Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Nhiếp Đại Thừa Luận Thích [攝大乘論釋] »» Bản Việt dịch quyển số 4 »»

Nhiếp Đại Thừa Luận Thích [攝大乘論釋] »» Bản Việt dịch quyển số 4

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.61 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.77 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa

Kinh này có 15 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
Việt dịch: Nguyên Hồng

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm thứ ba : Giải thích các dẫn chứng
Chương 6 : Thuận đạo lý
Luận nói : Nếu người nhập Diệt tâm định, do thức không lìa thân cho nên quả báo thức ở trong định cũng không lìa thân.
Giải thích : Chương này lại dẫn những gì không trái đạo lý để nói rõ thật có bản thức. Nếu người gọi đệ tam, đệ tứ quả, Độc Giác, Bồ-tát v.v…là được tịch tĩnh trụ và lìa lỗi thoái thất, cho nên thánh nhân tu Diệt tâm định. Chẳng phải diệt tâm thể gọi là diệt tâm mà diệt tâm pháp nên gọi diệt tâm. Lấy năng y theo sở y nên lập tên là tâm. Phật nói : Người này khi nhập định thức không rời thân. Thức này chỉ là quả báo thức. Nếu rời thức này mà nói trong 6 thức tùy theo một, các thức khác không rời thân, nghĩa này không thành. Bởi vì sao ? Tu Diệt tâm định này là đối trị sinh khởi thức. Do quán sinh khởi thức có lỗi không vắng lặng. Nói lỗi tức là 6 thức duyên ngoại trần có khởi lên nghĩa tư duy không đúng đắn. Do không chính tư duy nên làm thoái thất định. Đây là lỗi thứ nhất do sinh khởi thức ở trong trạng thái tán động làm chướng ngại. Không được hết sức vi tế vắng lặng, đây là lỗi thứ hai. Đã được thì thoái thất, chưa được thì không được. Để đối trị 2 lỗi này nên tu Diệt tâm định. Nếu lập thức không rời thân, phải biết đó là bản thức.
Luận nói : Bởi vì sao ?
Giải thích : Lại dùng nghĩa gì chứng minh biết thức chẳng rời thân chỉ là bản thức.
Luận nói : Vì Diệt tâm định không đối trị thức này.
Giải thích : Nếu người muốn được trụ trong vắng lặng, không quán các lỗi của thức này không đối trị thức này được, vì vậy nên tu Diệt tâm định. Cho nên chính khi nhập Diệt tâm định không diệt thức này, tức là nói thức này không rời thân.
Luận nói : Làm sao biết ?
Giải thích : Làm sao biết được nghĩa này ? Vì sao không nói khi nhập Diệt tâm định, thật không có tâm trở lại. Tâm không phải diệt vĩnh viễn vì sau sẽ sinh lại, cho nên nói thức không rời thân. Phật nói : Nếu người nhập Đệ tứ định thì thân hành đoạn. Nếu người nhập Đệ nhị định v.v…thì ngôn hành đoạn. Nếu người nhập Diệt tâm định thì tâm hành đoạn. Như vậy là thân hành đoạn mà thân không diệt thì với tâm cũng vậy. Chỉ tâm hành diệt mà tâm không diệt. Cho nên nói thức không rời thân. Nghĩa ấy không đúng. Bởi vì sao ?
Luận nói : Vì nếu đối trị thức này thì khi xuất định, thức sẽ không sinh trở lại.
Giải thích : Nếu ở trong định này thì sự tương tục của thức gián đoạn, chứ không có nghĩa là có một thức nào khác, hay xuất định ra rồi có thức sinh trở lại.
Luận nói : Bởi vì sao ?
Giải thích : Muốn lại dẫn đạo lý để thành tựu nghĩa này.
Luận nói : Vì sự tương tục của quả báo thức đã đoạn. Nếu khi đã lìa sự thác sinh thì sẽ không sinh trở lại được.
Giải nghĩa : Như người đã hết một kỳ quả báo, sự tương tục của quả báo thức đoạn dứt vĩnh viễn, không có nghĩa sinh trở lại, nếu thức sinh trở lại phải thác sinh vào sinh thân khác. Nếu không thác sinh vào sinh thân khác mà quả báo thức trở lại sinh lại trong bản thân là chuyện không thể có. Cho nên biết khi nhập Diệt tâm định, nói thức không rời thân, đó chỉ là bản thức.
Luận nói : Có người nói trong Diệt tâm định vẫn có tâm. Cái mà người này nói tâm đó là không đúng.
Giải thích : Nói có cái tâm thứ 6 gọi là có tâm, hay nói tâm thứ 6 là thức không rời thân ? Như người kia nói thì không phải là tâm.
Luận nói : Bởi vì sao ?
Giải thích : Lại muốn dẫn đạo lý để phá cái thức thứ 6, lập bản thức rõ ràng không rời thân. Nếu lìa cái tướng của bản thức đã lập ở trước, trong các sinh khởi thức tùy chấp lấy một thức mà nói là trong Diệt tâm định có là không phải vậy. Bởi vì sao ?
Luận nói : Vì định nghĩa bất thành.
Giải thích : Dưới đây dùng 10 nghĩa nói rõ sai lầm cho rằng trong Diệt tâm định có tâm. Đây là sai lầm thứ nhất. Tâm và tâm pháp chưa bao giờ thấy tách rời nhau. Như các tâm pháp với các tâm pháp, như tưởng không bao giờ tách rời thụ, thụ cũng không bao giờ lìa tưởng. Tâm với tâm pháp cũng vậy, không bao giờ tách rời nhau. Nếu không tách rời nhau thì Diệt thụ tưởng định và Diệt tâm định ắt bất thành. Do diệt 3 pháp nên định này thành. Ba pháp đã không diệt cho nên định này bất thành. Nếu người chấp có bản thức nói thức không rời thân thì không có lỗi này, vậy tại sao các thức khác đều diệt riêng thức này không diệt ? Người tu Diệt tâm định cầu được trụ trong vắng lặng, để đối trị tâm và tâm pháp có thể làm chướng ngại việc trụ trong vắng lặng nên Diệt tâm định sinh, không vì đối trị việc không hiểu rõ bản thức mà tu Diệt tâm định cho nên các thức diệt thức này không diệt. Lại nữa trong định này nếu rời bản thức thì các thức khác không thành.
Luận nói : Vì không hiểu được tướng và cảnh.
Giải thích : Đây là lỗi thứ hai. Nếu người chấp tâm và tâm pháp là có thì cái có này ắt có hiểu được tướng và cảnh giới. Hiểu tướng có 2 thứ, một là không phân biệt, hai là có phân biệt. Không phân biệt tức là 5 thức. Ý thức hoặc có phân biệt hoặc không phân biệt. Nếu không phân biệt thì 6 thức đồng là chứng biết. Nếu có phân biệt tức là biết do so sánh. Cảnh giới tức là 6 trần và chân như của 6 trần. Tâm và tâm pháp hiểu tướng và cảnh giới đều có thể hiểu rõ tướng và cảnh giới. Ở trong định này đã không thể được, cho nên biết trong định này quyết không có các thức khác. Nếu nói trong định này có bản thức thì không hại. Vì thức này có thể sinh y chỉ sở hiển.
Luận nói : Vì lỗi tương ưng với thiện căn.
Giải thích : Đây là lỗi thứ ba. Lại nữa nếu chấp định này có sinh các thức khác, thức này không ra ngoài 3 tính là thiện, ác, vô ký. Tâm này không thể lập là tính thiện, vì có lỗi tương ưng với thiện căn. Do đây và kia trái nhau. Nếu thức không tương ưng với thiện căn mà tự tính là thiện thì vô nghĩa. Tâm này là thiện thì chắc chắn tương ưng với thiện căn. Nếu nói do định tâm là thiện cho nên nói định là thiện thì không đúng. Không phải do ông chấp nhận tương ưng với các thiện căn không tham v.v…Nghĩa này phải dùng đến nghĩa mất Diệt tâm định. Bởi vì sao ? Thiện tâm là thông tất cả không phân biệt, vì tất cả tâm pháp đều không tách rời nhau. Nếu không tách rời nhau thì thụ tưởng cũng không diệt. Vì vậy cho nên không thể lập cái tâm này là thiện.
Luận nói : Vì không tương ưng với ác và vô ký.
Giải thích : Đây là lỗi thứ tư. Lại nữa cũng không thể lập cái tâm này là tính ác và vô ký, vì 2 tính này không thành tựu. Khi lìa dục cõi Dục thì tất cả ác pháp đều diệt, nên chẳng phải tính ác. Do đó nhất định là thiện, cho nên không thể lập tâm này là tính vô ký.
Luận nói : Vì lỗi sinh khởi tưởng và thụ.
Giải thích : Đây là lỗi thứ năm. Lại nữa không thể nói tâm này là thiện, vì sinh lỗi có tưởng, thụ v.v… Lìa thiện căn không thành thiện tính, cho nên thiện tâm ắt cùng thiện căn tương ưng. Như ắt cùng thiện căn tương ưng thì cũng phải ắt cùng thụ tưởng tương ưng. Vì không có nhân khác nên nghĩa này bất thành. Sở đối trị là có, năng đối trị cũng là có.Ví như dục v.v…, chính sinh bất tịnh quán v.v…thì không được có. Nếu ông không chấp nhận nghĩa này thì biết là không thành thiện tâm.
Luận nói : Ba cái này hòa hợp ắt phải có xúc. Vì trong các định khác đều có công năng này.
Giải thích : Đây là lỗi thứ sáu. Lại nữa nếu tin nhận bản thức, trong định này không có lỗi xúc sinh nên ví như ở các định khác, nếu trong Diệt tâm định có thiện tâm khác sinh khác với bản thức, tâm này ắt phải không lìa xúc, nhân định sinh, đâu phải là tướng có thể sinh cảm thụ vui v.v…Cảm xúc vui, cảm xúc không khổ không vui phải sinh nhân, đây đâu phải xúc cảm thụ vui, cảm thụ không khổ không vui ắt phải sinh. Bởi vì sao ? Ở các định khác đã thấy có công năng sinh lạc, xả 2 thụ. Định này cũng vậy, vì không có cản trở chướng ngại. Cho nên định này cũng phải dựa vào xúc sinh thụ. Nghĩa này không phải vậy. Bởi vì sao ?
Luận nói : Vì lỗi chỉ diệt tưởng.
Giải thích : Đây là lỗi thứ bảy. Lại nữa nếu tin do xúc cho nên định này có thụ thì định này chỉ không có tưởng. Nghĩa này không phải vậy. Bởi vì sao ? Phật nói tưởng thụ đều không.
Luận nói : Vì lỗi sinh khởi các thiện căn như tác ý, tín v.v…
Giải thích : Đây là lỗi thứ tám. Lại nữa không nên có xúc này. Ở nơi các thức khác đều có xúc tương ưng vì khi sinh có tác ý, tín v.v…thiện căn sinh khởi lỗi nếu có xúc cùng tâm tương ưng sinh. Phật nói : Tác ý, thụ v.v…ắt cùng xúc cùng sinh. Nếu có tác ý ắt có thể sinh thiện tâm v.v… Tín v.v…các thiện căn liền theo tác ý khởi. Nghĩa này không đúng vì không khỏi lỗi đã nói ở trước. Nếu ông muốn thoát khỏi lỗi đã nói ở trước, và lỗi trái với A-hàm do tâm pháp chán ghét cho nên chỉ đánh bật tâm pháp. Định này chỉ có tâm không có tâm pháp. Nghĩa này không phải vậy. Bởi vì sao ? Theo sở y bạt trừ năng y là không có lý.
Luận nói : Vì lìa sở y không thể bạt trừ năng y.
Giải thích : Đây là lỗi thứ chín. Lại nữa nếu ông nói do phương tiện trong định này chán ghét xúc thụ tưởng v.v…nên bạt trừ tâm pháp, chỉ có tâm không xúc v.v… Nghĩa này không phải vậy. Bởi vì sao ? Theo sở y bạt trừ năng y là không thể được. Sở y là tâm. Năng y là tâm pháp. Tâm và tâm pháp là chuyện sở y năng y từ sinh tử vô thủy đến nay hằng không lìa nhau, do đây dắt dẫn nhau cho nên tâm phải thành tựu cùng vô tham v.v…các thiện căn tương ưng. Nếu ông nói định và phương tiện trong định khởi tất phải cùng vô tham v.v…các thiện căn trái nhau, cho nên vô tham v.v… các thiện căn không sinh, chỉ sinh thiện tâm, ở các nơi khác chưa từng thấy có nghĩa này. Các pháp nếu nhân có tương ưng thì tương tự quả cũng có tương ưng. Chấp này không đúng.
Luận nói : Vì có thí dụ.
Giải thích : Đây là lỗi thứ mười. Lại nữa Phật nói : Ở trong định này tất cả thân hành, ngữ ngôn hành, tâm hành đều diệt không khởi. Thân hành là 2 hơi thở ra vào. Ngữ ngôn hành là giác quán tư duy. Tâm hành là tác ý, tưởng, thụ v.v…Như giác quán tư duy diệt hết thì ngữ ngôn không sinh. Như vậy nếu tâm hành diệt tâm cũng diệt theo. Nếu ông nói như khi thân hành diệt người ở trong định thân không hoại diệt. Như thế ở trong định tâm hành tuy diệt mà tâm không diệt. Nghĩa này cũng không phải vậy. Bởi vì sao ?
Luận nói : Như chẳng phải nhất thiết hành, vì nhất thiết hành không phải như thế.
Giải thích : Khi thân hành diệt có nhân trụ riêng khiến có thể duy trì thân không hoại diệt. Như Phật nói : Nếu lìa hơi thở ra vào, sự ăn uống, thọ mạng thức v.v…có thể duy trì thân khiến không hoại diệt. Như khi thân hành diệt, có biệt pháp duy trì thân trụ. Khi tâm hành diệt không có biệt pháp duy trì tâm khiến không diệt. Vì vậy chỗ ông lập đều không đúng với nghĩa này. Cho nên sự trụ giữ này là do đạo lý này, chắc chắn là không có tâm. Nếu không có tâm, sao Phật nói thức không lìa thân ? Đó là quả báo tâm., Phật gọi là thức. Nếu khi xuất quán, ý thức từ tất cả chủng tử thức này sinh, do thức sau có nhân, và trong định thân có thức thực. Cho nên biết bản thức chắc chắn có. Nếu nó xưa nay làm công dụng lớn cho năng y sở y mà bạt trừ năng y khiến lìa sở y là không có nghĩa. Bởi vì sao ? Do thí dụ thành. Trong thế gian từ xưa đến nay cho đến khi cùng tận hằng cùng sinh khởi không tách rời nhau, không có đạo lý nào có thể bạt trừ năng y ra khỏi sở y. Giống như tứ đại và tứ đại sở tạo sắc, không có đạo lý nào có thể làm cho sở tạo lìa khỏi năng tạo. Tâm pháp cũng vậy, không thể khiến lìa y chỉ. Cho nên trong Vô tâm định chỉ có tâm không có tâm pháp là không đúng. Nếu ông chấp cho rằng từ sở y bạt trừ năng y là không có nghĩa. Do chỉ chán ghét thụ và tưởng cho nên chỉ 2 pháp này diệt. Ở trong định này, 2 pháp không hành được thì các pháp khác cũng vậy, nghĩa này không đúng. Bởi vì sao ? Nếu chẳng phải nhất thiết hành có thể diệt được như thế, chẳng phải nơi nhất thiết hành có được diệt như thế. Nếu biến hành diệt, tâm chắc chắn sẽ diệt theo thì Phật không nên nói thức không lìa thân. Do có thức này cho nên biết Như Lai vì thành lập bản thức là có ở trong định này. Lại nữa kinh nói thức không lìa thân. Đây là nói nếu lìa bản thức thì không thành các thức khác. Bởi vì sao ? Diệt tâm định này là đối trị sinh khởi thức mà sinh do quán cái sinh khởi thức là không vắng lặng. Cho nên nếu có người cho rằng khi xuất định tâm sẽ hoàn sinh. Có lẽ do nghĩa này nên nói là không lìa. Điều đó cũng không đúng. Bởi vì sao ? Vì nếu theo nghĩa này thì tâm người xuất định không sinh lại quả báo thức. Nếu là sự tương tục dứt, khi lìa sự nương gá sau sinh thì không có nghĩa là hoàn sinh. Nếu có người lìa bản thức do ý thức chấp Diệt tâm định là có tâm, thì cái tâm người này chấp sẽ không thành là tâm, vì không thành tính thiện, ác, vô ký. Do nói định này thiện là tính nên không phải là ác, cũng không phải vô ký. Cái tâm oai nghi công xảo biến hóa không có trong định này nên nếu nói có tâm quả báo vô ký thì đó là bản thức vì không có cái thứ năm vô ký. Nếu ông nói tâm này là thiện tức phải cùng tương ưng với vô tham v.v… các thiện căn. Bởi vì sao ? Tâm nhiễm ô đã diệt chính là lúc thiện tâm khởi. Ý căn cũng có cảnh giới, cũng có 3 pháp hòa hợp, vì sao không sinh xúc ? Nếu có xúc vì sao không có thụ ? Nếu vậy thì nghĩa của Diệt tâm định bất thành, vì trong đó tâm và tâm pháp không diệt. Nếu có người cho rằng định này là thiện là do dẫn nhân, ở nơi phương tiện có dụng công của thiện tâm có thể dẫn định tâm này. Định tâm là quả tương tự, tuy là thiện nhưng không tương ưng với các thiện căn vô tham v.v… Cho nên Như Lai muốn nói rõ xúc sinh thụ nên trước muốn phân tích cái hòa hợp là y căn duyên trần sinh thức. Do 3 cái có khả năng hòa hợp nên xúc sinh thụ. Nếu 3 cái không có khả năng hòa hợp thì chỉ sinh xúc không sinh thụ. Cho nên định này tuy là thiện nhưng không có khả năng hòa hợp nên không có thụ tưởng. Cái tâm phương tiện này có 3 thiện căn tương ưng. Còn quả tương tự thì không như thế. Nghĩa này không đúng. Bởi vì sao ? Từ sở y bạt trừ năng y là không thể được. Những câu hỏi này như trước đã nói đầy đủ.
Luận nói : Nếu có người chấp sắc tâm lần lượt sinh các pháp chủng tử này, thì chấp đó không đúng.
Giải thích : Nếu có người chấp cho rằng sắc của sát-na trước là nhân của sắc sát-na sau, có thể làm chủng tử của sắc sau. Cho nên cái thức sát-na trước là nhân của thức sát-na sau, có thể làm chủng tử của thức sau. Chỗ chấp này không đúng.
Luận nói : Bởi vì sao ? Vì đã có lỗi trước rồi, lại có lỗi khác nữa.
Giải thích : Lỗi trước là nói nếu cái tương tục của thức bị đứt, thức sau không có nhân nên không sinh được. Lại một kỳ quả báo hết, lìa gá vào thai sau không có nghĩa là sinh trở lại. Có lỗi như thế này trước đã nói rõ đầy đủ. Có chấp như thế này. Nếu người từ cõi Vô sắc thoái sinh xuống cõi Sắc, nếu sau được sinh cõi Sắc mà chủng tử trước diệt đã lâu thì cái cõi Sắc này do từ nhân nào sinh ?
Luận nói : Lỗi khác đó là nếu như người từ trời Vô tưởng thoái đọa, hoặc từ Diệt tâm định xuất, những chấp trước trong đó đều không đúng.
Giải thích : Sinh trời Vô tưởng và nhập Diệt tâm định tâm diệt đã lâu, sau nếu thoái sinh và xuất định làm sao thành tựu được cái tâm trước làm nhân của cái tâm sẽ sinh sau nếu dịnh như vậy ?
Luận nói : Cũng không thành cái tâm sau cùng của A-la-hán.
Giải thích : Nghĩa là A-la-hán không có nhập vô dư Niết-bàn. Bởi vì sao ? Hậu sắc hậu tâm là nhân bất tận. Cho nên phải biết nghĩa này.
Luận nói : Nếu lìa sự duyên theo thứ tự, sẽ không thành chấp này.
Giải thích : Cái sắc của sát-na trước, do thứ tự duyên nên tương ưng với sắc sau. Thức cũng vậy. Không do nhân duyên nên trước sau tương ưng, cho nên cái chấp này nếu lìa thứ tự duyên lập nghĩa nhân duyên thì cái chấp này bất thành vì trái với giải thoát.
Luận nói : Như vậy nếu lìa nhất thiết chủng tử quả thức, thì các tịnh bất tịnh phẩm đều không thành. Cho nên cái tâm này có nghĩa thành tựu. Phải tin hiểu theo thuyết tướng đã nói ở trước. Nay có bài kệ như sau :
Giải thích : Nghĩa này như trước đã giải thích đầy đủ. Nếu người chỉ ở trong sinh khởi thức, không ở bản thức thì nghĩa chuyển y bất thành. Để làm rõ nghĩa này, ở đây có 3 bài kệ.
Luận nói :
Bồ-tát nơi thiện thức,
Thì lìa năm thức kia.
Không tâm khác, chuyển y
Lấy gì làm phương tiện ?
Nếu đối trị chuyển y,
Chẳng phải diệt : không thành.
Nhân quả không sai biệt,
Nói diệt tức có lỗi.
Không chủng tử : không pháp,
Nếu cho là chuyển y,
Không hai, nên không có,
Không thành nghĩa chuyển y.
Giải thích : Bồ-tát có 2 hạng là phàm phu và Thánh nhân. Từ thập tín trở lại là phàm phu, Từ thập giải trở lên là Thánh nhân. Nay muốn rõ việc chuyển phàm phu y làm Thánh nhân y thì sự chuyển y này thành được ở thức nào ? Chỉ được thành trong bản thức. Nếu không có bản thức, các thức khác không thành được. Làm sao biết ? Nghĩa này 3 bài kệ tuần tự làm rõ. Lìa ác, vô ký nên nói là thiện. Là thức thứ 6 nên nói là thức. Cái thiện này là tâm xuất thế tương ưng với 37 phẩm trợ đạo, gọi là thiện thức. Cái thiện thức này lìa 5 thứ tán động và cũng hằng không tương ưng với 5 thức cho nên nói “Thì lìa năm thức kia.” Làm sao sinh tương ly được ? Tất cả mọi thời đều sinh như vây.
Luận nói : “Không tâm khác,”
Giải thích : Lìa ý thức nhiễm ô và thiện thức hữu lưu, nếu chỉ nói thiện thức không nói không các tâm khác thì thiện thức hữu lưu có trong đó.
Luận nói : “chuyển y lấy gì làm phương tiện ?”
Giải thích : Tất cả chủng tử nhiễm trược bị diệt và lìa chỉ còn bản thức, gọi là tướng chuyển y. Phương tiện nào làm ? Như kệ sau nói.
Luận nói : “Nếu đối trị chuyển y,”
Giải thích : Nếu ông nói do đối trị sinh nên chỗ y chỉ chuyển đổi khác. Nói đối trị là chuyển y không phải nghĩa như vậy.
Luận nói : “Chẳng phải diệt : không thành.”
Giải thích : Không lấy diệt làm chuyển y có 2 nghĩa bất thành. Một là nếu đối trị sinh mà chủng tử không diệt, nghĩa y như cũ, chẳng phải là chuyển y. Hai là đối trị là chuyển y, rõ nhân chẳng phải thể chuyển y. Đối trị là đạo đế. Chuyển y là giải thoát và pháp thân, tức là diệt đế cho nên phải lấy chủng tử diệt làm chuyển y. Nếu ông chấp đối trị sinh chủng tử diệt, hai nghĩa này có trong tất cả mọi thời thì vì sao lấy diệt làm chuyển y mà không lấy đạo làm chuyển y ? Chấp này là có lỗi.
Luận nói : “Nhân quả không sai biệt, Nói diệt tức có lỗi.”
Giải thích : Quả là diệt đế, gọi là Niết-bàn. Nhân là đạo đế, gọi là đối trị. Nếu đối trị là diệt đế thì nhân quả thành một. Nếu thành một thì có lỗi gì ? Nếu được đối trị , tức Bát-niết-bàn. Nếu có người lập diệt đế làm chuyển y là sẽ lấy chủng tử diệt làm chuyển y, là sẽ lấy thức diệt làm chuyển y.
Luận nói : “Không chủng tử : không pháp, Nếu cho là chuyển y,”
Giải thích : Nếu có người nói năng y sở y diệt gọi là chuyển y, trong ý thức chủng tử năng y diệt, chủng tử năng y đã diệt thì ý thức sở y cũng diệt cho nên gọi là chuyển y. Nếu chấp nhận 2 nghĩa này là chuyển y thì không phải vậy.
Luận nói : “Không hai, nên không có, Không thành nghĩa chuyển y.”
Giải thích : Sinh khởi thức thứ 6 ở trong định, nếu khi không có thì chủng tử không, vô tác cũng không, cho nên nghĩa chuyển y bất thành. Nếu có bản thức, sinh khởi thức huân tập mà sinh chủng tử trụ trong bản thức. Sinh khởi thức tuy không có, có thể khiến chủng tử không và khiến sinh khởi thức không, gọi là chuyển y. Nếu lìa bản thức thì không có 2 không, cho nên nghĩa chuyển y bất thành. Vì ý nghĩa đó chắc chắn phải tin có bản thức.
Phẩm thứ tư : Giải thích sai biệt
Chương 1 : Ngôn thuyết
Giải thích : Phẩm này phần chung có 2 chương, phần riêng có 7 chương. Hai chương của phần chung là : 1.Huân tập, 2.Sự dụng. Bảy chương của phần riêng là : 1.Ngôn thuyết, 2.Ngã kiến, 3.Hữu phần, 4.Dẫn sinh, 5.Quả báo, 6.Duyên tướng, 7.Tướng mạo. Ba phẩm trước đã thành lập bản thức. Tức có phẩm loại sai biệt. nay sẽ nói lại.
Luận nói : Thức A-lê-da này có những gì sai biệt?
Giải thích : Đây là hỏi về bản thức là có sai biệt về tính hay có sai biệt về sự ?
Luận nói : Nói chung, có 3 hoặc 4 thứ sai biệt.
Giải thích : Nay nói sai biệt về sự. Chỉ có một bản thức, tính nó không khác. Về sự có 3 thứ hoặc 4 thứ hoặc 7 thứ sai khác.
Luận nói : Ba thứ là do 3 thứ huân tập thành ra sai khác. Đó là danh ngôn huân tập sai biệt, ngã kiến huân tập sai biệt và hữu phân huân tập sai biệt.
Giải thích : Trong bản luận sở dĩ không giải thích 3 thứ này là vì sau ở phần Phải biết thắng tướng trước tiên giải thích 3 nghĩa này nên nay không giải thích. Nói ngôn thuyết huân tập sai biệt là do chỉ một bản thức duy nhất mà vì huân tập sai biệt nên có 3 thứ. Ngôn thuyết lấy danh tự làm thể. Danh có hai thứ là ngôn thuyết danh và tư duy danh. Hai thứ danh này lấy âm thanh làm gốc. Cái căn có thể thấy sắc, có tiếng gọi là nhãn, là con mắt, nhiều lần tập quen tiếng gọi này khởi ái chấp huân tập vào bản thức. Cái huân tập này là nhãn căn sinh nhân. Nếu quả báo nhãn căn sinh thì từ trong bản thức nói là khởi ái huân tập sinh. Cho nên lập ngôn thuyết huân tập là nhân của nhãn căn. Cũng như nhãn căn, đối với nhĩ căn v.v…tất cả ngôn thuyết huân tập sinh cũng đều như vậy. Đó là sai biệt thứ nhất của bản thức.
Chương 2 : Ngã kiến
Luận nói : Do ngã kiến huân tập sai biệt.
Giải thích : Thức có nhiễm ô vì do ngã kiến v.v…y chỉ. Trong bản thức khởi các huân tập ngã, ngã sở v.v…, do các huân tập này nên khởi phân biệt. Nghĩa là cho mình là ngã, không phải mình là người khác. Đó là sai biệt thứ hai của bản thức.
Chương 3 : Hữu phân
Luận nói : Do hữu phân huân tập sai biệt.
Giải thích : Do theo các nghiệp bất động thiện ác nên thụ 6 căn sai biệt trong lục đạo. Cho nên bản thức có sai biệt trong 3 cõi 6 đường. Đó là cái sai biệt thứ ba của bản thức.
Chương 4 : Dẫn sinh
Luận nói : Bốn thứ là dẫn sinh phân biệt, quả báo phân biệt, duyên tướng sai biệt và tướng mạo sai biệt. Dẫn sinh sai biệt là huân tập, làm sinh ra cái mới. Nếu không có cái này, thì việc duyên hành sinh thức, duyên thủ sinh hữu sẽ không thành.
Giải thích : Dẫn sinh các chủng loại khác nhau, có tướng như thế nào ? Đó là huân tập sinh ra cái mới. Sự sai biệt của bản thức như hành sinh diệt được huân tập vào thức, do thủ giữ gìn, và cái hữu đối với sinh sẽ không thành nếu không có dẫn sinh. Từ cái hữu này sinh khởi nên nói đây là pháp hữu. Thủ và thiện ác v.v…là quả do đời trước nhiều lần huân tập.
Chương 5 : Quả báo
Luận nói : Quả báo sai biệt nghĩa là do hành mà trong sáu đường pháp này được thành thục. Nếu không có cái này thì về sau, khi thụ sinh sẽ không có các pháp sinh khởi.
Giải thích : Hành và hữu là nhân dẫn dắt làm thành thục bản thức này trong 6 đường nên nói là dẫn. Nếu không có cái này thì sau khi sinh trở lại pháp, nhãn v.v… các căn và sắc v.v… các trần không sinh trở lại được. Pháp này là kết quả của quả báo.
Chương 6 : Duyên tướng
Luận nói : Duyên tướng sai biệt nghĩa là ở trong tâm có tướng hay sinh khởi ngã chấp. Nếu không có cái này thì ở trong các tâm sẽ không có tướng cảnh ngã chấp.
Giải thích : Bản thức này là đệ nhị thức ngã chấp làm duyên tướng cho đệ lục thức ngã kiến. Bản thức này nếu không duyên tướng sai biệt, vì thân kiến là nhân, ngã chấp sở duyên cảnh không thành. Đó gọi là tương tự quả.
Chương 7 : Tướng mạo
Luận nói : Tướng mạo sai biệt nghĩa là thức này có tướng chung, có tướng không chung, có tướng chủng tử không sinh cảm giác cảm thụ, có tướng chủng tử có sinh cảm giác cảm thụ.
Giải thích : Về tướng mạo có nhiều phẩm loại khác nhau. Lược nói có 4 thứ.
Luận nói : Tướng chung là chủng tử của khí thế giới. Tướng không chung là các chủng tử riêng biệt bên trong. Lại nữa tướng chung là chủng tử không sinh cảm giác cảm thụ. Tướng không chung là chủng tử có sinh cảm giác cảm thụ.
Giải thích : Bản thức cùng tất cả chúng sinh đồng công năng với nhau, nghĩa là cùng chúng sinh cộng dụng cái thế giới sinh nhân như một cái đồ đựng. Lại nữa tướng chung là chủng tử không sinh cảm giác cảm thụ. Bản thức này là pháp không có giác tri không có cảm thụ. Nghĩa là ngoài sinh nhân như 4 đại, 5 trần v.v…nếu không tướng mạo bản thức như thế thì không thành cái nhân của khí thế giới mà chúng sinh cộng dụng. Tướng không chung là các chủng tử riêng biệt bên trong. Các chủng tử riêng biệt là nói tự và tha. Cảnh giới không đồng, chủng loại không đồng, thủ tướng không đồng, nên nói là mỗi mỗi riêng biệt. Lại nữa nói tự là nội, tha là ngoại. Tức là nội căn trần v.v…sinh nhân là tướng không chung. Nói là chủng tử có sinh cảm giác cảm thụ là bản thức này là sinh nhân của pháp có giác tri và cảm thụ. Nếu không có cái đệ nhị tướng mạo thì không thành chúng sinh thế giới. Nếu do một nhân khác được thành thì không giác tri không cảm thụ như cây đá. Hai chủng tử này , Thánh đạo phá chủng tử nào ?
Luận nói : Nếu khi khởi đối trị, thì chỉ có tướng không chung bị diệt.
Giải thích : Chủng tử không chung này, khi đạo khởi, vì trái với đạo ắt bị đạo phá. Bởi vì sao ? Không có một người đắc đạo mà bao nhiêu người khác được giải thoát. Đạo có công dụng gì đối với chủng tử chung ?
Luận nói : Còn đối với tướng chung thì do sự duy trì của bao nhiêu hữu tình khác, chứ bản thân thì chính kiến thanh tịnh.
Giải thích : Đạo đối với chủng tử chung không có công dụng và cũng có công dụng. Như đối với công dụng của chủng tử không chung thì trong đây không có, nên nói không công dụng. Sau khi đắc đạo thì sở kiến thanh tịnh, khác với sở kiến trước đây, nên nói cũng có công dụng. Thế nào là đạo đối với chủng tử chung không chung không đồng công dụng ? Do tha phân biệt . Nếu vậy đạo đối với chủng tử chung có công dụng thế nào ? Chỉ trừ phân biệt. Ở trong cảnh giới khởi vô phân biệt nên pháp nhãn thanh tịnh đối với cảnh giới. Vì chỉ duyên vô tính nên nếu từ bi Bát-nhã lại khởi phân biệt thì cái phân biệt này do y chỉ chân như nên sở phân biệt thành cõi thanh tịnh. Chỉ một cảnh giới duy nhất, sao chúng sinh thấy không giống nhau ?
Luận nói : Ví như hành giả tu quán, đối với một loại vật, tùy tâm mình lập ra bao nhiêu cách quán sát và bao nhiêu tâm nguyện.
Giải thích : Do tâm của người tu quán biến hóa nên đối với một loại vật chúng sinh thấy không giống nhau. Như cảnh giới này do tha phân biệt duy trì mà trong đó người tu quán thấy thanh tịnh.
Luận nói : Có bài kệ như sau :
Khó diệt và khó giải,
Gọi tên là cộng kết.
Người tu quán tâm khác,,
Do tướng đại thành ngoài.
Người thanh tịnh chưa diệt,
Trong đây thấy thanh tịnh.
Thành tựu Phật độ tịnh,
Do Phật kiến thanh tịnh.
Giải thích : Kết có 2 thứ, một là tướng kết, hai là thô trong kết. Tướng kết khó giải. Thô trong kết khó diệt. Tâm phân biệt các trần là tướng kết. Do sự phân biệt này khởi các hoặc như dục, sân v.v…gọi là thô trọng kết. Nếu được trí vô phân biệt tức giải được tướng kết. Tướng kết không khởi thì thô trọng kết cũng diệt theo. Lại nữa giải thích về khó diệt là nói về vô gián đạo vì vô gián đạo khó được, còn khó giải là nói về giải thoát đạo. Do vô gián đạo khó được nên giải thoát đạo khó được. Ở trong cảnh giới chung khởi kết nên gọi là cộng kết. Nếu nói theo nghĩa tự tương tục thì không gọi là cộng. Vì sao hoặc này khó diệt khó giải ?
Luận nói : “Người tu quán tâm khác, Do tướng đại thành ngoài.”
Giải thích : Lìa thức không riêng có ngoại cảnh, vì vậy người tu quán chỉ quán nội pháp là không, không quán ngoại pháp cho nên nói tâm khác. Tướng phân biệt thông cả 10 phương thế giới nên nói tướng đại. Quán tâm với nội chủng tử trái nhau, với ngoại chẳng tương quan cho nên nói thành ngoài. Do 3 nghĩa này nên ngoại kết khó giải khó diệt. Nếu cái kết này có 3 nghĩa khó diệt khó giải thid người tu đạo quán hạnh có được công năng gì ?
Luận nói : “Người thanh tịnh chưa diệt, Trong đây thấy thanh tịnh.”
Giải thích : Khi đối trị đạo sinh, chủng tử không chung diệt là lúc người tu quán hạnh được từng phần thanh tịnh hoặc toàn phần thanh tịnh. Tuy chưa diệt tướng bên ngoài nhưng bên trong pháp nhãn tuệ nhãn thanh tịnh không chấp.
Luận nói : “Thành tựu Phật độ tịnh,”
Giải thích : Nếu có trí tuệ từ bi, vì lợi tha khởi phân biệt, đó chính là công năng thành tựu cõi Phật thanh tịnh. Cõi Phật thanh tịnh này do nhân duyên gì được thành ?
Luận nói : “Do Phật kiến thanh tịnh.”
Giải thích : Sơ địa là Bồ-tát kiến vị. Thanh tịnh trong sơ địa là kiến đạo thanh tịnh. Kiến đạo thanh tịnh là Phật kiến thanh tịnh. Do thanh tịnh này có thể được cõi Phật thanh tịnh, huống chi là ở trong tu vị và cứu cánh vị. Lại nữa chân như quán gọi là Phật kiến. Bởi vì sao ? Nếu đến cứu cánh vị thì sở đắc của chân như quán chẳng khác với đây nên gọi là Phật kiến. Lại nữa Bồ-tát cũng được gọi tên là Phật, vì do định nên đắc Phật, nhân thụ tên của quả nên gọi là Phật kiến. Lại nữa Bồ-tát đối trị đạo sinh thì chủng tử không chung diệt, tức đủ 3 thanh tịnh : một là pháp nhãn thanh tịnh, hai là Phật độ thanh tịnh, ba là kiến Phật thanh tịnh, gọi là thấy 3 thân. Bồ-tát duyên Phật khởi kiến nên gọi Phật kiến.
Luận nói : Lại có bài kệ khác như sau :
Các nguyện và chỗ thấy,
Người tu quán đạt được.
Ở trong một vật loại,
Tùy theo ý kia thành.
Thấy nhiều thứ thành. Nên
Sở thủ chỉ có thức.
Giải thích : Bài kệ này muốn hiển thị điều gì ? Muốn hiển thị 2 nghĩa, một là Bồ-tát tu quán bên trong không dựa bên ngoài, hai là bởi quán này là chỉ có thức không có ngoại trần. Đó là 2 nghĩa hỗ tương hiển thị.
Luận nói : “Các nguyện và chỗ thấy, Người tu quán đạt được.”
Giải thích : Người tu quán hoặc vì mình đạt được tự tại, hoặc muốn khiến người khác tiếp nhận chính giáo nên nguyện, các thứ nguyện biến đổi đều được thành đạt. Nếu nguyện đã thành thì tự mình thấy người khác thấy đều được đúng như đã nguyện. Nguyện này là có cảnh khác hay là một cảnh ?
Luận nói : “Ở trong một vật loại,”
Giải thích : Nếu nhiều người tu quán có nguyện khác cùng có thể biến khác một cảnh, có thể biến đổi khác được. Vì sao được ?
Luận nói : “Tùy theo ý kia thành.”
Giải thích : Vì chỉ có thức, thật không ngoại cảnh. Cho nên tùy ý của họ có thể biến khác được. Nếu thật có ngoại cảnh thì nguyện của người tu quán hạnh sẽ bất thành. Vì nhân bất thành nên tự mình và người khác thấy sự biển đổi khác cũng bất thành.
Luận nói “Thấy nhiều thứ thành. Nên sở thủ chỉ có thức.”
Giải thích : Do người tu quán, thức là tăng thượng duyên nên thức biến đổi khác với những người khác. Như nguyện của người tu quán hiện thì biết chắc là chỉ có bản thức không có ngoại trần. Trước đã nói rõ nhân của giác tri và cảm thụ quyết chắc là chủng tử không chung, không giác tri cảm thụ quyết chắc là chủng tử chung. Nay sẽ nói về nhân chung và không chung đồng sinh một quả.
Luận nói : Đó là chủng tử có sinh giác tri cảm thụ sai biệt không chung của bản thức. Nếu không có cái này, thì không có sinh duyên của thế giới chúng sinh. Đó là chủng tử không sinh giác tri cảm thụ, tướng chung của thức A-lê-da. Nếu không có cái này, thì không có sinh duyên của khí thế giới.
Giải thích : Hai nhân chung và không chung sinh 5 căn trong và 5 trần trong làm tự y chỉ cho 6 thức, là cảm cái nhân không chung, làm cảnh giới của 6 thức khác, cho nên là cảm cái nhân chung. Nếu không cảm cả 2 nhân thì không có sắc ấm và sự cùng thấy.
Luận nói : Lại nữa thức có tướng thô trọng, có tướng vi tế nhẹ nhàng.
Giải thích : Câu văn này hiển thị quả tương tự của 2 nghiệp thiện ác của bản thức, cũng là nhân sinh ra 2 nghiệp thiện ác.
Luận nói : Thức của tướng thô trọng là chủng tử các đại tiểu 2 hoặc.
Giải thích : Đối với lý và sự, tâm không có công năng gọi là thô trọng. Tất cả hoặc của vị lai và nghiệp, từ thức này sinh gọi là chủng tử.
Luận nói : Thức của tướng vi tế nhẹ nhàng là chủng tử của tất cả thiện pháp hữu lưu.
Giải thích : Đối với lý và sự , tâm có công năng nên gọi là vi tế nhẹ nhàng. Tất cả tín v.v…thiện của 5 căn vị lai, đều từ thức này sinh nên gọi là chủng tử.
Luận nói : Nếu không có cái này, thì nghiệp quả trước có khả năng vượt trội, với nghiệp quả không có khả năng vượt trội, không lấy đâu làm chỗ sở y sai biệt.
Giải thích : Nếu không có thức này thì phân tập quả và quả báo quả đều không thành. Tập quả là tương tự quả. Quả báo quả là bản thức trong lục đạo. Ở trong bản thức lại có tướng thô nặng và tướng vi tế nhẹ nhàng. Tập quả cũng gọi là tương tự quả. Cái thắng năng, tức khả năng vượt trội, là chỗ y chỉ của tương tự quả, là chỗ khác nhau của nhân thiên trong thiện đạo của quả báo quả, là chỗ khác nhau của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh trong ác đạo nên nói là y chỉ sai biệt. Y chỉ của thiện đạo có thắng năng, y chỉ của ác đạo không có thắng năng. Nếu bản thức không có 2 tướng này thì tất cả nghĩa nhân quả đều bất thành.
Luận nói : Lại có hai thứ bản thức là tướng có thụ và tướng không thụ.
Giải thích : Muốn hiển thị công năng trong bản thức là có hết và không hết.
Luận nói : Tướng có thụ là thức chủng tử thiện ác, đã thành quả báo dị thục.
Giải thích : Bản thức này xưa có chủng tử thiện ác, nếu quả báo đều đã thục dụng thì chủng tử hết. Chỉ khi nó còn tồn tại trong bản thức thì bản thức này là tướng có thụ.
Luận nói : Tướng không thụ là chủng tử danh ngôn, huân tập.
Giải thích : Bản thức này ở trong sinh tử thụ dụng vô tận. Các chủng tử cùng nghiệp nhờ đây có sự tương tục không dứt nên gọi là tướng không thụ. Thể của tướng không thụ như thế nào ? Tức là chủng tử danh ngôn huân tập. Trước dùng âm thanh gọi tất cả pháp là nói, sau không phát ra lời nói dùng tâm duyên thẳng trước cả âm thanh, đó là danh, tức là tên. Cái tên này lấy phân biệt làm tính. Nếu lấy tên này phân biệt pháp bên trong, hoặc tăng hoặc giảm, hoặc đúng lý hoặc không đúng lý gọi là nhục phiền não, nghĩa là phiền não
trong máu thịt. Nếu dùng cái tên này phân biệt ngoại trần khởi lên các tên như dục, sân v.v… gọi là bì phiền não, tức là phiền não ở ngoài da. Nếu dùng cái tên này phân biệt tất cả các pháp sai biệt của thế gian xuất thế gian, lìa 2 phân biệt trước gọi là tâm phiền não, tức là phiền não trong tâm. Vì vậy tất cả phiền não đều lấy phân biệt làm thể, làm chướng ngại cảnh vô phân biệt và trí vô phân biệt. Vì sao nói đây là tướng không thụ ?
Luận nói : Từ vô lượng quá khứ sinh khởi chủng tử hý luận.
Giải thích : Bốn thứ ngôn thuyết của thế gian gọi là hý luận, tức là thấy nghe hay biết chỉ dùng danh ngôn phân biệt. Có 4 thứ này thì không duyên thật nghĩa nên gọi là hý luận. Cái hý luận này trước từ bao giờ cho đến sau là bao giờ cũng không cùng tận nên nói là vô lượng thời hý luận. Cái hý luận này hoặc sinh hoặc khởi đều do danh ngôn huân tập sinh ra nên nói là danh ngôn huân tập là chủng tử hý luận. Nếu không có đây, 2 phần có lỗi gì ?
Luận nói : Cho nên nếu không có thức này, thì có tạo tác hay không tạo tác, hai nghiệp thiện ác do với quả báo cho nên không thành nghĩa thụ dụng hết.
Giải thích : Nếu không có bản thức có tướng có thụ, thì 2 nghiệp thiện ác thường thường có tạo tác hay không tạo tác, do cùng với công năng quả báo diệt hết, không thụ báo nữa nên gọi thụ dụng. Nghĩa đó không thành vì lỗi mất nghĩa giải thoát. Nếu không không nhận có lại, thì có lỗi gì ?
Luận nói : Danh ngôn huân tập trước tiên cũng không sinh khởi được.
Giải thích : Nếu lìa danh ngôn huân tập có trước, hiện tại và vị lai chưa từng có, mà có danh ngôn huân tập là không thể được. Bởi vì sao ? Quả đẳng lưu nếu không có nhân đồng loại thì không sinh được. Nếu sinh được thì A-la-hán Duyên Giác đoạn hết phiền não rồi phiền não phải sinh trở lại. Nếu không sinh ắt phải không có căn bản phiền não. Nếu không có căn bản phiền não thì không có nghiệp. Nếu không có nghiệp phiền não thì không có hữu và sai biệt. Thế thì tập và khổ 2 đế tự nhiên diệt hết, tức nhập Niết-bàn chẳng cần phải tu đạo. Do 2 nghĩa này không, không giải thoát và tự nhiên giải thoát nên biết chắc chắn là có 2 tướng là có thụ và không thụ.
Luận nói : Lại nữa có thức có tướng thí dụ.
Giải thích : Ví như những sự ảo hóa làm ra voi, ngựa v.v…là các nhân loạn tâm. Các tướng thí dụ của bản thức này là chủng tử hư vọng phân biệt cho nên là nhân của tất cả sự loạn tâm điên đảo.
Luận nói : Như sự ảo hóa, như con nai khát nước thấy sóng nắng, như mộng tưởng chiêm bao, như hoa mắt v.v… ví cho thức thứ nhất tương tự những việc này.
Giải thích : Bốn việc này ví cho 4 điên đảo. Sự ảo hóa ví cho ngã chấp. Con nai khát nước ví cho ngã ái. Chiêm bao ví cho ngã mạn. Hoa mắt ví cho vô minh. Bốn thí dụ này đều ví cho bản thức. Bản thức tương tự như 4 việc này. Việc ảo hóa làm chúng sinh tà chấp. Con nai khát nước là làm chúng sinh sinh tham ái. Chiêm bao là khiến chúng sinh sinh loạn tâm. Hoa mắt là chướng ngại khiến chúng sinh thấy cảnh không rõ ràng. A-đà-na thức nếu chưa diệt có thể biến đổi bản thức sinh 6 thức, khởi 4 thứ thượng tâm điên đảo. Cho nên nói bản thức tựa như các việc này.
Luận nói : Nếu không có các chủng tử hư vọng phân biệt này, thì thức này không thành nhân duyên điên đảo.
Giải thích : Nếu bản thức không có một phần tương ưng với A-đà-na thức thì bản thức không thành 4 nhân duyên điên đảo. Bởi vì sao ? Như bản thức này là nhân duyên của chủng tử hư vọng phân biệt, thì tất cả hư vong phân biệt đều từ bản thức này sinh.
Luận nói : Lại có tướng đủ và tướng không đủ.
Giải thích : Đây là nói thức có tướng thí dụ và bản thức lại thành 2 tướng, một là tướng đủ trói buộc, hai là tướng không đủ trói buộc.
Luận nói : Nếu đầy đủ trói buộc, chúng sinh có tướng đủ.
Giải thích : Nghĩa là chúng sinh ở cõi Dục chưa lìa dục thì có đủ 3 phiền não, nên gọi là tướng đủ.
Luận nói : Nếu được lìa dục thế gian, thì có tướng làm tổn hại.
Giải thích : Nếu chúng sinh cõi Dục, cõi Sắc lìa dục, còn đầy đủ nhục phiền não, tâm phiền não, bì phiền não thì dần bị tổn hại, 2 trường hợp chúng sinh này còn là phàm phu.
Luận nói : Nếu là hữu học Thanh Văn và các Bồ-tát, thì có một phần tướng diệt và ly.
Giải thích : Hết một phần nhục phiền não, bì phiền não hoặc bị tổn hoặc chưa bị tổn.
Luận nói : Nếu là A-la-hán, Độc Giác, Như Lai thì có đầy đủ toàn phần tướng lìa diệt. Bởi vì sao ? Vì A-la-hán, Độc Giác chỉ diệt hoặc chướng. Như Lai diệt cả hoặc trí hai chướng.
Giải thích : A-la-hán, Độc Giác chỉ diệt, lìa hết các hoặc do kiến đạo và tu đạo phá trừ, nên không giải thoát chướng. Như Lai đều diệt lìa hết 3 phiền não, nên bản thức Như Lai vĩnh viễn lìa tất cả giải thoát chướng và trí chướng. Thức này hoặc gọi là vô phân biệt trí, hoặc gọi là vô phân biệt hậu trí. Nếu phát khởi việc lợi ích cho chúng sinh thì một phần gọi là tục trí. Nếu duyên nhất thiết pháp vô tính khởi thì một phần gọi là chân như trí. Hai cái này hợp lại gọi là ứng thân.
Luận nói : Nếu không có cái này, thì không thể tuần tự diệt hết các phiền não.
Giải thích : Nếu không có tướng đủ và tướng không đủ thì không thành cái nghĩa phàm phu, hữu học thánh nhân, vô học thành nhân tuần tự diệt. Trong 3 tính vì sao bản thức chỉ là vô ký tính ? Là vì quả báo.
Luận nói : Vì nhân duyên gì quả báo của hai pháp thiện ác, chỉ có tính vô phú vô ký ?
Giải thích : Chẳng phải phiền não nhiễm ô nên gọi là vô phú vô ký. Không đồng với phiền não cõi trên là hữu phú vô ký. Vì sao không đồng ? Nhân là thiện ác mà quả là vô ký.
Luận nói : Tính vô ký này câu sinh với hai pháp thiện ác, và không trái nghịch nhau.
Giải thích : Do tính vô phú vô ký không trái nhau với 2 tính thiện ác nên trong quả báo vô ký 2 nghiệp thiện ác mới sinh được. Do nghiệp sinh nên có 2 đường thiện ác.
Luận nói : Hai pháp thiện ác tự nó trái nghịch nhau.
Giải thích : Nếu quả báo là thiện ác, tính thiện ác trái nhau, như vậy nếu thiện thì ác không sinh được sẽ không có đường ác, nếu ác thì thiện không sinh được sẽ không có đường thiện. Thiện ác 2 đường phải theo một là không có đường nào cả.
Luận nói : Nếu quả báo thành tính thiện ác, thì không có phương tiện giải thoát phiền não.
Giải thích : Nếu quả báo là tính thiện ác thì từ thiện lại sinh quả báo thiện, từ ác lại sinh quả báo ác. Do báo lại có báo thì sinh tử không dứt cho nên không có nghĩa giải thoát được.
Luận nói : Cũng không có phương tiện để khởi thiện và phiền não.
Giải thích : Nếu là thiện thì phiền não không được khởi, nếu đã là ác thì thiện không được khởi.
Luận nói : Cho nên không giải thoát và trói buộc.
Giải thích : Nếu không thiện thì không giải thoát. Nếu không phiền não thì không trói buộc.
Luận nói : Vì không có hai nghĩa này nên tính của quả báo thức là vô phú vô ký.
Giải thích : Không có nghĩa không giải thoát, không có nghĩa không trói buộc. Đã chắc chắn là có giải thoát và trói buộc cho nên biết bản thức quyết định là tính vô ký.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 15 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.188.223.120 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập