn ức vị Phạm thiên vương đọc kệ xưng tán Phật rồi, mỗi vị đều bạch Phật: “Nguyện đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp để nhiều chúng sanh được an ổn, nhiều chúng sanh được độ thoát.’

“Khi ấy, các vị Phạm thiên vương lại nói kệ rằng:

Thế Tôn chuyển pháp luân,
Đánh trống pháp cam lộ,
Độ chúng sanh khổ não,
Chỉ bày đường Niết-bàn.

Xin nhận lời con thỉnh,
Dùng âm thanh vi diệu,
Thương xót mà giảng giải,
Pháp tu vô số kiếp.

Ý thứ hai từ câu “Lúc bấy giờ, ở trong 500 muôn ức cõi nước phương đông…” trở đi, nói việc các vị Phạm thiên vương trong 10 phương [đến thỉnh Phật chuyển pháp luân]. Ý này lại chia làm 2 tiểu ý. Tiểu ý thứ nhất nói về 9 phương và tiểu ý thứ hai nói về phương trên.

Tiểu ý nói về 9 phương lại có 4 điều, thứ nhất là phương đông, thứ hai là phương đông nam, thứ ba là phương nam và thứ tư là nói chung về 6 phương khác.

Về 3 phương được nêu trước tiên, nói về các vị Phạm thiên vương thì kinh văn mỗi điều đều có 7 chi tiết. Thứ nhất là các vị đều thấy điềm lành, thứ hai là kinh ngạc, thứ ba là hỏi nhau và bàn luận để xác quyết, thứ tư là tìm theo ánh sáng đến gặp Phật, thứ năm là cúng dường Phật bằng cả 3 nghiệp [thân, khẩu, ý], thứ sáu là thỉnh Phật chuyển pháp luân, thứ bảy là [đức Phật] im lặng nhận lời. Những phần này đều có thể y theo kinh văn mà hiểu được.

Tiểu ý thứ hai nói về các vị Phạm thiên vương ở phương trên chỉ có 6 chi tiết, vì đức Thế Tôn nhận lời “liền chuyển pháp luân” cho nên không có chi tiết “im lặng nhận lời”.

Các nhà cựu giải cho rằng, [các vị Phạm thiên vương ở] 2 phương đông và đông nam thỉnh [Phật thuyết] Tiểu thừa, 7 phương khác thỉnh [Phật thuyết] Đại thừa, phương trên thỉnh [Phật thuyết] cả Tiểu thừa và Đại thừa.

Nếu theo Thích luận thì nói các vị Phạm thiên vương vốn chỉ thỉnh [Phật thuyết pháp] Đại thừa, tuy Phật có thuyết pháp Tiểu thừa nhưng như vậy [là các vị] chưa toại nguyện. Nếu Phật thuyết giáo pháp Bát-nhã thì vẫn là khác với chỗ thỉnh cầu của các vị Phạm thiên vương.

Nếu dựa theo kinh văn trong phẩm Phương tiện thì các vị Phạm thiên vương thỉnh pháp Đại thừa. Tuy nhiên, hết thảy pháp của chư Phật đều đồng đẳng như nhau, không nên có sự thưa thỉnh thiên lệch. Chỉ vì kinh luận hiện còn đều nói sơ lược, nên các bậc thầy dựa theo đó mà hiểu thiên lệch. Lại xét theo như đức Phật [Thích-ca Mâu-ni] ngày nay,[13] từ khởi đầu cho đến cuối cùng, chuyển pháp luân [5 thời có] 5 vị giáo pháp,[14] mỗi lần đều là đáp lại sự thưa thỉnh của Phạm thiên vương. Đối với đức Phật Đại Thông Trí Thắng hẳn là cũng giống như vậy.

Ban sơ 16 vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân viên mãn,[15] giống như Phật Thích-ca ngày nay thuyết giảng giáo pháp Hoa nghiêm. [Các vị Phạm thiên vương ở] 2 phương đông và đông nam thỉnh Phật chuyển pháp luân [quyền thừa] không viên mãn, giống như Phật Thích-ca ngày nay thuyết giảng giáo nghĩa Tam tạng. Sau đó [các vị Phạm thiên vương ở] 7 phương khác thỉnh Phật chuyển pháp luân chỉ ra pháp không viên mãn để nêu rõ giáo pháp viên mãn,[16] giống như ngày nay Phật Thích-ca thuyết giảng kinh Phương đẳng. [Các vị Phạm thiên vương ở] phương trên thỉnh Phật chuyển pháp luân giữ pháp không viên mãn và giảng rõ pháp viên mãn,[17] giống như ngày nay Phật Thích-ca thuyết giảng pháp Bát-nhã. Sau đó nữa, 16 vị vương tử thỉnh Phật [chuyển pháp luân] bỏ pháp không viên mãn, giảng rõ pháp viên mãn, giống như ngày nay Phật Thích-ca thuyết giảng kinh Pháp hoa là giáo pháp của vị đề hồ. So sánh [các phần giảng pháp của Phật] ngày nay với [Phật Đại Thông Trí Thắng] ngày xưa thì ý nghĩa kinh văn đều tương hợp. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

“Bấy giờ, đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng nhận lời thỉnh cầu của các vị Phạm thiên vương trong mười phương cũng như của 16 vị vương tử, liền chuyển pháp luân 3 lần với 12 hành tướng.[18] Nếu là sa-môn, bà-la-môn, hoặc chư thiên, ma, phạm chí cũng như các hạng chúng sanh khác trong thế gian, đều không có khả năng chuyển pháp luân như vậy.

“Đức Phật dạy rằng: ‘Đây là khổ; đây là nguyên nhân của khổ; đây là sự chấm dứt khổ; đây là phương thức để chấm dứt khổ.’ Đức Phật cũng giảng rộng giáo pháp 12 nhân duyên: ‘Vô minh làm duyên sanh ra hành, hành làm duyên sanh ra thức, thức làm duyên sanh ra danh sắc, danh sắc làm duyên sanh ra sáu nhập, sáu nhập làm duyên sanh ra sự xúc chạm, sự xúc chạm làm duyên sanh ra cảm thụ, cảm thụ làm duyên sanh ra luyến ái, luyến ái làm duyên sanh ra chấp thủ, chấp thủ làm duyên sanh ra hiện hữu, hiện hữu làm duyên sanh ra sự sanh, sự sanh làm duyên sanh ra già chết cùng với buồn đau khổ não… Do vậy, nếu vô minh diệt rồi thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu nhập diệt, sáu nhập diệt thì sự xúc chạm diệt, sự xúc chạm diệt thì cảm thụ diệt, cảm thụ diệt thì luyến ái diệt, luyến ái diệt thì chấp thủ diệt, chấp thủ diệt thì hiện hữu diệt, hiện hữu diệt thì sự sanh diệt, sự sanh diệt thì già chết cùng với buồn đau khổ não diệt.’

“Khi đức Phật Đại Thông Trí Thắng thuyết giảng pháp này giữa đại chúng trời, người thì có 600 muôn ức na-do-tha người do không nạp thọ hết thảy các pháp nên tâm được giải thoát đối với các lậu hoặc, đều đạt thiền định thâm sâu mầu nhiệm, chứng được ba minh[19] và sáu thần thông,[20] đủ tám môn giải thoát.[21]

“Khi Phật thuyết pháp lần thứ hai, thứ ba, thứ tư, số lượng chúng sanh do không nạp thọ hết thảy các pháp mà tâm được giải thoát đối với các lậu hoặc đã nhiều như số cát của ngàn muôn ức na-do-tha con sông Hằng. Từ đó về sau, chúng Thanh văn của Phật ấy nhiều đến vô lượng vô biên, không thể nêu lên số lượng.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Bấy giờ, đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng nhận lời thỉnh cầu… …mười phương” trở đi, nói về nguyên do gần của sự kết duyên. Nguyên do là đức Phật nhận lời thỉnh cầu thuyết pháp cho nên sau đó [đại chúng] mới được nghe thuyết giảng, tạo thành việc kết duyên. Tiểu đoạn này chia làm 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất nói việc trước tiên Phật chuyển pháp luân với pháp chưa rốt ráo.[22] Phân đoạn thứ hai nói việc các vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân bỏ pháp không viên mãn, giảng rõ pháp viên mãn.

Phân đoạn thứ nhất lại chia làm 3 ý. Ý thứ nhất là Phật chấp nhận lời thỉnh cầu, ý thứ hai là Phật chuyển pháp luân, ý thứ ba là [đại chúng] nghe pháp đạt đạo. Phần này lẽ ra nói đến 3 thừa giống như kinh văn trong phẩm Tựa có nói, nhưng lại không nói, đó là vì hàng hạ căn mà luận về [nguyên do] kết duyên [để đến ngày nay] có những việc khai thị trừ bỏ ba thừa,] hiển bày [Nhất thừa] v.v. Và lược bớt không nói về 6 ba-la-mật.

[Kinh nói] “chuyển pháp luân 3 lần” tức là thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển. Nếu đem 3 lần chuyển pháp luân so với [4 giai đoạn giáo hóa gồm] “thị, giáo, lợi, hỷ”, thì “thị” tức là thị chuyển, “giáo” tức là khuyến chuyển, “lợi” và “hỷ” tức là chứng chuyển; lại cũng tương đương với [các giai đoạn] kiến đế (thấy biết chân lý), tư duy (suy ngẫm) và vô học (không còn phải học).

[Đức Phật] vì hàng Thanh văn mà chuyển pháp luân 3 lần, vì hàng Duyên giác mà chuyển 2 lần, vì hàng Bồ Tát mà chuyển 1 lần. Vì sao lại như vậy? Vì căn tánh nhanh nhạy hoặc trì độn khác nhau, điều này đã nói qua một lần rồi. Đối với [chư thiên] trong 10 phương thì theo lệ xem như đều chuyển pháp luân 3 lần. Vì sao lại 3 lần? Vì lời chư Phật thuyết giảng, hết thảy các pháp đều giảng đến 3 lần, do chúng sanh có 3 loại căn cơ. Trong luận Đại Trí độ và luận Tỳ-bà-sa đều nói như vậy.

Hỏi: Lần đầu tiên [Phật thuyết pháp] vì 5 người, làm sao có thể nói [trong đó có] 3 hạng căn cơ? Lại [khi thuyết pháp] cho 80.000 chư thiên, sao có thể nói [trong đó] không có đủ 3 căn cơ?

Đáp: Vì [giúp cho chúng sanh] khởi sanh tam tuệ[23] nên ba hạng căn cơ vận dụng ba phần giáo pháp.

[Kinh nói] “12 hành tướng”, thứ nhất là dựa theo giáo pháp bốn chân đế, thứ hai là dựa theo 16 hành tướng.

Dựa theo giáo nghĩa thì 12 [hành tướng] nghĩa là [3 lần chuyển pháp luân gồm] thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển, mỗi lần đều thuyết 4 chân đế.

Dựa theo pháp hành thì 12 [hành tướng] nghĩa là 3 lần chuyển pháp luân, mỗi lần đều khởi sanh [4 giai đoạn] nhãn (thấy chân lý), trí (thể chứng chân lý bằng trí tuệ), minh (hiển lộ sáng tỏ chân lý) và giác (thực chứng, giác ngộ chân lý).[24]

Lại nữa, 12 hành tướng nói theo giáo nghĩa là công năng chuyển, nói theo pháp hành là đối tượng được chuyển, cho nên 12 pháp hành là pháp luân, 12 giáo nghĩa chưa phải pháp luân.

Nếu theo nghĩa 2 pháp luân thì nhãn, trí, minh, giác, dựa theo 48 pháp[25] mà mở rộng 4 tâm này thành 16 tâm. Đó là nói khổ pháp nhẫn là nhãn, khổ pháp trí là trí, so [loại trí] nhẫn là minh, so [loại] trí là giác.[26] Ngoài ra 3 chân đế [tập, diệt và đạo] cũng đều như vậy. Cho nên thành ra 16 tâm. Ba hạng căn cơ, mỗi hạng đều có 16 tâm, cho nên thành ra 48 hành tướng. [Như vậy] 12 đế là giáo pháp luân, 12 hành là hành pháp luân.

Giáo pháp luân thì có công năng chuyển chỉ một quyền trí, đối tượng được chuyển thì có 12 giáo. Hành pháp luân thì có công năng chuyển 12 giáo, đối tượng được chuyển là hành cũng có 12. Điều này có thể vận dụng với cả 3 hạng căn cơ, hoặc chỉ nói một hạng. Nay lại nói về giai vị Kiến đế của 3 hạng căn cơ. Hàng lợi căn nghe thị chuyển liền lập tức khởi sanh nhãn, trí, minh, giác. Cả ba hạng [đều khởi sanh như thế nên] hợp lại cùng nêu ra, nói là 12 hành.

Kinh nói “không có khả năng chuyển pháp luân”, tức là nói những sa-môn không được nghe [pháp], vốn đã không thể hiểu, nói gì đến chuyển; hàng Bích-chi Phật tuy có giác ngộ, nhưng miệng không thể thuyết giảng; hàng bà-la-môn tuy có nghe được tên gọi nhưng không hiểu được lý; cho đến Ma vương, Phạm chí lại cũng như vậy.

Nói “chuyển” tức là chuyển được pháp [Tứ đế] này vào tâm người khác, giúp cho họ được giác ngộ và phá trừ 62 kiến chấp, như vậy mới gọi là chuyển pháp luân. Vì không đáp ứng được ý nghĩa này [cho nên nói] Ma vương, Phạm chí… không có khả năng chuyển pháp luân. Lại có người giải thích về Tứ đế của Đại thừa, tiếp theo là chuyển Nhị đế, tiếp theo nữa chuyển Nhất đế và sau nữa chuyển Vô đế. Những cách hiểu này đều là sự linh hoạt tóm gọn hoặc giảng rộng.

Bốn chân đế của Tiểu thừa lấy sanh diệt làm thể, Đại thừa thì dùng vô sanh diệt làm thể. Đại lược là như vậy.

[Kinh nói] 12 nhân duyên, đó là tướng riêng quán xét chi tiết về bốn chân đế. Dựa theo [hai chân đế] khổ và tập liền có từ vô minh cho đến lão tử; dựa theo đạo đế và diệt đế liền có diệt vô minh cho đến diệt lão tử.

Lại như người trong cả ba thừa cũng đều quán 12 duyên; 12 duyên sanh diệt của hàng Nhị thừa là 12 duyên không sanh của hàng Bồ Tát; 12 duyên không sanh [là nghĩa] xưa vốn không sanh, nay không có diệt; nếu là theo nhau sanh ắt lại sanh, lại nối nhau diệt… Đại lược là như vậy.

Lại nữa, cả ba thừa đều luận về bốn chân đế, nhưng bốn chân đế của hàng Nhị thừa có hạn lượng, còn bốn chân đế của hàng Bồ Tát không có hạn lượng.

Lại nữa, 6 ba-la-mật cũng là chung với 3 hạng căn cơ trong ba thừa.

Kinh Đại phẩm Bát-nhã,[27] phẩm Phát thú nói rằng: “A-la-hán, Bích-chi Phật, nhờ nơi 6 ba-la-mật đến được bờ giải thoát.” Luận Nhiếp Đại thừa[28] nói rằng: “Người phàm phu với hàng Nhị thừa cũng đều có đủ 6 ba-la-mật, chỉ là không giống như nhau.” Nếu vậy thì nên gọi tên giống nhau là ba-la-mật. Tuy nhiên, hàng Nhị thừa thực hành ba-la-mật đạt đến bờ bên kia là Niết-bàn [Tiểu thừa], cũng được gọi là ba-la-mật, nhưng không thể đạt đến bờ bên kia là Phật đạo, nên so với Bồ Tát là khác biệt. Luận A-tỳ-đàm[29] có nói đến 6 sự đầy đủ,[30] đây chính là 6 ba-la-mật. Kinh Bảo Vân[31] nêu rõ giới luật[32] của ba thừa.[33] Đại lược là như thế.

Ý thứ ba là đại chúng nghe pháp được giác ngộ, ban đầu còn ít hơn, đến khoảng giữa thì rất nhiều. Kinh nói “không thọ” là không thọ 4 kiến chấp,[34] tức là chứng ngộ sơ quả; “được giải thoát” là thoát khỏi 2 sự trói buộc của quả báo trong hiện tại và tương lai,[35] tức là chứng quả vô học; “đạt thiền định thâm sâu mầu nhiệm” tức là có đủ 2 pháp định, tuệ đạt đến giải thoát.[36] Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

“Bấy giờ, 16 vị vương tử đều xuất gia làm sa-di lúc còn nhỏ tuổi, căn tánh thông minh nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt thấu triệt, đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức các vị Phật, thanh tịnh tu tập Phạm hạnh, cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên cùng bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Vô số ngàn muôn ức vị đại đức Thanh văn này đều đã tu tập thành tựu, đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con mà thuyết pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chúng con được nghe rồi sẽ cùng nhau tu học. Bạch Thế Tôn! Chí nguyện của chúng con đều muốn được sự thấy biết của Như Lai. Đó là tâm niệm sâu thẳm trong lòng chúng con, hẳn Phật đã tự rõ biết.”

“Khi ấy, trong số người đi theo Chuyển luân Thánh vương, có 8 muôn ức người thấy 16 vị vương tử xuất gia thì cũng xin được xuất gia. Chuyển luân Thánh vương liền cho phép.

“Bấy giờ, đức Phật Đại Thông Trí Thắng nhận sự thỉnh cầu của 16 vị sa-di rồi, trải qua đến 20.000 kiếp mới ở giữa 4 chúng mà thuyết kinh Đại thừa này, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Phật thuyết giảng kinh này rồi, 16 vị sa-di vì cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên đều thọ nhận giữ gìn, tụng đọc thông suốt.

“Khi Phật thuyết giảng kinh này, 16 vị sa-di đều tin nhận. Trong đại chúng Thanh văn cũng có một số người tin hiểu được, còn lại ngàn muôn ức chúng sanh khác đều sanh tâm nghi hoặc. Đức Phật Đại Thông Trí Thắng đã thuyết giảng kinh này trong suốt 8.000 kiếp chưa từng ngưng dứt. Thuyết giảng kinh này xong, đức Phật vào một am thất yên tĩnh,[37] trụ trong thiền định đến 84.000 kiếp.”

Từ câu “Bấy giờ, 16 vị vương tử đều xuất gia…” trở đi là phân đoạn thứ hai, thưa thỉnh Phật lần thứ hai để xin chuyển Pháp luân viên mãn. Phân đoạn này lại có 7 ý. Thứ nhất là nói [16 vương tử] xuất gia, thứ hai nói việc thỉnh chuyển pháp luân, thứ ba nói việc những người đi theo cũng xuất gia, thứ tư nói việc Phật nhận lời thưa thỉnh, thứ năm nói việc trong thính chúng có người hiểu, có người không hiểu, thứ sáu nói về thời gian [thuyết giảng], thứ bảy nói việc Phật thuyết pháp xong liền nhập định.

Ý thứ nhất, kinh văn nói “căn tánh thông minh nhanh nhạy” nghĩa là [16 vị vương tử có] 6 căn thanh tịnh, cho nên nói là “thông minh nhanh nhạy”. Lại nữa, 6 căn có thể vận dụng hỗ tương với nhau nên nói là “thông minh”, thể nhập cảnh giới Phật nên nói là “nhanh nhạy”. “Trí tuệ sáng suốt thấu triệt”, tức là nói đã được khai mở, chỉ bày, chứng ngộ, thể nhập [tri kiến Phật].

[Ý thứ hai,] đức Phật Đại Thông Trí Thắng ban sơ thuyết pháp viên đốn, các vị vương tử liền được đầy đủ công đức Đại thừa, nhưng vì thương xót mở bày phương tiện [độ sanh] nên thưa thỉnh lần nữa để Phật chỉ bày trừ bỏ quyền thừa, hiển bày pháp chân thật. “Các vị Thanh văn đều đã thành tựu”, là nêu rõ việc các vị này đã trừ được che chướng, cơ duyên Đại thừa đã động khởi, cho nên mới vì họ thưa thỉnh [Phật thuyết pháp Đại thừa]. “Chí nguyện của chúng con đều muốn được sự thấy biết của Như Lai.” Vì kinh Pháp hoa này chỉ nêu rõ sự thấy biết của Phật, nên chỉ muốn đạt đến sự thấy biết ấy, tức là phần kinh văn thỉnh Phật nói pháp viên mãn rốt ráo, trừ bỏ pháp quyền thừa không rốt ráo. Ý nghĩa hết sức rõ ràng như vậy.

[Ý thứ ba có thể y theo kinh văn hiểu được.]

[Ý thứ tư, kinh văn nói] “trải qua đến 20.000 kiếp”, là nghĩa phần trên nói việc thiết lập ba thừa đã lâu, khoảng thời gian ở giữa đó không thể nói là không có việc gì. Cứ theo ý kinh văn phần sau thì trong 20.000 kiếp đó chắc hẳn là Phật đã thuyết các kinh Phương đẳng, Bát-nhã. Kinh văn [phần kệ tụng] nói: “Thuyết sáu ba-la-mật, cùng những việc thần thông.” Bát-nhã là hạnh, thần thông là sự. Trong các kinh Phương đẳng phần nhiều nêu rõ những hạnh và sự không thể nghĩ bàn. Trong kinh văn kệ tụng lại cũng nói: “Phân biệt pháp chân thật.” Đây tức là ý nói về thật tướng Bát-nhã như được nêu trong kinh Đại phẩm Bát-nhã.

Ý thứ năm, kinh văn nói “16 vị sa-di tin nhận”, cùng với hàng Nhị thừa, tức là nói những người tin nhận và hiểu được [Đại thừa]. “Còn lại ngàn muôn ức chúng sanh đều sanh tâm nghi hoặc”, tức là nói những người không thể nhận hiểu được. Chính những người không hiểu được này đã cùng với 16 vị sa-di thuở ấy kết thành nhân duyên Pháp hoa.

[Ý thứ sáu nói thời gian thuyết giảng, y theo kinh văn có thể hiểu được.]

Ý thứ bảy[38] nêu việc đức Phật Đại Thông Trí Thắng thuyết pháp xong rồi nhập định. Đây chính là nguyên do gần của việc kết duyên [đời trước]. Do Phật nhập định và chưa xuất định nên những người còn nghi hoặc không có ai để thưa hỏi, 16 vị sa-di sau đó liền vì những người chưa hiểu mà thuyết giảng lại kinh Pháp hoa.

Trong kinh văn nói về nơi chốn Phật nhập định, tức là “vào một am thất yên tĩnh”, nói việc nhập định tức là “trụ trong thiền định”, nói thời gian nhập định tức là 84.000 kiếp. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

“Bấy giờ, 16 vị Bồ Tát sa-di biết Phật đã vào am thất tịch lặng, an nhiên thiền định, mỗi vị cũng đều vì 4 chúng mà lên pháp tòa phân biệt giảng rộng kinh Diệu Pháp Liên Hoa trong 84.000 kiếp, mỗi vị đều hóa độ chúng sanh nhiều như số cát của 600 muôn ức na-do-tha con sông Hằng, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu,[39] khiến cho thảy đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.[40]

“Đức Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua 84.000 kiếp rồi, ra khỏi thiền định, đi đến pháp tòa, ngồi xuống an nhiên điềm đạm nói với đại chúng: ‘Mười sáu sa-di này thật rất hiếm có, căn tánh đều thông minh nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt, đã từng cúng dường vô số ngàn muôn ức vị Phật, thường tu tập hạnh thanh tịnh ở nơi đạo tràng chư Phật, thọ nhận giữ gìn trí tuệ Phật, khai mở chỉ bày chúng sanh, khiến cho đều được thể nhập trí tuệ ấy, đại chúng nên thường luôn gần gũi cúng dường các vị này. Vì sao vậy? Nếu trong hàng Thanh văn, Duyên giác hoặc Bồ Tát, người nào có thể tin nhận giáo pháp kinh điển do 16 vị Bồ Tát sa-di này thuyết giảng, thọ nhận giữ gìn không để mất, thì những người ấy đều sẽ đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được trí tuệ của Như Lai.’”

Từ câu “Bấy giờ, 16 vị Bồ Tát sa-di biết Phật đã vào am thất…” trở đi là tổng đoạn thứ 2, là nói việc kết duyên. Tổng đoạn này có 2 đoạn. Đoạn thứ nhất nói thuyết pháp kết duyên, đoạn thứ hai nói thí dụ kết duyên.

Đoạn thứ nhất nói việc thuyết pháp lại có 3 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc thuở xưa đã cùng nhau kết duyên. Tiểu đoạn thứ hai nêu việc trong khoảng thời gian từ đó đến nay vẫn thường gặp lại gặp nhau. Tiểu đoạn thứ ba nói việc ngày nay lại thuyết giảng kinh Pháp hoa.

Tiểu đoạn thứ nhất lại có 4 phân đoạn. Thứ nhất là nêu việc biết Phật nhập định, thứ hai là nêu việc 16 vị Bồ Tát sa-di giảng lại [kinh Pháp hoa], thứ ba là nói việc thính chúng đều được lợi ích, thứ tư là nói việc đức Phật sau khi xuất định ngợi khen tán thán 16 vị Bồ Tát sa-di do Phật nhập định nên có cơ hội thuyết giảng.

Đức Phật Đại Thông Trí Thắng rõ biết việc giáo hóa một lần đã xong, lúc này không còn chúng sanh nào có cơ duyên thành thục nữa, nên để cho 16 vị vương tử cùng những người chưa được hóa độ kết duyên, lại cũng rõ biết là những người này cuối cùng sẽ nhờ các vương tử mà được hóa độ. Do vậy mà đức Phật mới nhập định thời gian lâu không xuất định. Đại lược là như thế.

Từ câu “Bấy giờ 16 vị Bồ Tát sa-di…” trở đi là phân đoạn thứ nhất, nêu việc biết rõ Phật đã nhập định. “Mỗi vị cũng đều vì bốn chúng mà lên pháp tòa nói pháp”, là phân đoạn thứ hai, nói việc [16 vị Bồ Tát] giảng lại kinh Pháp hoa. “Mỗi vị đều hóa độ chúng sanh…” là phân đoạn thứ ba, nói việc thuyết pháp làm lợi ích. “Thảy đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, cho nên nói rằng được hóa độ. Vào lúc vừa mới phát tâm, nếu lập thệ nguyện chính mình sẽ thành Phật là đã vượt hơn thế gian, tức là nghĩa vượt qua bờ bên kia của 7 hạng phương tiện.

“Đức Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua 84.000 kiếp rồi…” là phân đoạn thứ tư, nói việc đức Phật sau khi xuất định xưng tán [16 vị Bồ Tát thuyết pháp], khuyến khích thính chúng khởi lòng tin. Phân đoạn này lại có 2 ý. Ý thứ nhất là xưng tán các vị Bồ Tát [thuyết pháp]. Ý thứ hai từ câu “Đại chúng nên thường luôn gần gũi cúng dường…” là khuyên chúng sanh nên gần gũi thân cận [người thuyết pháp]. Ý thứ hai này lại có 2 tiểu ý. Tiểu ý thứ nhất khuyên chúng sanh nên gần gũi. Tiểu ý thứ hai từ câu “Vì sao vậy?” trở đi, giải thích sự khuyến khích trong tiểu ý thứ nhất.

KINH VĂN

Đức Phật Thích-ca bảo các tỳ-kheo: “Mười sáu vị Bồ Tát ấy thường vui thích thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, mỗi vị đều giáo hóa số chúng sanh nhiều như số cát của 600 muôn ức na-do-tha con sông Hằng, những chúng sanh ấy đời đời sẽ luôn được sanh ra cùng Bồ Tát, theo Bồ Tát nghe thuyết pháp rồi đều tin hiểu. Nhờ nhân duyên đó nên sẽ được gặp 400 muôn ức đức Phật Thế Tôn, đến nay việc ấy vẫn còn chưa dứt.

“Này các tỳ-kheo! Nay ta nói cùng các ông, 16 vị sa-di đệ tử của Phật Đại Thông Trí Thắng, đến nay đều đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiện tại đang thuyết pháp trong các cõi nước mười phương, có vô số trăm ngàn muôn ức Bồ Tát, Thanh văn làm quyến thuộc.

Từ câu “Đức Phật Thích-ca bảo các vị tỳ-kheo…” trở đi là tiểu đoạn thứ hai, nêu việc trong khoảng thời gian từ đó đến nay [16 vị Bồ Tát và những chúng sanh được nghe các vị thuyết pháp] vẫn thường gặp lại nhau. Chúng sanh thường gặp lại đó có 3 hạng.

Hạng thứ nhất khi thường gặp lại được thọ nhận Đại thừa. Hạng này trong thời gian từ đó đến nay hẳn đều đã thành tựu cả rồi, không còn đến ngày hôm nay. Hạng thứ hai khi gặp lại nhau, [Bồ Tát] thấy họ thối tâm Đại thừa liền dùng pháp Tiểu thừa để dẫn dắt. Hạng này do vậy nên từ đó đến nay vẫn còn chưa hết [gặp gỡ], nay được nghe lại giáo pháp Đại thừa. Hạng thứ ba là những người chỉ gặp Tiểu thừa, không được gặp Đại thừa, cho nên từ đó đến nay chưa được hóa độ. Hạng này đến ngày nay cũng vẫn còn. Những người này ngày nay mới bắt đầu thọ nhận Đại thừa, cho nên đến sau khi Phật diệt độ rồi họ mới đạt đạo.

Hỏi: Như trên đã nói thì [Phật] thụ ký phải qua thời gian lâu xa số kiếp nhiều như số hạt bụi, đến nay mới chứng quả A-la-hán, vậy nên biết rằng đâu dễ gì đạt được vô sanh pháp nhẫn?

Đáp: Có thuyết nói rằng, bậc Đại Thánh khéo léo nương theo 4 pháp tất đàn để thuyết dạy như vậy. Hoặc nói Phật đạo xa xôi dài lâu, hoặc nói quả Phật dễ thành.

Để đối trị người sinh tâm chán nản với việc tu đạo lâu dài thì nói đường tu ngắn. Đối trị với người sanh tâm dể duôi cho rằng việc tu đạo dễ dàng thì nói đường tu phải lâu dài. Hoặc vì giúp phát khởi căn lành từ đời trước, hoặc tùy thuận chỗ mong muốn của người thế gian, hoặc vì có những người được nghe nói đường tu dài, hoặc được nghe nói đường tu ngắn, liền thể nhập vào đệ nhất nghĩa.

Nên biết rằng, tuy Phật đã thụ ký về số kiếp nhưng mãi đến nay mới đạt được quả A-la-hán, đó chính là quyền hành theo 4 tất đàn để dẫn dắt những người thực hành đi vào chánh đạo mà thôi.

Từ câu “Này các tỳ-kheo! Nay ta nói cùng các ông…” trở đi là tiểu đoạn thứ ba, nêu việc ngày nay cũng lại thuyết giảng kinh Pháp hoa. Tiểu đoạn này lại chia làm 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu những việc tương hợp thuở xưa với ngày nay. Phân đoạn thứ hai nêu việc nay lại thuyết giảng kinh Pháp hoa.

KINH VĂN

“Ở phương đông có 2 vị sa-di thành Phật, một vị hiệu A-súc, ở cõi nước Hoan Hỷ, vị thứ hai hiệu Tu-di Đỉnh.

“Ở phương đông nam có 2 vị thành Phật, vị thứ nhất hiệu Sư Tử Âm, vị thứ hai hiệu Sư Tử Tướng.

“Ở phương nam có 2 vị thành Phật, vị thứ nhất hiệu Hư Không Trụ, vị thứ hai hiệu Thường Diệt.

“Ở phương tây nam có 2 vị thành Phật, vị thứ nhất hiệu Đế Tướng, vị thứ hai hiệu Phạm Tướng.

“Ở phương tây có 2 vị thành Phật, vị thứ nhất hiệu A-di-đà, vị thứ hai hiệu Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não.

“Ở phương tây bắc có 2 vị thành Phật, vị thứ nhất hiệu Đa-ma-la-bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông, vị thứ hai hiệu Tu-di tướng.

“Ở phương bắc có 2 vị thành Phật, vị thứ nhất hiệu Vân Tự Tại, vị thứ hai hiệu Vân Tự Tại Vương.

“Ở phương đông bắc có một vị thành Phật hiệu Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy.

“Vị sa-di thứ mười sáu chính là ta, Phật Thích-ca Mâu-ni, ở thế giới Ta-bà này thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“Này các tỳ-kheo! Khi 16 người chúng ta còn làm sa-di, mỗi người đều đã giáo hóa chúng sanh nhiều như số cát của vô số trăm ngàn muôn ức con sông Hằng. Những chúng sanh ấy đều theo chúng ta nghe thuyết pháp vì cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đến nay có những người đang ở địa vị Thanh văn, vẫn thường được ta giáo hóa bằng pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những người này nên dùng pháp như thế để dần dần từng bước thể nhập Phật đạo. Vì sao vậy? Vì trí tuệ của Như Lai thật khó tin, khó hiểu.

“Những chúng sanh nhiều như số cát của vô số con sông Hằng được ta giáo hóa từ thuở ấy, chính là chúng tỳ-kheo các ông ngày nay, cùng với các đệ tử Thanh văn trong đời vị lai sau khi ta nhập diệt.

“Sau khi ta nhập diệt, lại có những đệ tử không được nghe kinh này, không hay không biết gì đến những công hạnh của hàng Bồ Tát. Những người ấy do nơi công đức đã đạt được mà tự sanh khởi ý tưởng cho rằng mình đã được diệt độ, sẽ nhập Niết-bàn. Khi ấy, ta làm Phật ở cõi nước ngoài ba cõi,[41] lại có danh hiệu khác. Những người ấy tuy khởi sanh ý tưởng diệt độ, đã nhập Niết-bàn Tiểu thừa, nhưng lại ở cõi nước ngoài ba cõi ấy cầu trí tuệ Phật, được nghe kinh này, liền biết rằng chỉ duy nhất Phật thừa mới được diệt độ, ngoài ra không có thừa nào khác, trừ ra trong pháp phương tiện mà các đức Như Lai thuyết giảng.

Phân đoạn thứ nhất lại có 2 ý. Ý thứ nhất nêu mối liên kết giữa [16 vị] thầy thuở xưa và thành tựu hiện nay của các vị. Ý thứ hai nêu sự tương hợp giữa chúng đệ tử thuở xưa cũng chính là chúng đệ tử ngày nay.

[Ý thứ nhất nêu rõ] 16 vị sa-di thuở xưa ngày nay là chư Phật trong 8 phương.

Ý thứ hai từ câu “Này các tỳ-kheo! Khi 16 người chúng ta còn làm sa-di, mỗi người đều đã…” trở đi, nêu sự tương hợp của chúng đệ tử, lại có 2 tiểu ý. Tiểu ý thứ nhất nói về chúng đệ tử hiện tại, tiểu ý thứ hai nêu việc tương lai.

Tiểu ý thứ nhất nói việc hiện tại lại có 4 điều. Thứ nhất là nói những người không thối chuyển, tức trụ yên [tu tập] Chánh giác. Thứ hai là nói trong số chúng sanh này có những người thối chuyển [tâm Bồ-đề] thì nay trụ ở hàng Thanh văn. Thứ ba, từ câu “Vì sao vậy?” trở đi, giải thích ý trụ yên hay thối chuyển. Thứ tư, từ câu “Những chúng sanh nhiều như số cát của vô số con sông Hằng được ta giáo hóa…” trở đi là tóm kết lại mối liên hệ giữa thuở xưa và ngày nay.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Cùng với các đệ tử Thanh văn trong đời vị lai sau khi ta nhập diệt…” trở đi, nói về các đệ tử trong tương lai. Tiểu ý này lại có 2 điều. Thứ nhất là nói việc tương hợp [với chúng đệ tử thuở xưa]. Thứ hai, từ câu “sau khi ta nhập diệt, lại có…” là giải thích chỗ nghi.

Có người nghi ngờ rằng, những người trong hiện tại nghe Phật thuyết kinh Pháp hoa, được thể nhập đạo Nhất thừa, có thể nói là đã được kết duyên, còn những người trong tương lai, chưa được nghe kinh Pháp hoa mà đã nhập Niết-bàn [của Nhị thừa] rồi, làm sao có thể buông xả Tiểu thừa mà thể nhập Nhất thừa?

Giải thích rằng, [những người ấy] tuy đã nhập Niết-bàn [của Nhị thừa], nhưng cuối cùng rồi cũng được nghe [kinh Pháp hoa]. Kinh nói: “Ta làm Phật ở cõi nước ngoài ba cõi…” [cho đến] “những người ấy… được nghe kinh này.” “Cõi nước ngoài ba cõi”[42] tức là cõi hữu dư của ba thừa Thông giáo. “Trừ ra trong pháp phương tiện mà các đức Như Lai thuyết giảng”, đây là [giải thích để] dứt lòng nghi. Ba thừa chỉ là [chư Phật] phương tiện nói ra, chân thật vốn không có ba.

KINH VĂN

“Này các tỳ-kheo! Nếu đức Như Lai tự biết đã đến lúc nhập Niết-bàn, đại chúng lại thanh tịnh, có sự tin hiểu vững chắc, rõ biết thấu triệt pháp không, thể nhập sâu vào thiền định, ngài liền triệu tập các vị Bồ Tát và chúng Thanh văn để thuyết giảng kinh này, nói rõ trong thế gian không có hai thừa được diệt độ, chỉ duy nhất một Phật thừa đạt được diệt độ mà thôi.

“Các tỳ-kheo nên biết! Đức Như Lai dùng phương tiện thể nhập sâu vào tâm tánh của chúng sanh, rõ biết tâm chí họ ưa thích pháp Tiểu thừa, bám chấp sâu nặng năm món dục,[43] nên vì những người này mà thuyết dạy Niết-bàn Tiểu thừa. Những người ấy nếu được nghe liền tin nhận.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Này các tỳ-kheo! Nếu đức Như Lai…” trở đi, nêu việc ngày nay lại thuyết giảng kinh Pháp hoa. Phân đoạn này lại có 3 ý. Thứ nhất là nói thời điểm đại chúng thanh tịnh; thứ hai là nêu việc thuyết giảng kinh Pháp hoa; thứ ba là giải thích ý nghĩa trước đây thiết lập ba thừa.

[Ý thứ nhất,] “đến lúc nhập Niết-bàn”, là nói chư Phật ra đời giáo hóa chánh đạo, lúc sắp hoàn tất đều thuyết giảng kinh này, như Phật Ca-diếp, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh v.v. Khi chư Phật thuyết giảng kinh này xong liền nhập Niết-bàn. Đức Phật Thích-ca thuyết giảng kinh Pháp hoa xong, cũng noi theo đó mà tuyên bố sắp nhập Niết-bàn.

“Đại chúng lại thanh tịnh”, tức là nói về đoạn đức. “Sự tin hiểu vững chắc”, tin là nói 4 niềm tin không thể phá hoại;[44] hiểu tức là hiểu biết chân chánh pháp vô lậu, thấu triệt rõ ràng các chân đế, đầy đủ các pháp thiền định. Đây tức là thiết lập đủ trí đức và đoạn đức. Lúc bấy giờ đủ sức nhận lãnh lời dạy về đạo Đại thừa, được nghe rồi liền tin nhận.

Lại nữa, nói “đại chúng lại thanh tịnh” là nghĩa được sự lợi ích từ giáo pháp Tam tạng, đã miễn trừ được các khổ nạn; “sự tin hiểu kiên cố” là nghĩa trong lòng đã có sự tin cậy đối với giáo pháp Phương đẳng; “rõ biết thấu triệt pháp không”, là nghe thuyết giảng giáo pháp Bát-nhã nên ở trong pháp không tâm được thấu triệt. Đây tức là ý nghĩa chuyển đổi giáo pháp.

Ý thứ hai từ câu “liền triệu tập các vị Bồ Tát…”, nêu việc thuyết giảng kinh Pháp hoa. “Triệu tập các vị Bồ Tát” là tụ hội những người trong thân tộc…, tức là để thuyết giảng kinh này. Phần trước có giải thích “thân tộc” là các vị pháp thân đại sĩ, là thuộc chúng ảnh hưởng,[45] dùng đoạn kinh văn này để suy nghiệm ý nghĩa đó thì rất sáng tỏ. [So với thí dụ trong phẩm Tin hiểu thì] “triệu tập các vị Bồ Tát” là “tụ hội thân tộc”, “và chúng Thanh văn” tức là “gọi người con đến”.

Ý thứ ba từ câu “Các tỳ-kheo nên biết! Đức Như Lai dùng phương tiện…” trở đi là giải thích ý nghĩa thiết lập ba thừa. Nếu như ở thế gian không có hai thừa đều được diệt độ thì vì sao đức Như Lai trước đây thuyết dạy giáo pháp quyền biến? Giải thích rằng, nên biết đó là phương tiện của đức Như Lai, vì rõ biết sâu xa chúng sanh có sự ưa thích pháp Tiểu thừa, bám chấp 5 trần cảnh, chìm đắm trong 5 sự uế trược, cho nên trước đây thuyết dạy ba thừa để giúp cho chúng sanh phá sự mê đắm, trừ các khổ nạn, sau đó mới thuyết dạy Nhất thừa.

KINH VĂN

“Ví như có con đường nhiều nguy hiểm, dài năm trăm do-tuần, hoang vắng không người, thật rất đáng sợ. Có rất nhiều người muốn vượt qua con đường ấy để đến nơi có nhiều châu báu quý giá. Có một vị thầy dẫn đường thông minh sáng suốt, biết rõ trên con đường nguy hiểm này có những chỗ nào thông suốt, những chỗ nào tắt nghẽn, hướng dẫn mọi người vượt qua con đường khó khăn này.

“Những người được dẫn đi ấy, đến giữa đường thì nản lòng, thưa với vị thầy: ‘Chúng tôi mệt mỏi quá rồi, lại thêm sợ hãi, không thể nào đi tiếp được nữa. Đường phía trước vẫn còn xa, nay chúng tôi muốn quay lại.’

“Vị thầy dẫn đường vốn có nhiều phương tiện, nghĩ rằng: ‘Những người này thật đáng thương, vì sao lại từ bỏ châu báu quý giá mà muốn quay trở lại?’ Nghĩ như vậy rồi liền dùng sức phương tiện biến hóa ra một tòa thành ở khoảng giữa con đường nguy hiểm đó, cách đầu đường 300 do-tuần, rồi nói với mọi người: ‘Các người đừng sợ hãi, đừng quay trở lại. Nay có tòa thành lớn kia, có thể nghỉ ngơi trong đó, tùy ý muốn làm gì cũng được. Nếu vào thành ấy sẽ được vui thích an ổn, rồi nếu muốn đi tiếp đến chỗ có châu báu thì cũng có thể rời đi.’

“Bấy giờ, những người mệt mỏi kia hết sức vui mừng, ngợi khen là chưa từng có: ‘Chúng ta nay đã thoát khỏi con đường nguy hiểm này, được vui thích an ổn.’

“Liền đó mọi người đi tới để vào tòa thành biến hóa, khởi sanh ý tưởng rằng mình đã qua hết con đường, rằng đã được an ổn.

Đoạn thứ hai từ câu “Ví như có con đường nhiều nguy hiểm, dài năm trăm do-tuần…” là nêu ra thí dụ. [Đoạn này có 2 tiểu đoạn.] Tiểu đoạn thứ nhất nêu thí dụ, tiểu đoạn thứ hai nói nghĩa tương hợp của thí dụ.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu thí dụ lại chia làm 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất nêu thí dụ có bậc thầy dẫn đường, đây là ví với phần trước nói việc [16 vị sa-di] giảng lại kinh [Pháp hoa] kết duyên Đại thừa [với đại chúng], tức là dựa theo phần lược tụng trong phẩm Phương tiện và thí dụ tổng quát về ngôi nhà đang bốc cháy [trong phẩm Thí dụ].

Phân đoạn thứ hai nêu thí dụ vị thầy sẽ dẫn đường, đây là ví với phần trước nói trong khoảng thời gian từ thuở xưa đến nay [16 vị Bồ Tát thuyết giảng kinh và thính chúng] vẫn thường gặp lại nhau, cho đến ngày nay lại thuyết giảng kinh Pháp hoa. Nếu là những người trong khoảng thời gian ở giữa đó gặp lại thầy, nghe thuyết pháp đều là vì cầu quả Chánh giác, thì không vì những người ấy mà nêu thí dụ. Nếu là những người trong khoảng thời gian ở giữa đó gặp lại mà “nay có những người đang ở địa vị Thanh văn” thì chính là vì những người này mới nêu ra thí dụ thứ hai, tức là dựa theo phần kệ tụng mở rộng trong phẩm Phương tiện và thí dụ cụ thể về ngôi nhà đang bốc cháy [trong phẩm Thí dụ].

Phân đoạn thứ nhất nêu thí dụ bậc thầy dẫn đường lại có 5 ý, tức là dựa theo 6 ý trong thí dụ tổng quát về ngôi nhà đang bốc cháy [trong phẩm Thí dụ] và phần lược tụng trong phẩm Phương tiện.

Ý thứ nhất nêu thí dụ “con đường dài năm trăm do-tuần” là ví với phần trước nói về đại chúng chưa được hóa độ, ưa thích đắm chấp trong các cảnh giới luân hồi, tức là dựa theo thí dụ tổng quát nói căn nhà rộng lớn đang bốc cháy [trong phẩm Thí dụ], ví như ba cõi không được an ổn, là ý trong phẩm Phương tiện nêu sự an ổn để đối lại với không an ổn.

Ý thứ hai nêu thí dụ về “con đường nhiều nguy hiểm… rất đáng sợ” là ví với phần trước nói về đại chúng chưa được hóa độ, phiền não uế nhiễm sâu nặng, đối với trí tuệ của đức Như Lai rất khó tin nhận, rất khó hiểu được, tức là dựa theo thí dụ lửa bốc lên bên trong căn nhà đang cháy [trong phẩm Thí dụ] và trong phẩm Phương tiện nói pháp an ổn để đối lại với sự không an ổn.

Ý thứ ba nêu thí dụ “có rất đông người” là ví với phần trước nói có trăm ngàn muôn ức loài chúng sanh đều sanh tâm nghi ngờ hoặc không hiểu được, tức là dựa theo thí dụ trong căn nhà đang bốc cháy có 30 đứa con và 500 người [trong phẩm Thí dụ] và trong phẩm Phương tiện nói [Như Lai] rõ biết chỗ tham muốn trong tâm tánh của chúng sanh.

Ý thứ tư nêu thí dụ “muốn vượt qua con đường ấy để đến nơi có nhiều châu báu quý giá”. Các nhà cựu giải không xem đây là một thí dụ riêng, nhưng nay cho rằng thí dụ này là ví với phần trước nói việc [16 vị sa-di] giảng lại kinh Pháp hoa, tức là dựa theo phẩm Thí dụ Cỏ thuốc nói nước mưa chỉ có một vị, thí dụ căn nhà đang bốc cháy chỉ có duy nhất một cửa thoát ra [trong phẩm Thí dụ] và phẩm Phương tiện nói ý tuyên giảng chỉ bày Phật đạo.

Ý thứ năm nêu thí dụ “có một vị thầy dẫn đường”, ví với phần trước nói về vị vương tử thứ 16, tức là như trong phẩm Thí dụ Cỏ thuốc nói đến vầng mây đen dày, như thí dụ ông trưởng giả với căn nhà đang bốc cháy [trong phẩm Thí dụ] và phẩm Phương tiện nói ý “đức Như Lai cũng giống như vậy”.

Hỏi: Trong các thí dụ ở phần này, vì sao không có những ý như “cha con thất lạc nhau” [trong phẩm Tin hiểu], hoặc “ông trưởng giả không hề nói dối” [trong phẩm Thí dụ]?

Đáp: Thông thường việc nêu ra các thí dụ đều có khuynh hướng thuận theo ý nghĩa. Các phần trước lấy nghĩa tùy cơ ứng cảm hoặc có hoặc không, cho nên nói thí dụ “cha con thất lạc nhau”, rồi “cha con gặp lại nhau”. Nếu lấy nghĩa cảm ứng tức thời theo cơ duyên thì mới nói thí dụ “hốt hoảng vào căn nhà đang cháy”. Trong phần này nói thí dụ “[vị thầy dẫn đường] hướng dẫn mọi người”, ứng với nghĩa “đời đời thường gặp nhau” trong kinh văn phần trước, làm sao có thể nói nghĩa “thất lạc nhau”; [kinh văn nói] trước đây đã từng kết duyên từ rất lâu, làm sao có thể nói nghĩa “cảm ứng tức thời”? Vì những nghĩa này nên không nêu ra thí dụ [tương ứng với những nghĩa] như “cha con thất lạc nhau” hoặc “hốt hoảng vào nhà đang cháy”, như vậy thì ý nghĩa mới thông suốt.

Hỏi: Vì sao không nêu ra thí dụ [ứng với nghĩa] “không hư dối”?

Đáp: Từ trước đến đây đã có 22 lần nói việc trừ bỏ pháp quyền thừa, hiển bày pháp chân thật,[46] nên ý nghĩa này đã rất rõ ràng. Nói nghĩa “không hư dối” vốn là muốn khuyến khích niềm tin, niềm tin hạ căn không lâu dài nên không cần [nêu ví dụ này].

Về ý thứ nhất “con đường dài 500 do-tuần”, Cơ sư giải thích rằng, phiền não kết sử trong ba cõi là số 300, [cộng với] những tập khí hàng Bồ Tát Thất địa dứt trừ được thành 400, [cộng với] sự vô minh mà hàng Bồ Tát Bát địa trở lên phá trừ được là 500. Nay cho rằng giải thích như vậy chẳng phải nghĩa theo Biệt giáo, cũng chẳng phải nghĩa theo ba thừa Thông giáo. Lại có người nói rằng: Trong 4 loại sanh tử là sanh tử nổi trôi, sanh tử biến dịch, sanh tử trung gian, sanh tử phần đoạn,[47] chỉ tính 3 loại mở rộng ra thành số 500, không tính đến sanh tử nổi trôi. Vì sanh tử nổi trôi là dạng thức sơ khai của mọi chúng sanh có tình thức, trở ngược về nguồn cội ban đầu cho nên không tính đến.

Có người chất vấn điều này, dẫn kinh Thắng Man nói rằng: “Nhân có 5, quả có 2.” Quả có 2 là nói quả sanh tử phần đoạn và sanh tử biến dịch. Nhân có 5 là nói 5 trụ địa phiền não.[48] Nói về quả đã đặc biệt mở rộng thêm [2 loại] sanh tử nổi trôi với sanh tử trung gian, vậy nói về nhân lẽ ra cũng nên mở rộng nhiều hơn 5 trụ địa phiền não. [Lập luận này] không có căn cứ nên không thể vận dụng.

Luận Đại Trí độ nói rõ Bồ Tát nhục thân là sanh tử phần đoạn, Bồ Tát pháp thân là sanh tử biến dịch. Lại nói rằng, vị A-la-hán xả bỏ báo thân trong 3 cõi thì thọ thân pháp tánh, cho nên biết là sanh tử có 2 loại.

Có người nói rằng, 300 do-tuần là ví cho 3 cõi, 400 do-tuần ví cho [hàng Bồ Tát] thất địa, như 2 cõi nước ở khoảng giữa khó vượt qua, 500 do-tuần ví cho hàng Bồ Tát bát địa trở lên. Những người chất vấn lập luận này thì nói: “Nếu 400 do-tuần ví cho hàng Bồ Tát thất địa thì lẽ ra 300 do-tuần phải ví cho hàng Bồ Tát lục địa, vì Bồ Tát lục địa với hàng Nhị thừa công phu tu tập như nhau.” Hàng Nhị thừa tu tập lâu dài nhất cũng chỉ đến 60 kiếp, hoặc 100 kiếp, trong khi Bồ Tát tu tập đến giai vị lục địa là 22 đại tăng-kỳ kiếp. Hàng Nhị thừa đối với con đường tu tập Phật đạo còn loanh quanh qua lại, công phu không thể ngang bằng [với hàng Bồ Tát]. Nay cho rằng đây không phải nghĩa của Biệt giáo, cũng không phải nghĩa theo Thông giáo.

Có người nói rằng: “[Vượt qua] ba cõi là 300 do-tuần, hàng Bồ Tát thất trụ và Nhị thừa là 400 do-tuần, từ hàng Bồ Tát thất trụ trở lên là 500 do-tuần.” Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “Từ sơ quả phải trải qua 80.000 kiếp mới đạt đến tâm Bồ-đề.” Ba hạng căn cơ[49] đạt đến chỗ này liền trình bày nhận hiểu; 5 hạng hành giả[50] đến nơi này gọi là vượt qua 500 do-tuần. [Kinh văn] ở đây lấy theo người trì độn, chậm chạp nhất mà nói, cho nên phải đến 80.000 kiếp; người nhanh nhạy thì không cần đến thời gian quá lâu như vậy, như những trường hợp chứng đắc 4 thánh quả vào thời Phật tại thế. Nếu những người khi được nghe kinh Pháp hoa đều phát tâm [Bồ-đề] thì đâu cần phải đến 80.000 kiếp.

Có người chất vấn rằng, kinh nói vượt qua 300 do-tuần, thiết lập [hóa thành là] địa vị của Nhị thừa, đâu phải là hóa độ cho cả 3 hạng căn cơ? Nếu 5 hạng hành giả cùng phát tâm Bồ-đề thì gọi là vượt qua 500 do-tuần.

Chỗ này cùng một ý nghĩa với kinh Đại Bát Niết-bàn. Nói rằng 5 hạng hành giả cùng phát tâm là lìa 5 quả vị, đó không phải ý kinh ở chỗ này. Ý kinh ở đây nêu rõ ở khoảng 300 do-tuần lập hóa thành là pháp quyền thừa hóa độ; vượt 500 do-tuần đến nơi có nhiều châu báu quý giá, gọi là chân thật hóa độ, từ bỏ hóa thành tiến đến nơi có nhiều châu báu. Nếu nói 5 hạng hành giả đều vượt qua, đều tiến đến, thì đó là không hiểu được ý nghĩa của thí dụ hóa thành.

Có người nói rằng: Ba cõi là trong vòng 300 do-tuần; hàng Thanh văn là đến 400 do-tuần; quả vị Duyên giác là vượt qua 500 do-tuần. Phàm phu bị che chướng trong ba cõi; hàng Nhị thừa bị che chướng bởi Niết-bàn, đều chưa dứt được hai kiến chấp: chấp có và chấp không. Kinh Hoa nghiêm nói: “Cây thuốc không sanh nơi chỗ nước sâu hoặc hầm lửa.” Hầm lửa tức là 3 cõi, nước sâu là chỉ Nhị thừa. Ba cõi là lao ngục của Nhị thừa, Nhị thừa là lao ngục của Bồ Tát. Hơn nữa, phúc đức và trí tuệ nếu nghiêng về một bên[51] thì không thể tự mình thực hành, không thể giáo hóa người khác. Đại phẩm [Bát-nhã] nêu 400 do-tuần, hợp với Nhị thừa là 100 do-tuần, Pháp hoa khai mở thành 500 do-tuần. Đại phẩm nói Bồ Tát vượt qua cả hai giai vị phàm thánh, chưa nêu Nhị thừa là pháp quyền, không có ý nghĩa hóa thành. Đã chưa luận về “hóa thành” hẳn cũng chưa nêu “bảo sở”.

Đáp rằng, Đại phẩm [Bát-nhã] hiển bày pháp chân thật, cho nên đã biện rõ “bảo sở”, chỉ vì chưa trừ bỏ pháp quyền nên chẳng nêu “hóa thành”.

Kinh văn phần sau nói, vì muốn tạo ra chỗ tạm dừng nghỉ cho nên nói có 2 loại Niết-bàn. Đây là khiến cho vượt qua 300 do-tuần. Lại nói “chỗ an trụ của các ông đã gần đến được trí tuệ Phật”, là khiến vượt ra khỏi 200 do-tuần nữa. Kinh văn rất rõ ràng, không phải nhọc công nghi hoặc.

Lại cũng nêu rõ Nhị thừa có 6 nghĩa tương đồng và 10 nghĩa khác biệt.[52] [Sáu nghĩa tương đồng là:]

- Thứ nhất, đồng thoát ra ngoài ba cõi;

- Thứ hai, đồng chứng tận [trí] và vô sanh [trí];

- Thứ ba, đồng dứt hết phiền não;

- Thứ tư, đồng chứng đạt Niết-bàn hữu dư, vô dư;

- Thứ năm, đồng đạt nhất thiết trí;[53]

- Thứ sáu, đồng một danh xưng là Tiểu thừa.

- Do những tương đồng như trên nên hợp làm một hóa thành.

Nghĩa khác biệt mở ra có 10 nghĩa:

- Thứ nhất, tu hành gieo nhân đã lâu xa hoặc gần đây, như 60 kiếp hoặc 100 kiếp.

- Thứ hai, [Duyên giác] căn cơ nhanh nhạy, [Thanh văn] căn cơ trì độn hơn.

- Thứ ba, [Thanh văn] theo thầy được khai ngộ, [Duyên giác] riêng mình tự ngộ.

- Thứ tư, đều không còn lo buồn nhưng [Duyên giác như] xe hươu, [Thanh văn như] xe dê.

- Thứ năm, [Duyên giác duyên nơi] hình tướng [mà đạt ngộ], [Thanh văn duyên nơi giáo pháp được nghe mà đạt ngộ,] không nhờ duyên nơi hình tướng.

- Thứ sáu, [Thanh văn] quán lược [bốn chân đế], Duyên giác quán rộng [12 nhân duyên].

- Thứ bảy, [Thanh văn] có thể thuyết pháp [giúp người khác] chứng bốn quả thánh, [Duyên giác thậm chí] không thể thuyết pháp [giúp người khác] đạt noãn pháp.[54]

- Thứ tám, [Thanh văn] gặp Phật ra đời, [Duyên giác] không gặp Phật ra đời.

- Thứ chín, [Duyên giác] tu chứng nhanh chóng tức thời, [Thanh văn] tu chứng chậm chạp dần dần.

- Thứ mười, [Duyên giác] phần nhiều hiển lộ thần thông, ít thuyết pháp; Thanh văn không nhất định.

Trong thí dụ căn nhà đang cháy nêu 3 loại xe, nay trong thí dụ này là 200 do-tuần.[55] Ba hạng căn cơ đều ở trong căn nhà [ba cõi] bị lửa thiêu đốt. Ba hạng căn cơ đều mong cầu ra khỏi nên ví với 3 loại xe. Đối với con đường thành Phật xa xôi lâu dài thì cảnh giới Nhị thừa là đường xấu ác, cho nên nói còn 200 do-tuần cần phải lìa khỏi vượt qua. Phật thừa không phải là chướng ngại, cho nên chỉ nêu 200 do-tuần [này thôi].

[Hỏi:] Vì sao đối với phàm phu nói trừ bỏ ba, [ví như 300 do-tuần], đối với bậc thánh [Nhị thừa] nói trừ bỏ hai, [ví như 200 do-tuần]?

[Đáp:] Đây là cách nói để dẫn dắt sách tấn mà thôi. Chúng sanh được hóa độ [lên hàng Nhị thừa] còn ít, chúng sanh chưa được hóa độ [ở hàng phàm phu] thì nhiều.

[Hỏi:] Nếu vậy thì chưa trọn thành nghĩa rốt ráo?

[Đáp:] Con đường tu hành thành Phật tuy dài xa như đi qua muôn dặm, nhưng chỉ có 500 do-tuần [đầu tiên] là khó khăn, đoạn còn lại đều dễ dàng.

Hỏi: Nói 200 do-tuần là ví như khó khăn của hàng Nhị thừa; nói ba cõi [như 300 do-tuần] là khó khăn của hàng phàm phu. Vậy Bồ Tát có khó khăn chăng?

[Đáp:] Bồ Tát không xem [ba cõi như] nhà đang cháy là khó khăn, cho nên không mong cầu được xe mà vẫn thoát ra. [Hàng Nhị thừa] đã do mong cầu được xe nên mới thoát ra thì làm sao không bị chướng ngại bởi 200 do-tuần? Đại lược là như vậy.

Luận Đại [Trí độ], quyển 66 nói: “[Trong ví dụ này,] con đường nguy hiểm là chỉ cho hết thảy thế gian. Trong vòng 100 do-tuần là chúng sanh cõi Dục, 200 do-tuần là chúng sanh cõi Sắc, 300 do-tuần là chúng sanh cõi Vô sắc, 400 do-tuần là hàng Nhị thừa.” Nếu tính ngược lại thì còn phải đi 100 do-tuần là hàng Nhị thừa, còn 200 do-tuần là chúng sanh cõi Vô sắc, còn 300 do-tuần là chúng sanh cõi Sắc, còn 400 do-tuần là chúng sanh cõi Dục. Kinh này nêu rõ, vượt qua 500 do-tuần là Bồ Tát đạo, nếu hơn 500 do-tuần tức là thể nhập Phật đạo. Đại lược là như thế.

Các bậc thầy và kinh luận giải thích khác nhau như đã nêu trên. Nay dựa theo chính kinh này để phán xét, còn chịu quả báo trong ba cõi là [phạm vi] 300 do-tuần, cõi nước ngoài ba cõi là 400 do-tuần, cõi Thật báo là 500 do-tuần. Kinh văn phần sau nêu sự tương hợp với các thí dụ nói “biết rõ con đường sanh tử”. Sanh tử rõ ràng là chỉ nơi chốn, nhưng chỉ vì ý Phật khó nhận hiểu nên cần giảng rộng. Kiến hoặc là 100 do-tuần, 5 hạ kết[56] phân ra 200 do-tuần, 5 thượng kết[57] phân ra 300 do-tuần, trần sa hoặc là 400 do-tuần, vô minh hoặc là 500 do-tuần.

Kinh văn phần sau nêu sự tương hợp các thí dụ nói về phiền não như con đường “xấu ác đầy khó khăn nguy hiểm”, ý nghĩa tương đồng, phù hợp.

[Hành giả] nhập không quán có thể vượt qua 300 do-tuần, nhập giả quán có thể vượt qua 400 do-tuần, nhập trung quán có thể vượt qua 500 do-tuần.

Kinh văn phần sau nêu sự tương hợp với các thí dụ nói “biết rõ trên con đường nguy hiểm này có những chỗ nào thông suốt, những chỗ nào tắt nghẽn”, tức là cùng lúc rõ biết 2 loại nhân quả, ý nghĩa 500 do-tuần là tương ứng, phù hợp.

Ý thứ hai nói về “con đường nhiều nguy hiểm… …rất đáng sợ”, đây là ví cho nhân quả sanh tử. Phần đoạn và biến dịch là quả hiểm nạn, kiến hoặc với tư hoặc, 5 trụ địa phiền não[58] là nhân hiểm nạn. Do nhân và quả này cho nên nói là “đường nhiều nguy hiểm”. “Hoang vắng không người”, là nói đường đi có 2 loại, thứ nhất là xa xôi vắng vẻ nhưng có người để noi theo, thứ hai là [hoang vắng] không có người để noi theo. Đây là ví như trong sanh tử có Niết-bàn, trong phiền não có Bồ-đề, tuy là xa xôi vắng vẻ nhưng còn có người để noi theo. Nếu trong sanh tử không có Niết-bàn, trong phiền não không có Bồ-đề, như trong thuốc không có bệnh, trong bệnh không có thuốc, đó chính là “hoang vắng không người”, không có người để noi theo.

Ý thứ ba nói “có rất đông người”. Đây là ví cho những chúng sanh được các vị vương tử giáo hóa nhưng chưa được độ thoát.

Ý thứ tư nói “muốn vượt qua con đường nguy hiểm này”. Vì cầu đạt đến quả giác ngộ viên mãn[59] nên nói là “đến nơi có nhiều châu báu quý giá”.

Ý thứ năm nói “có một vị thầy dẫn đường”, tức là chỉ vị vương tử thứ 16. Mắt, tai thanh tịnh gọi là “thông minh”, ý thanh tịnh gọi là “sáng suốt”, nói chung là nghĩa 6 căn đều thanh tịnh. [Vị thầy dẫn đường có] trí, đây tức là “một tâm ba trí”.[60] Nói “sáng suốt” tức là đầy đủ 5 loại mắt.[61] Lại nữa, đủ ba minh[62] là sáng suốt, đủ mười lực[63] là thấu đạt.

Từ câu “hướng dẫn mọi người vượt qua con đường khó khăn này” trở đi là phân đoạn thứ hai, nêu thí dụ “dẫn đường”. Thí dụ này ý nghĩa tương đồng với sự vận dụng phương tiện cụ thể trong thí dụ căn nhà đang cháy [ở phẩm Thí dụ]. Nói chung, phần kinh văn này có 3 ý.

Ý thứ nhất nêu thí dụ “dẫn dắt đông người”, ví cho việc thuở xưa vốn đã kết duyên với những người chưa được độ, duyên xưa chẳng mất đi nên nay được gặp thầy dẫn dắt. Thí dụ này tương đồng với trong phẩm Thí dụ ở trước nói khi căn nhà bốc cháy, ông trưởng giả nhìn thấy lửa thì kinh sợ, cũng tương đồng với trong phẩm Phương tiện [đức Phật] nhìn thấy [thế gian với] 5 sự uế trược mà khởi tâm đại bi.

Ý thứ hai nêu thí dụ “giữa đường nản chí thối lui”, ví cho việc ở phần trên nói trong khoảng thời gian ở giữa [thầy trò] gặp lại nhau, có những người thối tâm Đại thừa, vị thầy liền dùng Tiểu thừa dẫn dắt. Thí dụ này tương đồng với trong thí dụ căn nhà bốc cháy [trong phẩm Thí dụ], [ông trưởng giả] không dùng đến thân mạnh tay khỏe mà [dẫn dụ bằng cách] khen ngợi 3 loại xe là hiếm có, cũng tương đồng với trong phẩm Phương tiện nói ý nghĩa Phật dừng việc giáo hóa bằng Đại thừa, nghĩ đến việc vận dụng phương tiện.

KINH VĂN

Khi ấy, vị thầy dẫn đường biết mọi người đều đã được nghỉ ngơi, không còn quá mệt mỏi nữa, liền làm cho tòa thành biến mất rồi nói với mọi người: ‘Các người nên đi tới nữa, chỗ có châu báu cũng gần đây. Tòa thành lúc nãy chỉ là do ta biến hóa ra để các người tạm nghỉ ngơi mà thôi.’

Ý thứ ba từ câu “Khi ấy, vị thầy dẫn đường biết mọi người đều đã được nghỉ ngơi…” trở đi, nêu thí dụ “diệt hóa thành dẫn đến bảo sở”, ví cho việc ở phần trên nói “rồi lại vì họ thuyết kinh Pháp hoa”, “liền triệu tập các vị Bồ Tát và chúng Thanh văn để thuyết giảng kinh này”. Thí dụ này tương đồng với thí dụ căn nhà đang cháy [trong phẩm Thí dụ nói việc] ông trưởng giả ban cho các con cùng một loại xe lớn, cũng tương đồng với trong phẩm Phương tiện nói ý “Chính thức bỏ phương tiện, chỉ thuyết đạo Vô thượng.”

Phần phân chia kinh văn đã xong, tiếp theo đây là phần giải thích.

Về ý thứ nhất nói “dẫn dắt đông người”, theo nghĩa chung là chỉ cho đại chúng đã từng kết duyên [với Phật]. Nếu xét theo nghĩa riêng thì những người thuở xưa nhận được sự lợi ích của Đại thừa, xem như việc dẫn dắt đã xong. Những người chưa được sự lợi ích của Đại thừa mới chính là những người ngày nay được dẫn dắt. Nếu dựa theo [trong phẩm Thí dụ thì đó là] 500 người [trong căn nhà bốc cháy] và 30 người con [của ông trưởng giả], chính là những người chưa được khai ngộ.

Về ý thứ hai “giữa đường nản chí thối lui”, tức là thí dụ thứ hai. Kinh văn lại có 2 tiểu ý, thứ nhất là thối tâm Đại thừa, thứ hai là được dẫn dắt bằng Tiểu thừa. “Thối tâm Đại thừa” là noi theo phần trước nói dừng việc giáo hóa Nhất thừa, “dẫn dắt bằng Tiểu thừa” là noi theo phần trước nói thiết lập ba thừa.

Tiểu ý thứ nhất nói “thối tâm Đại thừa” lại có 3 điều. Thứ nhất nói “giữa đường nản chí thối lui”, tức là noi theo phần trước nói không có cơ duyên Đại thừa. Thứ hai là “thưa với vị thầy”, tức là noi theo phần trước nói “chúng sanh không nhận lời khuyên bảo khuyến khích”. Nói rằng “chúng tôi mệt mỏi quá rồi” tức là không nhận lời khuyên bảo khuyến khích, nói “lại thêm sợ hãi” tức là không nhận lời khuyên răn. Thứ ba là “không thể nào đi tiếp được nữa”, tức là noi theo phần trước nói “dừng việc giáo hóa”.

Phần phân chia kinh văn [của tiểu ý thứ nhất] đã xong, tiếp theo đây là phần giải thích [các điều].

Điều thứ nhất nói “giữa đường”, không phải là đến một nửa đường gọi là “giữa đường”, mà chỉ lấy lúc phát tâm là đầu tiên, cho đến khi thành Phật là cuối cùng, giữa hai thời điểm này khởi lên ý thối lui cho nên gọi là “giữa đường”.

Điều thứ hai nói “thưa với vị thầy”, là nghĩa tự mình có vị đạo sư từ bi thông thạo đường lối. Như trong kinh văn nói “có một vị thầy dẫn đường thông minh sáng suốt, hướng dẫn mọi người vượt qua con đường khó khăn” chính là ý này.

- Tự mình sẵn có vị đạo sư đã kết duyên từ trước. Như trong kinh văn nói “những người được dẫn đi ấy, đến giữa đường thì nản lòng, thưa với vị thầy…” chính là ý này.

- Tự mình có vị đạo sư với trí tuệ quyền biến. Như kinh văn nói “vị thầy dẫn đường vốn có nhiều phương tiện” chính là ý này.

- Tự mình có vị đạo sư với trí tuệ chân thật. Như kinh văn nói “vị thầy dẫn đường biết mọi người đều đã được nghỉ ngơi…” chính là ý này.

Nay nói “thưa với vị thầy” chính là nói thưa với vị thầy kết duyên. Vì những người ấy thối tâm Đại thừa tức là pháp Đại thừa mất đi, được dẫn dắt bằng Tiểu thừa tức là pháp Tiểu thừa khởi sanh. Một pháp sanh một pháp diệt, chiêu cảm nơi pháp thân nên gọi là “thưa với”. Vị vương tử [thứ 16] rõ biết sự thối tâm Đại thừa của những người này, tức là nghe được lời thưa của họ. Căn lành nhỏ yếu lại bị vô minh che lấp, cho nên nói là “mệt mỏi quá rồi”; kinh sợ sanh tử cho nên nói là “lại thêm sợ hãi”.

Điều thứ ba nói “không thể nào đi tiếp được nữa”. Nói “đường phía trước vẫn còn xa” nghĩa là kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc và vô minh hoặc khó có thể tức thời đoạn dứt. Nhưng dùng pháp Tiểu thừa để dẫn dắt, không để cho phải quay lại chốn cũ thì cũng có nghĩa là đi tiếp.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Vị thầy dẫn đường vốn có nhiều phương tiện…” trở đi, nói nghĩa dùng pháp Tiểu thừa để dẫn dắt. Phần trước trong thí dụ căn nhà đang cháy [ở phẩm Thí dụ] và trong phẩm Phương tiện nói việc mở bày giáo pháp ba thừa pháp, đều có 4 ý. Trong tiểu ý này cũng có đủ 4 điều.

- Thứ nhất nói “có nhiều phương tiện” là nghĩa dự tính [sự giáo hóa] thích hợp.

- Thứ hai từ câu “vị thầy… nghĩ rằng” trở đi, xót thương những người này bỏ mất “châu báu quý giá”, ví cho việc chỉ biết có Tiểu thừa mà chẳng biết còn có Đại thừa.

- Thứ ba từ câu “Nghĩ như vậy rồi…” trở đi, nói việc “biến hóa ra một tòa thành”, là ví cho việc chính thức dùng phương tiện [dắt dẫn].

- Thứ tư từ câu “Bấy giờ, những người mệt mỏi kia...” trở đi, nói việc mọi người vào thành, ví cho sự chứng ngộ thể nhập ba thừa.

Hai điều thứ nhất và thứ hai có thể y theo kinh văn mà hiểu được. Điều thứ ba nói việc tạo ra hóa thành lại chia làm hai. Trước là biến hóa tạo ra, sau là nói về sự biến hóa.

Từ câu “dùng sức phương tiện…” trở đi là nói biến hóa tạo ra. Từ câu “rồi nói với mọi người” trở đi là nói về sự biến hóa đó.

Phần trước trong thí dụ cho xe, [ông trưởng giả] nói rằng: “Ta vì các con mà tạo ra những xe này.” Nay tòa thành là pháp có, cho nên trước tiên phải tạo ra.

Nói thí dụ hóa thành là noi theo các nghĩa ở phần trước gồm khuyến chuyển, thị chuyển và chứng chuyển. “Các người đừng sợ hãi, đừng quay trở lại”, đó là khuyến chuyển, làm cho tiến tới phía trước mà vào thành. “Nay có tòa thành lớn kia, có thể nghỉ ngơi trong đó, tùy ý muốn làm gì cũng được.” Đây chính là thị chuyển, nói thành này “có thể nghỉ ngơi trong đó”. “Nếu vào thành ấy sẽ được vui thích an ổn.” Đây chính là chứng chuyển, ngợi khen xưng tán sự an ổn trong thành.

“Nếu muốn đi tiếp đến chỗ có châu báu thì cũng có thể rời đi”, đây là nói trong Tạng giáo chưa bàn đến việc tu tiến hơn nữa.

Có thuyết giải thích rằng, đây là lời nói trong thời thuyết giáo pháp ba thừa, ý nói nếu phát tâm Đại thừa cầu thành Phật thì tốt, nhưng nếu như không thể được vậy thì ở hàng Nhị thừa cũng tốt.

Theo như trong kinh Thắng Man thì ngay cả nghiệp ban sơ của ba thừa cũng không ngu muội không biết pháp [Đại thừa], thảy đều tự rõ biết mình có thể thành Phật, chỉ do quá chán sợ [sanh tử] không kham chịu nổi cho nên mới chọn sự tịch diệt vĩnh viễn. Nếu giải thích như trên thì thành Biệt giáo.

Lại có thuyết nói rằng, [dụng ý là] khiến cho vào hóa thành, rồi sau đó lại đi tiếp về phía trước. Trong Đại phẩm [Bát-nhã] và kinh Tịnh Danh đều có ý này. Đây chính là ý nghĩa dùng Biệt giáo dẫn tiếp Thông giáo.

Tuy nhiên ở đây là thời gian trước khi Phật còn chưa khai thị trừ bỏ [ba thừa], hiển bày [nhất thừa], chưa đủ sáng tỏ để hiểu theo ý này. Nếu như bàn về đời quá khứ thì mới có thể nói như vậy. Vì sao? Vì [khi ấy] đã rõ ràng biết được tâm ý thối thất Đại thừa [trong thính chúng]. Vương tử khi giáo hóa có thể dạy rằng: “Các người nếu sợ sanh tử, cũng có thể tạm chứng Niết-bàn [Tiểu thừa] để nghỉ ngơi, sau đó nếu muốn tiếp tục tu hành đạo Đại thừa cũng có thể tùy ý.”

Lại cũng như người thời nay muốn học pháp Đại thừa mà kinh sợ sanh tử nên muốn thối tâm, liền có người khuyên rằng: “Ông hãy tạm thời dứt trừ phiền não, chứng quả A-la-hán, rồi sau muốn tu tập Đại thừa cũng có thể được.”

Còn như ngày nay đức Phật giáo hóa một lần chưa xong thì không thể bỗng dưng nói ra lời như vậy. Nếu là lúc khai thị trừ bỏ pháp quyền thừa, hiển bày pháp chân thật thì có thể nói như vậy. Như trong thời thuyết giáo pháp Niết-bàn, những vị chứng quả A-la-hán đều là hợp với ý nghĩa này.

“Hết sức vui mừng” tức là [ví cho việc được] văn tuệ, “chưa từng có” tức là được noãn vị, “đã thoát khỏi con đường nguy hiểm” tức là được đảnh vị, “được vui thích an ổn” tức là được nhẫn vị, “vào tòa thành” tức là đạt đến giai vị kiến đế, “tưởng rằng mình đã qua” tức là đạt đến giai vị vô học. Chỗ này ý nghĩa tương đồng với trong thí dụ căn nhà bốc cháy [ở phẩm Thí dụ] nói những người con thấy “hợp với ý thích, tất cả đều hết sức nhanh chóng thúc đẩy chen lấn, tranh nhau cùng chạy nhanh ra khỏi căn nhà đang cháy”. “Tưởng rằng mình đã qua” là giống như đạt được tận trí, nghĩ rằng “được vui thích an ổn” là giống như đạt được vô sanh trí. Lại nữa, đầy đủ trí đức là như “đã qua”, chứng được đoạn đức là như “an ổn”.

Có người giải thích về “chỗ nhiều châu báu quý giá”, nói rằng vượt qua ba cõi và các giai vị Nhị thừa là đến Phật đạo. Phật đạo đó chính là “chỗ nhiều châu báu”.

Kinh Đại Bát Niết-bàn có 3 cách nói. Thứ nhất là đạt đến tâm Bồ-đề, thứ hai là đạt đến Bồ-đề và thứ ba là đến cửa Niết-bàn. Nếu đạt đến tâm Bồ-đề thì tất nhiên sẽ đến Bồ-đề và đến Niết-bàn. Nay dẫn 3 cách nói này có nghĩa rằng, đạt đến tâm Bồ-đề là nói đạt đến nhân, đạt đến Bồ-đề và Niết-bàn là nói đạt đến quả. Trong quả lại có trí tuệ và đoạn trừ, Bồ-đề tức là quả trí tuệ, Niết-bàn là quả đoạn trừ. Vì nói đầy đủ từ trước đến sau, nói đầy đủ trí và đoạn, cho nên [kinh văn] có 3 cách nói như vậy.

Nhưng [thí dụ] “vượt qua 500 do-tuần” lại có 3 nghĩa. Thứ nhất là thoát khỏi, vượt qua con đường nguy hiểm xấu ác, thứ hai là đến được con đường tốt đẹp, thứ ba là đến chỗ có nhiều châu báu. [Thứ nhất,] phát tâm Bồ-đề nghĩa là qua khỏi con đường nguy hiểm xấu ác. [Thứ hai,] tu hành đạo Bồ-đề ví như con đường bằng phẳng tốt đẹp. Thứ ba là đạt đến Phật đạo, ví như đến được chỗ nhiều châu báu.

Kinh văn phần sau nói: “Nay thuyết pháp chân thật: ‘Các ông chưa diệt độ.’”[64] Đây chính là nêu rõ việc vượt qua con đường nguy hiểm xấu ác dài 500 do-tuần. Kinh nói: “Muốn thành Phật toàn trí, phải hết sức tinh tấn.” Đây là nói phải đi theo con đường Bồ-đề tốt đẹp. Lại cũng nói: “Nếu được Nhất thiết trí, Mười lực, các pháp Phật…” Đó là nói đạt được Phật đạo.

Vì sao cần phải vượt qua 500 do-tuần? Đó là nói hàng Nhị thừa ví như vượt qua 300 do-tuần, Bồ Tát vượt qua 400 do-tuần, Phật thừa là vượt qua 500 do-tuần.

Ý thứ ba từ câu “Khi ấy, vị thầy dẫn đường biết…” trở đi, nói việc diệt mất hóa thành và dẫn dắt đến chỗ có nhiều châu báu. Kinh văn phần này có 2 tiểu ý. Thứ nhất là biết [mọi người] đã nghỉ ngơi xong, thứ hai là hướng về chỗ có nhiều châu báu. Vì đã nghỉ ngơi nên không còn mệt mỏi, ví với phần trước nói đến lúc [Phật sắp nhập] Niết-bàn, đại chúng lại thanh tịnh. Thoát khỏi khổ nạn là cơ duyên Đại thừa khởi phát, liền diệt mất hóa thành để dẫn dắt hướng đến chỗ có nhiều châu báu. Đây là ví với phần trước nói việc thuyết giảng kinh Pháp hoa, chỉ bày tướng chân thật.

“Chỗ có nhiều châu báu” có 2 ý nghĩa. Nếu dùng nghĩa rốt ráo thì quả vị rốt ráo cuối cùng là “chỗ có nhiều châu báu”. Như kinh văn phần trước nói: “Chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến chỗ rốt ráo.” Nếu dùng nghĩa thể nhập một phần thì ban sơ phát tâm Bồ-đề đã là ở nơi chỗ nhiều châu báu. Cho nên kinh văn phần trước nói: “Bao nhiêu báu vô thượng, không cầu tự nhiên được.” Lại nói: “Có phần trong pháp Phật.” Và: “Những gì hàng con Phật cần phải đạt được thì nay chúng con đều đã đạt được.”

Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: Hàng Tu-đà-hoàn qua 80.000 kiếp thì đến. “Đến” tức là đến chỗ phát tâm Bồ-đề. Đây là nói theo kẻ căn cơ trì độn, cần phải nỗ lực qua 80.000 hoặc 10.000 kiếp… mới đến. Nếu như là những người chứng 4 quả thánh trong Tạng giáo thì không cần trải qua thời gian ngắn đều đã thể nhập Đại thừa, lẽ nào phải cần đến 80.000 hay 10.000 kiếp? Đại lược là như vậy.

“Chỗ có châu báu cũng gần đây. Tòa thành lúc nãy chỉ là do ta biến hóa ra…” Tức là nêu ra thí dụ để nói việc trừ bỏ pháp quyền thừa, để thuận hợp theo thí dụ hiển bày chân thật. [Kinh văn] phần trước nói: “Trí tuệ của Như Lai thật khó tin, khó hiểu.” [Và nói:] “Những người này nên dùng pháp như thế để dần dần từng bước thể nhập Phật đạo.” Đây là noi theo trong phẩm Phương tiện nói: “Ta dạy cho thoát khổ, nhưng chưa được Niết-bàn.” [Lại cũng nói:] “Phật dùng sức Phương tiện, tạm bày ra ba thừa.”

Các nhà cựu giải đặt câu hỏi: “[Kinh văn nêu] 3 loại xe [trong phẩm Thí dụ] và hóa thành [trong phẩm này] đều là dụ cho trí tuệ vô sanh [của Nhị thừa].[65] Vì sao xe lại không nhìn thấy mà thành thật có hiện ra?[66] Lại nữa, xe thì có 3 mà thành chỉ có 1, xe động mà thành tĩnh, là những ý nghĩa gì?

Đáp: Ông trưởng giả nói “ngoài cửa có xe”, vì có ngăn cách nên các con không nhìn thấy được, do đó có thể giả thiết cho rằng ngoài cửa có xe, dù thật không có xe. Thành thì nổi lên trên đất trống, không thể chỉ giả thiết là có cho nên thành phải hiện ra thật có. Dựa theo lý và giáo mà nói, chấp nơi giáo pháp ba thừa để cầu lý thì cả ba thừa đều được lý. Đây là nghĩa “có”, cũng như thành là có. Nếu theo lý đó mà cầu giáo pháp, lý vốn chỉ có một thì giáo đó tức là không, quả của ba thừa là nghĩa xe, dựa trên “không”.

Về nghĩa xe có 3, thành chỉ có 1, là vì mọi người cùng dừng nghỉ một chỗ, cho nên chỉ có 1 thành; xe thì dựa theo người trong ba thừa, người trong ba thừa ưa thích không giống nhau, cho nên có 3 loại xe. Dựa theo lý và giáo mà nói thì ba thừa đạt đến tận trí và vô sanh trí đều chẳng khác nhau, giống như một thành. Người trong ba thừa tuy đều dứt hết phiền não chánh sử nhưng phiền não tập khí thì có người dứt hết, có người chưa dứt hết; lại có người gần đạt được tri kiến, có người không đạt được tri kiến, cho nên khi dùng những phẩm tính này để trang nghiêm tận trí và vô sanh trí thì ý nghĩa không tương đồng, cũng như 3 loại xe khác nhau. Lại khi người trong ba thừa đạt đến tận trí và vô sanh trí, nêu rõ nhân đã dứt thì quả không còn. Đây là chỗ tột cùng, ví như thành tĩnh; tận trí và vô sanh trí vận hành, thể nhập Niết-bàn vô dư, ví như xe động. Những điều chất vấn đại lược là như vậy.

Nay nêu rõ nghĩa, nếu dựa theo tâm chúng sanh thì xe và thành đều là có; dựa theo trí tuệ Phật mà nói thì cũng có, cũng không; dựa theo trí quyền thừa mà xét thì là có, ví như thành; dựa theo trí chân thật mà xét thì là không, ví như xe. Đại lược là như thế.

Ý nghĩa chính của [thí dụ] hóa thành là vì người thối tâm Đại thừa mà chấp nhận Tiểu thừa, bên cạnh đó là thương xót những người đang học Tiểu thừa. Hai vòng thuyết pháp[67] trong kinh văn ở trước thì ý nghĩa chính là vì thương xót những người đang học Tiểu thừa, bên cạnh đó là vì người thối tâm Đại thừa. Thí dụ ba loại xe vận dụng cho cả thuở xưa và ngày nay; thí dụ hóa thành chính là ý giáo hóa dẫn dắt, vì chưa đạt đến đạo [Đại thừa] nên là hóa tác.

Hỏi: [Thí dụ] hóa ra 3 loại xe so với hóa thành có gì khác nhau?

Đáp: [Thí dụ] ba loại xe là [Phật dùng] thuyết pháp luân tạo ra; [thí dụ] hóa thành là [Phật dùng] thần thông luân tạo ra.[68] Lại nữa, ba xe là dựa vào âm thanh mà nêu ra trong thí dụ, những người con nghe biết nhưng không nhìn thấy; thành là hình sắc tạo ra trong thí dụ, [được nhìn thấy].

Hỏi: [Thí dụ hóa] thành so với [thí dụ] 2 người được [ông trưởng giả] sai đi [trong phẩm Tin hiểu] thì thế nào?

Đáp: Người được sai đi [ví cho] khả năng dẫn dắt chỉ bày, giống như giáo pháp dùng để chuyển tải chân lý. Thành là để ngăn dứt mối lo khổ nạn. Giáo pháp là động, thành là tĩnh.

Giáo pháp tức là bốn chân đế, 12 duyên, nên có khác biệt. Thành tức là 2 trí [quyền, thật], thể nhập [Niết-bàn] vô dư không có khác biệt.

Giáo pháp gồm thông cả nhân lẫn quả; thành và ba xe [trong thí dụ] chỉ ví nơi quả, [không nói nhân].

Giáo pháp gồm thông cả [2 pháp] hữu vi và vô vi; thành và ba xe [trong thí dụ] chỉ [có nghĩa] vô vi, [không nói hữu vi].

Theo trí quyền thừa thì nói ba xe là không, gọi là chỉ do giáo pháp bày ra thí dụ. Theo trí chân thật thì nói ba xe là có, vì không lìa văn tự mà nói giải thoát.

Dùng trí quyền thừa soi chiếu thì thành là có, vì dẫn dắt chúng sanh; dùng trí chân thật soi chiếu thì thành là không, vì lẽ chân thiên lệch thì chẳng phải thật.

Cho nên trí quyền thừa soi chiếu thấy xe là ba, vì hợp với cơ duyên ba thừa; trí chân thật soi chiếu thấy xe là một, vì cùng quy về Nhất thừa.

Trí quyền thừa soi chiếu thấy thành là một, vì là lẽ chân thiên lệch; trí chân thật soi chiếu thấy thành là ba, vì đó là Như Lai Tạng. Trí quyền thừa soi chiếu thấy thành là tĩnh, vì là hủy thân diệt trí;[69] trí chân thật soi chiếu thấy thành là động, vì diệt mất sự hóa hiện đó.

Trí quyền thừa soi chiếu thấy xe là vận động, vì vận động để thể nhập [Niết-bàn] vô dư; trí chân thật soi chiếu thấy xe là tĩnh lặng, vì không dao động, không ra khỏi.

Giải thích như vậy, đâu lẽ nào lại giống với các nhà cựu giải? Các nhà cựu giải khi giải thích ý nghĩa chỉ dựa vào [giáo pháp] Tiểu thừa mà thôi.

Hỏi: [Kinh này có] 5 chỗ nêu việc khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển lộ Nhất thừa, có khác biệt gì chăng?

Đáp: Luận theo nghĩa chung thì không khác, nhưng xét theo nghĩa riêng thì có khác biệt.

Trong phẩm Phương tiện thì dựa vào giáo nghĩa để khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa. Kinh văn nói: “Như Lai chỉ dùng một Phật thừa vì chúng sanh thuyết pháp, không có thừa nào khác như Nhị thừa, Tam thừa.”

[Trong phẩm Thí dụ thì nêu thí dụ] căn nhà bốc cháy là dựa vào thực hành để khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa. Xe là nghĩa vận chuyển, vận chuyển là thí dụ sự thực hành. Kinh văn nói: “Mỗi người đều đi trên một cỗ xe lớn.” Lại nói: “Ngồi trên cỗ xe quý, dạo chơi khắp bốn phương, cùng chơi đùa vui thích…”

Trong phẩm Tin hiểu thì dựa vào con người để khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa. Kết lại cuối cùng [trong thí dụ thì] người cùng khổ làm thuê chính là con của ông trưởng giả. [Kinh văn nói:] “Chúng con từ xưa nay vốn thật sự là con của đức Như Lai.”

Trong phẩm Thí dụ Cỏ thuốc thì dựa vào sự khác biệt và không khác biệt để nêu rõ [hai pháp] quyền và thật, không nhắm đến việc lấy hay bỏ mà chỉ nêu việc chúng sanh không biết nên đức Phật giúp cho rõ biết. Nếu 7 hạng phương tiện có sự khác biệt liền rõ biết đó là pháp quyền, nếu cùng y theo một lý không khác biệt liền rõ biết đó là pháp thật. Khác biệt tức là không khác biệt, không khác biệt mà khác biệt. [Mục đích của thí dụ trong phẩm này là] làm cho rõ biết ý nghĩa như vậy mà thôi, rốt cùng cũng không hề nói là có Nhất thừa hay không có Nhất thừa. Đây là dựa theo việc tự thực hành trí quyền thừa và trí chân thật, tùy tự ý [đức Phật] nói ra. Cho nên, Phật có khả năng rõ biết mà chúng sanh thì không biết. Ý nghĩa này cũng gồm thông với phần trước và phần sau, [nghĩa là] dựa vào chỗ rõ biết hay không rõ biết mà phân biệt giữa quyền và thật.

Trong phẩm Thí dụ Hóa thành này thì dựa vào lý để khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa. Chỗ có nhiều châu báu (bảo sở) và hóa thành đều là dựa vào 2 lý Tiểu thừa và Đại thừa. Phá trừ lý hóa [thành] của Nhị thừa là hiển bày một lý bảo sở chân thật. Trong kinh văn phần sau, 500 vị đệ tử khi trình bày sự nhận hiểu của mình nêu lên thí dụ hạt châu [giấu bên trong áo], cũng là dựa vào lý.

KINH VĂN

“Này các tỳ-kheo! Đức Như Lai cũng giống như vậy, nay vì các ông làm vị thầy lớn dẫn đường, biết rõ con đường sanh tử phiền não xấu ác đầy khó khăn nguy hiểm, dằng dặc xa xôi cần phải tiến bước vượt qua. Nếu như chúng sanh chỉ được nghe duy nhất về Phật thừa, ắt sẽ không muốn gặp Phật, không muốn gần gũi mà tự nghĩ rằng: ‘Con đường thành Phật xa xôi dằng dặc, phải chuyên cần chịu nhiều khó nhọc mới có thể thành tựu.’

Tiểu đoạn thứ hai, từ câu “Này các tỳ-kheo! Đức Như Lai cũng giống như vậy…” trở đi nêu sự tương hợp với các thí dụ. [Tiểu đoạn này có 2 phân đoạn,] trước tiên nêu nghĩa tương hợp, sau đó nêu các thí dụ thuận hợp. Tuy nhiên, phần này không trình bày theo thứ tự [như phần trước].

[Phân đoạn thứ nhất,] từ câu “Đức Như Lai cũng giống như vậy…” trở đi.

Ý thứ nhất tương hợp với ý thứ năm ở phần trước nêu thí dụ về vị thầy dẫn đường.

Ý thứ hai từ câu “Nay vì các ông…” trở đi, tương hợp với ý thứ ba ở phần trước nêu thí dụ “có rất đông người”.

Ý thứ ba từ câu “biết rõ con đường sanh tử phiền não…” trở đi, tương hợp với ý thứ hai ở phần trước nêu thí dụ về con đường hiểm ác.

Ý thứ tư nói “dằng dặc xa xôi” là tương hợp với ý thứ nhất ở phần trước nêu thí dụ “con đường dài 500 do tuần”.

Ý thứ năm nói “cần phải tiến bước vượt qua” là tương hợp với nghĩa phần trước nói “thông minh sáng suốt”, lại cũng là tương hợp với ý thứ tư phần trước nói “muốn vượt qua con đường ấy để đến nơi có nhiều châu báu quý giá”.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Nếu như chúng sanh chỉ được nghe…” trở đi, tương hợp với thí dụ “dẫn đường” ở phần trước. Phần thí dụ ở trước có 3 ý, phần này cũng tương hợp đủ 3 ý.

Ý thứ nhất nói “Nếu như chúng sanh…” là tương hợp với ý thứ nhất ở phần trước, nói về những người được dẫn dắt đi.

Ý thứ hai từ câu “chỉ được nghe duy nhất về Phật thừa…”, tương hợp với ý thứ hai ở phần trước nêu thí dụ về việc thối tâm Đại thừa, [được thầy dùng] Tiểu thừa để dẫn dắt.

Ý thứ ba từ câu “Nếu chúng sanh dừng trụ nơi địa vị Nhị thừa…” trở đi, tương hợp với ý thứ ba ở phần trước, nêu thí dụ “diệt mất hóa thành, dẫn đến nơi có nhiều châu báu”.

Thí dụ trong ý thứ hai ở phần trước chia thành 2 tiểu ý, nêu việc thối tâm Đại thừa và được dẫn dắt bằng Tiểu thừa. Trong phần này nêu nghĩa tương hợp có đủ 2 tiểu ý.

Tiểu ý thứ nhất, theo phần trên nêu nghĩa thối tâm Đại thừa có 3 điều.

Thứ nhất, “chỉ được nghe duy nhất về Phật thừa” là tương hợp với phần trước nói “giữa đường nản lòng muốn thối lui”, hàm ý không có cơ duyên [Đại thừa].

Thứ hai, “chẳng muốn gặp Phật, chẳng muốn gần gũi”, tương hợp với phần trước nói “thưa với vị thầy”, hàm ý là không nhận pháp khuyên răn.

Thứ ba, “mà tự nghĩ rằng”, tương hợp với phần trước nói “không thể nào đi tiếp được nữa”, hàm ý [đức Phật] dừng sự giáo hóa [bằng Đại thừa].

KINH VĂN

Đức Phật biết rõ tâm ý yếu ớt thấp hèn của chúng sanh như vậy, nên dùng sức phương tiện, vì muốn tạo một chỗ dừng nghỉ ở giữa đường mà thuyết dạy có Niết-bàn Nhị thừa. Nếu chúng sanh dừng trụ ở địa vị Nhị thừa, đức Như Lai liền vì họ mà dạy rằng: ‘Chỗ tu tập của các ông chưa trọn đủ, nhưng chỗ dừng trụ của các ông đã đến gần trí tuệ Phật rồi, nên phải quán sát suy lường rằng Niết-bàn mà các ông đạt được đó chẳng phải là chân thật. Đó chỉ là do sức phương tiện của Như Lai, từ nơi một Phật thừa mà phân biệt thuyết dạy thành ba thừa.’

“Cũng như vị thầy dẫn đường kia, vì muốn tạo chỗ tạm nghỉ mà biến hóa ra tòa thành lớn. Khi thấy mọi người đã được nghỉ ngơi rồi, liền bảo họ: ‘Chỗ có châu báu cũng gần đây, tòa thành này không hề có thật, chỉ do ta biến hóa tạo ra mà thôi.’”

Tiểu ý thứ hai từ câu “Đức Phật biết rõ tâm ý…”, tương hợp với phần trước nói nghĩa “dùng Tiểu thừa dẫn dắt”. Phần trước vốn có 4 điều, trong phần này [gộp lại] tương hợp thành 3 điều.

Điều thứ nhất nói “Đức Phật biết rõ tâm ý…” là tương hợp với điều thứ nhất phần trước nói “vị thầy dẫn đường vốn có nhiều phương tiện…”, noi theo ý [đức Phật] dự định dùng Tiểu thừa là thích hợp [trong phẩm Phương tiện]. Điều thứ hai nói “yếu ớt thấp hèn…” là tương hợp với điều thứ hai phần trước nói “những người này thật đáng thương…”, [noi theo ý [đức Phật] rõ biết [chúng sanh] có căn cơ Tiểu thừa [trong phẩm Phương tiện]. Điều thứ ba nói “vì muốn tạo một chỗ dừng nghỉ ở giữa đường…” là tương hợp với phần trước ở điều thứ ba nói “biến hóa ra một tòa thành” và điều thứ tư nói “mọi người… vào tòa thành”, tức là ý nghĩa “ở giữa đường mà thuyết dạy có Niết-bàn Nhị thừa”.

Khi lậu hoặc phiền não trong ba cõi đã dứt, khi vô minh hoặc và trần sa hoặc chưa phá trừ, [đức Phật] đối với 2 cột mốc ấy mà dạy rằng có Niết-bàn hữu dư và Niết-bàn vô dư, cũng chính là Niết-bàn của hàng Thanh văn và Niết-bàn của hàng Duyên giác.

Lại nữa, sanh tử phần đoạn đã dứt, sanh tử biến dịch còn chưa trừ, trong khoảng giữa 2 loại sanh tử ấy mà dạy rằng có Niết-bàn hữu dư và Niết-bàn vô dư, cho nên nói là “ở giữa đường”. Đại lược là như vậy.

Ý thứ ba từ câu “Nếu chúng sanh dừng trụ ở địa vị Nhị thừa…” trở đi, tương hợp với ý thứ ba phần trước nói thí dụ “dẫn đến chỗ có nhiều châu báu”. Kinh văn phần trước có 2 tiểu ý, phần này cũng tương hợp đủ 2 tiểu ý.

Tiểu ý thứ nhất là câu “Nếu chúng sanh dừng trụ ở địa vị Nhị thừa”, tương hợp với phần trước nói “biết mọi người đều đã được nghỉ ngơi”. Câu “Đức Như Lai liền vì họ mà dạy rằng…” trở đi là tương hợp với phần trước nói “hướng đến chỗ có nhiều châu báu”.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Cũng như vị thầy dẫn đường kia”, là lặp lại thí dụ để chỉ rõ sự tương hợp. Lặp lại thí dụ dẫn dắt người thối tâm Đại thừa, tương hợp với ý khai thị trừ bỏ ba thừa; lặp lại thí dụ diệt mất hóa thành, tương hợp với ý hiển bày Nhất thừa. Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được. Đại lược là như thế.

Kệ tụng

Phần kệ tụng thứ hai có 49 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa phần [kinh văn trường hàng] ở phần trước. Kinh văn trường hàng có 2 đoạn, [phần kệ tụng này cũng chia làm 2 đoạn.] Đoạn thứ nhất có 22 khổ rưỡi kệ, tụng lại nguyên do kết duyên trong kinh văn trường hàng. Đoạn thứ hai có 27 khổ kệ, tụng lại nội dung chính của sự kết duyên trong kinh văn trường hàng.

KINH VĂN

Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Phật Đại Thông Trí Thắng,
Mười kiếp ngồi đạo trường,
Pháp Phật chẳng hiện ra,
Chưa trọn thành Phật đạo.

Chư thiên, thần, long vương,
Với chúng a-tu-la,
Thường mưa xuống hoa trời,
Để cúng dường Phật ấy.

Chư thiên đánh trống trời,
Cùng diễn xướng âm nhạc,
Gió thơm cuốn hoa héo,
Lại thay bằng hoa tươi.

Trải qua mười tiểu kiếp,
Mới thành tựu quả Phật,
Chư thiên và loài người,
Đều vui mừng phấn khích.

Mười sáu người con Phật,
Cùng quyến thuộc vây quanh,
Số lượng ngàn muôn ức,
Cùng đi đến chỗ Phật.

Đầu mặt lễ sát chân,
Thỉnh Phật chuyển pháp luân.
“Đại Thánh ban mưa pháp,
Thấm nhuần khắp chúng sanh.”

Đoạn thứ nhất trong kinh văn trường hàng nói nguyên do kết duyên có chia ra 2 tiểu đoạn nói nguyên do gần và nguyên do xa, nay trong kệ tụng thì tiểu đoạn thứ nhất gồm 12 khổ kệ đầu tụng lại nguyên do xa. Tiếp đến từ câu “Thế Tôn Vô Lượng Tuệ” trở đi là tiểu đoạn thứ hai gồm 10 khổ rưỡi kệ, tụng về nguyên do gần.

Tiểu đoạn nói về nguyên do xa ở trước có 2 phân đoạn, [nay phần kệ tụng này cũng chia làm 2]. Phân đoạn thứ nhất gồm 6 khổ kệ đầu tiên, tụng việc đức Phật Đại Thông [Trí Thắng] thành đạo. Phân đoạn thứ hai gồm 6 khổ kệ tiếp theo, tụng về việc các vị Phạm thiên trong khắp mười phương đến thỉnh Phật chuyển pháp luân.

Phân đoạn nói việc Phật Đại Thông thành đạo ở trước có 5 ý, [phần kệ tụng này chỉ có 3 ý]. Ý thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng lại ý thứ hai ở trước, nói việc trước khi Phật thành đạo. Ý thứ hai từ câu “Trải qua mười tiểu kiếp” trở đi có 1 khổ kệ, tụng lại ý thứ ba ở trước, về nội dung chính của việc Phật thành đạo. Ý thứ ba từ câu “Mười sáu người con Phật” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng lại ý thứ năm ở trước, nói việc 16 vị vương tử thỉnh chuyển pháp luân, cũng gồm cả ý thứ tư nói việc sau khi Phật thành đạo rồi quyến thuộc đến cúng dường. Phần kệ tụng này lược bớt không tụng lại ý thứ nhất ở trước, nói về tuổi thọ lâu dài của Phật.

KINH VĂN

Thế Tôn rất khó gặp,
Lâu xa mới ra đời,
Vì giác ngộ chúng sanh,
Gây chấn động khắp thảy.

Các thế giới phương đông,
Năm trăm muôn ức nước,
Cung Phạm thiên rực sáng,
Xưa nay chưa từng có.

Các Phạm vương thấy vậy,
Tìm đến đạo tràng Phật,
Rải hoa trời cúng dường,
Rồi dâng cúng cung điện.

Thỉnh Phật chuyển pháp luân,
Và đọc kệ xưng tán.
Phật biết chưa phải lúc,
Nhận lời nhưng ngồi yên.

Ba phương chính, bốn phụ,
Phương trên, dưới cũng vậy,
Rải hoa, dâng cung điện,
Thỉnh Phật chuyển pháp luân.

Thế Tôn rất khó gặp,
Nguyện dùng đại từ bi,
Rộng mở cửa cam lộ,
Chuyển Vô thượng pháp luân.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Thế Tôn rất khó gặp” trở đi, gồm 6 khổ kệ, tụng lại việc các vị Phạm thiên trong mười phương thỉnh Phật. Phân đoạn này ở phần trước có 2 ý, [kệ tụng cũng có 2]. Ý thứ nhất gồm 1 khổ kệ, tụng về hào quang nhiệm mầu chấn động [cung điện các cõi trời]. Ý thứ hai từ câu “Các thế giới phương đông” trở đi, gồm 5 khổ kệ, tụng về việc các vị Phạm thiên trong mười phương tìm theo ánh sáng mà đến [chỗ Phật]. Trong ý này, 3 khổ kệ trước tụng về phương đông, 2 khổ kệ sau tụng tổng quát về 9 phương [còn lại].

KINH VĂN

Thế Tôn Vô Lượng Tuệ,
Nhận bao lời thỉnh cầu,
Vì chúng sanh thuyết pháp:
“Bốn đế, mười hai duyên,
Vô minh đến già chết…
Đều duyên nhau mà có,
Từ đó sanh khổ não,
Các người nên rõ biết.”

Khi Phật thuyết pháp này,
Có sáu trăm muôn ức
Na-do-tha chúng sanh,
Dứt khổ thành La-hán.

Thuyết pháp lần thứ hai,
Chúng sanh nhiều như cát,
Của ngàn muôn sông Hằng,
Cũng thành A-la-hán.

Người đạt đạo về sau,
Nhiều không thể tính đếm,
Dù muôn kiếp tính toán,
Cũng không đếm hết được.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Thế Tôn Vô Lượng Tuệ” trở đi gồm 10 khổ kệ rưỡi, tụng về nguyên do gần. Trong kinh văn trường hàng, tiểu đoạn này có 2 phân đoạn. Nay trong kệ tụng thì 5 khổ kệ đầu là phân đoạn thứ nhất, tụng lại phân đoạn thứ nhất ở trước, nêu việc chuyển pháp luân với giáo pháp Nhị thừa. Tiếp theo, phân đoạn thứ hai từ câu “Mười sáu vị vương tử” trở đi gồm 5 khổ rưỡi kệ, tụng lại phân đoạn thứ hai ở trước, nêu việc thỉnh Phật một lần nữa, xin chuyển pháp luân với giáo pháp Đại thừa.

Phân đoạn thứ nhất ở trước có 3 ý, [kệ tụng cũng có đủ 3 ý]. Ý thứ nhất từ câu “Thế Tôn Vô Lượng Tuệ” trở đi gồm nửa khổ kệ, tụng lại ý thứ nhất ở trước nói việc [đức Phật] nhận lời thỉnh cầu. Ý thứ hai từ câu “Vì chúng sanh thuyết pháp” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý thứ hai ở trước, nêu nội dung chuyển pháp luân với giáo pháp Nhị thừa. Ý thứ ba từ câu “Khi Phật thuyết pháp này” trở đi gồm 3 khổ kệ, tụng lại ý thứ ba ở trước, nêu việc đại chúng nghe pháp đạt đạo.

KINH VĂN

Mười sáu vị vương tử,
Xuất gia thành sa-di,
Cùng nhau thỉnh nguyện Phật,
Thuyết giảng pháp Đại thừa.

“Chúng con và thị tùng,
Đều sẽ thành Phật đạo.
Nguyện được như Thế Tôn,
Mắt tuệ thanh tịnh nhất.”

Phật biết tâm con trẻ,
Cùng công hạnh đời trước,
Dùng vô số nhân duyên,
Và đủ mọi thí dụ,
Thuyết sáu ba-la-mật,
Cùng những việc thần thông.

Phân biệt pháp chân thật,
Công hạnh đạo Bồ Tát.
Thuyết kinh Pháp hoa này,
Hằng sa các bài kệ.

Phật ấy thuyết kinh rồi,
Vào tĩnh thất nhập định.
Nhất tâm ngồi an tịnh,
Tám mươi bốn ngàn kiếp.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Mười sáu vị vương tử” trở đi gồm 5 khổ rưỡi kệ, tụng lại việc các vương tử thưa thỉnh lần nữa, [xin Phật chuyển pháp luân]. Phân đoạn này trước có 7 ý, [nay chỉ tụng còn 5]. Ý thứ nhất gồm hai câu kệ, tụng lại ý thứ nhất ở trước, nói về việc các vị vương tử xuất gia. Ý thứ hai từ câu “cùng nhau thỉnh nguyện Phật” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý thứ hai ở trước, là nội dung thỉnh Phật chuyển pháp luân với giáo pháp Đại thừa. Ý thứ ba từ câu “Phật biết tâm con trẻ” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng về việc trong thời gian 20.000 kiếp từ thuở ấy đến nay thuyết các kinh Phương đẳng, Bát-nhã. Ý thứ tư từ câu “thuyết kinh Pháp hoa này” trở đi gồm nửa khổ kệ, tụng lại phần thứ tư ở trước nói việc Phật nhận lời thưa thỉnh thuyết giảng kinh Pháp hoa. Ý thứ năm từ câu “Phật ấy thuyết kinh rồi” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại ý thứ bảy ở trước, Phật thuyết kinh xong rồi nhập định.

[Như vậy, phần kệ tụng này] lược bớt không tụng lại ý thứ ba nói 80.000 người đi theo đức vua đều xin xuất gia; ý thứ năm nói đại chúng nghe thuyết kinh có người hiểu, có người không hiểu; ý thứ sáu nói thời gian thuyết giảng kinh lâu dài.

KINH VĂN

Mười sáu vị sa-di,
Biết Phật chưa xuất định,
Liền vì vô số chúng,
Thuyết trí tuệ Vô thượng.

Mỗi vị đều lên tòa,
Thuyết kinh Đại thừa này.
Từ sau Phật nhập định,
Thuyết pháp giúp giáo hóa.

Mỗi một vị sa-di,
Hóa độ số chúng sanh,
Rất nhiều như số cát,
Sáu triệu ức sông Hằng.

Sau khi Phật nhập diệt,
Những người đã nghe pháp,
Thường nơi các cõi Phật,
Được sanh ra cùng thầy.

Đoạn thứ hai từ câu “Mười sáu vị sa-di” trở đi gồm 27 khổ kệ, tụng vào nội dung kết duyên. Kinh văn phần trước có 2 tiểu đoạn, phần này cũng vậy. Tiểu đoạn thứ nhất gồm 8 khổ kệ tụng lại nghĩa thuyết chánh pháp. Tiểu đoạn thứ hai gồm 19 khổ kệ, tụng về thuyết thí dụ.

Tiểu đoạn thuyết chánh pháp ở trước có 3 phân đoạn, [kệ tụng cũng có 3]. Phân đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng lại phân đoạn thứ nhất ở trước nói về sự kết duyên từ thuở xưa. Phân đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ, tụng lại phân đoạn thứ hai ở trước, nêu việc trong khoảng thời gian từ thuở ấy đến nay [thầy trò vẫn thường] gặp lại nhau. Phân đoạn thứ ba gồm 4 khổ kệ, tụng lại phân đoạn thứ ba ở trước nêu việc ngày nay lại cũng thuyết kinh Pháp hoa.

Phân đoạn thứ nhất ở trước có 4 ý, [kệ tụng chỉ có 3]. Ý thứ nhất gồm nửa khổ kệ tụng về việc Phật nhập định. Ý thứ hai từ câu “Liền vì vô số chúng” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng vào việc [các vị sa-di] giảng lại [kinh Pháp hoa]. Ý thứ ba từ câu “Mỗi một vị sa-di” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại việc nghe thuyết pháp được lợi ích. [Như vậy, phần kệ tụng] lược bớt không tụng ý thứ tư ở trước nói việc đức Phật ra khỏi thiền định rồi ngợi khen tán thán các vị sa-di].

Phân đoạn thứ hai từ câu “Sau khi Phật nhập diệt” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại việc trong khoảng thời gian từ thuở ấy đến nay [thầy trò] vẫn thường gặp lại nhau.

KINH VĂN

Mười sáu sa-di này,
Tu hành trọn Phật đạo,
Nay ở trong mười phương,
Đều trọn thành Chánh giác.

Người nghe pháp thuở ấy,
Nay đều sanh chỗ Phật.
Có người trụ Thanh văn,
Dần dần học Phật đạo.

Ta là một trong số
Mười sáu vị thuyết pháp,
Cho nên dùng phương tiện,
Dẫn vào trí tuệ Phật.

Nhân duyên xưa như vậy,
Nay thuyết kinh Pháp hoa,
Khiến cho vào Phật đạo,
Đừng ôm lòng kinh sợ.

Phân đoạn thứ ba từ câu “Mười sáu sa-di này” trở đi gồm 4 khổ kệ, tụng việc ngày nay lại thuyết kinh Pháp hoa. Kinh văn ở trước phần này có 2 ý. Ý thứ nhất nói việc tương đồng giữa thuở xưa với ngày nay, trong đó có hiện tại, có tương lai. Trong kệ tụng thì ý này gồm 3 khổ kệ, nói tóm lại về các vị thầy và đệ tử trong hiện tại. Ý thứ hai từ câu “Nhân duyên xưa như vậy” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng về việc lại thuyết kinh Pháp hoa. Kinh văn trường hàng ở trước phần này có 3 tiểu ý, [kệ tụng chỉ có 2]. Tiểu ý thứ nhất có 1 câu kệ, tụng lại tiểu ý thứ nhất ở trước, nói việc đại chúng khi ấy thanh tịnh. Do nhân duyên thuở xưa như vậy nên ngày nay đại chúng tránh được các nan xứ,1 cơ duyên [Đại thừa] khởi phát. Tiểu ý thứ hai từ câu “Nay thuyết kinh Pháp hoa” trở đi, tụng lại tiểu ý thứ hai ở trước, nói việc vì [đại chúng] thuyết kinh này. [Như vậy, phần kệ tụng này] lược bớt không tụng lại tiểu ý thứ ba ở trước giải thích ý nghĩa việc khai thị trừ bỏ ba thừa.

KINH VĂN

Như đường xa nguy hiểm,
Vắng vẻ, nhiều thú dữ,
Lại không cỏ, không nước,
Người người đều kinh sợ.

Vô số muôn ngàn người,
Muốn qua đường hiểm này,
Mà đường quá xa xôi,
Đến năm trăm do tuần.

Có vị thầy dẫn đường,
Biết nhiều, có trí tuệ,
Tâm sáng suốt, quả quyết,
Đưa cả đoàn vượt nguy.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Như đường xa nguy hiểm” trở đi có 19 khổ kệ, [gồm 2 phân đoạn], tụng lại các phần nêu thí dụ và tương hợp thí dụ. Phân đoạn thứ nhất có 11 khổ rưỡi kệ, tụng lại nghĩa nêu thí dụ. Phân đoạn thứ hai có 7 khổ rưỡi kệ, tụng lại nghĩa tương hợp các thí dụ. Phân đoạn thứ nhất trong kinh văn phần trước có 2 ý, [kệ tụng cũng có 2]. Ý thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng lại về thí dụ [con đường] 500 do tuần. Ý thứ hai gồm 8 khổ rưỡi kệ, tụng về thí dụ có vị thầy sẽ dẫn mọi người đi.

Ý thứ nhất nêu thí dụ con đường 500 do-tuần, trong kinh văn ở trước có 5 tiểu ý, [kệ tụng chỉ có 4]. Tiểu ý thứ nhất gồm 1 khổ kệ, tụng lại tiểu ý thứ hai ở trước nói về con đường nguy hiểm đáng sợ. Tiểu ý thứ hai từ câu “Vô số muôn ngàn người” trở đi gồm nửa khổ kệ, tụng lại tiểu ý thứ ba ở trước, nói “có rất nhiều người”. Tiểu ý thứ ba từ câu “mà đường quá xa xôi” trở đi, gồm nửa khổ kệ, tụng lại tiểu ý thứ nhất ở trước nói về con đường dài 500 do-tuần. Tiểu ý thứ tư [gồm 1 khổ kệ,] câu “Có vị thầy dẫn đường” tụng lại tiểu ý thứ năm ở trước, nói về vị thầy dẫn đường; và từ câu “Biết nhiều, có trí tuệ” trở đi gồm 3 câu, tụng về [vị thầy] “thông minh sáng suốt”. [Như vậy, phần kệ tụng này] không tụng lại tiểu ý thứ tư ở trước.

KINH VĂN

Mọi người đều mệt mỏi,
Nên thưa với vị thầy:
“Chúng tôi đều quá mệt,
Đến đây xin quay về.”

Thầy dẫn đường tự nghĩ:
“Những người này đáng thương,
Vì sao lại muốn về,
Bỏ mất đi châu báu?”

Liền nghĩ cách phương tiện,
Phải dùng sức thần thông,
Hóa ra tòa thành lớn,
Nhiều nhà cửa rộng rãi,
Bao quanh có vườn cảnh,
Có kênh ngòi, ao tắm,
Cửa nhiều lớp, lầu cao,
Trai gái đều đông vui.

Hóa hiện như thế rồi,
Bảo mọi người: “Đừng sợ,
Các người vào thành này,
Đều tùy ý vui chơi.”

Mọi người vào thành rồi,
Trong lòng rất mừng vui,
Đều cho là an ổn,
Tự nghĩ: Đến nơi rồi!

Ý thứ hai từ câu “Mọi người đều mệt mỏi” trở đi, gồm 8 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý thứ hai ở trước, nêu thí dụ về việc vị thầy sắp dẫn mọi người đi. Kinh văn phần trước có 3 tiểu ý, phần kệ tụng này cũng có 3. Hai chữ “mọi người” là tụng lại tiểu ý thứ nhất ở trước, nói việc sắp dẫn [mọi người] đi. Từ cụm chữ “đều mỏi mệt” trở đi là tiểu ý thứ hai, gồm 3 chữ với 3 câu và 5 khổ kệ, tụng lại tiểu ý thứ hai ở trước nêu thí dụ mọi người đều mỏi mệt thối chí, [vị thầy dẫn đường liền] quyền biến hóa ra tòa thành. Tiểu ý thứ ba từ câu “Thầy biết nghỉ ngơi xong” trở đi, gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại tiểu ý thứ ba ở trước, nêu thí dụ về diệt mất hóa thành, dẫn dắt đến chỗ có nhiều châu báu.

Tiểu ý thứ hai trong kinh văn ở trước có 2 điều. Thứ nhất là nêu sự mỏi mệt thối chí, thứ hai là nêu sự dẫn dắt với người thối chí. Nay trong phần kệ tụng này cũng vậy. Điều thứ nhất gồm 3 chữ và 3 câu tụng lại ý mỏi mệt thối chí. Điều thứ hai gồm 5 khổ kệ, tụng lại ý tạo ra hóa thành để dẫn dắt người thối chí.

Điều thứ nhất nêu sự mỏi mệt thối chí, kinh văn phần trước có 3 khoản, kệ tụng ở đây lược bớt không tụng khoản thứ nhất nói ý “giữa đường”, [chỉ còn 2 khoản].

Điều thứ hai nêu ý tạo ra hóa thành để dẫn dắt, nay tụng lại đầy đủ 4 khoản như trong kinh văn trường hàng.

Khoản thứ nhất gồm 1 khổ kệ, tụng lại khoản thứ hai ở trước, nói việc vị thầy xót thương [những người thối chí, ví như] bỏ mất Đại thừa.

Khoản thứ hai từ câu “Liền nghĩ cách phương tiện” gồm 2 câu, tụng lại khoản thứ nhất trong kinh văn trường hàng ở trước, nói việc [vị thầy dẫn đường] khởi lên ý nghĩ.

Khoản thứ ba từ câu “Hóa ra tòa thành lớn” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại khoản thứ ba ở trước, nêu việc tạo ra hóa thành. Kinh văn phần trước chia ra 2 tiểu khoản, [kệ tụng cũng vậy].

+ Tiểu khoản thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại thí dụ [mô tả] việc tạo tác hóa thành. Nói “nhiều nhà cửa” là cảnh giới quán không; nói “vườn cảnh” là pháp tổng trì vô lậu của Nhị thừa; 9 pháp định tuần tự theo thứ lớp là “kênh ngòi”;[70] 8 giải thoát2 là “ao tắm”; “cửa nhiều lớp” là 3 cửa Không, cũng là trùng không tam muội;1 tận trí và vô sanh trí là “lầu cao”; trai, gái là định và tuệ.

Giải thích theo quán tâm thì thể của trí tuệ rộng khắp như hào sâu quanh thành; pháp lành trọn vẹn đầy đủ như tường thành bao quanh; pháp không rốt ráo là nhà; chánh trực hiền thiện có khả năng thành tựu pháp tự hành, ví như người con trai có thể gánh vác việc nhà; từ bi giáo hóa bên ngoài, ví như người con gái về làm dâu nhà khác.

+ Tiểu khoản thứ hai từ câu “Hóa hiện như thế rồi” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại ý nói về hóa thành ở trước.

Khoản thứ tư từ câu “Mọi người vào thành rồi” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại khoản thứ 4 trong kinh văn trường hàng ở trước nói việc “vào thành”.

KINH VĂN

Thầy biết nghỉ ngơi xong,
Gọi tất cả đến nói:
“Mọi người nên đi tới,
Đây chỉ là hóa thành.

Thấy mọi người mệt mỏi,
Giữa đường muốn thối lui,
Nên ta dùng phương tiện,
Biến hóa ra thành này.

Hãy tinh tấn chuyên cần,
Cùng đến chỗ châu báu.”

Tiểu ý thứ ba từ câu “Thầy biết nghỉ ngơi xong” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại tiểu ý thứ ba ở trước về việc diệt mất hóa thành, dẫn dắt đến nơi có nhiều châu báu. Kinh văn ở trước thì tiểu ý này có 2 điều. [Nay trong kệ tụng thì] điều thứ nhất nói vị thầy biết mọi người đã nghỉ ngơi rồi. Điều thứ hai từ câu “Gọi tất cả đến nói” trở đi gồm có 1 câu và 2 khổ kệ, tụng lại về việc diệt mất hóa thành và dẫn dắt hướng đến nơi có nhiều châu báu.

KINH VĂN

Như Lai cũng như vậy,
Dẫn đường cho chúng sanh,
Thấy những người cầu đạo,
Giữa đường muốn thối lui,
Không thể vượt qua hết,
Đường sanh tử, phiền não,
Nên dùng sức phương tiện,
Thuyết Niết-bàn Nhị thừa,
Nói rằng: “Đã dứt khổ,
Việc cần làm đã xong.”

Phân đoạn thứ hai từ câu “Như Lai cũng như vậy”, gồm 7 khổ rưỡi kệ, tụng lại phân đoạn thứ hai trong kinh văn trường hàng ở trước, [chia thành 2 ý] nói nghĩa tương hợp với 2 thí dụ. Ý thứ nhất gồm nửa khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với thí dụ thứ nhất về [con đường dài] 500 do-tuần. Ý thứ hai gồm 7 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với thí dụ thứ hai nói việc vị thầy dẫn đường sắp dẫn mọi người đi.

Kinh văn phần trước nói nghĩa tương hợp với thí dụ con đường dài 500 do-tuần có 4 tiểu ý, phần kệ tụng này có nửa khổ kệ, chỉ tụng lại tổng quát mà thôi.

[Trong ý thứ hai, tiểu ý thứ nhất] từ câu “Thấy những người cầu đạo” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với thí dụ về sự mỏi mệt thối chí.

Phần trước khi tụng việc nêu thí dụ không tụng lại ý “giữa đường”, trong phần này [tiểu ý thứ nhất] có 1 khổ kệ tương hợp với ý “giữa đường mỏi mệt thối chí”. Tiểu ý này [gồm 2 khổ kệ, chia ra 2 điều]. [Điều thứ nhất gồm] 1 khổ kệ tụng ý tương hợp với nghĩa giữa đường thối chí. [Điều thứ hai gồm] 1 khổ kệ tụng ý tương hợp với việc tạo ra hóa thành để dẫn dắt những người thối chí.

KINH VĂN

Được Niết-bàn ấy rồi,
Đều thành A-la-hán,
Phật liền họp đại chúng,
Thuyết dạy pháp chân thật.

Sức phương tiện chư Phật.
Phân biệt nói ba thừa,
Thật chỉ một Phật thừa,
Nói hai để tạm dừng.

Nay thuyết pháp chân thật:
“Các ông chưa diệt độ.”
Muốn thành Phật toàn trí,
Phải hết sức tinh tấn.

Nếu được Nhất thiết trí,
Mười lực, các pháp Phật…
Đủ ba mươi hai tướng,
Mới chân thật diệt độ.

Phật là thầy dẫn đường,
Thuyết Niết-bàn giả tạm,
Để nghỉ ngơi xong rồi,
Dẫn vào trí tuệ Phật.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Được Niết-bàn ấy rồi” trở đi gồm 5 khổ kệ, tụng lại tiểu ý thứ hai ở trước tương hợp với nghĩa diệt hóa thành dẫn dắt đến chỗ có nhiều châu báu. Kinh văn phần trước có 2 nghĩa tương hợp, phần này [có 3 điều,] cũng tụng lại đủ 2 nghĩa.

Điều thứ nhất gồm nửa khổ kệ, tụng lại ý [vị thầy dẫn đường] biết mọi người đã nghỉ ngơi xong.

Điều thứ hai từ câu “Phật liền họp Đại chúng” trở đi gồm 3 khổ rưỡi kệ, tụng lại điều thứ hai ở trước tương hợp với nghĩa diệt mất hóa thành, dẫn dắt hướng đến chỗ có nhiều châu báu. Trong phần kệ tương hợp với nghĩa “diệt hóa thành” này có ngầm chứa đủ tam đức [của chư Phật].[71] “Nếu được Nhất thiết trí” tức là Bát-nhã đức; “Đủ ba mươi hai tướng” tức là Pháp thân đức; “Mới chân thật diệt độ” tức là Giải thoát đức. Ba pháp này không hạn cuộc trong không gian và thời gian, tức là thấy tánh Phật.

[Điều thứ ba] từ câu “Phật là thầy dẫn đường” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng tóm lại nghĩa tương hợp.[72]

____________________


CHÚ THÍCH

[1] Ý nghĩa này tương hợp với việc người chứng quả A-la-hán, tức Niết-bàn của Nhị thừa, là đã dứt trừ được tất cả kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi.

[2] Nguyên tác dùng “三達 - tam đạt”, tức là tam minh (三明), chỉ 3 năng lực siêu việt của chư Phật, bao gồm túc mệnh minh (宿命明), thiên nhãn minh (天眼明) và lậu tận minh (漏盡明). Với túc mệnh minh, chư Phật có thể rõ biết về quá khứ của chúng sanh trong một đời cho đến vô số đời trước.

[3] Nguyên tác là “五百四十萬億那由他劫 - ngũ bá tứ thập vạn ức na-do-tha kiếp”, nếu theo các giá trị đã biết mà tính ra thì là 540 tỷ na-do-tha-kiếp, vì mỗi muôn là 10.000, mỗi ức là 100.000, nên một muôn ức là một tỷ. Tuy nhiên, những cách mô tả như thế này trong kinh điển chỉ nên hiểu theo nghĩa biểu trưng hơn là sự tính đếm chính xác, do đó chúng tôi giữ nguyên cách diễn đạt của Nguyên tác mà không tính ra cụ thể. Na-do-tha cũng là một số đếm nhưng giá trị không được xác định rõ, có nhiều tư liệu nói khác nhau, hoặc bằng 100.000, hoặc bằng một triệu, cũng có chỗ nói là mười triệu.

[4] Nguyên tác là “ 四王諸天 - Tứ vương chư thiên”, chỉ Tứ thiên vương (四天王), cũng được gọi là Tứ vương thiên (四王天), là bốn vị Hộ thế Thiên vương (護世四天王) thường hộ trì bốn cõi thiên hạ ở bốn phương đông tây nam bắc. Đó là Trì quốc Thiên vương (持國天王) ở phương đông, Tăng trưởng Thiên vương (增長天王) ở phương nam, Quảng mục Thiên vương (廣目天王) ở phương tây và Đa văn Thiên vương (多聞天王) ở phương bắc.

[5] Nguyên tác dùng Phạm cung (梵宮), tức chỉ cung điện của vị Phạm thiên vương.

[6] Tên đầy đủ là Quá khứ hiện tại nhân quả kinh (過去現在因果經), Trong Đại Chánh tạng, Tập 3, số 189. Phần nội dung trích dẫn ở đây bắt đầu từ trang 624, tờ b, dòng 29.

[7] Nguyên tác dùng “三千國土 - tam thiên quốc độ” thật ra là cách nói tắt của “三千大千國土 - tam thiên đại thiên quốc độ”, chỉ tất cả các cõi nước trong một thế giới đại thiên. Chữ “tam thiên” mang ý nghĩa “3 lần số ngàn” chứ không phải chỉ 3.000 cõi nước, do một thế giới đại thiên được hình thành bởi 3 lần số ngàn: 1.000 thế giới là 1 thế giới tiểu thiên, 1.000 thế giới tiểu thiên là 1 thế giới trung thiên, 1.000 thế giới trung thiên là 1 thế giới đại thiên. Đây là cách nhận hiểu về vũ trụ được phổ biến trong nhiều kinh điển.

[8] Mô tả này tương ứng với đoạn này trong kinh Pháp hoa: “Trong các cõi nước ấy, những nơi tối tăm ánh sáng mặt trời mặt trăng không soi chiếu đến thì nay đều sáng rực. Những chúng sanh nơi ấy đều nhìn thấy nhau, liền nói rằng: ‘Ở nơi đây sao bỗng dưng lại sanh ra chúng sanh!’”

[9] Chỗ này Văn Cú chỉ trích lại giản lược nên không rõ nghĩa. Nguyên văn trong kinh Quá khứ hiện tại nhân quả là: “菩薩晨朝於母胎中,為色界諸天,說種種法。至日中時,為欲界諸天,亦說諸法。晡時,又復為諸鬼神說法。於夜三時,亦復如是。 - Bồ Tát thần triêu ư mẫu thai trung vị Sắc giới chư thiên thuyết chủng chủng pháp; chí nhật trung thời vị Dục giới chư thiên diệc thuyết chư pháp; bô thời hựu phục vị chư quỷ thần thuyết pháp; ư dạ tam thời diệc phục như thị.” (Bồ Tát vào buổi sáng ở trong thai mẹ mà vì chư thiên cõi Sắc thuyết đủ mọi giáo pháp; đến giữa ngày lại vì chư thiên cõi Dục thuyết giảng các giáo pháp; buổi chiều lại vì các quỷ thần mà thuyết pháp; suốt 3 thời trong đêm cũng thuyết pháp như vậy.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 3, số 189, trang 624, tờ c, dòng 20-23.

[10] Hai chân đế hay nhị đế, chỉ không đế và giả đế, 2 sự thật được người tu tập quán chiếu để hướng đến sự giải thoát.

[11] Ba chân đế hay tam đế, chỉ không đế, giả đế và trung đế.

[12] Trong Nguyên tác kinh văn sử dụng thay đổi nhiều cách gọi tên khác nhau như Phạm thiên, Phạm thiên vương, Đại phạm thiên vương, nhưng tất cả đều chỉ đến vị thiên chủ của mỗi thế giới. Vị này được xem là người đứng đầu trong thế giới nên cũng gọi là Thế chủ thiên. Kinh văn đang nói đến 500 muôn ức cõi nước về phương đông, nên ở đây được hiểu là có 500 muôn ức vị Phạm thiên vương cùng hội họp. Chúng tôi sẽ chuyển dịch nhất quán danh xưng này là Phạm thiên vương để người đọc dễ nhận hiểu.

[13] Nguyên tác dùng “今佛 - kim Phật” (Phật ngày nay), tức chỉ đức Phật Thích-ca Mâu-ni vào thời điểm thuyết kinh Pháp hoa, vì đang so sánh với Phật quá khứ được nhắc đến là đức Phật Đại Thông Trí Thắng.

[14] Nguyên tác dùng “具轉五味法輪 - cụ chuyển ngũ vị pháp luân”, chỉ việc đức Phật Thích-ca đã thuyết giảng đủ 5 tầng bậc giáo pháp được ví như 5 vị của sữa, bao gồm các thời Hoa nghiêm (như vị sữa tươi), thời A-hàm (như vị sữa đặc), thời Phương đẳng (như vị váng sữa sanh tô), thời Bát-nhã (như vị váng sữa thục tô) và cuối cùng là thời Pháp hoa - Niết-bàn (như vị đề hồ).

[15] Nguyên tác dùng “滿教 - mãn giáo”, tức giáo pháp viên mãn, tức giáo pháp rốt ráo, không phải pháp quyền thừa. Pháp quyền thừa không rốt ráo, chưa viên mãn, ở đây được gọi là “半教 - bán giáo”.

[16] Nguyên tác dùng “對半明滿 - đối bán minh mãn”, nghĩa là so sánh chỉ rõ sự khác biệt giữa giáo pháp Tiểu thừa và giáo pháp Đại thừa, cũng thường được giải thích là chê trách pháp Tiểu thừa để làm sáng tỏ pháp Đại thừa.

[17] Nguyên tác là “帶半明滿 - đái bán minh mãn”, hàm ý vẫn giữ pháp quyền thừa không viên mãn và tiếp tục giảng rõ về giáo pháp viên mãn. Đây là giai đoạn hành giả trong ba thừa cùng tu học, mỗi hạng căn cơ tu tập theo pháp môn của mình.

[18] Nguyên tác là “三轉十二行法輪 - tam chuyển thập nhị hành pháp luân”, “thập nhị hành” nói đủ là thập nhị hành tướng (十二行相). “Tam chuyển” là 3 lần chuyển, tức 3 lần chỉ dạy, ở đây là chỉ dạy về 4 chân đế. Lần thứ nhất là “thị chuyển”, tức là chỉ dạy cho biết về ý nghĩa của 4 chân đế: đây là khổ v.v.; lần thứ hai là “khuyến chuyển”, tức là khuyên bảo, khuyến khích nên thực hành tu tập quán chiếu về 4 chân đế: đây là khổ, nên rõ biết v.v.; lần thứ ba là “chứng chuyển”, tức là chứng nghiệm thực sự: đây là khổ, đã chứng biết v.v. Vì mỗi chân đế đều có đủ 3 hành tướng là thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển, nên Phật thuyết dạy đầy đủ 4 chân đế là gồm 12 hành tướng.

[19] Ba minh (三明 - tam minh), bao gồm túc mệnh minh (宿命明), thiên nhãn minh (天眼明) và lậu tận minh (漏盡明), tức là ba sự sáng suốt rõ biết của bậc giác ngộ.

[20] Sáu thần thông (六通 - lục thông), bao gồm thần túc thông (神足通), thiên nhãn thông (天眼通), thiên nhĩ thông (天耳通), tha tâm thông (他心通), túc mạng thông (宿命通), và lậu tận thông (漏盡通), tức là 6 năng lực siêu nhiên của bậc giác ngộ.

[21] Tám môn giải thoát (八解脫 - bát giải thoát), còn gọi là tám sự buông xả (八背捨 - bát bội xả), là tám phép thiền định giải thoát, bao gồm: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Ở trong sắc giới, quán nội sắc và ngoại sắc, nhằm trừ bỏ tâm ham thích sắc thể; 2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Không quán nội sắc, quán ngoại sắc, nhận ngoại sắc là ô nhiễm; 3. Tịnh thân tác chứng cụ túc tác giải thoát: Quán tưởng về thanh tịnh nhưng không chấp giữ; 4. Không vô biên xứ giải thoát: Vượt qua sắc thể, quán tưởng rằng hư không là vô biên; 5. Thức vô biên xứ giải thoát: Đạt đến ý niệm thức là vô biên; 6. Vô sở hữu xứ giải thoát: Đạt địa vị trong tâm không còn gì; 7. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát: Đạt đến mức định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; 8. Diệt tận định giải thoát: Đạt mức định Diệt thọ tưởng xứ.

[22] Nguyên tác dùng “半字 - bán tự”, lấy ý trong kinh Đại Bát Niết-bàn để chỉ giáo pháp chưa rốt ráo, giáo pháp quyền thừa chưa viên mãn, cho nên cũng đồng nghĩa với “bán mãn” được dùng ở đoạn trước.

[23] Tam tuệ tức là văn tuệ (trí tuệ do nghe pháp), tư tuệ (trí tuệ do suy ngẫm pháp) và tu tuệ (trí tuệ do tu tập, thực hành pháp).

[24] Chân lý được đề cập trong 4 giai đoạn “nhãn, trí, minh, giác” này là chỉ 4 chân đế: khổ, tập, diệt, đạo.

[25] 48 pháp, hay 48 trí, tức là dựa theo 4 chân đế để lần lượt quán chiếu 12 nhân duyên, nhờ đó mà khởi sanh 48 trí.

[26] Giải thích về 16 tâm này ở đây có vẻ như dựa vào luận Câu-xá (阿毘達磨俱舍論 - A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận), quyển 23, được kể ra chi tiết bao gồm: 1. Khổ pháp trí nhẫn; 2. Khổ pháp trí; 3. Tập pháp trí nhẫn; 4. Tập pháp trí; 5. Diệt pháp trí nhẫn; 6. Diệt pháp trí; 7. Đạo pháp trí nhẫn; 8. Đạo pháp trí; 9. Khổ loại trí nhẫn; 10. Khổ loại trí; 11. Tập loại trí nhẫn; 12. Tập loại trí; 13. Diệt loại trí nhẫn; 14. Diệt loại trí; 15. Đạo loại trí nhẫn; 16. Đạo loại trí. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 29, số 1558.)

[27] Nguyên tác Văn Cú dùng “Đại Phẩm”, ở đây chỉ Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật kinh (摩訶般若波羅蜜經), quyển 6. Phẩm Phát thú (發趣品) là phẩm thứ 20.

[28] Luận Nhiếp Đại thừa (攝大乘論), 2 quyển, Luận sư A-tăng-già, Phật-đà-phiến-đa Hán dịch. Xem Đại Chánh tạng Tập 31, kinh số 1592.

[29] Tức A-tì-đàm bát kiền độ luận (阿毘曇八犍度論), 30 quyển, Luận sư Ca-chiên-diên Tử, Tăng-già-đề-bà và Trúc Phật Niệm Hán dịch. Phần nói đến 6 pháp đầy đủ (lục túc - 六足) nằm trong quyển 24. Xem Đại Chánh tạng, Tập 26, kinh số 1543, trang 887, tờ a, dòng 22.

[30] Chữ ba-la-mật (波羅蜜) hay ba-la-mật-đa (波羅蜜多) vốn phiên âm từ Phạn ngữ pāramitā, thường được dịch nghĩa là “đáo bỉ ngạn” (sang bờ bên kia), nhưng cũng mang nghĩa “trọn vẹn, đầy đủ, hoàn hảo”. Do vậy cũng được dịch là “事究竟 - sự cứu cánh” nghĩa là hoàn tất sự việc một cách rốt ráo, mỹ mãn. Anh ngữ dịch chữ này là “perfection”, tương đương ý nghĩa này.

[31] Bảo Vân Kinh (寶雲經), 7 quyển, Mạn-đà-la-tiên Hán dịch vào đời Lương, thuộc Đại Chánh tạng, tập 16, kinh số 658.

[32] Nguyên tác dùng “毘尼 - Tì-ni”, phiên âm từ chữ Vinaya trong Phạn ngữ, chỉ Luật tạng, cũng đọc là Tỳ-nại-da (毗奈耶).

[33] Về ý nghĩa câu này, Văn Cú Ký giải thích là nêu giới luật để chứng tỏ ba thừa cũng tương thông về “sự”, vì ở trên đã chứng minh là tương thông về “lý”.

[34] Bốn kiến chấp: ở đây chỉ thân kiến, biên kiến, tà kiến và giới cấm thủ kiến.

[35] Nguyên tác dùng “子果 - tử quả”, chỉ quả báo của 5 uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thứ). Do phiền não trong quá khứ mà có quả báo trong hiện tại, do phiền não trong hiện tại mà phải chịu quả báo trong tương lai.

[36] Nguyên tác Văn Cú dùng “俱解脫- câu giải thoát”, là trường hợp giải thoát khác với “慧解脱 - tuệ giải thoát”. Nhờ năng lực của định và tuệ mà dứt trừ hết phiền não, đạt được giải thoát, nên gọi là “câu giải thoát”. Trong trường hợp của tuệ giải thoát thì hành giả chỉ vận dụng trí tuệ để đạt đến sự tự tại vô ngại đối với chướng ngại phiền não.

[37] Nguyên tác là “入靜室 - nhập tĩnh thất”, chữ tĩnh là yên tĩnh, tĩnh lặng.

[38] Từ ý thứ nhất đến ý thứ bảy, Văn Cú không có sự phân chia rõ ràng nên trong khi chuyển dịch chúng tôi đã dựa theo nội dung mà thêm vào cho rõ nghĩa.

[39] Nguyên tác là “示教利喜 - thị giáo lợi hỷ”, chỉ 4 giai đoạn tuần tự giáo hóa. Thị là chỉ bày, làm cho thấy biết, nhận hiểu; giáo là dạy dỗ, giảng giải phương pháp tu tập; lợi là nói lúc người tu tập đã đạt được lợi ích lớn lao từ sự tu tập, nên có ý nghĩa khuyến khích tiếp tục chuyên cần; hỷ là nói lúc người tu tập thành tựu nên đạt được niềm vui chân thật, tự chứng nghiệm được chánh pháp. Bốn giai đoạn này cũng được xem là tương đương với “tam chuyển pháp luân” (thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển), bởi vì thị tương đương với thị chuyển, giáo tương đương với khuyến chuyển, lợi và hỷ tương đương với chứng chuyển. Điểm chung của 2 cách hiểu này là đều giải thích việc giáo hóa thành các giai đoạn tuần tự.

[40] Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thường được nói ngắn gọn là phát tâm Bồ-đề, vì nói đủ như trong nguyên tác là “發阿耨多羅三藐三菩提心 - phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm”. A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề là phiên âm từ Phạn ngữ Anuttara-samyak-saṃbodhi, được dịch nghĩa là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

[41] Nguyên tác là “我於餘國作佛 - ngã ư dư quốc tác Phật”. Chữ “dư quốc” không chỉ “nước khác”, mà chỉ đến cảnh giới nằm ngoài ba cõi. Các vị Thanh văn khi chứng đắc Niết-bàn của Tiểu thừa thì đạt đến vô sanh, không còn tái sanh trong ba cõi. Do vậy, để giáo hóa những vị này đạt đến giác ngộ viên mãn, tức là thành tựu quả Phật, đức Phật thị hiện làm Phật ở cảnh giới nằm ngoài ba cõi (Dục, Sắc và Vô sắc) để thuyết giảng kinh Pháp hoa này cho những vị đã nhập Niết-bàn Tiểu thừa.

[42] Nguyên tác dùng “餘國 - dư quốc”, trong quyển 4, Văn Cú đã có giải thích rõ, là nơi vị A-la-hán hiện hữu sau khi nhập Niết-bàn của Tiểu thừa vì không còn tái sanh trong ba cõi. Ở đây nói cõi hữu dư tức là chỉ Phương tiện hữu dư độ (方便有餘土), nơi các vị A-la-hán, Bồ Tát dưới Thập địa... đã dứt trừ thông hoặc nhưng vẫn còn vô minh hoặc.

[43] Năm món dục: chỉ 5 sự ham muốn đối với hình sắc (sắc dục), đối với âm thanh (thanh dục), đối với mùi hương (hương dục), đối với vị nếm (vị dục) và đối với sự xúc chạm (xúc dục).

[44] Nguyên tác Văn Cú dùng “四不壞信 - tứ bất hoại tín”, tức là chỉ 4 niềm tin không ai có thể phá hoại, bao gồm: tin vào Phật, tin vào Pháp, tin vào Tăng và tin vào Giới luật.

[45] Xem lại trong quyển 1, đã có giải thích về bốn chúng trong Pháp hội Pháp hoa, bao gồm: chúng phát khởi, chúng đương cơ, chúng ảnh hưởng và chúng kết duyên.

[46] Từ trước đến đây đã 22 lần đề cập đến khai quyền hiển thật. Văn Cú Ký giải thích rằng, trong phẩm Tựa, phần nói về ngũ Phật có 5 lần trong văn trường hàng, 5 lần trong kệ tụng, cộng là 10 lần; phẩm Thí dụ có khai thí, hợp thí đề cập đến 2 lần, cũng có trường hàng và kệ tụng, thành 4 lần; phẩm Tin hiểu trình bày lại ý nghĩa khai hợp ở trước, cũng có trường hàng và kệ tụng, thành ra 4 lần; phẩm Thí dụ Cỏ thuốc cũng có khai thí, hợp thí đề cập đến 2 lần, cũng có trường hàng và kệ tụng, thành 4 lần. Như vậy tổng cộng là 22 lần nói về khai quyền hiển thật.

[47] Ở đây có lẽ căn cứ vào Thắng Man bảo quật (勝鬘寶窟), quyển 2, đề cập đến 4 loại sanh tử này là: lưu lai sanh tử (流來生死), phần đoạn sanh tử (分段生死), trung gian sanh tử (中間生死), biến dịch sanh tử (變易生死). Lưu lai sanh tử (sanh tử nổi trôi) cũng được gọi là lưu nhập sanh tử, chỉ chúng sanh từ trạng thái ban sơ khởi lên một niệm mà rơi vào nổi trôi trong sanh tử. Chúng sanh từ hàng Bồ Tát lục địa trở xuống đều chịu sanh tử theo cách sanh ra rồi chết đi, bỏ thân này thọ sanh thân khác, gọi là sanh tử phần đoạn. Hàng Bồ Tát từ thất địa trở lên có thân quả báo nhiệm mầu vượt ngoài ba cõi nên không còn sanh tử phần đoạn, nhưng vẫn chưa giải thoát viên mãn nên còn chịu sanh tử biến dịch. Hàng Nhị thừa đạt quả vô học, do nghiệp báo đã dứt không còn tái sanh trong ba cõi nên đi vào sanh tử trung gian, được nghe kinh Pháp hoa… chuyển thành Bồ Tát rồi tiếp tục tu tập đến giải thoát viên mãn. (ĐCT, 37, 1744, tr.49b, d.10-12.)

[48] Nguyên tác Văn Cú dùng “五住 - ngũ trụ”, tức “五住地惑 - ngũ trụ địa hoặc” hay 5 trụ địa phiền não, bao gồm: Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa. Vì là gốc sanh ra phiền não nên gọi là trụ địa. Do nhân của 5 trụ địa phiền não này mà có 2 quả là sanh tử phần đoạn và sanh tử biến dịch.

[49] Trong phần này, Nguyên tác Văn Cú dùng “三人 - tam nhân” để chỉ 3 hạng căn cơ là hạ căn, trung căn và thượng căn.

[50] Nguyên tác dùng “五人 - ngũ nhân” để chỉ hành giả đã đạt đến các quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và Bích-chi Phật.

[51] Nguyên tác Văn Cú nói “福智二邊 - phúc trí nhị biên” (hai bên phúc trí), chỉ việc nghiêng hẳn về một trong hai bên, phúc hoặc trí.

[52] Các nghĩa tương đồng và khác biệt ở đây là so sánh trong hàng Nhị thừa, tức là giữa Thanh văn và Duyên giác.

[53] Theo cách dùng ở đây, cần phân biệt nhất thiết trí (一切智) của hàng Nhị thừa với nhất thiết chủng trí (一切種智) là trí tuệ của chư Phật. Trong nhiều trường hợp khác, nhất thiết trí cũng được dùng giống như nhất thiết chủng trí để chỉ trí tuệ Phật.

[54] Noãn pháp (煗法) hay noãn vị (煗位), là giai vị đầu tiên của tứ thiện căn. So sánh này chỉ ra rằng vị Thanh văn nghe pháp chứng ngộ nên cũng có khả năng thuyết pháp cho người khác, trong khi đó vị Duyên giác tự mình chứng ngộ nên không có khả năng thuyết pháp giúp người khác chứng ngộ, dù chỉ là đạt giai vị đầu tiên.

[55] Phần giải thích này dựa trên ý kinh nói qua 300 do-tuần thì lập hóa thành, và con đường phải đi còn lại 200 do-tuần. Trong phẩm Thí dụ nói “căn nhà đang cháy”, sau khi cứu thoát các con thì ông trưởng giả “bỏ 3 loại xe” mà “ban cho các con cùng một loại xe lớn”, tức là Phật thừa. Nay trong thí dụ này, sau khi vượt qua hóa thành thì còn phải đi 200 do-tuần mới đạt đến trí tuệ Phật.

[56] Nguyên tác Văn Cú dùng “五下 - ngũ hạ”, tức ngũ hạ phần (五下分) hay ngũ hạ phần kết (五下分結), chỉ 5 loại kết hoặc, tức phiền não thô trược ở cõi Dục, bao gồm: 1. Dục tham; 2. Sân khuể; 3. Hữu thân kiến; 4. Giới cấm thủ kiến; 5. Si mê.

[57] Nguyên tác Văn Cú dùng “五上 - ngũ thượng”, tức ngũ thượng phần (五上分) hay ngũ thượng phần kết (五上分結), chỉ 5 loại kết hoặc, tức phiền não vi tế ở 2 cõi Sắc và Vô sắc, bao gồm: 1. Sắc tham: tham đắm 5 món dục lạc của cõi Sắc; 2. Vô sắc tham: tham đắm cảnh giới thiền định của cõi Vô sắc. 3. Điệu cử: chúng sanh 2 cõi Sắc và Vô sắc do tâm niệm loạn động mà thối thất thiền định. 4. Mạn: chúng sanh 2 cõi Sắc và Vô sắc do tâm kiêu mạn mà lấn lướt chúng sanh khác. 5. Vô minh: tham đắm thiền định mà không rõ biết chân tánh.

[58] Nguyên tác dùng “五住 - ngũ trụ” tức ngũ trụ địa phiền não (五住地煩惱), chỉ cho 5 phiền não: Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa.

[59] Nguyên tác Văn Cú dùng “種覺 - chủng giác”, một cách gọi khác để chỉ giác ngộ nhất thiết chủng trí, tức là trí tuệ Phật hay quả vị giác ngộ viên mãn.

[60] Nguyên tác Văn Cú dùng “一心三智 - nhất tâm tam trí” (một tâm ba trí), tức chỉ việc chứng đạt cùng lúc 3 loại trí tuệ, bao gồm: nhất thiết trí, đạo chủng trí và nhất thiết chủng trí.

[61] Văn Cú dùng “五 眼 - ngũ nhãn”, tức bao gồm nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. Chỉ có chư Phật mới có đủ 5 loại mắt này.

[62] Ba minh của một vị Phật bao gồm thiên nhãn minh, túc mạng minh và lậu tận minh.

[63] Mười lực, tức thập lực của chư Phật, bao gồm: 1. Tri thị xứ phi xứ trí lực (知是處非處智力); 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực (知三世業報智力); 3. Tri nhất thiết sở đạo trí lực (知一切所道智力); 4. Tri chủng chủng giới trí lực (智種種界智力); 5. Tri chủng chủng giải trí lực (知種種解智力); 6. Tri nhất thiết chúng sanh tâm tính trí lực (知一切眾生心性智力); 7. Tri chư thiền giải thoát tam-muội trí lực (知諸禪解脫三昧智力); 8. Tri túc mệnh vô lậu trí lực (知宿命無漏智力); 9. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực (知天眼無礙智力); 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực (知永斷習氣智力).

[64] Đây là trích dẫn 2 câu kệ ở gần cuối phẩm này, nguyên văn: “今為汝說實, 汝所得非滅 - Kim vị nhữ thuyết thật, nhữ sở đắc phi diệt.” Tuy nhiên, Văn Cú khi trích dẫn đã chép 2 chữ cuối thành “非真 - phi chân”. Chân là nghĩa chân thật. Kinh văn nói “phi diệt” là chưa phải chân thật diệt độ, chưa phải Niết-bàn rốt ráo.

[65] Ở đây chỉ trí tuệ vô sanh của thánh quả A-la-hán, vị đã dứt hết lậu hoặc không còn tái sanh. Thí dụ 3 xe và hóa thành đều là tương ứng với chỗ thành tựu của hàng Nhị thừa, sau khi buông bỏ mới vượt lên Đại thừa.

[66] Nguyên tác Văn Cú nói “車何故無城何故有 - xa hà cố vô, thành hà cố hữu”. Trong phẩm Thí dụ, ông trưởng giả chỉ nói đến 3 loại xe để dẫn dụ các con nhưng không hề đưa ra xe thật, còn hóa thành ở phẩm này được hóa hiện cho mọi người đều nhìn thấy như thật có.

[67] Nguyên tác Văn Cú dùng “二周 - nhị chu” để chỉ hai phần thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ ở các phẩm trước, còn phần này là thuyết nhân duyên.

[68] Chư Phật do 3 nghiệp thân, khẩu, ý hoàn toàn thanh tịnh viên mãn nên có tam luân tương ứng là thần thông luân (thân nghiệp), thuyết pháp luân (khẩu nghiệp) và ức niệm luân, hoặc ký tâm luân (ý nghiệp). Cả 3 pháp này đều được vận dụng để giúp chúng sanh phá trừ hoặc nghiệp, cho nên gọi là “luân”.

[69] Nguyên tác Văn Cú dùng “灰斷 - hôi đoạn”, tức là vô dư hôi đoạn (無餘灰斷), cũng gọi là hôi thân diệt trí (灰身滅智), chỉ việc nhập Niết-bàn của vị thánh Tiểu thừa là hủy hoại nhục thân, diệt trừ tâm trí.

[70] Tức là “cửu thứ đệ định” (九次第定), bao gồm: 1. Sơ thiền thứ đệ định. 2. Nhị thiền thứ đệ định. 3. Tam thiền thứ đệ định. 4. Tứ thiền thứ đệ định. 5. Không xứ thứ đệ định. 6. Thức xứ thứ đệ định. 7. Vô sở hữu xứ thứ đệ định. 8. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thứ đệ định.9. Diệt thụ tưởng thứ đệ định.

[71] Tam đức (三德) chỉ 3 phẩm đức siêu việt của chư Phật, bao gồm: Pháp thân đức (法身德), Bát-nhã đức (般若德) và Giải thoát đức (解脫德).

[72] Đến đây hết phần giải thích phẩm Thí dụ Hóa thành nhưng chưa hết quyển 7.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 7 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự tham dục


Bát-nhã Tâm kinh Khảo luận


Hát lên lời thương yêu


Hoa nhẫn nhục

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.169 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...