Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm

Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Người khôn ngoan học được nhiều hơn từ một câu hỏi ngốc nghếch so với những gì kẻ ngốc nghếch học được từ một câu trả lời khôn ngoan. (A wise man can learn more from a foolish question than a fool can learn from a wise answer.)Bruce Lee
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Điều bất hạnh nhất đối với một con người không phải là khi không có trong tay tiền bạc, của cải, mà chính là khi cảm thấy mình không có ai để yêu thương.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn

Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 2 »» 6. Giải thích phẩm Thụ ký »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 2
»» 6. Giải thích phẩm Thụ ký

(Lượt xem: 8)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 2 - 6. Giải thích phẩm Thụ ký

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

KINH VĂN

Phẩm Thụ ký, thứ sáu

Giải thích tên phẩm

Tiếng Phạn là hòa-già-la-na (vyākaraṇa), Hán dịch là thụ ký.

Hỏi: Có nhiều kinh điển bác bỏ việc thụ ký. Kinh Tịnh Danh nói: “Từ như sanh mà được thụ ký, từ như diệt mà được thụ ký, như không có sanh diệt nên biết là không có thụ ký.”[1] Kinh Tư ích [phạm thiên sở vấn][2] nói: “Nguyện không nghe đến danh xưng thụ ký.” Đại phẩm [Bát-nhã] nói: “Thụ ký chỉ là sự luận bàn vô nghĩa.” Nay kinh này vì sao [nói đến thụ ký]?

Đáp: Nếu thấy có việc thụ ký, có người được thụ ký thì chỗ thấy như vậy nên bác bỏ. Với Bồ Tát thệ nguyện được thụ ký thì nên thụ ký cho. Theo tục đế mà nói, nên có thụ ký, theo đệ nhất nghĩa đế thì không có. Lại vì thích hợp theo 4 tất đàn thì như phần sau đây sẽ nói.

[Lại có nhiều trường hợp thụ ký khác nhau.] Nếu là thụ ký chung cho khắp đại chúng thì như ở phần đầu phẩm Pháp Sư. Nếu là thụ ký riêng thì như [Phật thụ ký] sau 3 vòng thuyết pháp.[3] Nếu là thụ ký theo chánh nhân thì như Bồ Tát Thường Bất Khinh [thụ ký]. Nếu là thụ ký theo duyên nhân thì như trong phẩm Pháp Sư nói 10 loại cúng dường. Nếu là thụ ký theo liễu nhân thì như việc thụ ký cho người trong 3 hạng căn cơ.[4] Nếu thụ ký theo chánh nhân thì rộng, nếu thụ ký theo duyên nhân và liễu nhân thì hẹp. Việc thụ ký cũng có thể chậm hoặc nhanh,[5] hoặc do Phật thụ ký như trong phẩm kinh này; hoặc Bồ Tát thụ ký như Bồ Tát Thường Bất Khinh [thụ ký cho người khác], tuy không xác định tên kiếp và tên cõi nước nhưng vẫn được xem là thụ ký. Lại nếu hiện tại thụ ký tương lai[6] thì như trong Phẩm Thí dụ Hóa thành nói về những đệ tử trong tương lai.

Những kinh khác chỉ thấy thụ ký cho hàng Bồ Tát, không thấy thụ ký cho hàng Nhị thừa; chỉ thụ ký cho người hiền thiện, không thụ ký cho kẻ xấu ác; chỉ thụ ký cho nam giới, không thụ ký cho nữ giới; chỉ thụ ký cho hàng trời, người, không thụ ký cho loài súc sanh. Nay trong kinh Pháp hoa này thì tất cả đều được thụ ký.

Như trong kinh Thủ-lăng-nghiêm có 4 loại thụ ký, nay kinh Pháp hoa này cũng có đủ. Người chưa phát tâm được thụ ký là như trong phẩm Thường Bất Khinh, người vừa phát tâm [được thụ ký], hiện tiền chứng vô sanh [pháp nhẫn được thụ ký]…[7] là như Phật thụ ký trong 3 vòng thuyết pháp.

Theo kinh Bồ Tát Anh Lạc, quyển 9, nói có 8 loại thụ ký.[8] [Thứ nhất là] người được thụ ký rõ biết nhưng người khác không biết [về việc thụ ký]; thứ hai là mọi người đều biết nhưng tự thân người được thụ ký không biết; thứ ba là người được thụ ký và mọi người đều biết; thứ tư là người được thụ ký và mọi người đều không biết; thứ năm là [việc thụ ký ấy] ở gần thì rõ biết nhưng ở xa không biết; thứ sáu là ở xa rõ biết nhưng ở gần không biết; thứ bảy là gần xa đều rõ biết; thứ tám là gần xa đều không biết.

[Trường hợp thứ nhất], người được thụ ký biết nhưng người khác không biết, [đó là nói người được thụ ký] phát tâm [Bồ-đề] tự lập thệ nguyện nhưng chưa đủ lớn rộng [ảnh hưởng] đến người khác, chưa đạt được 4 pháp vô úy, chưa đạt được pháp quyền thừa khéo léo.

[Trường hợp thứ hai], mọi người đều biết nhưng tự thân người được thụ ký không biết, [là nói người được thụ ký] đã phát tâm rộng lớn, đạt được 4 pháp vô sở úy, đạt được pháp quyền thừa khéo léo.

[Trường hợp thứ ba], người được thụ ký và mọi người đều biết, đó là nói [người được thụ ký] đã đạt đến giai vị Bồ Tát Thất địa, đạt được 4 pháp vô úy, pháp quyền thừa khéo léo và đạt được pháp [tam-muội] quán không.

[Trường hợp thứ tư], người được thụ ký và mọi người đều không biết, đó là nói [người được thụ ký] chưa thể nhập giai vị [Bồ Tát] Thất địa, chưa đạt được hạnh không bám chấp. Đại lược là như thế.

[Trường hợp thứ năm], việc thụ ký đó người ở gần được biết mà người ở xa không biết, là như trường hợp của Bồ Tát Di-lặc [được Phật thụ ký], các căn lành đầy đủ, không từ bỏ hạnh không bám chấp của Như Lai.[9]

[Trường hợp thứ sáu], việc thụ ký đó người ở gần không biết nhưng người ở xa đều biết, đó là nói người được thụ ký chưa có khả năng diễn thuyết các công hạnh của bậc hiền thánh, như trường hợp của Bồ Tát Sư Tử Ưng.[10]

[Trường hợp thứ bảy], việc thụ ký đó người ở xa hay ở gần đều biết, đó là nói [người được thụ ký] có đầy đủ các căn lành, không từ bỏ hạnh không bám chấp của Như Lai, như trường hợp của Bồ Tát Nhu Thuận.

[Trường hợp thứ tám], việc thụ ký đó người ở xa hay ở gần đều không biết, đó là nói [người được thụ ký] chưa đạt được pháp quyền thừa khéo léo, không rõ biết hết kho tàng chánh pháp của Như Lai,[11] như trường hợp của Bồ Tát Đẳng Hành.[12]

Trong những kinh khác giải thích rằng, [trường hợp thụ ký mà] gần biết [nhưng xa không biết] là được đức Phật hiện tại thụ ký, như trường hợp Bồ Tát Di-lặc... [Trường hợp được thụ ký mà] xa biết, [nhưng gần không biết] nghĩa là không được đức Phật hiện tại thụ ký, mà sẽ được đức Phật tương lai thụ ký, như trường hợp đức Phật nói với Tế-ma [Ba-tuần]: “Trong tương lai Bồ Tát Di-lặc sẽ thụ ký cho ông.”[13] [Trường hợp được thụ ký mà] gần và xa đều biết nghĩa là được cả đức Phật hiện tại và đức Phật tương lai đều thụ ký cho. [Trường hợp mà] gần và xa đều không biết là nói cả đức Phật hiện tại và đức Phật tương lai đều không thụ ký.[14]

Nguyên lai chư Phật vốn đều do đại sự nhân duyên mà ra đời, để khai mở chỉ bày cho chúng sanh nhận hiểu, thể nhập tri kiến Phật. Nay đại sự đã hiển bày, Phật thuyết pháp đã xong, chúng sanh cũng đã thể nhập, bản hoài của Phật đã thông suốt, tâm nguyện của chúng sanh đã trọn vẹn, theo đúng pháp thì nên thụ ký, cũng như cha gặp lại con, có lẽ nào lại không giao phó gia tài.

Lại nữa, người tu trải qua vô số kiếp tu hành, tâm nguyện lúc nào cũng hướng về đức Phật [Thích-ca] ngày nay. [Cho nên] kinh văn nói: “Nguyện xưa vốn là như vậy nên nay được thụ ký như vậy.” Do nhân duyên giữa hai bên [Phật và đệ tử], đó là nghĩa thế giới tất đàn nên thụ ký.

Hàng Nhị thừa nghe thuyết kinh [Pháp hoa này] liền thay đổi từ Tiểu thừa sang thể nhập Đại thừa, nhân viên mãn đã trọn đủ, tất nhiên phải chiêu cảm quả [viên mãn], cho nên đức Như Lai mới thụ ký cho. Đại chúng đương thời đều rõ biết, phát nguyện, nguyện luôn được làm quyến thuộc gần gũi trong ngoài với sanh thân, pháp thân [Phật], hoặc nguyện chỉ sanh về cõi nào đó để làm lợi lạc chúng sanh. Hai trường hợp này là nghĩa vị nhân tất đàn nên thụ ký.

Lại nữa, thụ ký cho hàng Nhị thừa là phá trừ [tâm niệm của] hàng Bồ Tát muốn thối tâm Đại thừa để vào Tiểu thừa. Vì sao vậy ? Nếu xác định là có Nhị thừa mới có thể thối [tâm Đại thừa] để theo Tiểu thừa, nay [làm rõ] không có Nhị thừa thì không còn chỗ để thối tâm.

Lại cũng là phá trừ [tâm niệm của] kẻ muốn phát tâm Nhị thừa, [khiến cho họ phải suy nghĩ,] người khác đã chứng quả Nhị thừa còn tự xả bỏ, sao ta lại chọn theo [quả ấy]?

Lại cũng phá trừ [tâm niệm] của kẻ chưa thay đổi [khuynh hướng] Tiểu thừa, [khiến cho họ] liền thay đổi [từ bỏ] Tiểu thừa.

Lại đối với người sắp chứng quả Tiểu thừa, [thấy được việc thụ ký cho hàng Nhị thừa] liền không còn bám chấp nơi việc chứng quả Tiểu thừa.

Bốn trường hợp như trên là theo nghĩa đối trị tất đàn cho nên thụ ký.

Lại nữa, [người chứng đắc] vô sanh [pháp nhẫn] ngay trong hiện tại, tất nhiên là do nhận hiểu đúng thật, khai mở tri kiến Phật không sai lầm, thấu triệt sáng tỏ tánh Phật cho nên được thụ ký. Hàng Tiểu thừa thể nhập lẽ thật, quyết định sẽ được thành Phật. Nếu vậy thì tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, sao [trước đây] không được thụ ký? Là vì [trước đây] chúng sanh chỉ có chánh nhân [là tánh Phật] nhưng không có duyên nhân. Nay được nghe kinh [Pháp hoa này], tin nhận hiểu rõ, đó là duyên nhân và chánh nhân trọn đủ. Khai mở tri kiến Phật là rõ biết tánh Phật. Thấy được pháp Phật là thấy tánh Phật. Hai trường hợp này là theo nghĩa đệ nhất nghĩa tất đàn nên thụ ký.

Bốn trường hợp thụ ký [theo 4 nghĩa tất đàn] này thâu nhiếp được tất cả những trường hợp thụ ký đã nói ở trước. Đại lược là như vậy.

Chữ thụ ký (授記) mang nghĩa là trao cho, lại cũng nói là thụ ký (受記) với nghĩa là nhận được, trong đó bao gồm hai nghĩa: thụ quyết (受決) và thụ biệt (受莂). Quyết là quyết định, là xác định chắc chắn không nghi ngờ; biệt là liễu biệt, là thấu hiểu phân biệt rõ ràng. Hàng trung căn được nghe qua phần thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ, [qua đó Phật] khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa, liền nhận hiểu đầy đủ những ý nghĩa Như Lai thuật lại thành tựu, khi ấy tuy tự biết mình sẽ được thành Phật nhưng chưa thực sự hiểu rõ, nếu được nhờ nơi lời đúng thật của Phật nói cho biết về việc chứng quả [Phật] trong tương lai, với tên kiếp, tên cõi nước một cách chắc chắn, biết rõ thời gian lâu hay mau, tất nhiên sẽ hết sức hoan hỷ.

Hiện tại nhờ đức Phật ban cho lời dự ký mà biết được danh xưng [tương lai], cho nên gọi là phẩm Thụ ký.

Kinh văn phần này là tổng đoạn thứ tư trong phần thuyết thí dụ. Ba tổng đoạn trước đều dùng thí dụ để thuyết giảng, trong phần này nói việc thụ ký cũng dùng thí dụ.

Luận về thụ ký, hàm ý gì mà không có tổng đoạn thứ năm? Có người giải thích rằng, chỉ nói phần trước, phần sau lược đi không luận. Lại có người nói, trong phẩm Thí dụ Cỏ thuốc nói, hết thảy đều được thấm nhuần, tất cả đều được tăng trưởng. Xét kỹ [theo đó thì] bốn chúng đều được lợi ích, chỉ là do người chép kinh lược bớt không ghi ra mà thôi.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thuyết kệ như trên rồi liền bảo đại chúng: “Đệ tử Ma-ha Ca-diếp này của ta, trong đời tương lai sẽ được gần gũi phụng sự 300 muôn ức đức Phật Thế Tôn, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xưng tán, rộng thuyết vô số giáo pháp Đại thừa của chư Phật, đến khi thọ thân sau cùng sẽ được thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, cõi nước tên là Quang Đức, thời đại tên là Đại Trang Nghiêm. Phật [Quang Minh] sống thọ 12 tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời 20 tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ 20 tiểu kiếp. Cõi nước ấy trang nghiêm xinh đẹp, không có những sự xấu ác, ngói sỏi, gai góc, chất bài tiết dơ nhớp.[15] Mặt đất bằng phẳng, không có sự cao thấp mấp mô, hầm hố, gò đồi. Mặt đất bằng lưu ly, có cây báu xếp thành hàng, có dây bằng vàng ròng giăng theo ven đường ngăn cách lộ giới, rải lên đất các loại hoa báu, khắp nơi đều sạch đẹp. Cõi Phật ấy có vô số ngàn ức Bồ Tát, chúng Thanh văn cũng nhiều vô số, không có những việc của ma, tuy có ma và dân ma nhưng họ đều ủng hộ bảo vệ Phật pháp.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Nghe đây, các tỳ-kheo!
Ta nay dùng Phật nhãn,
Thấy rõ Ca-diếp này,
Trong một đời tương lai,
Trải qua vô số kiếp,
Sẽ chứng quả thành Phật.

Trong tương lai Ca-diếp,
Sẽ gần gũi cúng dường,
Đến ba trăm vạn ức,
Các đức Phật Thế Tôn.

Vì cầu trí tuệ Phật,
Nên tu hạnh thanh tịnh.
Cúng dường bậc tối thượng,
Là Đấng Nhị Túc Tôn.

Rồi tu tập hết thảy,
Môn trí tuệ Vô thượng.
Cho đến thân sau cùng,
Sẽ thành tựu quả Phật.

Cõi nước ấy thanh tịnh,
Mặt đất bằng lưu ly,
Có rất nhiều cây báu,
Mọc thành hàng ven đường,
Có dây vàng ngăn lối,
Người trông thấy đều vui.

Thường lan tỏa hương thơm,
Và rải nhiều hoa quý,
Đủ các loại diệu kỳ,
Để trang hoàng, làm đẹp.

Mặt đất thật bằng phẳng,
Không có những gò, hố.
Chúng Bồ Tát ở đây,
Nhiều không thể tính đếm.

Tâm các vị nhu hòa,
Dùng sức thần thông lớn,
Cung kính giữ Kinh điển
Đại thừa của chư Phật.

Chúng đệ tử Thanh văn,
Thân sau cùng, vô lậu,
Là con Đấng Pháp Vương,
Cũng nhiều khôn kể xiết,
Dù dùng đến thiên nhãn,
Cũng không biết số lượng.

Đức Phật ấy sống thọ,
Đến mười hai tiểu kiếp.
Chánh pháp trụ ở đời,
Được hai mươi tiểu kiếp.

Tượng pháp lại cũng trụ,
Được hai mươi tiểu kiếp.
Đó là những sự việc,
Về đức Phật Quang Minh.

Kinh văn phần này lại chia làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất nói việc [Phật] thụ ký cho hàng trung căn. Đoạn thứ hai nói việc Phật hứa sẽ vì những người hạ căn mà kể lại [nhân duyên] đời trước.

Đoạn thứ nhất có 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là thụ ký cho ngài Ca-diếp, thứ hai là thụ ký cho 3 đại đệ tử khác, cả 2 tiểu đoạn đều có đủ 2 phần: kinh văn trường hàng và kệ tụng.

Phần kinh văn trường hàng [trong tiểu đoạn nói việc thụ ký cho] ngài Ca-diếp có 6 phân đoạn. Thứ nhất nói về nhân tu hành; thứ hai nói việc đắc quả; thứ ba nói về tên gọi Đại trang nghiêm của kiếp và [tên] cõi nước [khi ngài Ca-diếp thành Phật]; thứ tư là tuổi thọ [của đức Phật ấy]; thứ năm là thời gian chánh pháp và tượng pháp trụ ở đời bao lâu, y theo kinh văn có thể hiểu được; thứ sáu là sự thanh tịnh của cõi nước.

KINH VĂN

“Bấy giờ, các vị như Đại Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca-chiên-diên v.v.. thảy đều rúng động cả thân tâm, liền một lòng chắp tay, chăm chú không rời mắt chiêm ngưỡng tôn nhan Phật, rồi tất cả đồng thanh nói kệ rằng:

“Đức Đại Hùng Thế Tôn,
Pháp vương dòng họ Thích.
Xin thương xót chúng con,
Ban cho âm thanh Phật.

Nếu biết tâm chúng con,
Thấy việc được thụ ký,
Như rưới nước cam lộ,
Trừ nóng nảy, mát lành.

Như từ vùng nạn đói,
Đến gặp tiệc của vua,
Lòng vẫn còn nghi sợ,
Chưa dám ngồi vào ăn.

Nếu như được vua bảo,
Sau đó mới dám ăn.
Chúng con nay cũng vậy,
Thường nhớ lỗi Tiểu thừa,
Chẳng biết vì lẽ nào,
Có thể được trí Phật.

Nên tuy nghe Phật dạy:
Chúng con đều thành Phật.
Vẫn ôm lòng lo nghĩ,
Như chưa dám ngồi ăn.
Mong được Phật thụ ký,
Mới yên lòng khoan khoái.

Đức Đại Hùng Thế Tôn,
Thường giúp đời an vui,
Nguyện ban lời thụ ký,
Như bảo người đói ăn.”

Tiểu đoạn thứ hai nói về [việc thụ ký cho] 3 đại đệ tử khác lại có 2 phân đoạn. Thứ nhất là thỉnh cầu [Phật] thụ ký, thứ hai là được [Phật] thụ ký.

Phân đoạn thỉnh cầu [Phật] thụ ký [chia ra 4 ý,] gồm có 7 khổ kệ. Ý thứ nhất gồm một khổ kệ, nói việc thỉnh cầu. Ý thứ hai gồm 2 khổ rưỡi kệ nêu thí dụ [so sánh]. Ý thứ ba gồm 2 khổ rưỡi kệ nói nghĩa tương hợp với thí dụ. Tiếp theo ý thứ tư gồm 1 khổ kệ là tóm kết.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Thế Tôn biết rõ những suy nghĩ trong tâm của các đại đệ tử, liền bảo các vị tỳ-kheo rằng: “Ông Tu-bồ-đề này, trong đời tương lai sẽ gần gũi phụng sự 300 muôn ức na-do-tha đức Phật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xưng tán, thường tu hạnh thanh tịnh, thực hành đầy đủ đạo Bồ Tát, đến khi thọ thân sau cùng sẽ được thành Phật hiệu là Danh Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thời đại ấy tên là Hữu Bảo, cõi nước tên là Bảo Sanh, đất đai bằng phẳng, mặt đất bằng pha lê, có cây báu trang nghiêm, không có những gò hố, cát sỏi, gai góc, chất bài tiết dơ nhớp, có hoa báu che phủ mặt đất, khắp nơi đều sạch đẹp. Nhân dân ở cõi ấy đều sống trong các đài báu và lầu gác quý báu xinh đẹp. Hàng đệ tử Thanh văn nhiều vô số, dùng đến các phép tính toán, thí dụ cũng không thể biết được. Chúng Bồ Tát đông đảo đến vô số ngàn muôn ức na-do-tha. Đức Phật [Danh Tướng] sống thọ 12 tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời 20 tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ 20 tiểu kiếp. Đức Phật ấy thường ở giữa hư không vì đại chúng thuyết pháp, độ thoát vô số Bồ Tát và chúng Thanh văn.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

“Này đại chúng tỳ-kheo!
Nay cho các ông biết,
Tất cả hãy một lòng,
Lắng nghe lời ta nói.

Đại đệ tử của ta,
Là ông Tu-bồ-đề,
Tương lai sẽ thành Phật,
Hiệu là Phật Danh Tướng.

Sẽ cúng dường vô số,
Muôn ức các đức Phật,
Noi theo công hạnh Phật,
Dần dần đạt đạo lớn.

Cho đến thân sau cùng,
Đủ ba mươi hai tướng,
Thân đoan nghiêm tốt đẹp,
Như một tòa núi báu.

Cõi nước của Phật ấy,
Trang nghiêm thanh tịnh nhất,
Chúng sanh được nhìn thấy,
Không ai không ưa thích.
Phật trụ nơi cõi ấy,
Hóa độ vô số chúng.

Trong giáo pháp của Phật,
Có rất nhiều Bồ Tát,
Căn tánh đều nhanh nhạy,
Chuyển giáo pháp bất thối.
Nên cõi ấy thường dùng,
Bồ Tát để trang nghiêm.

Lại có chúng Thanh văn,
Nhiều không thể nêu số,
Thảy đều đạt ba minh,
Và đủ sáu thần thông,
Trụ nơi tám giải thoát,
Có đủ oai đức lớn.

Đức Phật ấy thuyết pháp,
Thường hiện ra vô số,
Pháp thần thông biến hóa,
Thật không thể nghĩ bàn.

Chư thiên và nhân dân,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đều cung kính chắp tay,
Nghe nhận lời Phật dạy.

Đức Phật ấy sống thọ,
Đến mười hai tiểu kiếp.
Chánh pháp trụ ở đời,
Được hai mươi tiểu kiếp.
Tượng pháp lại cũng trụ,
Được hai mươi tiểu kiếp.»

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo các vị tỳ-kheo: “Nay ta nói với các ông rằng, Đại Ca-chiên-diên đây trong tương lai sẽ dùng đủ các món cúng dường để cúng dường phụng sự 8.000 ức vị Phật với lòng cung kính tôn trọng; sau khi chư Phật diệt độ, sẽ xây dựng tháp miếu thờ phụng mỗi vị, cao đến ngàn do-tuần, ngang dọc vuông vức 500 do tuần, đều dùng bảy món báu là vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu, ngọc mai khôi1 để xây dựng thành, lại dùng đủ các loại hoa đẹp, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng lụa, tràng phan để cúng dường tháp miếu. Trải qua những việc ấy rồi, về sau ông lại cúng dường 20.000 ức vị Phật nữa, cũng giống như trước. Sau khi cúng dường chư Phật như vậy, lại tu tập trọn đủ đạo Bồ Tát rồi sẽ thành Phật hiệu là Diêm-phù-na-đề Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi nước ấy đất đai bằng phẳng, mặt đất bằng pha lê, có cây báu trang nghiêm, có dây bằng vàng ròng giăng theo ven đường ngăn cách lộ giới, có hoa đẹp che phủ mặt đất, khắp nơi đều sạch đẹp, ai thấy cũng hoan hỷ. Cõi ấy không có bốn đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và a-tu-la, có nhiều chư thiên và loài người. Có vô số vạn ức chúng Thanh văn và Bồ Tát trang nghiêm cho cõi nước. Đức Phật ấy sống thọ 12 tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời 20 tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ 20 tiểu kiếp.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Này đại chúng tỳ-kheo!
Hãy một lòng lắng nghe.
Những lời ta nói ra,
Đúng thật không sai khác.

Ông Ca-chiên-diên đây,
Rồi sẽ dùng đủ loại,
Thức cúng dường hảo hạng,
Để cúng dường chư Phật.

Chư Phật diệt độ rồi,
Liền xây tháp bảy báu,
Lại dùng đủ hương, hoa,
Cúng dường xá-lợi Phật.

Cho đến thân sau cùng,
Sẽ đạt trí tuệ Phật,
Thành bậc Chánh Đẳng Giác.
Cõi nước ấy thanh tịnh,
Phật độ thoát vô số,
Ngàn muôn ức chúng sanh,
Và được khắp mười phương,
Đều cung kính cúng dường.

Hào quang của Phật ấy,
Không gì vượt hơn được.
Cho nên có hiệu là:
Phật Diêm-phù Kim Quang.

Chúng Bồ Tát, Thanh văn,
Đều không còn tái sanh,
Nhiều không thể tính đếm,
Trang nghiêm cõi Phật ấy.

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo đại chúng: “Nay ta nói với các ông rằng, Đại Mục-kiền-liên đây trong tương lai sẽ dùng đủ các món tốt đẹp để cúng dường phụng sự 8.000 vị Phật với lòng cung kính tôn trọng; sau khi chư Phật diệt độ, sẽ xây dựng tháp miếu thờ phụng mỗi vị, cao đến ngàn do-tuần, ngang dọc vuông vức 500 do-tuần, đều dùng bảy món báu là vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu, ngọc mai khôi để xây dựng thành, lại dùng đủ các loại hoa đẹp, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng lụa, tràng phan để dâng lên cúng dường. Trải qua những việc ấy rồi, về sau lại cúng dường 200 muôn ức vị Phật nữa, cũng giống như trước. Sau khi cúng dường chư Phật như vậy, lại tu tập trọn đủ đạo Bồ Tát, rồi sẽ thành Phật hiệu là Đa-ma-la-bạt Chiên Đàn Hương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thời đại ấy tên là Hỷ Mãn, cõi nước tên là Ý Lạc. Đất đai nơi ấy bằng phẳng, mặt đất bằng pha lê, có cây báu trang nghiêm, có hoa bằng chân châu rải trên mặt đất, khắp nơi đều sạch đẹp, ai thấy cũng hoan hỷ. Cõi ấy có nhiều chư thiên và loài người, chúng Bồ Tát, Thanh văn nhiều vô số. Đức Phật ấy sống thọ 24 tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời 40 tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ 40 tiểu kiếp.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

“Đệ tử này của ta,
Là Đại Mục-kiền-liên,
Sau khi bỏ thân này,
Sẽ được gặp tám ngàn
Hai trăm muôn ức vị
Chánh Giác Phật Thế Tôn.

Tâm mong cầu đạo Phật,
Nên cung kính cúng dường.
Nơi đạo tràng chư Phật,
Thường tu hạnh thanh tịnh.

Trải qua vô số kiếp,
Vâng giữ theo pháp Phật.
Chư Phật diệt độ rồi,
Dùng bảy báu xây tháp,
Từ xa hiện đỉnh vàng.
Lại dùng hương, hoa, nhạc…
Để dâng lên cúng dường,
Tháp thờ xá-lợi Phật.

Dần dần tu tập đủ,
Các pháp môn Bồ Tát,
Rồi ở cõi Ý Lạc,
Thành bậc Chánh Đẳng Giác,
Hiệu là Đa-ma-la
Chiên Đàn Hương Như Lai.

Đức Phật ấy sống thọ
Hai mươi bốn tiểu kiếp,
Thường vì hàng trời người,
Giảng thuyết đạo Vô thượng.

Chúng Thanh văn vô số,
Nhiều như cát sông Hằng,
Ba minh, sáu thần thông,
Đều có oai đức lớn.

Bồ Tát cũng vô số,
Chí kiên cố, tinh tấn,
Quyết cầu trí tuệ Phật,
Tâm không hề thối chuyển.

Sau khi Phật diệt độ,
Chánh pháp trụ ở đời,
Được bốn mươi tiểu kiếp,
Tượng pháp cũng như vậy.”

[Phân đoạn thứ hai nói việc] thụ ký cho 3 vị đại đệ tử, nói về mỗi vị đều có đủ nhân tu hành, việc đắc quả, [tên] kiếp và cõi nước, tuổi thọ [của đức Phật ấy], [thời gian] giáo pháp trụ ở đời bao lâu, số lượng [chúng đệ tử Bồ Tát và Thanh văn]… Những chi tiết này y theo kinh văn đều có thể hiểu được.

KINH VĂN

“Chúng đệ tử của ta,
Có đầy đủ oai đức,
Số lượng năm trăm người,
Nay ta đều thụ ký:
‘Trong tương lai các ông,
Đều sẽ được thành Phật.’

Ta cùng với các ông,
Đời trước kết nhân duyên,
Nay ta sắp nói rõ,
Các ông khéo lắng nghe.”

Từ câu “Chúng đệ tử của ta” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, [đức Phật] hứa sẽ vì những người hạ căn mà kể lại nhân duyên đời trước. Những người [hạ căn] này đã được nghe qua hai phần thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ, nay lại thấy hàng thượng căn và trung căn đều được thụ ký, nhưng trong lòng vẫn còn hồ nghi chưa dứt nên tự mình cảm thấy hết sức hổ thẹn. [Đức Phật vì] muốn làm cho họ tăng tiến trên đường đạo, nên trước tiên ban lời thụ ký chung cho tất cả, sau đó hứa sẽ nói cho nghe nhân duyên đời trước. Đại lược là như vậy.

________________________


CHÚ THÍCH

[1] Kinh Tịnh Danh là tên khác của kinh Duy-ma-cật sở thuyết. Ở đây Văn Cú chỉ dẫn theo ý. Nguyên tác đoạn này nằm trong phẩm Bồ Tát, kinh Duy-ma-cật sở thuyết: “若以如生得受記者,如無有生;若以如滅得受記者,如無有滅 。 - Nhược dĩ như sanh đắc thụ ký giả, như vô hữu sanh; nhược hữu như diệt đắc thụ ký giả, như vô hữu diệt.” (Nếu là như sanh mà được thụ ký thì như không có sanh; nếu là như diệt mà được thụ ký thì như không có diệt.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 14, số 475, trang 542, tờ b, dòng 10-12.

[2] Nguyên tác Văn Cú nói “kinh Tư ích”, tức là kinh Tư ích Phạm thiên sở vấn (思益梵天所問經), 4 quyển, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch, thuộc Đại Chánh tạng, Tập 15, kinh số 586.

[3] Như đã giảng giải ở trước, gồm các phần thuyết chánh pháp, thuyết thí dụ và thuyết nhân duyên.

[4] Tức là hạ căn, trung căn và thượng căn.

[5] Chậm hoặc nhanh ở đây là nói thời gian người được thụ ký sẽ thành Phật, như trường hợp Long nữ thành Phật trong kinh Pháp hoa này là nhanh, trường hợp các đại đệ tử Thanh văn còn phải trải nhiều kiếp cúng dường chư Phật là chậm.

[6] Nguyên tác Văn Cú dùng “懸記 - huyền ký”, Văn Cú Ký giải thích là “懸記, 應言現未, 但是文略。 - Huyền ký, ưng ngôn hiện vị, đãn thị văn lược.” (Huyền ký, lẽ ra nói là hiện tại, vị lai, nhưng do văn nói lược.)

[7] Theo bốn loại thụ ký trong kinh Thủ-lăng-nghiêm thì còn có trường hợp mật thụ ký, tức là Phật thụ ký nhưng bản thân người được thụ ký không biết. Văn Cú ở đây lược đi, không nói đến trường hợp này.

[8] Nội dung 8 trường hợp thụ ký này đúng là được trích dẫn từ kinh Bồ Tát Anh Lạc (菩薩瓔珞經), quyển 9 (Đại Chánh tạng, Tập 16, số 656), nhưng trong khi chuyển dịch, chúng tôi tham khảo và phát hiện Văn Cú không chỉ lược dẫn mà còn có đôi chỗ dẫn không chính xác. Chúng tôi sẽ ghi chú rõ ở từng chỗ.

[9] Nguyên tác Văn Cú viết: “遠者不覺者彌勒是也。 - Viễn giả bất giác giả, Di-lặc thị dã.” (Người xa không biết, đó là trường hợp của Bồ Tát Di-lặc.) Tuy nhiên, kinh Bồ Tát Anh Lạc (菩薩瓔珞經), quyển 9, nói ngược lại: “遠者得決近者不得, 如此等人彌勒身是。 何 以 故。此善男子善女人諸根具足, 不捨如來無著之行, 是故受決遠者自覺近者不知。- Viễn giả đắc quyết, cận giả bất đắc, như thử đẳng nhân Di-lặc thân thị. - Hà dĩ cố? Thử thiện nam tử thiện nữ nhân chư căn cụ túc, bất xả Như Lai vô trước chi hạnh, thị cố thụ quyết viễn giả tự giác cận giả bất tri.” (Người ở xa biết, ở gần không biết, những người như vậy là giống như trường hợp Bồ Tát Di-lặc. Vì sao vậy? Vì thiện nam thiện nữ đó đầy đủ các căn lành, không từ bỏ hạnh không bám chấp của Như Lai, cho nên khi được thụ ký thì người ở xa đều tự biết mà kẻ ở gần không biết.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 16, số 656, trang 82, tờ a, dòng 8-11.

[10] Văn Cú viết là “近者不覺。 - Cận giả bất giác.” (Người ở gần không biết.) Cũng như trường hợp trên, kinh Bồ Tát Anh Lạc nói ngược lại: “近者覺知遠者不見。 - Cận giả giác tri, viễn giả bất giác.” (Người ở gần biết, người ở xa không biết.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 16, số 656, trang 82, tờ a, dòng 12-13. Mọi chi tiết khác đều được Văn Cú trích dẫn đúng nhưng lược bớt.

[11] Chỗ này Văn Cú diễn đạt rất dễ làm cho người đọc hiểu sai: “不能悉知如來藏 - bất năng tất tri Như Lai tạng” (không thể rõ biết hết về Như Lai tạng). Câu kinh tương ứng với nội dung này trong kinh Bồ Tát Anh Lạc là: “未能備悉如來法藏 - vị năng bị tất Như Lai pháp tạng” (chưa có đầy đủ kho tàng chánh pháp của Như Lai). “Như Lai tạng” là thuật ngữ có thể được hiểu như chân tánh, chân như, tánh Phật, tánh Như Lai… để chỉ tiềm năng giác ngộ sẵn có trong mọi chúng sanh, nhưng “Như Lai pháp tạng” thì chỉ đến kho tàng kinh điển, giáo pháp của Như Lai. Và đây mới là ý nghĩa đúng của đoạn kinh văn này.

[12] Như đã nói trên, 8 trường hợp thụ ký này được Văn Cú dẫn lại nội dung từ kinh Bồ Tát Anh Lạc, quyển 9. Tuy nhiên, 2 trường hợp thứ năm và thứ sáu đã bị diễn đạt ngược lại. Đây có thể là sai lệch trong quá trình sao chép, vì các nội dung diễn đạt trong mỗi điều không sai nhưng chỉ có đề mục nêu vấn đề bị sai. Quan trọng hơn nữa, chúng tôi tham khảo và phát hiện Từ điển Phật Quang khi giải thích mục từ “bát chủng thụ ký” đã hoàn toàn dựa vào Văn Cú nên cũng bị sai lệch tương tự. Lẽ ra Từ điển Phật Quang nên dựa vào tư liệu gốc là kinh Bồ Tát Anh Lạc, thay vì sử dụng nội dung được dẫn lại trong Văn Cú.

[13] Nội dung này được trích từ kinh Bồ Tát Anh Lạc. Kinh này gọi Ma vương Ba-tuần là Tế-ma Ba-tuần (弊魔波旬).

[14] Theo những giải thích ở đây thì “gần” và “xa” dường như cũng có thể được hiểu theo nghĩa về thời gian. Theo đó thì “gần” là nói những người đương thời và “xa” là chỉ các thế hệ trong tương lai.

[15] Nguyên tác dùng “便利不淨 - tiện lợi bất tịnh” để chỉ các chất thải từ thân người, tức là phân, nước tiểu. Tham khảo luận Đại thừa Tập Bồ Tát Học (大乘集菩薩學論) có câu: “滿盛諸穢惡。謂眵洟涎唾。及便利不淨。 - Mãn thịnh chư uế ố, vị si di tiên thóa cập tiện lợi bất tịnh.” (Đầy những thứ dơ xấu, đó là nói những dử ghèn, nước mũi, nước dãi, nước bọt cùng những thứ phân, nước tiểu dơ.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 32, số 1636, trang 92, tờ a, dòng thứ 5.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 7 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.169 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...