Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Nhiếp Đại Thừa Luận Thích [攝大乘論釋] »» Bản Việt dịch quyển số 5 »»

Nhiếp Đại Thừa Luận Thích [攝大乘論釋] »» Bản Việt dịch quyển số 5


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.94 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.2 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa

Kinh này có 15 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
Việt dịch: Nguyên Hồng

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm thứ năm : Phải biết thắng tướng
Chương 1 : Tướng
Giải thích : Nghĩa này có 4 chương : 1.Tướng, 2.Sai biệt, 3.Phân biệt, 4.Hiển lộ ý y.
Luận nói : Như đây đã nói phải biết y chỉ thắng tướng, vậy phải biết như thế nào ?
Giải thích : Trước nói tuần tự có 10 nghĩa và đã giải thích thứ nhất là y chỉ thắng tướng. Tiếp đến sẽ giải thích thứ hai là phải biết thắng tướng. Nghĩa này có có mấy, có tên gì, có tướng thế nào. Làm sao thấy được ?
Luận nói : Phải biết thắng tướng, nói chung có 3 thứ.
Giải thích : Dưới đây trả lời 3 câu hỏi trước. Nói thắng tướng thứ hai, đại lược có 3, tức là 3 tên, 3 tướng. Những gì là 3 ?
Luận nói : Một là tướng y tha tính, hai là tướng phân biệt tính, ba là tướng chân thật tính.
Giải thích : Câu này trước nói rõ số là 3, tên của 3 số rồi sau tiếp giải thích 3 tướng. Một, hai, ba là số. Y tha, phân biệt và chân thật là tên.
Luận nói : Tướng y tha tính nghĩa là
Giải thích : Dưới đây giải thích 3 tướng.
Luận nói : bản thức là chủng tử, hư vọng phân biệt gồm thâu các thức sai biệt.
Giải thích : Do bản thức có thể biến đổi khác tạo ra 11 thức. Bản thức tức là chủng tử 11 thức. Mười một thức đã khác nên nói là sai biệt. Phân biệt là tính của thức. Tính của thức phân biệt như thế nào ? Phân biệt không là có, nên gọi là hư vọng. Phân biệt là nhân. Hư vọng là quả. Do quả hư vọng nên hiển lộ được cái nhân phân biệt. Dùng cái tính phân biệt này gồm thâu hết tất cả các thức.
Luận nói : Thức sai biệt là những gì ?
Giải thích : Đây không hỏi tính chất chung, chỉ hỏi sự sai biệt của các thức.
Luận nói : Đó là thân thức, thân giả thức, thụ giả thức, ứng thụ thức, chính thụ thức, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức, tự tha sai biệt thức và thức của hai đường sinh tử thiện ác.
Thân thức, thân giả thức, thụ giả thức, ứng thụ thức, chính thụ thức, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức, các thức này do chủng tử của ngôn thuyết huân tập sinh. Tự tha sai biệt thức do chủng tử ngã kiến huân tập sinh. Thức của hai đường sinh tử thiện ác do chủng tử của hữu phần huân tập sinh.
Giải thích : Thân thức là nhãn v.v…5 giới. Thân giả thức là thức nhiễm ô. Thụ giả thức là ý giới. Ứng thụ thức là sắc v.v…6 ngoại giới. Chính thụ thức là 6 thức giới. Thế thức là cái thức tiếp nối sinh tử không dứt. Số thức là cái thức từ một cho đến số A-tăng-kì. Xứ thức là khí thế giới thức. Ngôn thuyết thức là cái thức thấy nghe hay biết. Chín thức này là y chỉ ngôn thuyết huân tập sai biệt làm nhân. Tự tha sai biệt thức là cái thức y chỉ sai biệt tự với tha, lấy ngã kiến huân tập làm nhân. Thức của hai đường sinh tử thiện ác là cái thức trong đường sinh tử đa chủng sai biệt, lấy hữu phần huân tập làm nhân.
Luận nói : Do các thức đây gồm thâu phiền não trong tất cả giới đạo.
Giải thích : Tất cả giới tức tam giới, thập bát giới. Tất cả đạo tức lục đạo. Trong các giới đạo đây có 3 phiền não, tức hoặc nghiệp và quả báo, 3 cái này cũng gọi là phiền não, cũng gọi là trược. Tục đế không ra ngoài các pháp này. Tức là các pháp gồm thâu trong 11 thức nói ở trước. Vì chúng đồng tính nên gồm thâu lẫn nhau được.
Luận nói : Tính y tha là tướng. Hư vọng phân biệt thì liền được hiển hiện.
Giải thích : Muốn thấy rõ cái hư vọng phân biệt chỉ dùng tính y tha làm thể tướng. Loạn thức và sự biến đổi của loạn thức tức là hư vọng phân biệt. Phân biệt tức là loạn thức. Hư vọng tức những biến đổi của loạn thức. Nếu nói rộng thì hư vọng phân biệt có 11 loại thức. Nếu nói đại lược thì có 4 thứ thức : 1.tự trần thức, 2.tự căn thức, 3.tự ngã thức, 4.tự thức thức. Tất cả hư vọng phân biệt trong 3 cõi đều không ra ngoài 3 nghĩa này. Qua các thức này thì được hiển hiện. Tuy nói thức này bao gồm hết tất cả hư vọng phân biệt, trong việc chấp hư vọng phân biệt này cái gì là tính y chỉ ? Cái gì là tính phân biệt ?
Luận nói : Các thức này, hư vọng phân biệt lấy duy thức làm thể.
Giải thích : Nói các thức này tức 11 thức và 4 thức. Trong tất cả các pháp chỉ có thức không còn pháp nào khác cho nên duy thức là thể. Cái thể này do hữu, nên khác phân biệt tính, do gồm trong tính hư vọng phân biệt, nên khác chân thật tính. Cái tính này chẳng phải thật hữu chẳng phải thật vô, không khỏi hư vọng. Cái hư vọng này là tính của nó cho nên nói gồm trong hư vọng phân biệt.
Luân nói : Chẳng có hư vọng trần nào hiển hiện làm nơi y chỉ. Đó là tướng của tính y tha.
Giải thích : Quyết định không có nên gọi là chẳng có. Chẳng có vật để làm duyên cho 6 thức duyên nên nói hư vọng trần. Tựa như căn trần ngã thức, các tâm sinh trụ diệt v.v…biến đổi rõ ràng nên nói là hiển hiện. Sự hiển hiện này lấy tính y tha làm nhân nên nói là y chỉ. Ví như chấp ngã là trần, cái trần này thật ra là không có, bởi cái ngã là phi hữu, do tâm biến đổi hiển hiện tựa như ngã, cho nên nói chẳng có hư vọng trần. Hiển hiện việc này nhân tính y tha khởi, cho nên tính y tha làm y chỉ cho hư vọng trần hiển hiện. Đây là tướng của tính y tha.
Luận nói : Tướng của tính phân biệt nghĩa là thật sự không có trần, chỉ có thức thể, hiển hiện làm trần. Đó là tướng của tính phân biệt.
Giải thích : Các trần như vô ngã v.v…nó không có cái thể riêng biệt, chỉ có thức là thể, không lấy thức làm tính phân biệt. Thức biến đổi hiển hiện làm ngã v.v…Trần là không mà tựa như có là do thức sở thủ gọi là tính phân biệt.
Luận nói : Tướng của tính chân thật nghĩa là cái tính y tha này, do tướng trần là vĩnh viễn không có nên cái thật này chẳng phải không. Đó là tướng của tính chân thật.
Giải thích : Nghĩa của hư vọng vĩnh viễn không có hiển hiện nhân, bởi không có hiển hiện thể nên không thể được. Ví như ngã v.v… các trần hiển hiện tựa như thật có. Do cái hiển hiện này y theo 3 lượng Phật nói mà tim kiếm thật thể là không thể có được. Như ngã trần, pháp trần cũng vậy, vĩnh viễn không có hữu thể cho nên nhân pháp đều vô ngã. Như thế thì vô ngã là thật hữu chẳng phải không. Do hai thứ trần không có thật thể cho nên tính y tha là không thể được, cũng là thật hữu chẳng phải không. Đó là tướng của tính chân thật.
Luận nói : Bởi nói thân thức, thân giả thức, thụ giả thức thì phải biết đó là gồm 6 nội giới như nhãn căn v.v…Nói ứng thụ thức thì phải biết đó gồm 6 ngoại giới như sắc v.v… Nói chính thụ thức thì phải biết đó gồm 6 thức giới như nhãn thức v.v…Do các thức này là gốc, nên các thức khác là sai biệt với thức này.
Giải thích : Câu này muốn nói nghĩa gì vậy ? Muốn làm rõ nghĩa của tính chân thật. Nếu không chắc chắn hiểu rõ tất cả pháp chỉ có thức, thì tính chân thật không thể hiển hiện. Nếu không nói đủ 11 thức thì không nói hết tục đế. Nếu chỉ nói 5 thức trước thì chỉ nói được nghĩa căn bản của tục đế không nói được nghĩa sai biệt của tục đế. Nếu nói tục đế không khắp hết thì không hiểu rõ chân đế. Không hiểu rõ chân đế thì không khiển trừ hết tục đế. Vì vậy nói đủ 11 thức. Gồm chung tục đế là phải 18 giới đủ có căn trần thức. Không phải vậy.
Luận nói : Như các thức đây là chỉ có thức, vì không có trần.
Giải thich : Thức biến đổi tuy có sự tướng trong ngoài không đồng nhau, nhưng thật duy nhất chỉ có thức, không có trần v.v…các thể riêng biệt, cho nên đều lấy thức làm tên. Nếu không có trần, thức này tách rời trần làm sao có thể thụ dụng được sự yêu ghét ?
Luận nói : Ví như chiêm bao. Trong chiêm bao lìa các ngoại trần, chỉ có thức. Các thứ như sắc, thanh, hương, vị, xúc, nhà cửa, núi rừng, đất đai v.v…các trần hiển hiện như thật, nhưng trong đó không một trần nào là thật có.
Giải thích : Trong chiêm bao thấy có các thứ sai biệt nhưng đều không phải thật trần, tất cả đều do thức tạo tác và cũng có nghĩa thụ dụng yêu ghét.
Luận nói : Như ví dụ này phải biết tất cả mọi chỗ mọi nơi đều chỉ có thức. Qua đây phải biết các ví dụ khác cũng vậy, như hiện tượng ảo hóa, con nai khát nước, hoa mắt v.v…Người giác ngộ thấy tất cả trần cảnh mọi chỗ mọi nơi đều chỉ có thức. Ví như cảnh chiêm bao, như người tỉnh giấc chiêm bao hiểu rõ cảnh chiêm bao là chỉ có thức. Vậy tại sao người đang thức lại không biết ?
Không, không phải nghĩa như vậy. Nếu người đã được trí giác chân như, không ai không biết như vậy. Ví như người đang ở trong chiêm bao chưa thức dậy thì không phát sinh sự hiểu biết này. Nếu đã tỉnh giấc rồi mới có sự hiểu biết này. Như vậy nếu người chưa được trí giác chân như thì không có sự giác ngộ này. Nếu đã được trí giác chân như chắc chắn có sự giác ngộ này.
Nếu người chưa được trí giác chân như, đối với lý duy thức làm sao khởi được trí so sánh này ?
Nhờ Thánh giáo và chân lý có thể so sánh được. Thánh giáo là như trong Kinh Thập Địa, Phật Thế Tôn nói : Phật tử ! Ba cõi chỉ có thức.
Lại như trong Kinh Giải Tiết có nói :
Giải thích : Do thí dụ chiêm bao mà biết trong 18 giới mọi chỗ mọi nơi là chỉ có thức không có trần. Vì sao dẫn 2 A-hàm nói rõ Thánh giáo ? Trước là nói đại lược, sau là nói rộng. Tức lấy trước chứng minh cho sau.
Luận nói : Lúc bấy giờ Di-lặc Bồ-tát Ma-ha-tát hỏi Phật :
Thưa Thế Tôn ! Sắc tướng này do tâm trong định duyên cảnh, vậy có khác với tâm hay không khác ?
Giải thích : Chữ “Thị thời” là “Lúc bấy giờ” có 3 nghĩa : 1.bình đẳng thời, nghĩa là không chìm nổi đảo điên, 2.hòa hợp thời, nghĩa là khiến nghe được đúng đắn, 3.chuyển pháp luân thời, nghĩa là chính khi thuyết pháp, chính lúc tiếp nhận thuyết pháp. Sắc tướng nghĩa là 8 nhập trước trong 10 nhất thiết nhập. Sắc tướng này là tướng của định tâm duyên cảnh, là tâm biệt cảnh biệt, là cảnh ấy của tâm ấy.
Luận nói : Phật bảo : Di-lặc ! Không khác với tâm. Bởi vì sao ? Ta nói chỉ có thức. Sắc tướng này do cảnh giới thức biến hiện.
Giải thích : Phật nói chỉ có thức, vì không có trần. Nếu vậy cái sắc mà người tu quán thấy đó là pháp gì ? Như kinh nói sắc tướng này là do cảnh giới thức hiển hiện, thật không có cảnh giới mà là do thức biến đổi ra. Trước nói duy thức, sau nói cảnh giới thức, vậy 2 thức này có gì khác nhau ? Muốn làm rõ 2 phần : một là tương tự năng phân biệt khởi và một là tương tự sở phân biệt khởi.
Luận nói : Bồ-tát Di-lặc nói : Thưa Thế Tôn ! Nếu sắc tướng của cảnh giới trong định không khác với định tâm thì tại sao thức ấy lấy thức ấy làm cảnh ?
Giải thích : Nếu có một thức riêng làm thức cảnh thì không thành nghĩa duy thức. Và nếu duyên tự thể làm cảnh, việc ấy cũng không thành vì thế gian không có loại như thế.
Luận nói : Phật bảo : Di-lặc ! Không có pháp nào có thể thủ lấy các pháp khác. Tuy không thể thủ lấy, nhưng thức này biến hiện sinh ra như trần cảnh.
Giải thích : Thức này sinh ra tướng mạo như thế. Ở trong định khởi 2 tướng. Một là do tướng năng thủ khởi không như nhau. Hai là tướng sở thủ khởi không như nhau. Hai tướng này đều từ một thức hiển hiện đồng thời. Sắc tướng màu xanh này v.v…là cảnh trong định, không phải cảnh của ức trì thức, nghĩa là cảnh do thức nhớ lại, do đó sắc này không ở một nơi nào nhất định. Như trước chứng biết, sau nhớ lại ? Không có nghĩa này ! Trần khởi thì hiển hiện trước mắt rõ ràng. Cái ức trì thức này có nhiễm ô. Còn định cảnh này khởi thì trước mắt thấy rõ ràng thanh tịnh. Nếu ông nói 2 cảnh nghe và suy nghĩ thường xuyên huân tập, nay cảnh ấy đã qua suy nghĩ trở lại, như cái gì xưa trông thấy nay thấy trở lại. Nghĩa ấy không đúng. Bởi vì sao ? Hai cảnh nghe và suy nghĩ là 2 cảnh của quá khứ nên hiện nay nó là phi hữu. Cái phi hữu đó nếu khởi lên tương tự như xưa thì không phải là cái xưa đã trông thấy. Điều đó lại càng làm rõ ràng thêm lý duy thức. Như thế là đã thành nghĩa duy thức và nghĩa trần cảnh là không thật có.
Luận nói : Ví như đối mặt trong gương, trông thấy mặt mình. Nghĩa là ta thấy cái bóng hiển hiện tựa như một gương mặt khác.
Giải thích : Thí dụ này nói chỉ có cái mặt mình thôi, không có hình ảnh nào khác. Bởi vì sao ? Các pháp hòa hợp đạo lý khó thể nghĩ bàn. Không thể thấy một pháp nào rồi nay thấy lại được. Như bóng dưới nước trong gương v.v…thật chẳng có pháp nào khác, thấy lại cái mặt của mình gọi là hình ảnh khác đó thôi.
Luận nói : Tâm trong định cũng vậy, hiển hiện tựa như trần cảnh, gọi là định tâm khác.
Giải thích : Định tâm có 2 phần, một phần tựa như thức, một phần tựa như trần. Hai thứ này thật sự chỉ là thức.
Luận nói : Do đó A-hàm và các đạo lý lập thành, làm rõ nghĩa duy thức.
Giải thích : A-hàm tức 2 kinh đã nói ở trước. Các đạo lý tức nói về cái thức ức trì, sắc trong quá khứ và thí dụ cái bóng của gương mặt v.v…đều làm rõ nghĩa duy thức.
Luận nói : Tại sao như vậy ?
Giải thích : Đây hỏi vì sao nói chỉ có thức.
Luận nói : Lúc bấy giờ chính trong tâm người tu quán, nếu thấy các màu xanh vàng v.v…các sắc tướng biến khắp, tức thấy tự tâm mình không thấy các cảnh sắc xanh vàng nào khác.
Giải thích : Nếu tán tâm, 5 thức làm sao nói duyên ngoại trần hiện tại khởi. Nếu tán tâm là ý thức duyên trần quá khứ khởi. Nếu trong tu quán thì không được duyên ngoại sắc làm cảnh, sắc hiện tiền cũng chẳng phải duyên cảnh quá khứ. Phải biết rằng định tâm duyên sắc tức thấy tự tâm không thấy cảnh nào khác.
Luận nói : Do đạo lý này, trong tất cả các thức, Bồ-tát đối với lý duy thức cũng phải so sánh mà biết như vậy. Đối với cái thức nhận biết xanh vàng v.v…không phải ức trì thức, vì đây là thấy cảnh hiện tiền. Đối với cái ý thức duy trì và hồi ức của hai trường hợp nghe và suy nghĩ, thức này duyên cảnh quá khứ, cảnh tương tự quá khứ hiện khởi. Nên được thành nghĩa duy thức. Do đây so sánh biết rằng nếu Bồ-tát chưa được trí giác chân như, nhờ nghĩa duy thức nảy sinh được trí so sánh.
Giải thích : Trước nói rõ 11 thức. Nói chung 18 giới. Trong 18 giới có căn có trần. Bồ-tát đối với nghĩa duy thức nên quán các sắc trong định đã không có cảnh nào khác, đem các sắc trong định so sánh với các sắc ngoài định cũng phải biết là không có cảnh nào khác.
Luận nói : Như trước đã nói các thức,
Giải thích : Trước đã nói đủ 11 thức. Nay muốn nêu câu hỏi nên trước phải làm rõ 11 thức trước đã nói.
Luận nói : ví với ảo hóa, chiêm bao v.v…Trong đó các thức như nhãn thức v.v…thành được nghĩa duy thức.
Giải thích : Trước nêu sự ảo hóa v.v…để ví cho sự không có căn, trần riêng khác. Nay muốn hỏi duy thức có thành hay không thành. Cho nên phải dẫn cái thí dụ trước đã nêu. Trong 11 thức đủ 18 giới. Trước nói rõ chính thụ thức tức 6 thức giới có thể nói nghĩa duy thức.
Luận nói : Nhãn, sắc v.v…là các thức có sắc làm sao thấy nghĩa duy thức được ?
Giải thích : Câu này ý hỏi là 10 giới khác không nên nói chỉ có thức. Trước nói thân thức tức 5 căn. Nghĩa là nhãn thức cho đến thân thức. Trước nói ứng thụ thức tức 5 trần. Nghĩa là sắc thức cho đến xúc thức. Cho nên nói nhãn, sắc v.v… các thức. Có sắc có 3 nghĩa : một là khi nhãn thức chưa sinh khởi, trước đã có sắc rồi, hai là thức biến đổi là sắc cũng là có sắc, ba là do cảnh có sắc nhãn thức tựa như sắc khởi gọi là liễu biệt sắc. Nếu cảnh không có sắc thì lấy cái gì liễu biệt ? Chắc là 10 giới này không thành nghĩa duy thức.
Luận nói : Các thức này do A-hàm và các đạo lý như trước đã nói, cần phải biết.
Giải thích : Đây là đáp câu hỏi trước. Do trước đã dẫn 2 kinh và các thí dụ, nên hiểu như thế.
Luận nói : Nếu sắc là thức thì sao hiển hiện tương tự sắc ?
Giải thích : Ý câu này hỏi nếu không có sắc trần riêng biệt mà chỉ là bản thức thì sao hiển hiện tựa như sắc v.v…?
Luận nói : Làm sao tương tục kiên trụ trước sau tương tự ?
Giải thích : Ý câu này hỏi nếu là do thức biến thì chợt sinh khởi chợt biến mất, chuyển đổi không nhất định, làm sao một sắc liên tục trụ lâu dài nhiều thời gian ? Trước sau một loại không chuyển đổi cho nên biết là có sắc riêng biệt.
Luận nói : Do nương dựa các phiển não điên đảo.
Giải thích : Điên đảo là căn bản của phiền não. Do thức biến, khởi các phân biệt. Phân biệt tức là điên đảo. Điên đảo cho nên sinh các phiền não tương ưng với tính y tha và tính phân biệt, tức là chỗ nương tựa của phiền não điên đảo. Do phiền não điên đảo khiến tính y tha cùng tính phân biệt tương ưng. Phiền não điên đảo cũng là nơi nương tựa cho thức biến.
Luận nói : Nếu không như vậy sẽ không thành nghĩa điên đảo.
Giải thích : Nếu không có nghĩa nương tựa nhau thì thức không biến được. Đối với không phải vật mà phân biệt là vật, không nên có điên đảo này.
Luận nói : Nếu không có nghĩa điên đảo thì không có hai thứ phiền não là hoặc chướng và trí chướng.
Giải thích : Nếu thức không biến đổi phân biệt phi nghĩa làm nghĩa thì lẽ nào có điên đảo. Nếu không điên đảo thì không sinh phiền não. Nếu không phiền não thì Thanh Văn không có giải thoát chướng, Bồ-tát không có nhất thiết trí chướng.
Luận nói : Nếu không có hai chướng thì cũng không có phẩm thanh tịnh. Cho nên phải tin các thức sinh khởi như vậy là thật.
Giải thích : Nếu không có phiền não lẽ nào có Phật đạo. Nên nghĩa này cũng không thành. Vì vậy phải tin rằng tách rời thức không có một pháp nào riêng khác.
Luận nói : Trong đây có bài kệ như sau :
Loạn nhân và loạn thể
Sắc thức, vô sắc thức.
Nếu thức trước không có,
Thức sau không sinh được.
Giải thích : Trong không chấp có gọi là loạn. Loạn thức này nhân pháp nào sinh ? Nhân sắc thức sinh. Cái gì là sắc thức ? Nếu nói thì có 5 thức. Năm căn năm trần gọi là sắc thức. Sắc thức này có thể sinh nhãn thức v.v…Biết sắc thức này tức là loạn nhân, nếu thức này không khởi thì không có trong không mà chấp có. Pháp gì là loạn thể ? Là vô sắc thức. Nếu nói thì có 5 căn tức là 5 thức. Ý căn chỉ là ý thức, không phải pháp thức. Pháp thức và sắc thức, vô sắc thức đều là loạn nhân.
Luận nói : “Nếu thức trước không có, Thức sau không sinh được.”
Giải thích : Thức trước là loạn nhân, nếu gốc không có thì loạn thể là quả tức thức sau không nhân không sinh được.
Chương 2 :Sai biệt
Luận nói : Vì sao thân thức, thân giả thức, thụ giả thức, ứng thụ thức, chính thụ thức phối hợp chặt chẽ sinh trong tất cả mọi chỗ mọi nơi sinh ?
Giải thích : Năm thức này tức 18 giới sinh trong tất cả mọi chỗ mọi nơi trong 3 cõi 6 đường 4 loài sinh. Mười tám thứ này làm sao có thể phối hợp chặt chẽ nhau sinh ?
Luận nói : Vì thể hiện đầy đủ sự thụ sinh.
Giải thích : Ở tất cả nơi sinh, trong một sát-na có đầy đủ 18 giới. Mười tám giới đã không tách rời nhau, có thể làm nhân hiển thị và phối hợp chặt chẽ nhau sinh khởi. Lại căn, trần, thức là không tách rời nhau, không có một sự thụ sinh nào có căn mà không trần và thức thụ. Hai cái kia cũng vậy. Thụ một tức đủ 2 cái kia. Dùng 2 cái kia làm rõ một cái này. Vì không tách rời nhau nên cùng nhau phối hợp chặt chẽ sinh.
Luận nói : Vì sao thế thức v.v…, như trước nói có sinh nhiều thứ sai biệt ?
Giải thích : Đây lại hỏi về 5 thức trước. Tức 18 giới đã bao gồm hết các pháp, cần gì lại nói sinh 6 thức sau ?
Luận nói : Vì từ vô thủy sinh tử tương tục không dứt.
Giải thích : Vì để nói rõ quả báo của chúng sinh từ vô thủy đến nay trong 3 đời sinh tử nối tiếp nhau không dứt, nên phải lập thế thức.
Luận nói : Vì gồm thâu vô lượng chúng sinh giới.
Giải thích : Vì để nói rõ quả báo của chúng sinh trong các giới có nhiều ít không đồng nhau. Như 4 giới, 6 giới, 18 giới v.v…nên phải lập số thức để gồm thâu tất cả số.
Luận nói : Vì gồm thâu vô lượng khí thế giới.
Giải thích : Vì để nói rõ nơi ở của chúng sinh, như nhân, thiên, ác đạo có vô lượng sai biệt, nên phải lập xứ thức để gồm thâu tất cả chỗ nơi.
Luận nói : Vì gồm thâu vô lượng tác nghiệp, và lại cùng hiển thị những gì đã gồm thâu.
Giải thích : Vì để nói rõ cái nói thấy, nghe, hay, biết, mỗi mỗi đều có nhiều nhân. Đây có vô lượng ngôn thuyết, tác sự ngôn thuyết cùng với cái thấy v.v…cùng nhau hiển thị, nên phải lập ngôn thuyết thức để gồm thâu tất cả ngôn thuyết.
Luận nói : Vì gồm thâu vô lượng nhiếp và vô lượng thụ dụng sai biệt.
Giải thích : Nói về thâu nhiếp có tự tha nhiếp. Thụ dụng có tự tha sở thụ dụng. Vì muốn nói rõ chúng sinh mỗi mỗi chấp ngã có nhiều thứ, ngã sở cũng vậy, nên phải lập tự tha sai biệt thức để gồm thâu tất cả tự tha sai biệt.
Luận nói : Vì gồm thâu quả báo của vô lượng nghiệp thụ dụng yêu ghét.
Giải thích : Quả của thiện nghiệp thì yêu thích. Quả của ác nghiệp thì chán ghét. Chúng sinh thụ dụng quả của 2 nghiệp này có vô lượng chủng loại.
Luận nói : Vì gồm thâu vô lượng sai biệt trong sinh tử chứng đắc.
Giải thích : Trong 2 quả này có sinh có tử. Mới thụ là sinh, sau sinh tiếp tục là đắc, sắp chết là chứng, mạng sống chấm dứt là chết. Để nói rõ chúng sinh thụ dụng quả của 2 nghiệp có sinh có tử, bao gồm tất cả 2 đường sinh tử thiện ác.
Luận nói : Làm sao nói rõ đúng các thức như thế này để thành nghĩa duy thức ?
Giải thích : Trước nói nghĩa 5 thức đã thành duy thức, sau nói 6 thức sao cũng khiến thành duy thức ?
Luận nói : Nếu nói sơ lược thì có 3 tướng : Các thức là thành duy thức.
Giải thích : Sáu thức này nếu an lập để thành duy thức thì có 3 đạo lý. Đạo lý đó là 3 tướng. Một là nhập vào duy lượng, hai là nhập vào chỉ có hai, ba là nhập vào các chủng loại. Chữ nhập có nghĩa là thông đạt. Thế nào là nhập vào duy lượng ?
Luận nói : Chỉ có thức lượng.
Giải thích : Trong 6 thức, nếu đúng như lý nghiên cứu tìm hiểu thì chỉ thấy có thức, không thấy có các pháp khác. Bởi vì sao ?
Luận nói : Vì ngoại trần là vô sở hữu.
Giải thích : Vì các pháp tách rời thức thì thật sự không có gì cả, nên nói 6 thức chỉ có thức lượng. Sao gọi là nhập vào chỉ có hai ?
Luận nói : Chỉ có 2 tức là tướng phần và kiến phần thâu nhiếp trong thức.
Giải thích : Nếu có thể thông đạt 6 thức như thế thức v.v…, một phần thành tướng, một phần thành kiến, gọi là nhập vào chỉ có 2. Nghĩa này như thế nào ? Trong các thức, tùy một thức một phần biến thành các tướng như sắc v.v…, một phần biến thành kiến, nên nói là chỉ có 2. Do 6 thức như thế thức v.v…không ra ngoài 2 tính này của thức cho nên nói chỉ thâu nhiếp có 2. Thế nào là nhập vào các chủng loại ?
Luận nói : Do tất cả các tướng sinh khởi đều được gồm thâu trong thức.
Nghĩa này là thế nào ?
Vì tất cả là thức không có ngoại trần, thành ra chỉ có thức. Các thức có tướng và có kiến như nhãn v.v…lấy sắc v.v…làm tướng. Nhãn v.v…các thức lấy các thức làm kiến. Ý thức lấy tất cả nhãn thức cho đến pháp thức làm tướng. Ý thức lấy ý thức làm kiến.
Vì sao như thế ?
Vì ý thức có thể phân biệt nên tựa như tất cả thức trần phân biệt sinh khởi.
Giải thích : Là một nhãn thức, nếu như phân thành thì một phần có thể sinh khởi các chủng tướng, một phần có thể thủ lấy các chủng tướng. Cái năng thủ gọi là kiến. Nếu ý thức thủ ý thức thì tất cả nhãn thức v.v… và pháp thức là tướng. Ý thức là năng kiến, vì duyên cảnh bất định. Ngoài ra các thức khác thì duyên một loại trần nhất định, không thể phân biệt. Có khả năng phân biệt thì thành kiến. Không có khả năng phân biệt thì thành tướng. Do đó mà 3 tướng thành lập. Sáu thức như thế thức v.v…là duy thức, nghĩa này đã rõ.
Luận nói : Trong đây có bài kệ như sau :
Nhập duy lượng, chỉ hai,
Người nói có nhiều thứ.
Khi thông đạt duy thức,
Và phục ly thức vị.
Giải thích : Bài kệ này nói rõ 3 nghĩa thông đạt duy thức. Một là thông đạt duy lượng vì ngoại trần thật sự là vô sở hữu. Hai là thông đạt duy thức chỉ có 2 là tướng và kiến. Ba là thông đạt các thứ sắc sinh. Chỉ có các thứ tướng mạo mà không có thể riêng khác. Người nào có thể thông đạt 3 tướng này ? Chỉ người tu quán. Người tu quán tự có 2 loại, một là nhập kiến vị Bồ-tát, hai là được 4 không định v.v…Người tu quán trước tự mình thông đạt sau vì người khác giảng nói. Địa vị nào được sự thông đạt và giảng nói này ?
Luận nói : ”Khi thông đạt duy thức, Và phục ly thức vị.”
Giải thích : Từ sơ địa cho đến chính giác địa là thông đạt duy thức vị. Từ không xứ cho đến phi tưởng phi phi tưởng, vô tưởng định, diệt tâm định là phục ly thức vị. Nếu không có trần sở thủ làm sao nói thức là năng thủ ? Như vậy là nghĩa duy lượng bất thành ! Không phải nghĩa như vậy. Bởi vì sao ? Vì nghĩa duy thức không mất, cũng chẳng phải không có nghĩa năng thủ sở thủ. Để lập nghĩa này nên nói rõ 3 tướng nhập. Duy lượng là để nói rõ chỉ có thức không có ngoại trần. Sở thức đã không, làm sao thành duy thức ? Để lập nghĩa này nên nói chỉ 2 và các thứ. Chỉ 2 tức tướng và kiến. Tướng là sở thủ. Kiến là năng thủ. Nhiều thứ cũng vậy. Vì vậy ắt thành nghĩa duy thức và năng thủ sở thủ. Nửa sau bài kệ cũng giải thích như trước.
Luận nói : Các sư nói về ý thức này, tùy theo các chỗ sở y sinh khởi mà có nhiều tên.
Giải thích : Các sư là nói các Bồ-tát thành lập một ý thức lần lượt sinh khởi. Ý thức tuy một, nhưng nếu y chỉ nhãn căn sinh thì được tên là nhãn thức. Cho đến y chỉ thân căn sinh có tên là thân thức. Trong đó không có thức nào ngoài khác với ý thức. Lìa thức A-lê-da, bản thức này nhập vào ý thức. Vì đồng loại nên ý thức này do y chỉ mà được biệt danh.
Luận nói : Ví như tạo ý nghiệp, được các tên thân nghiệp, khẩu nghiệp v.v….
Giải thích : Tạo ý nghiệp này tuy là một, nhưng nếu y thân khởi thì gọi thân nghiệp, nếu y khẩu khởi thì gọi khẩu nghiệp. Ý thức cũng vậy. Tùy nơi y chỉ mà có tên riêng. Nếu có người nói nhãn v.v… 5 căn là vô phân biệt, nếu ý thức y chỉ đó sinh thì cũng vô phân biệt. Ví như y chỉ ý căn, bị hoặc nhiễm ô là do chỗ sở y chỉ có nhiễm ô, khi sinh năng y chỉ thức cũng có nhiễm ô. Ý thức cũng vậy.
Luận nói : Thức này sinh ở tất cả nơi y chỉ.
Giải thích : Nghĩa là y chỉ nhãn v.v… các căn sinh.
Luận nói : Các thứ tướng mạo, hiển hiện tựa như 2 pháp, một là hiển hiện tựa như trần, hai là hiển hiện tựa phân biệt.
Giải thích : Ý thức y 6 căn sinh, hiển hiện tựa 2 pháp, một là pháp nhiều loại, hai là pháp một loại. Pháp nhiều loại này thuộc trần. Pháp một loại là phân biệt thuộc kiến. Do 2 câu này, thức tuy một pháp nhưng một phần tựa trần hiển hiện, một phần tựa trần hiển hiện. Vì vậy thuyết nói ở trước không có lỗi.
Luận nói : Ở mọi chỗ mọi nơi hiển hiện tựa như xúc.
Giải thích : Nói mọi chỗ mọi nơi tức nơi có sắc, nơi có sắc tức có thân, nếu có thân ắt tựa xúc hiển hiện.
Luận nói : Nếu ở cõi có hình sắc thì ý thức y nơi thân sinh.
Giải thích : Vì sao nơi có thân ắt tựa như xúc ? Vì ý thức phải y nơi thân sinh nên tựa xúc hiển hiện. Do ý thức này y thân tựa như xúc sinh. Chính khi người tu quán nhập quán, tuy 5 thức không khởi nhưng trong đó sắc thân có thụ sinh hỷ lạc.
Luận nói : Ví như các căn có hình sắc thì y nơi thân mà sinh.
Giải thích : Các căn có hình sắc như nhãn v.v… các căn khác với sắc thân y chỉ nơi thân. Do các căn y chỉ nơi thân mà các căn này đối với thân có tổn hại hoặc tăng ích. Ý thức cũng vậy, vì y chỉ nơi thân nên tựa xúc hiển hiện, đối với thân có tổn ích. Lại nữa ví như thân căn y chỉ nơi thân, nếu có xúc duyên bên ngoài, thân căn tựa xúc khởi. Nếu tựa xúc khởi thì trong tự y chỉ hoặc tổn hoặc ích. Ý thức cũng vậy, vì y chỉ nơi thân nên tựa xúc khởi.
Luận nói : Trong đây có bài kệ như sau :
Giải thích : Chư Bồ-tát nói chỉ có ý thức không có 5 thức riêng khác, cho nên dẫn bài kệ trong Kinh Pháp Túc để xác lập nghĩa này.
Luận nói :
Đi xa, đi một mình,
Không thân, trú hang rỗng.
Điều phục khó điều phục,
Thoát trói buộc của ma.
Giải thích : Năng duyên tất cả cảnh giới gọi là đi xa. Không có thức thứ hai nên gọi là đi một mình. Không thân có 2 nghĩa, một là không sắc thân, hai là không sinh thân. Trong thân gọi là hang rỗng. Thức ở trong thân nên gọi trú hang rỗng. Trong nhị ngũ tạng, tâm tạng giữa có lỗ, ý thức ở trong lỗ hỗng đó nên gọi là trú hang rỗng. Ba là các pháp thật sự vô sở hữu mà chấp là hữu. Thức ở trong chỗ vô sở hữu đó nên gọi là trú hang rỗng. Xưa nay phiền não xấu ác làm nhân nên gọi là khó điều phục. Nếu người có thể điều phục được thức này khiến không tùy thuận theo hoặc nghiệp, được tự tại gọi là điều phục. Hoặc chướng trong 3 cõi là các trói buộc của ma. Người này điều phục được cái khó điều phục thì được giải thoát. Lại có những chỗ khác Phật dạy để chứng minh nghĩa này.
Luận nói : Như kinh nói cảnh giới sở duyên của 5 căn như mắt v.v…, tất cả cảnh giới, ý thức đều có thể thủ, có thể phân biệt, ý thức là nhân phát sinh ra chúng.
Giải thích : Cảnh sở duyên của 5 căn này như sắc v.v…, nếu thức có thể duyên sắc thì lập làm nhãn thức. Mỗi mỗi cảnh ý thức đều có thể thủ, lại có thể phân biệt, cho nên 5 thức vô dụng. Lại nữa ý thức nếu loạn các thức như nhãn v.v…thì không sinh. Do ý thức biến khác sinh nhãn v.v… các căn và thức, cho nên ý thức là sinh nhân của chúng.
Luận nói : Lại có thuyết khác phân biệt nói trong 12 nhập 6 thức tụ gọi là ý nhập.
Giải thích : Đây lại dẫn lời Phật dạy chứng minh chỉ có ý thức, không có thức nào khác. Trong kinh Như Lai phân biệt 12 nhập, hợp 6 thức tụ làm ý nhập. Do 3 nghĩa này nên biết chỉ có ý thức không có thức nào khác.
Luận nói : Nơi đó an lập bản thức làm nghĩa thức. Trong đây nhất thiết thức được gọi là tướng thức, ý thức và y chỉ thức gọi là kiến thức. Bởi vì sao ? Vì tướng thức này là sinh nhân của kiến phần, hiển hiện tựa như trần, làm kiến phần sinh y chỉ.
Giải thích : Bản thức này trong 2 thức có thể an lập làm tướng thức và kiến thức, không phải an lập bản thức làm trần thức. Trong đây nhất thiết thức gọi là tướng thức. Bản thức có thể an lập ở 2 thức tướng và kiến. Bản thức này lấy ý thức và y chỉ thức làm kiến thức, lấy thức của nhãn thức v.v… và tất cả pháp làm tướng thức. Vì sinh nhân này do duyên các duyên nên trong đó là sinh nhân của kiến. Trong pháp là kiến, hiển hiện tựa trần, cho nên nhân của kiến tướng của ý thức trụ liên tục không dứt làm y chỉ cho thức này.
Luận nói : Các thức thành lập duy thức như vậy.
Làm sao biết các trần hiển hiện là chẳng phải thật có ?
Như Phật nói nếu Bồ-tát tương ưng với 4 pháp có thể tìm thấy, có thể ngộ nhập tất cả là thức không có trần.
Giải thích : Bốn pháp là trí. Nếu Bồ-tát tương ưng với 4 trí thì trong phương tiện có thể tìm ra lý, hiểu được đúng đắn và có thể ngộ nhập lý. Cho nên biết tất cả là duy thức không trần.
Luận nói : Bốn pháp là những gì ?
Một là biết thức tướng trái nhau. Ví như ngạ quỷ, súc sinh, người, trời cùng ở trong một cảnh giới nhưng do kiến thức khác nhau.
Giải thích : Ở trong một cảnh giới, phân biệt không đồng nên gọi là trái nhau. Trái nhau cảnh của thức gọi là tướng. Cảnh này chẳng thật có, chỉ ndo thức biến nên phân biệt không đồng. Nếu Bồ-tát thông đạt lý này thì hiểu duy thức nên gọi là trí.
Luận nói : Hai là do cái thức thấy cảnh giới không có thật, ví như ảnh trần của quá khứ, vị lai hay trong chiêm bao.
Giải thích : Có lúc cái kiến tách rời cảnh giới mà sinh được thức. Ví như cái thức của cảnh quá khứ v.v…
Luận nói : Ba là do biết lìa công dụng mà không điên đảo nên thành. Ví như thật có trong trần, duyên trần khởi thức, sẽ không điên đảo nếu không dụng công, vì biết như thật.
Giải thích : Bồ-tát hiểu như thế này. Nếu tràn thật có như hiển hiện thì lìa bỏ việc tu đối trị cũng tự nhiên thành trí không điên đảo. Do biết như thật nên đã không có nghĩa này. Cho nên biết thật chẳng có trần. Chỉ vì trong cái không, chấp là có nên thành điên đảo.
Luận nói : Bốn là do biết nghĩa tùy thuận 3 tuệ.
Giải thích : Tất cả nghĩa của trần đều tùy theo 3 tuệ. Bồ-tát có thể hiểu như thế.
Luận nói : Như thế là thế nào ?
Giải thích : Thế nào là tất cả nghĩa tùy theo 3 tuệ.
Luận nói : Tất cả Thánh nhân nhập quán,
Giải thích : Thánh nhân là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát. Các Thánh nhân này khi đang trong định gọi là nhập quán.
Luận nói : tâm được tự tại.
Giải thích : Đã được tâm tùy sự thành, gọi là trong nhập trụ xuất vị.
Luận nói : Vì do nguyện muốn tự tại.
Giải thích : Nếu như muốn, các trần đều biến theo ý muốn.
Luận nói : Như muốn các trần hiển hiện.
Giải thích : Như muốn khiến địa giới thành thủy giới thì sẽ thành như ý muốn. Hỏa giới v.v… cũng vậy.
Luận nói : Nếu người tu quán đã được Xa-ma-tha,
Giải thích : Người tu quán có 2 loại : một là được tư duy đúng đắn, hai là được tu tập đúng đắn. Nay nói về người được chính tu.
Luận nói : theo pháp quán gia hành,
Giải thích : Pháp là nói Tu-đa-la v.v… 12 bộ kinh. Y theo 12 bộ kinh nói rõ pháp tướng, tu hành thành thục Tì-bà-xá-na.
Luận nói : thì tùy theo tư duy mà nghĩa hiển hiện.
Giải thích : Một trong 5 ấm, tùy tâm tư duy, hoặc hiển hiện như bất tịnh, khổ, vô thường, không, vô ngã v.v…cho đến 16 đế tướng đều tùy theo tư duy hiển hiện, tướng của các pháp khác cũng vậy.
Luận nói : Nếu người được trí vô phân biệt, chưa xuất quán vô phân biệt, thì tất cả trần không hiển hiện, do nghĩa các cảnh giới v.v…tùy thuận 3 tuệ. Do dẫn chứng trước mà thành tựu nghĩa duy thức. Cho nên biết chỉ có thức không có trần cảnh. Trong đây có 6 bài kệ làm rõ lại nghĩa trước. Kệ này sau y vào trí học sẽ phân biệt nói rộng. Nghĩa là như ngạ quỷ, súc sinh, nhân, thiên v.v…
Giải thích : Nếu Bồ-tát đã được trí vô phân biệt mà trong quán nếu trần hiển hiện như thật hữu thì không thành trí vô phân biệt. Đã thật có trí vô phân biệt thì không có lý đó.
Chương 3 : Phân biệt
Luận nói : Nếu duy thức tựa trần hiển hiện y chỉ, gọi là tính y tha thì thành y tha như thế nào ? Nhân duyên gì gọi là y tha ?
Giải thích : Rời trần chỉ có thức, thức này có thể biến hiện tựa như trần. Thể tướng và công năng như vậy, loạn thức gọi là tính y tha. Chỉ thấy loạn thức có tự thể, không thấy có cái khác. Làm sao lập thức này là tính y tha ? Vì sao nói thức này là tính y tha ?
Luận nói : Vì từ tự chủng tử huân tập sinh ra, trói buộc vào nhân duyên không được tự tại. Nếu sinh ra mà không có công năng gì, thì một sát-na sau sẽ tự tồn tại, nên gọi là y tha.
Giải thích : Do nhân của chính nó sinh ra. Sau khi sinh không tự có năng lực dừng trụ thì qua một sát-na sẽ tự thủ, có thuyết gọi đó là tính y tha.
Luận nói : Nếu tính phân biệt y chỉ vào y tha, thì thật không có tựa như trần hiển hiện. Làm sao thành phân biệt ? Vì nhân duyên gì nói là phân biệt ?
Giải thích : Câu hỏi này có 3 điểm : Một là hỏi về y chỉ. Tính phân biệt này đã y chỉ vào y tha thì phải thành tính y tha, sao gọi là phân biệt ? Tiếp đến hỏi về vô sở hữu. Cái phân biệt này đã thật là vô sở hữu thì trong cái vô sở hữu có gì là phân biệt ? Câu hỏi sau là về tựa như trần. Cái phân biệt này đã tựa như trần hiển hiện thì sao gọi là phân biệt ? Vì nhân duyên gì gọi là tính phân biệt ?
Luận nói : Ý thức phân biệt vô lượng tướng mạo, điên đảo sinh nhân, nên thành phân biệt.
Giải thích : Tướng mạo của tất cả trần cảnh, phân biệt như thế gọi là ý thức. Ý thức điên đảo sinh ra cảnh giới gọi là sinh nhân. Do đạo lý đó mà thành phân biệt.
Luận nói : Vì chỉ thấy phân biệt, mà không có tự tướng, nên gọi là phân biệt.
Giải thích : Tự thể đã không có chỉ thấy loạn thức nên gọi phân biệt.
Luận nói : Nếu là tính chân thật thì tính phân biệt vĩnh viễn không có cái gì làm tướng, làm sao thành chân thật ? Vì nhân duyên gì nói là chân thật ?
Giải thích : Tính phân biệt đối với tính y tha vĩnh viễn một phần cũng không có. Nếu lấy vô sở hữu làm tướng, sao lập làm thành thật không lập làm phi chân thật ? Cũng nói như thế thôi.
Luận nói : Do như, không có gì là không như, nên thành chân thật,
Giải thích : Ba nghĩa dưới đây giải đáp 2 câu hỏi. Đây là thứ nhất, lấy nghĩa không trái nhau hiển thị chân thật. Như thế gian nói người bạn chân thật.
Luận nói : Do thành tựu cảnh giới thanh tịnh.
Giải thích : Đây là thứ hai, lấy nghĩa không điên đảo hiển thị chân thật. Do cảnh giới không điên đảo nên được 4 thứ thanh tịnh. Như thế gian nói vật chân thật.
Luận nói : Do vượt trội hơn tất cả thiện pháp.
Giải thích : Đây là thứ ba, lấy nghĩa vô phân biệt hiển thị chân thật. Tức 5 thứ không phân biệt, Nghĩa là 5 thứ chân thật. Như thế gian nói hạnh chân thật.
Luận nói : Thành tựu thắng nghĩa, nên gọi là chân thật.
Giải thích : Đối với 3 việc thù thắng trên không hỏng mất nên nói là thành tựu. Do thành tựu nên là chân thật.
Luận nói : Lại nữa, nếu có cái phân biệt và cái bị phân biệt thì thành tính phân biệt.
Giải thích : Muốn hỏi nghĩa 3 thứ phân biệt này nên trước liệt kê tên 3 phân biệt này.
Luận nói : Trong đây pháp nào là phân biệt, pháp nào là bị phân biệt và pháp nào là tính phân biệt ?
Giải thích : Hỏi riêng từng thứ một để tìm tướng khác nhau.
Luận nói : Ý thức là phân biệt. Vì đủ 3 thứ phân biệt.
Giải thích : Dưới đây giải đáp 3 câu hỏi. Đây là trả lời câu thứ nhất. Trong 6 thức chỉ lấy ý thức là phân biệt. Vì ý thức đầy đủ 3 phân biệt là tự tính, duy trì hồi ức và hiển thị. Năm thức không có như vậy.
Luận nói : Bởi vì sao ?
Giải thích : Bởi vì sao ? Ý thức đủ 3 phân biệt.
Luận nói : Vì thức này tự danh ngôn huân tập làm chủng tử,
Giải thích : Như nói tên căn trần thường huân tập đây gọi là huân tập nơi bản thức làm chủng tử. Do chủng tử này ý thức sau đó tựa căn, tựa trần mà khởi, gọi là sắc thức, tự có 2 nghĩa. Một như nhãn gọi là huân tập chỉ sinh nhãn không sinh các pháp khác. Các huân tập khác cũng vậy, cho nên gọi là tự. Hai là vốn không có pháp thể. Danh ngôn là tự phân biệt tạo ra nên gọi là tự.
Luận nói : và tất cả thức, danh ngôn huân tập làm chủng tử,
Giải thích : Như nói tên 6 thức huân tập đây là huân tập vào bản thức làm chủng tử. Do chủng tử này, ý thức sau đó tựa 6 thức mà khởi gọi là thức của thức.
Luận nói : cho nên đây sinh.
Giải thích : Do 2 thứ chủng tử huân tập nên ý thức này được sinh.
Luận nói : Do vô biên phân biệt, mà tất cả mọi chỗ mọi nơi phân biệt.
Giải thích : Ý thức biến do 2 thứ chủng tử này, phân biệt thành vô số công năng nên tựa như tất cả cảnh giới khởi.
Luận nói : Chỉ gọi là phân biệt nên có tên là phân biệt.
Giải thích : Do nghĩa này mà chỉ ý thức gọi là phân biệt. Trong 3 thứ phân biệt gọi ý thức là phân biệt.
Luận nói : Cái y tha này chỉ là cái bị phân biệt.
Giải thích : Dưới đây trả lời câu hỏi thứ hai. Sở phân biệt tất cả pháp, thức không có biệt thể, nên lấy y tha làm sở phân biệt.
Luận nói : Chính nó là cái nhân làm cho tính y tha thành cái bị phân biệt.
Giải thích : Nếu không nhờ nhân thì tính y tha không thành. Nếu không có tính y tha thì không có sở phân biệt. Do 6 thứ nhân làm thành tính y tha nên được lấy tính y tha làm sở phân biệt.
Luận nói : Trong đây gọi là tính phân biệt.
Giải thích : Trong đây thành nhân của tính y tha và nói cái nhân này là tính phân biệt.
Luận nói : Tính y tha này chỉ như là tướng của vạn vật, làm sao phân biệt có thể suy tính lượng đạc ?
Giải thích : Dưới đây trả lời câu hỏi thứ ba. Trước hỏi lại, sau lần lượt đáp. Câu này trước hỏi chung. Vì sao ý thức do phân biệt có thể suy tính đo lường tính y tha này chỉ như tướng mạo vạn vật, không phải chỉ như tướng mạo của một vật ?
Luận nói : Duyên cảnh giới gì ?
Giải thích : Dưới đây nêu riêng biệt 6 nhân làm câu hỏi. Duyên pháp gì làm cảnh giới mà suy lường kế đạc tính y tha ?
Luận nói : Chấp tướng mạo gì ?
Giải thích : Chấp tướng mạo gì mà suy lường kế đạc tính y tha ?
Luận nói : Làm sao quan sát thấy ?
Giải thích : Trước dùng phương tiện gì suy tìm, sau mới quyết đoán kế đạc tính y tha ?
Luận nói : Duyên khởi như thế nào ?
Giải thích : Nhờ duyên gì phát khởi kế đạc tính y tha ?
Luận nói : Ngôn luận thế nào ?
Giải thích : Dùng ngôn luận thế nào kế đạc tính y tha ?
Luận nói : Làm sao tăng ích ?
Giải thích : Làm sao trong không chấp có kế đạc tính y tha ? Ý thức là phân biệt. Y tha là sở phân biệt. Do 6 nhân này ý thức có thể phân biệt tính y tha, nay sẽ nói rõ nghĩa này.
Luận nói : Do các cảnh giới như danh v.v…
Giải thích : Do tính y tha lìa tất cả phân biệt, vô phân biệt là thể cho nên lập danh v.v…làm cảnh giới, phân biệt kế đạc tính này.
Luận nói : Trong tính y tha, do chấp trước tướng,
Giải thích : Trước là phân biệt danh, xuyên qua sự huân tập cái danh này nên chấp trước cái danh này là tướng mạo, sau đó phân biệt tướng này gọi là nhãn v.v…các căn, sắc v…các trần, thức v.v…các tâm chấp tướng mạo.
Luận nói : do quyết đoán khởi kiến,
Giải thích : Trước suy xét phải quấy, sau đó quyết đoán như sở kiến của ta. Nhãn v.v…các căn cho đến thức v.v…các tâm đều là thật hữu, ngoài ra là vọng ngôn. Do kiến chấp này cho nên ý thức kế đạc y tha cho là chắc thật rồi khởi chấp.
Luận nói : do giác quán, ngôn thuyết duyên khởi,
Giải thích : Khởi giác quán như chỗ chấp của mình, tự tư duy kế đạc. Hoặc khởi giác quán như chỗ chấp của mình lập ngôn thuyết khiến người khác phân biệt kế đạc. Thế nào là lập ngôn thuyết khiến người khác phân biệt kế đạc ?
Luận nói : Do kiến v.v…4 thứ ngôn thuyết.
Giải thích : Ngôn thuyết không ra ngoài kiến v.v…4 thứ. Bốn thứ này do căn, trần, thức tạo nên cho nên gồm thâu hết tất cả phẩm loại phân biệt của ngôn thuyết. Từ ngôn thuyết này khởi điên đảo
Luận nói : Thật không có trần mà chấp là thật có là tăng ích.
Giải thích : Như 4 thứ ngôn thuyết là pháp không thật có, trong đó khởi chấp cho là thật có, đây gọi là chấp tăng ích.
Luận nói : Do các nhân này thành năng phân biệt.
Giải thích : Do 6 nhân này ý thức thành năng phân biệt tính y tha khiến thành sở phân biệt, cho nên lấy nhân này làm tính phân biệt.
Luận nói : Ba tính này như thế nào ?
Giải thích : Câu này hỏi nghĩa của 3 tính là một hay khác nhau thế nào.
Luận nói : Khác nhau hay không khác nhau ?
Giải thích : Như tính y tha với 2 tính kia là một hay là khác. Hai tính kia luận với nhau cũng vậy.
Luận nói : Nên nói như thế này : không khác chẳng phải không khác.
Giải thích : Đáp câu hỏi nên nói rõ cũng là một mà cũng khác.
Luận nói : Có nghĩa khác của tính y tha nên gọi là y tha.
Giải thích : Dưới đây nêu nghĩa chung là cũng một mà cũng khác. Chỉ là một thức. Tính của thức là y tha. Trong tính y tha, dùng lý riêng thành lập làm 3 tính. Ba tính không giống nhau. Đó là nghĩa không khác chẳng phải không khác.
Luận nói : Có nghĩa khác nên đây thành phân biệt. Có nghĩa khác nên đây thành chân thật.
Giải thích : Có đạo lý riêng tính y tha này thành tính phân biệt, và tính chân thật cũng vậy.
Luận nói : Nghĩa khác gì gọi đây là y tha ?
Là từ chủng tử huân tập sinh trói buộc vào cái khác.
Giải thích : Dưới đây giải thích 3 nghĩa riêng biệt. Huân tập có 3 thứ : một là danh ngôn huân tập, tức thức huân tập, hai là sắc thức huân tập, tức thức thức huân tập, kiến thức huân tập, ba là phiền não huân tập, tức nghiệp huân tập, quả báo huân tâp. Từ đó sinh 3 thứ chủng tử, trói buộc vào nhân thành y tha chứ chẳng phải 2 tính kia.
Luận nói : Lại có nghĩa khác gì, đây thành phân biệt ?
Tính y tha này là nhân của phân biệt,
Giải thích : Thức lấy năng phân biệt làm tính. Năng phân biết phải từ sở phân biệt sinh. Tính y tha là sở phân biệt, là sinh nhân của phân biệt, tức là duyên của phân biệt. Duyên tính y tha có 2 nghĩa. Nếu bàn về thức thể từ chủng tử sinh thì tự thuộc vào tính y tha. Nếu bàn về biến dị là tướng mạo như sắc v.v…thì đây thuộc về tính phân biệt. các tướng mạo như sắc v.v…tách rời thức không có cái thể riêng biệt. Nay nói tính y tha là nhân phân biệt, lấy cái nghĩa y tha biến dị làm nhân phân biệt, không lấy cái nghĩa thức thể từ chủng tử sinh làm nhân phân biệt.
Luận nói : là sở phân biệt nên thành phân biệt.
Giải thích : Tướng mạo biến khác là sở phân biệt của thức. Vì nghĩa này nên thành lập sở phân biệt là tính phân biệt.
Luận nói : Lại vì nghĩa gì, đây thành chân thật ?
Cái tính y tha này thành chân thật là vì như cái sở phân biệt thật sự nó không thật có như nó bị phân biệt.
Giải thích : Tính y tha biến khác làm các trần bị phân biệt như sắc v.v…Các trần này nó không thật có như nó bị phân biệt. Theo tính y tha nói trần là vô sở hữu, tức là lấy tính y tha làm tính thành thật. Để lưu ý về hữu đạo nên không nói rõ tính y tha là tính vô vi chân thật.
Luận nói : Lại nữa vì nghĩa gì mà do một thức này thành tướng mạo tất cả các thức khác ?
Giải thích : Đây lại hỏi vì đạo lý gì. Chỉ là một thức mà hoặc thành 8 thức, hoặc thành 11 thức cho nên nói là tất cả. Ở trong mỗi một thức, như nhãn thức phân biệt xanh, vàng v.v…có nhiều thứ tướng mạo của thức. Chỉ là một thức sao lại có các thức gì, sở dĩ câu hỏi đó trước đã giải thích nghĩa khác, dưới đây giải thích nghĩa không khác. Muốn làm rõ tính y tha có đủ 3 tính, một thức từ chủng tử sinh là y tha mà có, tướng mạo các thức khác nhau là phân biệt. Phân biệt thật sự là vô sở hữu, đó là tính chân thật.
Luận nói : Bản thức thức,
Giải thích : Một thức gọi là một bản thức. Bản thức biến dị làm ra các thức nên gọi là thức thức. Nay không luận về biến dị làm căn trần, nên chỉ nói thức thức.
Luận nói : ngoài ra là sinh khởi thức, vì có nhiều tướng mạo,
Giải thích : Ngoài ra tức thức A-đà-na. Sinh khởi thức tức 6 thức. Biến dị là thất thức, tức là tướng mạo của bản thức.
Luận nói : rồi lại từ các tướng mạo này tiếp tục sinh khởi.
Giải thích : Vì thất thức huân tập bản thức làm chủng tử, chủng tử này lại biến dị bản thức làm thất thức. Sau thất thức liền theo chủng tử tướng mạo trước tiếp tục sinh khởi.
Tính y tha có mấy thứ ?
Giải thích : Câu này hỏi có mấy thứ thể loại và nghĩa.
Luận nói : Lược nói có 2 thứ, một là nó thuộc chủng tử huân tập,
Giải thích : Trước nói rõ thể loại của y tha từ 2 thứ huân tập sinh : một là từ nghiệp phiền não huân tập sinh, hai là từ văn huân tập sinh. Do thể loại hệ thuộc 2 thứ huân tập này nên gọi là tính y tha. Nếu thể loại của quả báo thức là tính y tha thì từ nghiệp phiền não huân tập sinh. Nếu thể loại của văn tư tu tuệ xuất thế gian thì từ văn huân tập sinh.
Luận nói : hai là nó không nhất thiết hệ thuộc tịnh phẩm hay bất tịnh phẩm. Vì vậy do hai tính chất này gọi nó là y tha.
Giải thích : Nay giải thích về nghĩa y tha. Nếu thức phân biệt tính này hoặc thành phiền não, hoặc thành nghiệp, hoặc thành quả báo thì thuộc bất tịnh phẩm. Nếu Bát-nhã duyên tính này vô sở phân biệt thì thành tịnh phẩm. Nghĩa là cảnh giới thanh tịnh, đạo thanh tịnh, quả thanh tịnh. Nếu có tự tính không y tha thì quyết định thuộc nhất phẩm. Đã là tính bất định thì hoặc thuộc tịnh phẩm hoặc thuộc bất tịnh phẩm. Do 2 phần này, tùy theo một phần không thành tựu nên gọi là y tha.
Luận nói : Tính phân biệt cũng có 2 thứ, một là phân biệt về tự tính,
Giải thích : Như nhãn v.v…trong các giới phân biệt một giới, hoặc nhãn hoặc nhĩ v.v…gọi là phân biệt tự tính.
Luận nói : hai là phân biệt về sự sai biệt.
Giải thích : Như vô thường v.v…lại phân biệt nhãn này v.v…gọi là phân biệt sai biệt.
Luận nói : Tính chân thật cũng có 2 thứ, một là thành tựu tự tính,
Giải thích : Nghĩa là hữu cấu chân như.
Luận nói : hai là thành tựu thanh tịnh.
Giải thích : Nghĩa là vô cấu chân như.
Luận nói : Lại nữa phân biệt cũng được chia thành 4 thứ, một là phân biệt về tự tính, hai là phân biệt về sự sai biệt, ba là có hiểu biết, bốn là không hiểu biết. Có hiểu biết nghĩa là có thể phân biệt hiểu rõ danh ngôn, chúng sinh.
Giải thích : Nếu chúng sinh trước hiểu biết kiến văn v.v…4 thứ ngôn thuyết, nhân danh ngôn khởi phân biệt gọi là có hiểu biết.
Luận nói : Không hiểu biết có nghĩa là không thể phân biệt hiểu biết danh ngôn, chúng sinh.
Giải thích : Nếu chúng sinh như các loài bò dê v.v…trước không thể hiểu biết kiến văn v.v…4 thứ ngôn thuyết, do sở phân biệt của chúng không do ngôn ngữ thành lập, nên gọi là không hiểu biết.
Luận nói : Lại nữa phân biệt có 5 thứ : Một là tự tính dựa vào tên gọi mà phân biệt nghĩa.
Giải thích : Nghĩa tức là pháp được tên gọi chỉ ra. Trước đã biết tên vật này, sau dùng tên phân biệt lấy vật này.
Luận nói : Thí dụ như tên này là chỉ nghĩa này.
Giải thích : Tên này xưa nay là chủ vào thể này. Cho nên được tên này thì phân biệt được cái thể này.
Luận nói : Hai là tự tính dựa vào nghĩa phân biệt tên.
Giải thích : Trước biết thể của vật này mà chưa biết tên. Sau nghe nói tên của nó thì biết cái thể, phân biệt giữ lấy tên này.
Luận nói : Thí dụ như nghĩa này là thuộc tên gọi này.
Giải thích : Thể này chính là tên này nên khi được thể này thì phân biệt giữ tên gọi này.
Luận nói : Ba là tự tính dựa vào tên mà phân biệt với tên khác.
Giải thích : Như tên gọi vật của một nước khác, mới nghe chưa hiểu, sau thường nghe tên, phân biệt hiểu được tên gọi này.
Luận nói : Thí dụ như phân biệt cái tên mà chưa biết nghĩa.
Giải thích : Chưa biết tên gọi đó là nghĩa gì nên không hiểu tên này.
Luận nói : Bốn là tự tính dựa vào nghĩa mà phân biệt với nghĩa khác.
Giải thích : Như trông thấy vật thể này mà chưa biết tên, dùng vật loại phân biệt với vật này mới biết cái thể của nó.
Luận nói : Thí dụ phân biệt nghĩa của cái mà chưa biết tên.
Giải thích : Do chưa biết tên nên lấy nghĩa mà phân biệt nghĩa.
Luận nói : Năm là tự tính dựa vào phân biệt cả hai tên và nghĩa.
Giải thích : Như 2 tên vàng bạc, có 2 thể vàng và bạc. Cả 2 tên và thể đều chưa biết tên vàng là chỉ cho vật thể màu đỏ hay chỉ cho vật thể màu trắng, và tên bạc cũng vậy. Vật thể màu đỏ tên vàng, thì cũng vậy vật thể màu trắng là tên bạc.
Luận nói : Thí dụ tên này thì nghĩa này, nghĩa gì thì tên gì.
Giải thích : Ý nghĩa như đã giải thích trước.
Luận nói : Nếu gồm tất cả phân biệt thì lại có 10 thứ.
Giải thích : Như trước đã có gồm đủ nghĩa, chỉ chưa nói rõ phẩm loại. Nghĩa gồm đủ đây có 10 thứ phân biệt nói rõ nghĩa gồm đủ phẩm loại và gồm thâu hết tất cả.
Luận nói : Một là phân biệt căn bản, tức là bản thức.
Giải thích : Tức là tất cả phân biệt căn bản tự thể, phân biệt cũng tức là thức A-lê-da.
Luận nói : Hai là phân biệt tướng, tức sắc thức v.v…
Giải thích : Phân biệt này lấy tướng làm tướng, tức sắc v.v…các trần thức.
Luận nói : Ba là phân biệt dựa vào sự hiển thị, tức sự hiểu biết dựa vào nhãn v.v…các thức thức.
Giải thích : Sự phân biệt này lấy y chỉ và hiển thị làm tướng. Cũng là sở phân biệt, cũng là năng phân biệt. Tức 6 căn và 6 trần. Sáu căn là sở y chỉ. Sáu thức là năng y chỉ.
Luận nói : Bốn là phân biệt cái tướng biến đổi khác.
Giải thích : Tướng là 6 trần. Sự phân biệt này lấy tướng biến đổi khác làm tướng.
Luận nói : Tức như biến đổi khác thành già v.v…,
Giải thích : Như thân tứ đại trước sau biến đổi khác gọi là già. Nếu thức phân biệt cái già này gọi là phân biệt biến đổi tướng già. Chữ v.v…là nói bao gồm bệnh và chết.
Luận nói : các khổ thụ lạc thụ v.v…,
Giải thích : Thân tâm thụ khổ vui, trước sau biến đổi. Thức phân biệt sự cảm thụ này gọi là phân biệt biến đổi tướng thụ. Chữ v.v…là nói bao gồm sự cảm thụ không khổ không vui.
Luận nói : các hoặc phiền não như dục v.v…,
Giải thích : Cái tâm dục trước sau biến đổi. Thức phân biệt dục này gọi là phân biệt biến đổi tướng dục. Chữ v.v…là nói bao gồm các hoặc sân, si v.v…
Luận nói : và biến đổi về sự trái thời tiết v.v…,
Giải thích : Bức bách phi lý là loạn, không trái nghịch khí hậu lạnh nóng là đúng thời tiết. Biến đổi loạn trái trước sau về thời tiết, thức phân biệt sự loạn trái về thời tiết này gọi là phân biệt biến đổi tướng loạn trái thời tiết. Chữ v.v…là nói bao gồm có nhân duyên bức bách, trái nghịch lạnh nóng, sung túc kém thiếu.
Luận nói : biến đổi về các cõi như Địa ngục v.v…,
Giải thích : Đây là biến đổi các nẻo đường trong luân hồi. Bỏ 5 ấm này thụ 5 ấm của Địa ngục đạo. Các đạo trước sau biến đổi gọi là đạo biến dị. Thức phân biệt đạo này gọi là phân biệt biến đổi tướng đạo. Chữ v.v…là nói bao gồm 5 đạo khác trong lục đạo.
Luận nói : cõi Dục v.v…
Giải thích : Tức nói đầy đủ trói buộc, lìa thoát trói buộc sinh biến đổi. Thụ sinh 3 cõi có sự biến đổi trước sau đủ trói buộc lìa trói buộc. Thức phân biệt sự thụ sinh này gọi là phân biệt biến đổi tướng sinh. Chữ v.v…là nói gồm cả cõi Sắc và Vô sắc.
Luận nói : Năm là phân biệt dựa vào sự hiển thị các biến đổi,
Giải thích : Nghĩa là nhãn v.v…các thức biến đổi. Phân biệt này lấy tướng biến đổi của nhãn v.v…các thức làm tướng.
Luận nói : tức như trước đã nói các biến đổi
Giải thích: Như trước đã nói biến đổi thành già đi v.v…Sự biến đổi trong các vị như nhãn v.v…các thức biến đổi.
Luận nói : khởi phân biệt biến đổi.
Giải thích : Ý thức cũng như vậy y chỉ hiển thị biến đổi mà phân biệt cho nên gọi là y hiển thị phân biệt biến đổi.
Luận nói : Sáu là phân biệt do từ cái khác dẫn đến,
Giải thích : Phân biệt này do từ ngôn thuyết người khác sinh ra.
Luận nói : tức như phân biệt do nghe loại chính pháp hay phi chính pháp.
Giải thích : Phân biệt này có 2 loại : một là loại phân biệt nghe phi chính pháp, hai là loại phân biệt nghe chính pháp. Nghĩa là phân biệt loại thực hành ác pháp và phân biệt loại thực hành thiện pháp. Tư tu cũng vậy. Phân biệt này lấy sự nghe ngôn thuyết người khác làm tướng, nên gọi là phân biệt do người khác dẫn đến.
Luận nói : Bảy là phân biệt không đúng lý,
Giải thích : Là phân biệt trước, nghe phi chính pháp là nhân.
Luận nói : tức sự phân biệt loại không đúng chính pháp của người ngoài chính pháp.
Giải thích : Nghĩa là 96 thứ ngoại đạo, ngoài sự văn tư tu chân chính.
Luận nói : Tám là phân biệt đúng lý,
Giải thích : Tức là trước phân biệt nghe chính pháp làm nhân.
Luận nói : tức như cái phân biệt của người trong chính pháp khi nghe chính pháp.
Giải thích : Nghĩa là người Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát trong pháp văn tư tu.
Luận nói : Chín là phân biệt các chấp trước quyết đoán. Tức các thứ tư duy không đúng lý,
Giải thích : Lấy tư duy không đúng làm nhân.
Luận nói : Căn bản là thân kiến cùng với phân biệt 62 kiến chấp tương ưng.
Giải thích : Y chỉ vào ngã kiến như Kinh Phạm Võng có nói rõ các loại kiến chấp, gọi là 62 kiến tương ưng phân biệt.
Luận nói : Mười là phân biệt tán động, tức 10 thứ phân biệt của Bồ-tát.
Giải thích : Bồ-tát phân biệt không tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật đều gọi là tán động. Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói 10 pháp đối trị 10 thứ tán động. Hai pháp đầu chính là Bát-nhã Ba-la-mật. Nghĩa là làm rõ chân không, khiển trừ tục hữu tức thật hữu. Bồ-tát không thấy có Bồ-tát. Tiếp đến 5 việc, có 3 giải thích. Giải thích thứ nhất nói khiển trừ tên của sự vật. Hai cái đầu kiển trừ tên, tức không thấy có tên Bồ-tát, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật. Ban đầu khiển trừ tên người, sau khiển trừ tên pháp. Hai cái tiếp theo là khiển sự, tức không thấy hành, không thấy không hành. Đây có 3 nghĩa : Một không thấy Bồ-tát có khả năng thực hành, Nhị thừa không có khả năng thực hành. Hai
Không thấy các pháp chính cần trợ đạo là hành, không thấy sự biếng nhác v.v… bị đối trị là không hành. Ba không thấy Bồ-tát tu đạo chưa viên mãn nên hành, không thấy Bồ-tát tu đạo đã viên mãn nên không hành. Một cái sau là khiển trừ tên gọi, sự tướng của vật. Bởi vật gì là căn bản ? Bởi 5 ấm là căn bản, cũng không thấy 5 ấm, tức không thấy sắc, không thấy thụ tưởng hành thức. Giải thích thứ hai nói hai cái đầu làm rõ không thấy người không thấy pháp. Hai cái sau làm rõ việc không thấy người thực hành pháp là hành, không thấy người không thực hành pháp là không hành. Một cái sau làm rõ 5 ấm là bị hành đối trị. Năm ấm tức khổ tập 2 đế. Không thấy có tập để đoạn, không thấy có khổ để xa lìa. Giải thích thứ ba nói hai cái đầu là không thấy có người năng hành và đạo sở hành. Hai cái sau là không thấy có trợ đạo. Một cái sau làm rõ lý không thấy có bị đối trị. Trong 5 việc này, mỗi việc đều đầy đủ 8 pháp.
Luận nói : Một tán động không có tướng.
Giải thích : Không có tướng là nhân của tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói Bồ-tát là thật có Bồ-tát.
Giải thích : Do nói thật có hiển thị có Bồ-tát, lấy chân như không làm thể.
Luận nói : Hai tán động có tướng.
Giải thích : Có tướng là nhân tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói không thấy có Bồ-tát.
Giải thích : Không thấy có Bồ-tát, lấy phân biệt y tha làm thể.
Luận nói : Ba tán động tăng ích.
Giải thích : Vì cái có tăng ích là vô sở hữu nên chấp này là tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Bởi vì sao ? Do sắc tự tính là không.
Giải thích : Do phân biệt sắc tính sắc tính không.
Luận nói : Bốn tán động tổn giảm.
Giải thích : Vì cái không tổn giảm là thật có, nên chấp này là tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Chẳng do không không.
Giải thích : Sắc này chẳng phải do chân như không nên không.
Luận nói : Năm tán động một chấp.
Giải thích : Nghĩa là y tha phân biệt tức là không, nên chấp này là tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Sắc không này chẳng phải sắc.
Giải thích : Nếu tính y tha và tính chân thật là một tính chân thật thì tính y tha cảnh giới thanh tịnh cũng phải như vậy.
Luận nói : Sáu tán động khác chấp.
Giải thích : Sắc khác với không. Chấp này là tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Không có sắc khác không nên sắc tức là không, không tức là sắc.
Giải thích : Nếu sắc khác không thì cái không này không thành sắc gia pháp không, không thành tướng chung của sắc, nghĩa này không thành. Ví như pháp hữu vi với vô thường không khác nhau, nếu nắm lấy tính phân biệt nói sắc tức là không, không tức là sắc. Bởi vì sao ? Cái sắc phân biệt này vĩnh viễn là vô sở hữu. Cái vĩnh viễn vô sở hữu này tức là có tức là không. Cái không tức là sắc này là vô sở hữu, như tính y tha đối với tính chân thật không thể nói một vì do cảnh giới thanh tịnh và không thanh tịnh.
Luận nói : Bảy tán động chung.
Giải thích : Chấp sắc có tướng chung làm tính, nghĩa là có ngại. Cái chấp này là tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Bởi vì sao ? Xá-lợi-phất ! Đây chỉ có cái tên gọi là sắc.
Giải thích : Chỉ có tên là tướng chung của sắc. Bởi vì sao ? Nếu rời bỏ cái tên gọi, sắc thật không có bản tính.
Luận nói : Tám tán động riêng.
Giải thích : Đã chấp sắc có tướng chung, lại phân biệt sắc có các sai biệt sinh diệt nhiễm tịnh v.v…. Cái chấp này là tán động. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Là tự tính không sinh không diệt không nhiễm không tịnh.
Giải thích : Cái sắc này là vô sở hữu, đó là tướng chung. Nếu có sinh tức có nhiễm, nếu có nhiễm tức có tịnh. Do không có 4 nghĩa này nên sắc không có tướng riêng.
Luận nói : Chín tán động lấy nghĩa theo tên.
Giải thích : Như tên chấp nghĩa là tán động nghĩa. Để đối trị tán động này nên kinh nói : Đối giả lập tên phân biệt các pháp.
Giải thích : Tên là giả dối trống rỗng lập ra, đối các tên phân biệt tất cả pháp.
Luận nói : Mười tán động lấy tên theo nghĩa.
Giải thích : Như nghĩa lấy tên là khởi chấp trước cũ. Cái chấp này là tán động. Để đối trị tán động này kinh nói : Do giả lập khách danh, tùy nói các pháp.
Giải thích : Tên và pháp không đồng tướng. Kinh nói : Như tùy nói như vậy như vậy sinh khởi chấp trước.
Giải thích : Theo cái tên giả lập nói các pháp, chấp cái tên và pháp không khác. Kinh nói : Như vậy Bồ-tát không thấy tất cả tên. Nếu không thấy không sinh chấp trước.
Giải thích : Để đối trị 10 thứ tán động nên nói Bát-nhã Ba-la-mật. Do thuyết này là nhân không phân biệt sinh trí, do trí không phân biệt diệt các hoặc phân biệt.
Luận nói : Để đối trị 10 thứ phân biệt tán động này, trong tất cả kinh giáo Bát-nhã Ba-la-mật, Phật Thế Tôn nói trí vô phân biệt có thể đối trị 10 thứ tán động này. Phải biết đầy đủ nghĩa của Kinh Bát-nhã Ba-la-mật. Như Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói :
Thế nào là Bồ-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật ? Này Xá-lợi-phất ! Là Bồ-tát thật có Bồ-tát, không thấy có Bồ-tát, không thấy tên Bồ-tát, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật, không thấy thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, không thấy không thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, , không thấy sắc, không thấy thụ tưởng hành thức. Bởi vì sao ? Sắc do tự tính không, chẳng phải do không không, là sắc không, chẳng phải sắc. Không có sắc khác với không, nên sắc tức không, không tức sắc. Bởi vì sao ? Xá-lợi-phất ! Đây chỉ có tên. Nói sắc là tự tính, không sinh không diệt không nhiễm không tịnh. Đối lại với tên giả lập phân biệt các pháp, do tên giả lập khách trần tùy nói là các pháp như như, tùy nói là như vậy như vậy sinh khởi chấp trước. Tất cả những tên giả lập như thế Bồ-tát không thấy. Nếu không thấy không sinh chấp trước, như quán sắc cho đến thức cũng phải quán như vậy. Do câu trong Kinh Bát-nhã Ba-la-mật, phải tùy thuận tư duy 10 thứ nghĩa phân biệt.
Giải thích : Như 8 thứ quán sắc ấm. Cũng phải làm 8 thứ quán 4 ấm khác. Cho đến 4 việc trước cũng phải làm 8 thứ quán.
Luận nói : Nếu do ý riêng này mà tính y tha thành có 3 tính. Ba tính này vì sao có 3 tính khác nhau không thành xen tạp lẫn lộn?
Giải thích : Câu này hỏi trước chia 3 tính khác nhau, tiếp đến nói tính y tha có nghĩa khác thành 3 tính. Nếu trong tính y tha nói 3 tính có 3 khác nhau thì 3 tính thành lẫn lộn, không thể nói thiên về một tính. Vì sao không lẫn lộn ?
Luận nói : Không có nghĩa xen tạp lẫn lộn.
Giải thích : Vì lý có khác nên không xen tạp lẫn lộn.
Luận nói : Do lý này mà tính này thành y tha chứ không do đây thành phân biệt và chân thật.
Giải thích : Chữ “này” tức như trước đã nói rõ là do hệ thuộc chủng tử và hệ thuộc tịnh phẩm bất tịnh phẩm v.v…nên thành tính y tha, chứ không thể vì lý này mà thành tính phân biệt và tính chân thật.
Luận nói : Do lý này mà tính này thành phân biệt chứ không do đây mà thành y tha và chân thật.
Giải thích : Chữ “này” tức như trước đã nói rõ là do phân biệt tự tính, phân biệt sai biệt v.v…các lý nên thành tính phân biệt, chứ không thể vì lý này mà thành tính y tha và tính chân thật.
Luận nói : Do đạo lý này mà tính này thành chân thật chứ không do đây mà thành y tha và phân biệt.
Giải thích : Chữ “này” tức như trước đã nói rõ là do tự tính thành tựu thanh tịnh thành tựu v.v…các lý nên thành tính chân thật, chứ không thể vì lý này mà thành tính y tha và tính phân biệt.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 15 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Đừng đánh mất tình yêu


Giảng giải Cảm ứng thiên - Tập 1


Hát lên lời thương yêu


Giảng giải Cảm ứng thiên - Tập 2

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.143.168.172 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập