Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 3 »»

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 3


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (1) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 1.46 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.82 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Pháp Hoa Văn Cú

Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@rongmotamhon.net
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Kinh này có 20 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, Bồ Tát Di-lặc muốn dứt mối nghi của mình, lại quan sát thấy được tâm nghi của bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng chư thiên, loài rồng, quỷ thần... nên thưa hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: “Do nhân duyên gì mà có điềm lành Phật hiện tướng thần thông, phóng hào quang lớn chiếu đến 18.000 cõi nước ở phương đông, [đại chúng] thấy hết được những cõi Phật trang nghiêm nơi ấy?

Khi ấy, Bồ Tát Di-lặc muốn lặp lại ý nghĩa trên liền nói kệ thưa hỏi rằng:

Từ câu “Lúc bấy giờ Bồ Tát Di-lặc muốn dứt mối nghi của mình” đến hết phần kệ tụng là Tự của phần phát vấn. Kinh văn phần này lại có hai phần, gồm văn trường hàng và kệ tụng. Cấu trúc lại chia ra phần tự nghi [của ngài Di-lặc], phần tha nghi [của đại chúng] và phần phát vấn [nêu câu hỏi]. Trong phần phát vấn lại chia ra nói về cõi này và nói về các cõi khác, như trong nội dung kinh văn.

Do ý nghĩa gì mà có phần kệ tụng? Luận Tỳ-bà-sa của ngài Long Thọ nói rằng: Thứ nhất là tùy theo quốc độ, như Ấn Độ thì có thuyết [giải thích rằng văn trường hàng như] rải hoa, [còn kệ tụng như] xâu kết hoa lại thành vòng hoa, giống như trong phần Tự này thì phía sau có phần [kết lại] để ghi nhớ. Thứ hai là tùy theo sự ưa thích không giống nhau, có người ưa thích tản văn [trường hàng], cũng có người ưa thích lối chương cú [kệ tụng]. Thứ ba là tùy theo sự nhận hiểu của chúng sanh chẳng giống nhau, có người đọc tản văn [trường hàng] mà nhận hiểu được, hoặc có người nhờ đọc chương cú [kệ tụng] mà nhận hiểu được. Thứ tư là tùy theo căn cơ nhanh nhạy hoặc trì độn [của người nghe]. Người căn cơ nhanh nhạy chỉ nghe qua một lần liền nhận hiểu, kẻ căn cơ trì độn thì phải được nghe lặp lại rồi mới nhận hiểu.”

Lại nói rằng, điều này để biểu hiện đức Phật ân cần thuyết dạy nên có sự lặp lại. Lại vì đại chúng vân tập có kẻ trước người sau cho nên có kệ [lặp lại].

KINH VĂN

Ngài Văn-thù-sư-lợi!
Đấng Đạo sư vì sao,
Từ lông trắng giữa mày,
Phóng hào quang soi chiếu.
Mưa hoa mạn-đà-la,
Với hoa Mạn-thù-sa,
Gió thơm hương Chiên-đàn,
Đại chúng đều hoan hỷ?
Lại do nhân duyên này,
Mặt đất đều nghiêm tịnh,
Và khắp thế giới này,
Chấn động theo sáu cách.
Bấy giờ cả bốn chúng,
Đều vui mừng hoan hỷ,
Thân ý đều sảng khoái,
Được việc chưa từng có.

Phần kệ này có 62 khổ kệ, [mỗi khổ kệ có 4 câu]. Cấu trúc chia làm hai phần, 54 khổ kệ đầu tiên nêu nghi vấn, 8 khổ kệ sau thỉnh cầu giải đáp. Trong phần [54 khổ kệ] thưa hỏi lại chia thành hai, 4 khổ kệ trước hỏi về cõi này, 50 khổ kệ sau hỏi về các cõi khác.

I. Nêu nghi vấn

Phần văn trường hàng thưa hỏi chung về sáu điềm lành ở quốc độ này. Trong phần kệ tụng có nói thêm về gió thơm [chiên đàn] và cõi đất trang nghiêm thanh tịnh, nhưng không nói hai việc thuyết pháp và nhập định. Đọc theo lời văn thì cho rằng có thừa có thiếu nhưng tìm hiểu ý nghĩa thì không phải vậy. Thuyết pháp là tánh trí tuệ, nhập định là tâm bản nhiên. Do nơi tâm bản nhiên và tánh trí tuệ này có thể tạo ra sự chấn động cõi đất và phóng chiếu hào quang. Chỉ cần nêu phần ngọn thì có thể rõ biết phần gốc, cho nên tuy thiếu mà không phải thiếu. Những người khác không thấy được ý nghĩa này, cho rằng ngài Di-lặc không hỏi về hai việc [thuyết pháp và nhập định], nhân đó nói là hai việc này không phải điềm lành. Nay xin hỏi ngược lại, nếu ngài Di-lặc không hỏi [những ý đó] thì tại sao ngài Văn-thù lại giải đáp? Lại nêu câu hỏi, [nếu ngài Di-lặc có hỏi] thì xin chỉ ra hỏi ở chỗ nào? Nay xin chỉ phần thưa hỏi chung trong văn trường hàng chính là có bao gồm những ý đó.

Nếu lại muốn chỉ riêng nơi nào có những ý thưa hỏi này thì xin chỉ ra hai chữ “đạo sư” chính là đây bao gồm những ý đó. Có thuyết pháp và nhập định mới có khả năng dẫn dắt dạy dỗ người khác. Cho nên tôn xưng bậc đạo sư là đã có ý hỏi về việc thuyết pháp và nhập định.

Do vậy nói rằng kinh văn không hề thiếu sót.

Những người khác lại cho rằng gió thơm là do thổi qua rừng trầm, cùng với cõi đất trang nghiêm thanh tịnh là hai việc thêm vào thừa ra.

Nay nói rõ là không thừa. Gió vốn không mùi, nay có hương thơm là điều đặc biệt kỳ diệu cho nên là điềm lành. Như hoa trời cực kỳ vi diệu, lẽ nào lại có màu sắc mà chẳng có hương thơm? Điều này biểu trưng cho việc từ nhân xoay vần đến quả, như có hoa trời thì có gió thơm. Hoa rơi trên đất, đất liền trở thành trang nghiêm thanh tịnh, cũng như nhân [trang nghiêm thanh tịnh] hướng đến thành quả thì quả ấy phải trang nghiêm thanh tịnh. Kinh Kim Quang Minh nói rằng: “Các công đức hội tập trang nghiêm thân Phật.” Cho nên lấy hai việc [thuyết pháp, nhập định] hiện thành bốn loại hoa trời. Đó là nói nghĩa “tuy thừa mà không phải thừa”.

KINH VĂN

Hào quang từ giữa mày,
Soi chiếu thấu phương đông,
Khắp mười tám ngàn cõi,
Đều sáng đẹp sắc vàng,
Từ địa ngục A-tỳ,
Lên đến trời Hữu đỉnh.
Các thế giới trong đó,
Đủ sáu đường chúng sanh,
Sống, chết, đi về đâu,
Hay nghiệp duyên lành dữ,
Chịu quả báo tốt xấu,
Từ đây đều thấy rõ.

Từ câu “Hào quang từ giữa [hai chân] mày” trở về sau có 50 khổ kệ tụng (200 câu) là hỏi về sáu điềm lành ở các cõi khác. Các nhà cựu giải nói rằng trong phần kệ tụng không thấy hỏi về ba thừa, bốn chúng, không hỏi về [việc nhập] Niết-bàn của Phật.

Nay trong giáo pháp này [đức Phật] dạy phá bỏ ba thừa [để tiến đến một Phật thừa], có lý nào lại hỏi về ba thừa? [Trong kinh này Phật sắp] thuyết giảng về thọ lượng [của Như Lai], lẽ nào lại hỏi về sự diệt độ? Về mặt ý nghĩa như vậy không thích hợp nên không nêu ra hỏi. Ôi, [nói như vậy] thật là không hiểu rõ ý kinh mà gượng ép nói theo ý mình.

Nay sẽ nói rõ trong phần kệ tụng này có nêu hỏi đầy đủ về sáu điềm lành nơi các cõi khác. Cấu trúc phần này chia làm 6 phần.

Phần thứ nhất gồm 3 khổ kệ (12 câu) hỏi về [những hiện tượng] trong sáu đường chúng sanh. Phần thứ hai gồm 4 khổ kệ (16 câu) hỏi về việc nhìn thấy chư Phật các cõi khác thuyết pháp. Phần thứ ba gồm 3 khổ kệ (12 câu) nêu hỏi về [việc chư Phật thuyết pháp] cho bốn chúng ở các cõi khác. [Phần thứ tư] kế tiếp gồm một khổ rưỡi (6 câu) là kết lại nội dung phần trước và mở ra nội dung phần sau. Phần thứ năm gồm 31 khổ rưỡi (126 câu) hỏi về sự tu hành của các vị Bồ Tát ở những cõi khác. Phần thứ sáu gồm 7 khổ kệ (28 câu) hỏi về việc cúng dường xá-lợi, tức là hỏi về việc nhập Niết-bàn của Phật.

 [Phần thứ nhất] trước hết là 3 khổ kệ [như vừa dẫn trên], hỏi về [các hiện tượng của chúng sanh] trong 6 đường. Xét ý nghĩa phần kệ tụng này thì biết rằng kinh văn phần trên nói hào quang “soi chiếu thấu phương đông” tức là ý nói chiếu khắp các cõi nước kia. Bài tụng này là tụng lại [ý nghĩa] thưa hỏi tổng quát ở trên. Chúng sanh trong sáu đường là chủ thể tái sinh về, sinh tử là nơi [những chúng sanh ấy] tái sinh về, các nghiệp duyên lành dữ là nhân của sự tái sinh về, [những chúng sanh ấy thọ thân] tốt hay xấu là quả tái sinh về.

KINH VĂN

Lại thấy các đức Phật,
Bậc Sư tử Thánh chúa,
Diễn thuyết nhiều kinh điển,
Đều vi diệu bậc nhất.
Âm thanh thật thanh tịnh,
Tiếng nói nghe dịu dàng,
Dạy bảo hàng Bồ Tát,
Vô số muôn ngàn người,
Tiếng cõi trời sâu mầu,
Ai ai cũng thích nghe.
Mỗi vị nơi cõi mình,
Đều giảng thuyết chánh pháp,
Cùng đủ mọi nhân duyên.
Và vô số thí dụ,
Làm sáng tỏ Phật pháp,
Để khai ngộ chúng sanh.

 Phần thứ hai, từ câu “Lại thấy các đức Phật” trở đi gồm 4 khổ kệ, hỏi về việc nhìn thấy các cõi Phật, thấy chư Phật thuyết pháp. Đây là nói rộng về tướng thuyết pháp, thuyết pháp đốn giáo phù hợp với cho những bậc căn tánh lớn. “Bậc sư tử Thánh chúa” là giống như ở cõi này hiện hình tượng đức Phật Lô-giá-na [thuyết kinh Hoa Nghiêm].

“Diễn thuyết nhiều kinh điển, đều vi diệu bậc nhất” là như ở cõi này trước tiên diễn thuyết kinh Hoa Nghiêm để dạy hàng Bồ Tát, giống như [mặt trời vừa mọc] trước hết soi chiếu trên núi cao, như ở cõi này giảng kinh Hoa Nghiêm chín hội ở bảy nơi đều không có hàng Thanh Văn, [chỉ toàn là Bồ Tát].

“Làm sáng tỏ Phật pháp, để khai ngộ chúng sanh”, là như ở cõi này thoạt tiên được thấy thân Phật, thể nhập vào trí tuệ của Như Lai.

KINH VĂN

Với những người gặp khổ,
Chán bỏ già, bệnh, chết,
Vì họ thuyết Niết-bàn,
Dứt hết mọi cảnh khổ.
Với những người có phước,
Đã từng cúng dường Phật,
Quyết cầu pháp vượt trội,
Liền dạy pháp Duyên giác,
Riêng với hàng con Phật,
Tu đủ mọi công hạnh,
Cầu trí tuệ Vô thượng,
Liền thuyết đạo thanh tịnh.

 [Phần thứ ba] từ câu “Với những người gặp khổ” trở đi gồm 3 khổ kệ, hỏi về bốn chúng ở các cõi khác, tức là sau khi thuyết đốn giáo rồi thì giảng rõ về Tam tạng giáo. “Với những người gặp khổ” là khai mở Thanh văn thừa. Bài tụng này giảng rõ đầy đủ về Tứ đế, trong kinh văn nói rất rõ ràng. Đại lược là như thế.

Nếu người gặp khổ mà tạo nghiệp ác thì không thể dứt khổ. Đó là những chúng sanh ở các cõi dưới.

Nếu người gặp khổ mà tạo nghiệp lành, cũng vẫn không dứt khổ, vì chán ghét [khổ nơi] cõi dưới mà bám chấp [vui thú] ở cõi trên, như ngài Nan-đà [ban đầu] vì muốn thỏa mãn dục vọng mà phát tâm trì giới.

Nếu người gặp khổ mà đi theo ngoại đạo để cầu pháp giải thoát, càng tăng thêm sự thấy biết, kiến giải sai lầm, cũng không dứt khổ.

Nếu người gặp khổ mà chán ghét xa lìa nguyên nhân của khổ, lại cũng chán ghét xa lìa không nương vào quả, cảm nhận được [ý nghĩa] Phật thuyết dạy về Niết-bàn thì có thể dứt trừ hết mọi phạm vi của khổ. Ở các cõi khác cũng khai mở [Thanh văn] thừa như vậy.

Khổ kệ 4 câu từ câu “Với những người có phước” trở đi là khai mở Trung thừa. Nếu người ít cúng dường Phật, gặp khổ lại thêm buồn bực, phiền não. Nếu cúng dường Phật nhiều, tuy gặp khổ vẫn có phước. Cho nên nói Thanh văn ba đời gieo trồng phước báo, Phật Bích-chi trăm kiếp cũng trồng phước. Ở đây so sánh với Thanh văn nên nói là có phước.

“Quyết cầu pháp vượt trội” là nói hàng Thanh văn vì sợ khổ mà tu hành, còn Phật Bích-chi vì cầu đạo mà tu hành, hết lòng tầm cầu lý duyên khởi thù thắng vi diệu, đó là nói việc nơi các cõi kia khai mở Trung thừa.

Từ câu “Riêng với hàng con Phật” trở đi là khai mở sáu ba-la-mật của Đại Thừa. Từ bi chân chánh, có thể nối dòng giống Phật nên gọi là “con Phật”. Tu tập sáu ba-la-mật nên nói là “đủ mọi công hạnh”. Chí cầu [pháp thù thắng] nên nói là “trí tuệ Vô thượng”. Trong sáu ba-la-mật không có sáu tâm che chướng,1 cũng như trong thuốc trị bệnh vốn không có bệnh, cho nên nói là “đạo thanh tịnh”, không phải là chỗ cứu cánh rốt ráo thanh tịnh. Lại nữa, hàng Thanh văn lấy khổ đế làm pháp môn quán chiếu, bậc Duyên giác lấy tập đế làm pháp môn tu, còn Bồ Tát tu sáu ba-la-mật là lấy đạo đế làm pháp môn nên nói là đạo thanh tịnh.

KINH VĂN

Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Tôi ở tại nơi đây,
Thấy nghe những việc ấy,
Cùng muôn ngàn việc khác,
Hội chúng đủ hạng người,
Nay chỉ xin lược nói.

 Phần thứ tư từ câu “Thưa Văn-thù-sư-lợi, tôi ở tại nơi đây” trở đi, gồm một khổ rưỡi, tóm kết nội dung phần trước và mở ra nội dung phần sau. Nói “thấy nghe những việc ấy” tức là kết lại phần trước, nói “hội chúng đủ hạng người”2 tức là mở ra nội dung phần sau.

KINH VĂN

Tôi thấy những cõi kia,
Có vô số Bồ Tát,
Dùng đủ mọi nhân duyên,
Để cầu thành Phật đạo.

 Phần thứ năm từ câu “Tôi thấy những cõi kia” trở đi gồm 31 khổ rưỡi (126 câu), hỏi về các pháp tu hành của những Bồ Tát ở các cõi kia, cấu trúc phân ra 3 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất, một khổ kệ nêu hỏi chung. Tổng đoạn thứ hai, 15 khổ kệ là nêu hỏi lần lượt [từng đối tượng]. Tổng đoạn thứ ba gồm15 khổ rưỡi nêu hỏi lẫn lộn nhiều nội dung.

 Tổng đoạn thứ nhất này nêu câu hỏi chung rất rõ ràng, có thể hiểu được.

KINH VĂN

Có người thường bố thí,
Vàng bạc với san hô,
Hạt châu quý ma ni,
Xa cừ cùng mã não,
Kim cương, các trân bảo,
Nô tỳ và xe cộ,
Trang trí bằng châu báu,
Đều hoan hỉ bố thí.
Hồi hướng cầu Phật đạo,
Nguyện đạt được Phật thừa,
Bậc nhất trong ba cõi,
Chư Phật đều khen ngợi.
Hoặc có những Bồ Tát,
Bố thí cả xe quý,
Có bốn ngựa, lọng che,
Cùng trang sức xinh đẹp.
Lại thấy các Bồ Tát,
Bố thí cả xương thịt,
Chân tay cùng vợ con,
Vì cầu đạo Vô thượng.
Lại thấy các Bồ Tát,
Ưa thích, vui mừng thí,
Đầu, mắt cùng thân thể,
Vì cầu trí tuệ Phật.

 Tổng đoạn thứ hai từ câu “Có người thường bố thí” trở đi gồm 15 khổ kệ nêu hỏi lần lượt, trong đó lại chia thành 6 đoạn.

 Đoạn thứ nhất gồm 6 khổ kệ như trên, nêu hỏi về Bố thí ba-la-mật. Đoạn thứ hai gồm 2 khổ kệ nêu hỏi về Trì giới ba-la-mật. Đoạn thứ ba gồm một khổ kệ, nêu hỏi về Nhẫn nhục ba-la-mật. Đoạn thứ tư gồm một khổ kệ nêu hỏi về Tinh tấn ba-la-mật. Đoạn thứ năm gồm 2 khổ kệ, nêu hỏi về Thiền định ba-la-mật. Đoạn thứ sáu gồm 3 khổ kệ nêu hỏi về Trí tuệ ba-la-mật.

Trong đoạn thứ nhất hỏi về Bố thí ba-la-mật lại có 3 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất gồm 4 khổ kệ đầu tiên nêu hỏi việc xả bỏ tài vật. Tiểu đoạn thứ hai gồm một khổ kệ nêu hỏi về việc xả bỏ thân thể. Tiểu đoạn thứ ba gồm một khổ kệ nêu hỏi về việc xả bỏ mạng sống.

Hết thảy những trân bảo quý báu, kẻ ăn người ở, đều có thể buông xả bố thí. Xe quý bốn ngựa cũng rộng lòng bố thí. Vợ con là ngoài thân, xương thịt là trong thân. Thí xả cả đầu, mắt, tức là xả bỏ mạng sống, nhưng không nói pháp thí, là để lại phần sau khi nói về Bát-nhã ba-la-mật. Lại [cũng có thể] do lược nói xả bỏ thân mạng và tài sản thì sinh tử trong tương lai sẽ được bất hoại, thường trụ, cũng tức là pháp thí, cho nên không cần nói riêng ý này.

KINH VĂN

Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Tôi thấy các vị vua,
Đến viếng thăm chỗ Phật,
Thưa hỏi đạo Vô thượng,
Rồi bỏ cõi dục lạc,
Cung điện nhiều mỹ nữ,
Cạo sạch cả râu tóc,
Mặc pháp phục xuất gia.

 Đoạn thứ hai từ câu “Thưa Văn-thù-sư-lợi, tôi thấy các vị vua” trở đi gồm 2 khổ kệ nêu hỏi về Trì giới ba-la-mật. Đây là lược nói về các vị tỳ-kheo để luận việc giữ giới. Người tại gia bố thí dễ, trì giới khó. Người xuất gia bố thí khó, trì giới dễ. Cho nên lược nêu các vị tỳ-kheo để làm rõ việc trì giới. Trong phần này có dẫn kinh Ngũ vương. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Hoặc thấy các Bồ Tát,
Mà hiện làm tỳ-kheo,
Sống cô độc nhàn tĩnh,
Ưa thích tụng kinh điển.

 Đoạn thứ ba, từ câu “Hoặc thấy các Bồ Tát” trở đi, gồm một khổ kệ, nêu hỏi về Nhẫn nhục ba-la-mật. Nhẫn nhục được nói ở đây có 3 loại. Sống nơi rừng vắng khe sâu, đối với người xấu, thú dữ đều nhẫn chịu không khởi tâm sân hận, đó gọi là sanh nhẫn. Sống biết tiết độ chế ngự, giữ được chí nguyện, gọi là khổ hạnh nhẫn. Vì cầu Phật đạo, tức là nhẫn theo ý nghĩa cao nhất. Như vậy, xuất gia làm vị tỳ-kheo tức là khổ hạnh nhẫn, sống cô độc nơi vắng vẻ tức là sanh nhẫn, vui thích tụng đọc kinh điển tức là nhẫn theo ý nghĩa cao nhất.

KINH VĂN

Lại thấy các Bồ Tát,
Sức dũng mãnh tinh tấn,
Vào tận trong núi sâu,
Nỗ lực tư duy Đạo.

 Đoạn thứ tư, từ câu “Lại thấy các Bồ Tát, sức dũng mãnh tinh tấn” trở đi, gồm một khổ kệ, nêu hỏi về Tinh tấn ba-la-mật. Thường nơi núi sâu rất đáng sợ hãi, chẳng phải chỗ ở của những người lười nhác yếu đuối. Chỉ có những người dũng mãnh tinh tấn mới có thể ở yên nơi đó, xem như quanh mình không có gì, chỉ nỗ lực tư duy tu tập thật tướng, không lúc nào dừng nghỉ, tinh tấn tiến cầu Phật đạo.

KINH VĂN

Lại thấy bậc ly dục,
Thường sống nơi nhàn tịnh,
Tu sâu pháp thiền định,
Đạt được năm thần thông.
Lại thấy các Bồ Tát,
Trong thiền định chắp tay,
Dùng muôn ngàn lời kệ,
Ngợi khen các đức Phật.

 Đoạn thứ năm, từ “Lại thấy bậc ly dục” trở đi, gồm hai khổ kệ, nêu hỏi về Thiền định ba-la-mật. Khổ kệ trước nêu hỏi về sự tu tập căn bản thiền định. Khổ kệ sau nêu hỏi về sự tu tập thiền xuất thế cao trổi nhất. Dù tu tập theo đường lối nào cũng đều phải có căn bản thiền. Về bậc ly dục, dứt lìa tham dục thì được ngũ thông, chính là định của Thông giáo. Lại nữa, dứt lìa tham dục là căn bản. Buông xả, tu quán bất tịnh... cũng đều là để dứt lìa tham dục. Biệt giáo cũng lìa bỏ những ham muốn của hàng Nhị thừa. Trung đạo lại lìa bỏ cả những ham muốn thuận theo đạo pháp. Đại lược là như vậy.

Nói về tu sâu thiền định thì khởi phát bậc định sơ thiền chưa gọi là sâu. Phải tương tục trải qua chín bậc định mới là sâu. Lại nữa, lần lượt buông bỏ cả chín bậc định, tám thắng xứ, mười nhất thiết nhập... mới gọi là sâu. Thiền định này chuyển biến tự tại, có thể phát khởi thần thông. Phàm phu chỉ có năm thần thông, Hàng Nhị thừa đầy đủ sáu thần thông, Bồ Tát Biệt giáo kém Phật, không có Lậu tận thông nên cũng chỉ gọi là năm thần thông. Bồ Tát Viên giáo thì từ ban sơ cho đến về sau đều đầy đủ sáu thần thông.

Khổ kệ thứ hai có câu “Trong thiền định chắp tay, dùng muôn ngàn lời kệ” là nói rõ về thiền xuất thế cao trổi nhất. Đó là thiền của Biệt giáo và Viên giáo. [Người tu tập thiền này] tâm dù an tĩnh hay phân tán cũng đều không trở ngại lẫn nhau, không rời khỏi diệt tận định mà hiện đủ các oai nghi, như cây đàn của thần âm nhạc a-tu-la chẳng khảy mà vẫn phát ra âm vận. Không duyên theo, không khởi niệm, nhưng có chiêu cảm lập tức biểu hiện ra, cho nên có thể trụ yên trong thiền định mà xưng tán Phật.

KINH VĂN

Lại thấy các Bồ Tát
Trí sâu chí nguyện vững,
Thường thưa hỏi chư Phật,
Nghe giảng liền thọ trì.
Lại thấy hàng con Phật,
Đã trọn đủ định, tuệ,
Dùng vô số thí dụ,
Vi đại chúng giảng pháp.
Vui thích thuyết chánh pháp,
Giáo hóa các Bồ Tát,
Phá trừ hết quân ma,
Đánh vang rền trống Pháp.

 Đoạn thứ sáu từ câu “Lại thấy các Bồ Tát, trí sâu chí nguyện vững” trở đi, có 3 khổ kệ, nêu hỏi về Bát-nhã ba-la-mật, chia làm hai tiểu đoạn.  Tiểu đoạn thứ nhất có một khổ kệ, nói về công hạnh tự mình tu tập hành trì. Trí sâu là nói trí tuệ soi xét đến tận cùng cội nguồn lẽ thật. Chí nguyện vững, bền chắc là nói thệ nguyện rộng lớn, dài lâu. Đây chính là nói về hai loại trang nghiêm [của Bồ Tát], có thể thưa hỏi, có thể thọ trì.

 Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Lại thấy hàng con Phật, đã trọn đủ định tuệ” trở đi, gồm hai khổ kệ nói về giáo hóa chúng sanh. Người tu hành ban sơ thì tuệ nhiều [hơn định], lên đến cõi Vô sắc thì định nhiều [hơn tuệ], đạt cảnh giới Tứ thiền thì định tuệ cân bằng. Lại nữa, tu tâm [Bát] bội xả thì tuệ nhiều [hơn định], vượt qua chín bậc định thì định nhiều [hơn tuệ], đạt cảnh giới Thập nhất thiết thì định tuệ cân bằng. Lại nữa, hàng Nhị thừa định nhiều [hơn tuệ], hàng Bồ Tát tuệ nhiều hơn định, chư Phật thì định tuệ cân bằng. Lại nữa, tu tập quán không thì định nhiều [hơn tuệ], tu tập quán giả thì tuệ nhiều [hơn định], tu quán Trung đạo thì định tuệ cân bằng.

[Lời kệ nói] “dùng vô số thí dụ” tức là dùng đủ mọi phương tiện, dẫn ra vô số các loại thí dụ trong kinh điển giáo pháp để hiển bày rõ ràng ý nghĩa chân thật cao tột nhất.

[Lời kệ nói] “phá trừ hết quân ma” là tu tập quán không phá bốn loại ma, quán giả thì lần lượt phá tám loại ma, quán Trung đạo của Viên giáo phá trừ hết tám loại ma, mười loại ma cho đến hết thảy các loại ma.

[Lời kệ nói] “đánh vang rền trống Pháp” là nói [Bồ Tát] Sơ phát tâm trụ2 liền đó thành Đẳng Chánh Giác, làm Phật ở trăm thế giới Phật, quay chuyển bánh xe thanh tịnh, đánh vang rền trống Pháp.

KINH VĂN

Lại thấy các Bồ Tát,
Trụ yên trong tĩnh lặng,
Trời, rồng đều cung kính,
Nhưng không lấy làm vui.
Lại thấy các Bồ Tát,
Từ rừng sâu phóng quang,
Chúng sanh khổ địa ngục,
Khiến được vào đạo Phật.

 Tiểu đoạn thứ ba, từ câu “Lại thấy các Bồ Tát, trụ yên trong tĩnh lặng” trở đi, gồm 15 khổ rưỡi, nêu hỏi không theo thứ tự, chỉ tùy theo chỗ thấy mà hỏi.

● Hỏi: Nơi sáu ba-la-mật đã tự bao gồm muôn công hạnh, cần chi phải nêu hỏi quá phiền toái phức tạp như vậy?

● Đáp: Phần trên nêu hỏi lần lượt theo thứ tự, là theo một đường tiến dần, [phần dưới] nêu hỏi không theo thứ tự là theo một đường không xác định. Đã nói là đủ mọi hình tướng, sao [nêu hỏi] chỉ có hai đường mà đã cho là phiền toái?

Như vậy [nêu hỏi] theo thứ tự và [nêu hỏi] không theo thứ tự là hai lần [hỏi về] sáu ba-la-mật. Xét như ở các cõi kia [nhìn thấy Phật] khai thuyết Tam tạng giáo điển rồi sau mới nói kinh Phương đẳng trong 12 bộ kinh để biện giải về tướng mạo của sáu ba-la-mật, cũng đầy đủ như ở cõi này này không khác.

Nhìn chung trong phần nêu hỏi không theo thứ tự thì cấu trúc chia ra 7 phân đoạn.

§ Phân đoạn thứ nhất, gồm 2 khổ kệ [như trên] nêu hỏi về thiền [ba-la-mật], chia ra 2 ý.

 Ý thứ nhất có một khổ kệ hỏi về nhập thiền và xả thiền, tức là nói việc tự mình tu tập hành trì.

 Ý thứ hai từ câu “Lại thấy các Bồ Tát, từ rừng sâu phóng quang” trở đi, nêu hỏi việc việc nhập thiền bi mẫn, ban sơ giáo hóa chúng sanh. Bồ Tát nhập định phóng hào quang có đủ mọi sự lợi ích, đều có nói đầy đủ trong kinh Hoa nghiêm, kinh Tư ích... Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Lại thấy hàng con Phật,
Tỉnh thức không ngủ nghỉ,
Trong rừng sâu kinh hành,
Chuyên cần cầu đạo Phật.
Lại thấy người giữ giới,
Oai nghi không khuyết tổn,
Trong sáng như châu ngọc,
Để cầu thành Phật đạo.

§ Phân đoạn thứ hai, từ câu “Lại thấy hàng con Phật, tỉnh thức không ngủ nghỉ” trở đi, gồm một khổ kệ, nêu hỏi về tinh tấn [ba-la-mật], tức là các pháp môn Bát-chu, niệm Phật...

§ Phân đoạn thứ ba, từ câu “Lại thấy người giữ giới, oai nghi không khuyết tổn” trở đi, gồm một khổ kệ, nêu hỏi về giới [ba-la-mật]. “Oai nghi không khuyết tổn” tức là giới đầu tiên hoàn hảo không khuyết phạm, “trong sáng như châu ngọc” tức là giới thứ 10 rốt ráo [cũng thanh tịnh]. Các giới ở khoảng giữa do đó có thể hiểu được [là thảy đều thanh tịnh]. Nói đủ về 10 giới thì như xem trong [Pháp Hoa] huyền nghĩa.

KINH VĂN

Lại thấy hàng con Phật,
An trụ sức nhẫn nhục,
Dù những kẻ kiêu mạn,
Mắng chửi và đánh đập,
Cũng đều nhẫn nhịn được,
Để cầu thành Phật đạo.

§ Phân đoạn thứ tư, từ câu “Lại thấy hàng con Phật, an trụ sức nhẫn nhục” trở đi, gồm một khổ rưỡi kệ (6 câu), nêu hỏi về nhẫn nhục [ba-la-mật], tức là hai loại sanh nhẫn và pháp nhẫn.

KINH VĂN

Lại thấy hàng Bồ Tát,
Lìa xa chuyện cợt đùa,
Không gần kẻ ngu si,
Thân cận bậc trí tuệ,
Chuyên tâm trừ loạn tưởng,
Giữa núi rừng nhiếp tâm,
Trong suốt muôn ngàn năm,
Để cầu thành Phật đạo.

§ Phân đoạn thứ năm, từ câu “Lại thấy hàng Bồ Tát, lìa xa chuyện cợt đùa” trở đi, gồm hai khổ kệ, lại hỏi về thiền [ba-la-mật]. “Lìa xa chuyện cợt đùa” chính là dứt trừ sự che chướng của trạo hối; “không gần kẻ ngu si” tức là dứt trừ sự che chướng của sân hận; “thân cận bậc trí tuệ” tức là dứt trừ sự che chướng của nghi hoặc.

“Chuyên tâm trừ loạn tưởng” tức là dứt trừ sự che chướng của tham dục; “giữa núi rừng nhiếp tâm” tức là dứt trừ sự che chướng của mê ngủ.

KINH VĂN

Hoặc thấy hàng Bồ Tát,
Dùng thức ăn ngon quý,
Cùng trăm loại thuốc thang,
Cúng dường Phật và Tăng.
Dùng y phục thượng hạng,
Giá trị đến muôn ngàn,
Quý báu đến vô giá,
Cúng dường Phật và Tăng.
Dùng trăm ngàn muôn loại,
Nhà quý gỗ chiên-đàn,
Với tòa ngồi tốt đẹp,
Cúng dường Phật và Tăng.
Đem vườn rừng yên tĩnh,
Có hoa trái sum suê,
Suối chảy, hồ trong mát,
Cúng dường Phật và Tăng.
Cúng dường những thứ ấy,
Đều tốt đẹp nhiệm mầu,
Tâm hoan hỉ không chán,
Vì cầu đạo Vô thượng.

§ Phân đoạn thứ sáu, từ câu “Hoặc thấy hàng Bồ Tát, dùng thức ăn ngon quý” trở đi, gồm 5 khổ kệ, nêu hỏi về bố thí [ba-la-mật], chia làm hai ý.

Ý thứ nhất gồm 4 khổ kệ nói rõ việc cúng dường [Tam bảo] bốn thứ thiết yếu. Ý thứ hai từ câu “cúng dường những thứ ấy” trở đi, gồm một khổ kệ, tóm kết lại ý nghĩa cúng dường cầu thành tựu.

KINH VĂN

Hoặc có hàng Bồ Tát,
Thuyết giảng pháp tịch diệt,
Dùng mọi cách chỉ bày,
Cho vô số chúng sanh.
Hoặc thấy hàng Bồ Tát,
Quán chiếu các tánh pháp,
Vốn thật không hai tướng,
Thảy đều như hư không.
Lại thấy hàng con Phật,
Tâm không chút dính mắc,
Dùng trí tuệ nhiệm mầu,
Để cầu đạo Vô thượng.

§ Phân đoạn thứ bảy, từ câu “hoặc hữu Bồ Tát, thuyết tịch diệt pháp” trở đi, có 3 khổ kệ, nêu hỏi về Bát-nhã [ba-la-mật]. Khổ kệ đầu là pháp Bát-nhã chẳng thể thuyết mà nêu ra thuyết. Khổ kệ thứ hai là pháp Bát-nhã chẳng thể quán mà nêu ra quán. Khổ kệ thứ ba là dứt trừ mọi sự ngôn ngữ nói năng, diệt sạch tâm ý tìm cầu, tức là thuyết chỗ không thể thuyết, quán chỗ không thể quán để luận về Bát-nhã.

Hoặc có thể nói 3 lần nêu hỏi về Bát-nhã là như trên đã thấy [chư Phật] ở các cõi kia thuyết giảng sáu ba-la-mật trong các kinh Phương đẳng.

Hoặc cũng có thể so sánh khác đi như ở các cõi kia [chư Phật] sau khi thuyết kinh Phương đẳng mới giảng giáo pháp Đại phẩm nói nhiều về Bát-nhã với tịch diệt chẳng phải hai, thanh tịnh không bám chấp, cõi này và các cõi kia đều như nhau.

Hoặc có thể nói pháp tịch diệt là nằm trong ý kinh Phương đẳng, quán các pháp tánh đều như hư không là ý Bát-nhã, chính là quán xét qua tất cả các pháp thấy tướng pháp đều không phân biệt. Ý nghĩa này quả thật tương hợp với Đại phẩm [Bát-nhã]. Nếu nói rằng thấy [chư Phật] thuyết giảng Pháp Hoa ở cõi kia thì chính là tương đồng với câu “dùng trí tuệ nhiệm mầu, để cầu đạo Vô thượng” trong phần kệ tụng này. Chỉ thấy người tu trí tuệ vi diệu nhưng chẳng thấy được pháp tòa nơi thuyết trí tuệ vi diệu Pháp Hoa. Nếu thấy được pháp tòa [thuyết giảng kinh] thì biết rằng cõi này cũng như cõi kia, đâu có gì phải khởi lòng nghi. Do chỉ thấy người [tu] mà chẳng thấy được pháp tòa giảng [pháp tu], cho nên đại chúng mới sinh lòng nghi. Hoặc cũng có thể [biết rằng] ba phen [nêu hỏi về] Bát-nhã [nơi cõi kia] cùng với Bát-nhã ở cõi này tương đồng, nhưng chưa biết tiếp theo [đức Phật] sẽ thuyết giảng gì cho nên khởi lòng nghi. Cả hai ý khởi nghi này đều là do sự vận dụng của con người mà thôi.

[Bảy phân đoạn này], phần văn trường hàng ở trên lược gọn nên chỉ nêu 6 ý, kệ tụng đã giảng rộng ra thì đủ nghĩa như trên. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Lại có hàng Bồ Tát,
Sau khi Phật diệt độ,
Liền cúng dường xá-lợi.
Lại thấy hàng con Phật,
Xây dựng các tháp miếu,
Nhiều như cát sông Hằng,
Làm trang nghiêm cõi nước.

 [Phần thứ sáu], từ câu “Thưa Văn-thù-sư-lợi, lại có hàng Bồ Tát” trở đi, gồm 7 khổ kệ, nói rõ việc sau khi Phật diệt độ rồi thu lấy xá-lợi dựng tháp thờ. Ngay trong kệ tụng này, phần trên đã nói ở các cõi kia chư Phật xuất thế trong đời có năm sự uế trược, từ một pháp vô tướng mà khai mở giáo pháp đốn, tiệm, cho nên có phân chia hai pháp, ba đường, đủ các công hạnh, tướng mạo chẳng giống nhau, như trên đã thấy rõ. Nay lại thấy chư Phật ở các cõi kia vào Niết-bàn, Phật tử luyến tiếc mến mộ đức độ nên dựng tháp thờ. Đó là biểu hiện từ vô lượng cuối cùng quy về một, từ một phát xuất thành vô lượng. Hình tướng trước đó đã biểu thị vô lượng quy về một, chính là việc [chư Phật] nhập Niết-bàn, sao còn sợ [điều này] làm chướng ngại [ý nghĩa] thọ lượng [của Như Lai]. Xây tháp thờ [xá-lợi Phật] chẳng phải Phật sự sao? Thật đau xót thay! Đau xót thay!

Cấu trúc phần này chia làm 6 đoạn.

 Đoạn thứ nhất gồm một khổ kệ, nêu tổng quát việc xây dựng tháp thờ [cúng dường xá-lợi] sau khi Phật nhập diệt.

 Đoạn thứ hai tiếp theo, từ câu “lại thấy hàng con Phật, xây dựng nhiều tháp miếu” trở đi, gồm một khổ kệ, nêu rõ số tháp [thờ xá-lợi Phật].

KINH VĂN

Tháp báu đẹp tuyệt vời,
Cao năm ngàn do-tuần,
Ngang, rộng đều như nhau,
Đều hai ngàn do-tuần.
Mỗi một ngôi tháp miếu,
Đều có ngàn cờ phướn,
Cùng màn ngọc phủ che,
Với chuông nhỏ hòa ngân.
Có chư thiên, long thần,
Người và loài phi nhân,
Dùng hương hoa, âm nhạc,
Thường dâng lên cúng dường.
Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Hết thảy hàng Phật tử,
Vì cúng dường xá-lợi,
Nên trang nghiêm tháp miếu,
Khắp cõi nước tự nhiên,
Thành tươi đẹp tuyệt vời,
Như cây chúa cõi trời,
Đang mùa hoa nở rộ.

 Đoạn thứ ba, từ câu “tháp báu đẹp tuyệt vời” trở đi, gồm một khổ kệ, nêu rõ độ lớn rộng của các tháp [thờ xá-lợi Phật].

 Đoạn thứ tư, từ câu “mỗi một ngôi tháp miếu” trở đi, gồm một khổ kệ, nêu rõ hình tướng của tháp [thờ xá-lợi Phật].

 Đoạn thứ năm, từ câu “có chư thiên, long thần” trở đi, gồm một khổ kệ, nêu rõ việc cúng dường tháp [thờ xá-lợi Phật].

 Đoạn thứ sáu, từ câu “Thưa Văn-thù-sư-lợi” trở đi, gồm hai khổ kệ, nêu tổng kết phần này.

Chữ tháp, hay tháp-bà (stūpa), Hán dịch là phương phần (方墳), nghĩa là phần mộ, cũng có nghĩa như mộ đắp cao. Sách Đại quán đảnh dịch là trũng (塚), nghĩa là mộ đắp lên cao.

Xây lên lầu đài cũng giống như miếu mạo điện thờ ở cõi này. Đài cao thềm rộng, đón sương chọc mây, thường biểu trưng cho sự thanh tịnh để tâm nương về hướng lên cõi thánh.

Thiên thụ vương (天樹王) là cây chúa ở cõi trời, tức là cây ba-lợi-chất-đa (pārijāta) [trên cung trời Đao-lợi].

[Xây bảo tháp] cúng dường xá-lợi Phật là chính, nhưng bên cạnh đó cũng là trang nghiêm các cõi Phật. Đại lược là như vậy.

II. Thỉnh đáp

KINH VĂN

Một lần Phật phóng quang,
Tôi cùng cả hội chúng,
Đều thấy cõi nước này,
Đủ mọi vẻ tươi đẹp.
Thần lực của chư Phật,
Trí tuệ thật ít có,
Phóng hào quang thanh tịnh,
Chiếu vô số cõi nước.
Chúng tôi đều được thấy,
Việc xưa nay chưa có.
Nguyện Phật tử Văn-thù!
Vì đại chúng giải nghi.

Phần nội dung thỉnh đáp là từ câu “một lần Phật phóng quang” trở đi, gồm 8 khổ kệ, chia làm hai đoạn.

Đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, nêu nghi vấn và thỉnh cầu. Đoạn thứ hai gồm 5 khổ kệ, nêu những sự khó hiểu.

 Đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, chia làm 3 tiểu đoạn:

 Tiểu đoạn thứ nhất gồm một khổ kệ, nêu những việc nhìn thấy ở cõi này. [Phật phóng quang từ] cụm lông trắng [giữa hai chân mày] là việc chính, cho nên nêu ra trước nhất. Lại cũng nêu các việc khác, cho nên nói là đủ mọi việc.

 Tiểu đoạn thứ hai từ câu “thần lực của chư Phật” trở đi, gồm một khổ kệ, nêu những việc nhìn thấy ở các cõi khác. Chư Phật là căn bản [nên nêu ra] tức là bao quát cả 5 thừa [Bồ Tát, Duyên giác, Thanh văn, trời, người].

 Tiểu đoạn thứ ba từ câu “chúng tôi đều được thấy” trở đi, một khổ kệ, thỉnh cầu lời giải đáp.

KINH VĂN

Bốn chúng đều ngưỡng vọng,
Mong đợi ngài và tôi.
Nói rõ Phật vì sao
Phóng tỏa hào quang này.
Xin kịp thời giải đáp,
Dứt nghi để được vui.
Lại vì lợi ích gì,
Phật hiện phóng hào quang?
Phật ngồi nơi đạo trường,
Đã chứng đắc diệu pháp,
Nay sẽ thuyết pháp ấy,
Hay vì ai thọ ký?
Nên hiện các cõi Phật,
Với châu báu nghiêm tịnh,
Lại thấy các cõi Phật,
Chẳng phải duyên nhỏ nhặt.
Ngài Văn-thù nên biết,
Bốn chúng, hàng trời, rồng...
Đều mong ngóng chờ xem,
Ngài nói ra những gì?

 Đoạn thứ hai nêu việc gặng hỏi lại, [gồm 5 khổ kệ], lại chia làm 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn đầu gồm 4 khổ kệ, chính thức nêu những ý gặng hỏi lại. Tiểu đoạn sau gồm một khổ kệ là câu kết lại và thỉnh cầu.

Nói “gặng hỏi lại” là vì trong lòng ngài Văn-thù vẫn còn hoang mang chưa hiểu rõ, không thể kịp thời giải đáp ngay. [Sự gặng hỏi lại] này có 3 ý. Thứ nhất là điềm lành kỳ đặc ít có, chẳng thể xem thường mà hấp tấp đưa ra lời phán đoán. Thứ hai là đại chúng hiện tiền trí tuệ như biển lớn, phải tỏ sự khiêm nhường, tôn trọng bậc cao minh. Thứ ba là có ý chần chờ trước [khi giải đáp] để khiến cho đại chúng sanh tâm khát ngưỡng. Do [những ý nghĩa đó] nên lấy cớ [gặng hỏi lại] để chần chừ không giải đáp ngay.

Ngài Di-lặc giải thích rõ những chỗ gặng hỏi lại này lại cũng có ba ý. Thứ nhất là điềm lành lớn lao thì lòng nghi [của đại chúng] cũng lớn lao, nếu không giải thích rõ ràng thì [đại chúng] ôm lòng ưu tư lo nghĩ, chướng ngại cho việc [nghe] thuyết giảng chánh kinh. Thứ hai là đại chúng [trí tuệ] như biển lớn, tuy đông người nhưng cơ duyên giải thích việc này chỉ ở nơi ngài Văn-thù-sư-lợi. Thứ ba là toàn thể đại chúng đều chiêm ngưỡng ngài Văn-thù-sư-lợi nên biết rằng có sự chuyên chú chân thành, ân cần tôn trọng. Do vậy mà đáp lại những chỗ [ngài Văn-thù-sư-lợi] gặng hỏi để thỉnh cầu ngài kịp thời giải đáp.

Lần gặng hỏi thứ nhất là nhân nơi lời thỉnh cầu chính [của ngài Di-lặc] mà có. Lời thỉnh cầu trước đó rằng: “Nguyện Phật tử Văn-thù, vì đại chúng giải nghi.” Ngài Văn-thù dựa theo lời thưa thỉnh này mà gặng hỏi lần thứ nhất, [hàm ý rằng]: “Ngài nói là đại chúng khởi nghi nhưng tôi e rằng đại chúng chưa từng khởi nghi, vì nếu có nghi thì lẽ ra đã hỏi. Đại chúng đã không nghi thì tôi biết giải đáp điều gì?”

Ngài Di-lặc liền dùng kệ đáp lại lần thứ nhất: “Bốn chúng cùng ngưỡng vọng, mong đợi ngài và tôi.” [Lời giải thích này có hàm ý:] “Đại chúng nhìn tôi là muốn tôi thưa hỏi, nhìn ngài tức là muốn được nghe ngài giải đáp.”

Ngài Văn-thù nhân câu trả lời đó liền nêu trở ngại lần thứ hai, [hàm ý rằng:] “Nếu đại chúng đều nghi thì không thể dễ dàng giải đáp, vậy xin chờ Phật xuất định, sẽ thưa hỏi dứt nghi.” Ngài Di-lặc liền dùng kệ để đáp lại lần thứ hai, [hàm ý rằng]: “Nếu để nghi ngờ thì [đại chúng] trong lòng không yên, vì thế nên kịp thời giải đáp. Hơn nữa chưa biết lúc nào đức Như Lai mới xuất định.” Cho nên [lời kệ] nói rằng “Xin kịp thời giải đáp, dứt nghi để được vui.”

Ngài Văn-thù-sư-lợi nhân câu trả lời đó lại nêu ra điều trở ngại thứ ba, [hàm ý rằng:] “Tôi với ngài cùng một địa vị tu học như nhau, nếu muốn suy lường ý Phật thì nên kín đáo cùng nhau bàn bạc, chỉ để riêng tôi đưa ra lời giải đáp thì không hợp lý.” Ngài Di-lặc liền dùng kệ đáp lại lần thứ ba, [hàm ý rằng]: “Tôi cũng đã lưu tâm suy nghĩ rất kỹ, nhưng còn phân vân giữa đôi đường, không biết đây là [điềm lành Phật sắp] thuyết giảng diệu pháp hay là sắp thọ ký [cho ai].” Cho nên [lời kệ] nói rằng: “Phật ngồi nơi đạo trường, đã chứng đắc diệu pháp, nay sẽ thuyết pháp ấy, hay vì ai thọ ký?”

Ngài Văn-thù-sư-lợi nhân câu trả lời đó lại nêu ra điều trở ngại thứ tư, [hàm ý rằng]: “Như ngài vừa nói đó tức là đã giải thích chỗ nghi [của đại chúng] rồi, đâu cần đến tôi giải đáp?” Ngài Di-lặc liền dùng kệ đáp lại lần thứ tư, [hàm ý rằng]: “Sao có thể dùng tâm ý phân vân do dự của tôi để phán xét việc lớn lao này?” Cho nên [lời kệ nói] rằng: “Lại thấy các cõi Phật, chẳng phải duyên nhỏ nhặt.”

[Đến đây] ngài Văn-thù không còn gì để gặng hỏi, thái độ khiêm cung cũng đã vừa đủ. Sau đó là một khổ kệ để tổng kết lại và thỉnh cầu giải đáp.

[Ý nghĩa] bốn lần gặng hỏi này, ngài Quang Trạch thọ nhận từ Thứ sư, Thứ sư thọ nhận từ Chiêu sư ở Giang Bắc, vốn là những ý nghĩa nằm ngoài văn kinh, được các bậc tiên hiền khéo suy xét hiểu được nên nay vận dụng lại.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Đại Bồ Tát Di-lặc, các vị đại sĩ và các thiện nam tử rằng: “Theo như tôi suy xét thì nay đức Phật Thế Tôn muốn thuyết pháp lớn lao, mưa xuống cơn mưa pháp lớn, thổi tù và pháp lớn, đánh tiếng trống pháp lớn, diễn giảng nghĩa pháp lớn.”

Từ câu “Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Đại Bồ Tát Di-lặc...” cho hết bài phần kệ gọi là Tự của phần giải đáp lời thưa hỏi, gồm có cả văn trường hàng và kệ tụng.

Giải thích văn trường hàng

Cấu trúc văn trường hàng chia làm bốn phần. Thứ nhất là từ “nói với Bồ Tát Di-lặc...” trở đi, gọi là giải đáp dựa theo sự suy xét. Thứ hai là từ “Các vị thiện nam tử, tôi ở quá khứ...” trở đi, gọi là giải đáp dựa theo sơ lược những sự việc từng thấy [trong quá khứ]. Thứ ba là từ “Các vị thiện nam tử, như quá khứ...” trở đi, gọi là giải đáp dựa theo mở rộng những điều từng thấy [trong quá khứ]. Thứ tư là từ “Kim kiến thử thụy dữ bản vô dị” trở đi, gọi là giải đáp theo sự phán xét phân biệt rõ ràng.

1. Giải đáp theo suy xét

 Phàm [lấy sự hiểu biết của] kẻ dưới mà suy lường bậc trên thì chỉ có thể thấy biết mường tượng mơ hồ rồi suy đoán, như chỉ có thể nói rằng việc ngày xưa cũng giống như bây giờ, nhưng không thể quyết đoán tức thì là việc gì. Vì thế, ban đầu chỉ [mô tả] mường tượng sự việc. Tiếp theo mới dẫn sơ lược những điều đã thấy [trong quá khứ]. Dẫn sơ lược như vậy vẫn chưa đủ khắp, nên tiếp tục dẫn rộng hơn những điều từng thấy. [Từ đó] dùng nhiều [sự việc trong quá khứ] để chứng minh cho một [việc trong hiện tại] rồi mới có thể phân biệt phán xét quyết đoán.

Giải đáp dựa theo suy xét là đáp lại câu hỏi về [điềm lành] ở cõi này. Giải đáp dựa theo sơ lược những điều từng thấy trong quá khứ là đáp lại câu hỏi về cõi kia. Giải đáp dựa theo mở rộng những điều từng thấy trong quá khứ tức là đáp lại câu hỏi về cả cõi này và các cõi kia. Giải đáp dựa theo sự phân biệt phán xét là cùng lúc phán xét về cả cõi này và các cõi kia.

Phần giải đáp dựa theo suy xét lại chia làm hai phần. Phần trước nêu lên ý chính, phần sau nói ra sự suy xét. Suy là suy nghĩ, xét là xét lường. Suy việc ngày nay giống như ngày xưa, xét việc ngày xưa giống như ngày nay. Nhưng ngài Văn-thù vốn là Cổ Phật, lẽ nào lại không biết? Tích [Cho nên] việc suy xét ấy chỉ là hình tích biểu hiện.

Theo ngài Quang Trạch thì câu đầu [“muốn thuyết pháp lớn lao”] và câu cuối [“diễn giảng nghĩa pháp lớn lao”] của đoạn này là nêu pháp để nói, biểu trưng cho nhân quả nói rộng và nói lược, ba câu ở giữa là nêu thí dụ để nói.

“Muốn thuyết pháp lớn lao” là lược nói việc trừ bỏ ba [thừa] để hiển bày một thừa duy nhất, lược nói mở ra sự kiện gần đây để hiển bày sự kiện xa xưa.

“Diễn giảng nghĩa pháp lớn” lại là rộng nói việ trừ bỏ ba [thừa] để hiển bày một thừa duy nhất, rộng nói mở ra sự kiện gần đây để hiển bày sự kiện xa xưa.

[Ba câu ở giữa là nêu thí dụ.] “Mưa xuống cơn mưa pháp lớn” thí dụ cho việc được thọ ký làm Phật, vì từ xưa bám chấp lẽ nhân quả cứng nhắc cố định, [cho rằng] không thể thành Phật, là ý nghĩa khô kiệt héo hắt, nay [hiểu ra rằng tất cả chúng sanh] đều có thể thành Phật, là ý nghĩa [giáo pháp] được mưa xuống tươi nhuận.

“Thổi tù và pháp lớn” là thí dụ việc thay đổi ba thừa [thành Nhất thừa]. “Đánh tiếng trống pháp lớn”, [ý nghĩa là] nghiêm chỉnh quân binh, thí dụ cho việc phá trừ vô minh.

Nay làm rõ [cách giải thích] “nêu pháp để nói” như trên không thể dùng được. Vì sao vậy? Bởi vì duyên khởi theo Tích môn và Bản môn vốn khác biệt nhau. Theo Tích môn thì duyên khởi là ngài Di-lặc sinh lòng nghi, ngài Văn-thù nhân đó mà giải thích. Theo bản môn thì lúc duyên chưa khởi, ngài Di-lặc nghi ở chỗ nào, ngài Văn-thù giải đáp chỗ nào? Nếu trong việc này lại cho là [ngài Văn-thù] giải thích cho mối nghi mở ra sự kiện gần đây để hiển bày sự kiện xa xưa, thì ở chương sau khi mặt đất tách đôi, chúng Bồ Tát từ dưới vọt lên, vì sao ngài Di-lặc vẫn còn sinh nghi? Nếu vẫn còn nghi thì lòng nghi đó chẳng ích gì, mà sự giải thích cũng chẳng ích gì. Phần giải thích ở sau đã không đúng nên sự giải thích ở phần trước cũng sai. Điều này gây chướng ngại rất lớn [cho việc hiểu nghĩa kinh], nên không thể dùng được.

Nay làm rõ ý nghĩa trong nghi vấn của ngài Di-lặc chỉ là hỏi về sự hiển thị điềm lành ở cõi này và các cõi kia. Ngài Văn-thù dựa theo sự suy xét mà đáp, sự giải đáp này là về hình tích hiển thị, chẳng liên quan đến thọ lượng [của Như Lai] vốn thuộc về Bản môn. “Muốn thuyết pháp lớn lao” là giải đáp điềm lành thuyết pháp; “mưa xuống cơn mưa pháp lớn” là giải đáp điềm lành trời mưa hoa xuống; “thổi tù và pháp lớn” là giải đáp điềm lành tâm đại chúng hoan hỷ; “đánh tiếng trống pháp lớn” là giải đáp điềm lành cõi đất chấn động, “diễn giảng nghĩa pháp lớn” là giải đáp điềm lành [Phật] phóng chiếu hào quang.

Câu “muốn thuyết pháp lớn lao” là [ngài Văn-thù-sư-lợi] suy nghĩ nhớ về xưa kia chư Phật thuyết kinh Vô lượng nghĩa rồi sau đó ắt sẽ trừ bỏ pháp quyền biến, hiển bày pháp chân thật, thu vô lượng nghĩa về một [nghĩa]. Xét rằng nay đức Phật đã thuyết kinh [Vô lượng nghĩa] rồi, ắt là cũng sẽ trừ bỏ pháp quyền biến, hiển bày pháp chân thật, thu vô lượng nghĩa về một [nghĩa]. Một nghĩa đó chính là “pháp lớn lao”.

Câu “mưa xuống cơn mưa pháp lớn” là [ngài Văn-thù-sư-lợi] suy nghĩ nhớ về thời chư Phật xưa kia sau khi trời mưa hoa xuống thì đều [khiến cho đại chúng] được thể nhập nhân lành viên mãn, tiến lên các giai vị [Thập] trụ, [Thập] hạnh, [Thập] hồi hướng, [Thập] địa. Xét rằng nay ở chỗ Phật này, sau khi trời mưa hoa, ắt là [đại chúng cũng] đều sẽ được thể nhập nhân lành thành Phật, tiến lên các giai vị [Thập] trụ, [Thập] hạnh, [Thập] hồi hướng, [Thập] địa. Cho nên nói là “mưa xuống cơn mưa pháp lớn”.

Câu “thổi tù và pháp lớn” là [ngài Văn-thù-sư-lợi] suy nghĩ nhớ về thuở xưa khi bốn chúng được thấy điềm lành đều sinh lòng hoan hỷ, được điều chưa từng có, dứt trừ che chướng, căn cơ rúng động, liền thay đổi [nhận thức về] giáo pháp tu học, công hạnh tu tập và chân lý rốt ráo. Xét rằng ngày nay bốn chúng nơi đây cũng sinh tâm hoan hỷ, chắc rằng cũng sẽ dứt trừ che chướng, căn cơ rúng động, thay đổi [nhận thức về] giáo pháp tu học, công hạnh tu tập và chân lý rốt ráo. Sự thay đổi ấy rất sâu xa, cho nên nói là “thổi tù và pháp lớn”.

Câu “đánh tiếng trống pháp lớn” là [ngài Văn-thù-sư-lợi] suy nghĩ nhớ về thuở xưa sau khi cõi đất chấn động thì diễn ra sáu lượt phá trừ giặc vô minh. Xét rằng ngày nay ở chỗ Phật đã có sự chấn động cõi đất thì ắt rằng sau đó cũng sẽ diễn ra sáu lượt phá mê hoặc vô minh. Âm thanh thuyết giáo cực kỳ mầu nhiệm cho nên nói là “đánh tiếng trống pháp lớn”.

Câu “diễn giảng nghĩa pháp lớn” là [ngài Văn-thù-sư-lợi] suy nghĩ nhớ về thuở xưa chư Phật phóng hào quang từ nơi cụm lông giữa hai chân mày (bạch hào) thì sau đó thuyết giảng kinh Pháp Hoa, ở cõi này và các cõi kia đều cùng một đạo như nhau. Từ đó lượng xét rằng, nay sau khi Đức Phật phóng hào quang như vậy rồi, ắt sẽ làm sáng tỏ việc 5 đức Phật đều dạy đạo giống nhau, đều là đạo của Phật, cho nên nói là “diễn giảng nghĩa pháp lớn”.

Cả 5 câu trên đều là suy nghĩ nhớ về việc xưa để phán đoán việc hiện nay, xét lường việc hiện nay để so sánh phân loại theo việc thuở xưa. Tìm hiểu văn kinh và ý nghĩa thì chỉ thiếu duy nhất một điềm lành nhập định. Nhưng [tất cả các điềm lành như] trời mưa hoa, cõi đất chấn động, và [đức Phật] phóng hào quang v.v... đều là do sự nhập định mà có, nên ý đã bao gồm đầy đủ, chẳng có gì phải nghi ngờ. Chính vì [trong lời giải đáp] thiếu một điềm lành như vậy cho nên gọi là lược đáp.

Nay lại giải thích khác đi, câu đầu tiên là nêu tổng quát và 4 câu sau là nêu riêng từng chi tiết. Nêu tổng quát là nói về “pháp lớn lao”. Nêu riêng từng chi tiết là nói những việc mưa hoa, thổi tù và pháp, đánh trống pháp, diễn giảng nghĩa pháp, là [biểu trưng cho] khai, thị, ngộ, nhập [tri kiến Phật].

Cũng giống như bầu trời không có lớn hay nhỏ, không có đỏ hay trắng, nhưng lại mưa xuống hoa trời có đỏ có trắng, chân lý đệ nhất nghĩa vốn không có khai, thị, ngộ, nhập, nhưng thấy được chân lý này liền chứng đắc khai, thị, ngộ, nhập.

Lại ví như những hạt mầm khi gặp mưa xuống liền tự nảy nở, nay [chúng sanh] nghe được giáo pháp quan trọng như cơn mưa lớn, thấm nhuần hạt giống tánh pháp, liền phá trừ được vỏ bọc vô minh, được khai mở đối với tri kiến Phật ở giai vị Thập trụ.

Cũng như việc thổi tù và pháp thì biết dấu hiệu có sự thay đổi [nội dung thuyết giảng], đối với những người trước đã chứng đắc Thập trụ, nay từ Thập trụ được nghe giáo pháp mới liền thể nhập Thập hạnh, đó là chỉ bày tri kiến Phật.

Cũng như việc đánh trống pháp thì biết là phải răn dạy quân binh nghiêm chỉnh, đối với những người trước ở nơi đã thể nhập Thập hạnh, nay từ Thập hạnh này nghe giáo pháp răn dạy liền thể nhập Thập hồi hướng, đó là chứng ngộ được tri kiến Phật.

Thuyết giảng diễn rộng sâu xa bao quát mới gọi là diễn nghĩa. Đối với những người đã ở giai vị Thập hồi hướng, nay từ Thập hồi hướng thể nhập Thập địa là vào tri kiến Phật (nhập Phật tri kiến), thấu suốt nguồn cội, tận cùng bờ mé sâu rộng đầy đủ. [Ngài Văn-thù-sư-lợi] suy nghĩ nhớ về 6 điềm lành thuở xưa, sau đó [đức Phật liền thuyết pháp] khai, thị, ngộ, nhập. Từ đó lượng xét rằng với các điềm lành ngày nay ắt sau đó cũng là như thế.

Phần giải thích ý nghĩa giải đáp dựa theo suy xét của ngài Văn-thù-sư-lợi qua thời gian và sự kiện đến đây là hết.

2. Lược đáp theo những điều từng thấy

KINH VĂN

Các vị thiện nam tử! Tôi ở nơi chư Phật trong quá khứ từng thấy điềm lành này, phóng hào quang này rồi ắt thuyết pháp lớn lao. Cho nên biết được rằng, nay Phật hiện hào quang cũng giống như vậy, muốn cho chúng sanh thảy đều nghe biết pháp khó tin nhận với tất cả thế gian, cho nên hiện điềm lành này.

 Phần thứ hai là giải đáp dựa theo sơ lược những sự việc từng thấy [trong quá khứ], bắt đầu từ câu “Các vị thiện nam tử! Tôi ở nơi chư Phật trong quá khứ...” trở đi. Trước tiên [ngài Văn-thù-sư-lợi] đã dùng trí tuệ của chính mình để suy nghĩ lượng xét, nay sau khi kể ra sơ lược những việc từng thấy [trong quá khứ] liền nêu nội dung này để giải đáp câu hỏi về [điềm lành ở] các cõi kia.

Có năm điềm lành ở cõi này không tương thông với các cõi kia, chỉ riêng điềm lành [Phật] phóng hào quang là soi chiếu khắp về phương đông. Trong phần giải đáp dựa theo sơ lược những điều từng thấy chỉ giải đáp riêng về điềm lành phóng quang, cho nên biết phần này giải đáp nghi vấn về các cõi kia. Nay nhìn thấy [điềm lành] giống như thuở xưa, [điềm lành] thuở xưa cũng chỉ giống như ngày nay, đều là muốn khiến cho hết thảy chúng sanh đều được nghe biết, tức là đủ cả văn tuệ và tư tuệ, cũng như có đủ hai công hạnh đức tin và hành trì. [Những pháp được nghe biết đó là] thu vô lượng pháp về một pháp, chuyển đổi giáo lý Tam thừa [thành Nhất thừa], sáu phen phá trừ vô minh v.v... Như vậy, giáo pháp của chư Phật đều như nhau, đều là “khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến”, cho nên [Kinh văn] nói là “pháp khó tin nhận với tất cả thế gian”.

3. Giải đáp rộng theo những điều từng thấy

KINH VĂN

Các thiện nam tử! Như trong quá khứ cách đây vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kì số kiếp.

 Phần thứ ba là giải đáp dựa theo mở rộng những điều từng thấy [trong quá khứ], từ câu “Chư thiện nam tử, như quá khứ vô lượng...” trở đi, nói rõ ràng hơn so với phần lược đáp. Phần này mở rộng giải đáp nghi vấn về [điềm lành] ở cõi này và các cõi kia. Ngài Di-lặc nhân thấy hào quang vượt không gian soi thấu khắp phương đông nên nêu ra nghi vấn. Ngài Văn-thù dẫn việc từng thấy từ thuở xưa vượt qua thời gian đến tận ngày nay để giải đáp. Nêu việc bao quát cả không gian và thời gian là để hiển bày rõ ràng đạo của chư Phật [từ xưa đến nay cũng như ở khắp mọi nơi] đều giống nhau.

Cấu trúc phần này có ba đoạn. Trước hết dẫn việc của một vị Phật cũng đồng [như việc ngày nay]. Tiếp theo dẫn việc của hai mươi ngàn vị Phật cũng đồng [như việc ngày nay]. Sau hết dẫn việc một vị Phật cuối cùng cũng đồng [như việc ngày nay].

 Trong phần dẫn việc một vị Phật lại cũng chia làm ba đoạn. Thứ nhất nêu rõ thời gian nhân duyên, thứ hai nêu danh hiệu Phật và thứ ba là nêu việc [Phật] thuyết pháp.

 Đoạn thứ nhất nêu thời gian nhân duyên thì rõ ràng như kinh văn.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

 Đoạn thứ hai, “có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt [Đăng Minh Như Lai]” là nêu danh hiệu giống nhau. [Nhưng] tên hiệu chung có thể giống, tên hiệu riêng làm sao có thể giống nhau? Chỗ này phải dùng ý “tên khác biệt, nghĩa tương đồng” để giải thích. Như vậy nghĩa là thế nào? Vì nghĩa “nhật” (mặt trời) là tuệ, “nguyệt” (mặt trăng) là định, định tuệ là đức tự hành trì, “đăng minh” (đèn sáng) là đức giáo hóa chúng sanh. [Đức Phật ngày nay hiệu Thích-ca Mâu-ni, dịch là] “năng nhân”, là nghĩa thường có định tuệ, cũng thường tự hành, cũng thường giáo hóa chúng sanh. Lại nữa, “Nhật Nguyệt Đăng” nghĩa là ba trí, đức Phật [Thích-ca] ngày nay cũng có đủ ba trí. Cho nên [chư Phật] tùy duyên mà xưng danh hiệu khác nhau nhưng ý nghĩa không khác, cho nên nói là danh hiệu [xưa và nay đều] giống nhau.

KINH VĂN

[Đức Phật ấy] diễn thuyết chánh pháp lúc ban sơ tốt đẹp, khoảng giữa tốt đẹp, sau cùng cũng tốt đẹp, ý nghĩa sâu xa, ngôn ngữ khéo léo mầu nhiệm, thuần khiết không xen tạp, đầy đủ tướng trạng của hạnh thanh tịnh trong sáng.

 Đoạn thứ ba, nêu nghĩa thuyết pháp giống nhau, từ câu “[Đức Phật ấy] diễn thuyết chánh pháp” trở đi. Đức Phật thuở xưa trước thuyết đốn giáo, sau thuyết tiệm giáo, so với đức Phật ngày nay cũng trước đốn sau tiệm, nên nói là giống nhau. [Kinh văn nói] “diễn thuyết chánh pháp lúc ban sơ tốt đẹp, khoảng giữa tốt đẹp, phần sau cũng tốt đẹp”, tức là Đốn giáo. Nói đến 7 điều thiện là tương thông trong cả Đại thừa và Tiểu thừa, nhưng xem trong kinh này thì đó là bảy điều thiện của Đại thừa. Nói “lúc đầu, khoảng giữa và sau cùng” đều tốt đẹp chính là nói các phận Tự, Chánh văn và Lưu thông [của kinh này], tức là “thời tiết thiện” (thời điểm, nhân duyên đều tốt đẹp) của Đốn giáo. “Ý nghĩa sâu xa” là nói cái nghĩa lý rốt ráo trọn vẹn, vì hàng Nhị thừa không thể đo lường được mức độ rộng sâu, cho nên nói là sâu xa. Đây gọi là “nghĩa thiện” (nghĩa tốt đẹp) của Đốn giáo. “Ngôn ngữ khéo léo mầu nhiệm” tức là những gì được nói ra bằng tám loại âm thanh [của Phật] theo Đốn giáo. Nêu thẳng vấn đề, phù hợp với chân lý, khiến các Bồ Tát đều hoan hỷ trong lòng, đó là nói kinh văn, gọi là “ngữ thiện” (ngôn ngữ tốt đẹp) của Đốn giáo. “Thuần khiết không xen tạp”, không chung cùng với hàng Nhị thừa, nghĩa là chỉ riêng [hàng Bồ Tát] mới đầy đủ những điều tốt đẹp này, tức là “độc nhất thiện” của Đốn giáo. Nêu rõ các phạm vi trong ngoài của pháp rốt ráo, là sự tốt đẹp đầy đủ, tức là “viên mãn thiện” của Đốn giáo. Thanh tịnh trong sáng không có tỳ vết uế nhiễm của sự phân biệt bám chấp, tức là “điều nhu thiện” của Đốn giáo. “Tướng của hạnh thanh tịnh” thì phạm (thanh tịnh) tức là “vô duyên từ thiện” của Đốn giáo.

Lại nữa, [đối với nghĩa] ban đầu, khoảng giữa và sau cùng đều tốt đẹp, có những cách giảng giải khác nhau, nay tạm giải theo một cách. Tiểu thừa cho rằng giới, định, tuệ là ba điều tốt đẹp, Đại thừa thì lấy tâm ban đầu, tâm khoảng giữa và tâm sau cùng [của chư Phật] là ba điều tốt đẹp. Kinh Kim Quang Minh nói: “Tâm ban đầu của Như Lai không thể nghĩ bàn, tâm khoảng giữa của Như Lai đủ mọi sự trang nghiêm, tâm sau cùng của Như Lai [kiên cố] không thể phá hoại.” Đó cũng là ý nghĩa của ba điều tốt đẹp.

Ngài Văn-thù dẫn bảy điều thiện theo Đốn giáo của chư Phật thuở xưa, so với bảy điều thiện đốn thuyết của đức Phật ngày nay đều giống nhau, lại so với bảy điều thiện đốn thuyết ở các cõi nước kia cũng đều giống nhau, cho nên mới vận dụng để giải đáp. Đây là đáp lại ngài Di-lặc ở trên vì thấy hào quang trải rộng khắp không gian nên nêu nghi vấn về việc chư Phật ở các cõi khác diễn thuyết kinh điển giáo pháp vi diệu tột cùng. Ngài Văn-thù dẫn việc thuở xưa xuyên suốt thời gian để nêu ra giải đáp, tức là chư Phật ban sơ nói pháp đốn giáo cũng giống [như đức Phật ngày nay].

KINH VĂN

Vì người cầu quả Thanh văn mà thuyết pháp tứ đế thích hợp, vượt thoát sinh lão bệnh tử, rốt ráo đạt Niết-bàn; vì người cầu quả Phật Bích-chi mà thuyết pháp mười hai nhân duyên thích hợp; vì các Bồ Tát mà thuyết sáu ba-la-mật thích hợp, khiến cho đạt được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thành tựu Nhất thiết chủng trí.

“Vì người cầu quả Thanh văn mà thuyết pháp tứ đế thích hợp”, tức là chư Phật thuở xưa sau khi thuyết đốn giáo liền khai trừ tiệm giáo, cũng giống [như đức Phật ngày nay].

Như phần trên [trong bài kệ nêu nghi vấn của ngài Di-lặc] có nói: “Với những người gặp khổ, chán bỏ già, bệnh, chết, vì họ thuyết Niết-bàn.” Nay [ngài Văn-thù-sư-lợi] dẫn việc chư Phật xưa cũng khai trừ tiệm giáo như vậy để giải đáp nghi vấn đó.

“Vì người cầu quả Phật Bích-chi mà thuyết pháp mười hai nhân duyên thích hợp.” Đây là để giải đáp nghi vấn ở trên nêu ra việc “với những người có phước, [đã từng cúng dường Phật,] quyết cầu pháp vượt trội”.

“Vị chư Bồ Tát thuyết ưng lục ba-la-mật.” (Vì chư Bồ Tát mà thuyết giảng sáu ba-la-mật thích hợp.) Đây là giải đáp nghi vấn như trên nêu ra “riêng với hàng con Phật, tu đủ mọi công hạnh, [cầu trí tuệ Vô thượng]”.

Những giải đáp trên đều là dẫn việc chư Phật thuở xưa cũng trừ bỏ tiệm giáo giống như [đức Phật ngày nay].

[Ngài Văn-thù-sư-lợi] rộng dẫn việc đã từng gặp chư Phật để giải đáp nghi vấn về các cõi kia. [Kinh văn nói] “khiến cho đạt được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thành tựu Nhất thiết chủng trí”, đó là làm rõ việc chư Phật thuở xưa sau khi trừ bỏ đốn giáo, tiệm giáo rồi thì cũng hiển bày lẽ thật, thuyết pháp trước sau rốt ráo [giống như đức Phật ngày nay]. Đây là giải đáp nghi vấn của ngài Di-lặc về việc nhìn thấy chư Phật ở các cõi kia nhập Niết-bàn, sau khi nhập Niết-bàn lại có việc xây dựng tháp thờ xá-lợi.

Như vậy từ chỗ dẫn việc chư Phật xưa thuyết pháp cho đến đoạn nói về sáu ba-la-mật là nêu rõ đức Phật ngày nay so với chư Phật thuở xưa vốn đã không khác. Từ câu “khiến cho đạt được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề” trở đi là nêu rõ đức Phật ngày nay so với chư Phật thuở xưa rồi cũng sẽ không khác nhau. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Tiếp đến lại có Phật cũng tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh, rồi lại có Phật cũng tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, như vậy đến 20.000 vị Phật đều cùng một tên hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, lại cũng đồng một dòng họ là họ Phả-la-đọa. Ngài Di-lặc nên biết, từ vị Phật ban đầu đến vị Phật cuối cùng đều cùng một danh xưng là Nhật Nguyệt Đăng Minh, đều có đầy đủ mười đức hiệu, và những điều thuyết pháp từ ban sơ, khoảng giữa cho đến cuối cùng đều tốt đẹp.

 Tiếp theo nêu dẫn 20.000 vị Phật mà danh hiệu và sự thuyết pháp đều giống nhau. Trước tiên nêu dẫn một vị Phật và nói đầy đủ việc thuyết pháp đốn giáo, tiệm giáo đều giống [với đức Phật hiện nay]. Ở giữa nêu ra 20.000 vị Phật và chỉ nói việc thuyết pháp đốn giáo giống [với đức Phật hiện nay]. Đã nói rằng ban đầu, khoảng giữa cho đến sau cùng đều tốt đẹp, cho nên sau đó nêu dẫn một vị Phật, nhưng chỉ nói việc khai trừ tiệm giáo giống [với đức Phật ngày nay]. Sở dĩ như vậy là vì những điều nêu ra đều có sự hỗ tương cho nhau, chỉ riêng phần nêu trước đã có thể hiểu rõ được rồi, nhưng không dẫn 20.000 vị Phật ra trước là vì danh hiệu, sự thuyết pháp [của chư Phật] đều giống nhau, chỉ căn cứ vào ý nghĩa mà nêu cho thuận tiện thôi.

Họ Phả-la-đọa, Hán dịch là “tiệp tật” (nhanh nhẹn), cũng dịch là lợi căn (căn tánh lanh lợi), lại cũng dịch là “mãn ngữ” (lời nói trọn vẹn).

KINH VĂN

Vị Phật sau cùng, lúc chưa xuất gia có tám người con. Người thứ nhất tên là Hữu Ý, thứ hai là Thiện Ý, thứ ba là Vô Lượng Ý, thứ tư là Bảo Ý, thứ năm là Tăng Ý, thứ sáu là Trừ Nghi Ý, thứ bảy là Hưởng Ý, thứ tám là Pháp Ý. Tám vị vương tử này đều có oai đức tự tại, mỗi vị đều cai trị bốn thiên hạ. Các vị vương tử nghe tin phụ vương xuất gia, đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, liền xả bỏ vương vị cũng theo cha xuất gia, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều là những vị pháp sư, ở nơi muôn ngàn đức Phật trồng các cội lành.

 Từ câu “vị Phật sau cùng” trở đi là phần thứ ba nêu dẫn một vị Phật cũng giống [như đức Phật ngày nay]. Phần này chia làm ba đoạn. Đoạn thứ nhất là nêu rõ sự việc từng thấy trước đây so với bây giờ vốn đã giống nhau. Đoạn thứ hai là nêu rõ sự việc từng thấy trước đây so với bây giờ đang diễn ra giống nhau. Đoạn thứ ba là nêu rõ sự việc từng thấy trước đây so với bây giờ rồi sẽ giống nhau.

Chữ “tằng” là nói sự việc đã từng trải qua, chữ “dĩ” là nói sự việc đã lui vào quá khứ. “Tằng” với “dĩ” đều là nói việc đã từng xảy ra trong quá khứ, nhưng nay lấy việc đã xảy ra lâu xa thì dùng chữ “tằng”, việc đã qua gần đây hơn thì dùng chữ “dĩ”. Lại đối với sáu điềm lành [hiện tại] đều gọi là “kim” (hiện nay), việc đợi sau khi Phật xuất định thì gọi là “đương” (rồi sẽ).

 Đoạn thứ nhất, từ câu “vị Phật sau cùng, lúc chưa xuất gia có tám người con” là nói việc xảy ra lâu xa trong quá khứ với việc vừa xảy ra gần đây đều giống nhau. Đức Phật xưa có tám người con, đức Phật ngày nay có một người con, tuy số con khác nhau nhưng đều ra đời ở cõi [phàm thánh] đồng cư. Vì trong cõi nước có kiến hoặc, tư hoặc nên đều thị hiện có con. Việc có con là giống nhau. Một con hay tám con là tùy theo duyên khác biệt mà có sự biểu hiện. Sanh một con là biểu hiện tổng quát một đạo thanh tịnh. Sanh tám con là biểu hiện tám chánh đạo. Số lượng khác nhau nhưng ý nghĩa biểu hiện giống nhau. Nay chỉ lấy riêng ý nghĩa “có con” là giống nhau.

Lại nữa, thuở xưa con Phật xuất gia phát tâm Đại thừa, ngày nay con Phật lại trụ ở quả vị Tiểu thừa, việc này làm sao nói là giống nhau? Vì đức Phật thuở xưa hóa đạo đã xong nên hiển lộ bản sự rõ ràng, cho nên nói việc phát tâm Đại thừa, còn đức Phật ngày nay [lúc thuyết kinh này] vẫn còn chưa phát lộ hình tích, cho nên chỉ nói quả vị A-la-hán. Đến phần kinh văn về sau phát lộ bản môn, tức là Bồ Tát, ý nghĩa tất nhiên là giống nhau.

KINH VĂN

Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Thuyết kinh xong liền ở giữa đại chúng ngồi kết già nhập tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm chẳng động. Khi ấy, trời mưa xuống hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, hoa rải lên thân Phật và đại chúng. Khắp cõi Phật, [mặt đất] chấn động theo sáu cách. Bấy giờ trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và loài phi nhân, cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương... Đại chúng như vậy được việc chưa từng có, đều hoan hỉ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật. Khi ấy, đức Như Lai phóng hào quang từ nơi cụm lông trắng giữa hai chân mày, soi chiếu về phương đông đến 18.000 cõi Phật, không nơi nào không soi thấu, cũng giống như ngày nay đã thấy hiển bày các cõi Phật. Ngài Di-lặc nên biết, khi ấy trong chúng hội có hai triệu Bồ Tát ưa muốn nghe pháp. Các vị Bồ Tát này thấy hào quang soi chiếu khắp các cõi Phật, được điều chưa từng có, đều muốn rõ biết nhân duyên của hào quang này.

 Đoạn thứ hai từ câu “Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thuyết kinh Đại thừa...” trở đi, nêu rõ việc từng xảy ra thuở xưa với việc ngày nay giống nhau. Từ nơi cõi nước của đức Phật thuở xưa hiện sáu điềm lành, tất nhiên là giống với [sáu điềm lành của đức Phật] ngày nay, cũng tuần tự xảy ra như trong kinh văn. Lại nói vào thuở đức Phật xưa, sáu điềm lành xảy ra ở các cõi khác nói chung cũng giống như ngày nay đang thấy, như vậy thì biết là sáu điềm lành ở cõi khác vào thuở đức Phật xưa cũng giống như ngày nay. Chuyện [thuyết pháp] thuở xưa nêu rõ Biệt tự, có hai phần “hiện tướng” và “hoài nghi” đều giống [như ngày nay], nhưng không có ba phần “tập chúng” (họp chúng), “phát vấn” (nêu hỏi) và “đáp vấn” (giải đáp). [Tuy nhiên,] dựa theo ý nghĩa mà suy ra ắt có đủ. Vì đã nói việc thuyết pháp thì biết rằng phải có họp chúng, đã có hoài nghi tất nhiên phải có nêu hỏi, và có hỏi tất nhiên phải có giải đáp. Cho nên chỉ nêu hai phần giống nhau, tất nhiên bao gồm cả ba phần còn lại cũng giống nhau như vậy.

Lại nữa, nếu thuật lại lời đáp thuở xưa thì chẳng cần phải đợi ngài Văn-thù phí lời [giải đáp]. Đã không thuật lời giải đáp nên cũng chẳng nhắc phần nêu hỏi, ý nghĩa này có thể hiểu được.

KINH VĂN

Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Diệu Quang, có 800 người đệ tử.

 Đoạn thứ ba từ câu “Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Diệu Quang” trở đi, nêu rõ những việc từng thấy thuở xưa so với việc sắp xảy ra ngày nay sẽ giống nhau.

Trong đoạn này lại có 6 tiểu đoạn [nói việc giống nhau]. Thứ nhất từ câu “thời hữu Bồ Tát” là nói việc nhân nơi người [mà thuyết pháp] giống nhau. Thứ hai từ câu “thị thời Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật tùng tam-muội khởi” trở đi là nêu việc thuyết pháp có danh xưng giống nhau. Thứ ba từ câu “lục thập tiểu kiếp” trở đi là nêu việc thời gian nhân duyên giống nhau. Thứ tư từ câu “thuyết thị kinh dĩ tức ư phạm, ma, sa-môn” trở đi là nêu việc [Phật] báo trước sự nhập diệt cũng giống nhau. Thứ năm từ câu “thời hữu Bồ Tát danh viết Đức Tạng” trở đi là nêu sự thọ ký giống nhau. Thứ sáu từ câu “tiện ư trung dạ” trở đi là nêu rõ sau khi Phật nhập diệt sự lưu thông kinh này giống nhau.

 Tiểu đoạn thứ nhất là “nhân nơi người”, vì sao giống nhau? Đức Phật thuở xưa sau khi xuất định liền nhân nơi ngài Diệu Quang thuộc hàng Bồ Tát mà thuyết kinh. Đức Phật ngày nay sau khi xuất định lại nhân nơi ngài Xá-lợi-phất thuộc hàng Thanh văn mà thuyết kinh. Như vậy có chỗ nào giống nhau? Ngài Đàm Dao nói rằng, ở đây nói nhân tức là nhân ký thác, giao phó truyền thừa kinh điển Nhất thừa, không phải người đức Phật trực tiếp đối diện gọi bảo. Như đức Phật xưa trực tiếp gọi bảo không nhất thiết phải là ngài Diệu Quang. Đức Phật ngày nay trực tiếp gọi bảo ngài Xá-lợi-phất, nhưng ngài Xá-lợi-phất chưa hẳn có khả năng tuyên thuyết lưu thông kinh này. Nhân duyên để ký thác tuyên thông vào thuở đức Phật xưa thì không ai bằng Bồ Tát Diệu Quang. [Đức Phật] ngày nay muốn ủy thác [lưu thông kinh này] thì không ai bằng ngài Văn-thù. Đức Phật ngày nay chẳng khen ngợi [ngài Văn-thù], đức Phật thuở xưa đâu cần phải khen ngợi [Bồ Tát Diệu Quang]. Ngài Văn-thù dẫn việc đức Phật thuở xưa khen ngợi ngài Diệu Quang chính là nêu rõ [đây là] nhân có thể ký thác.

Lại nữa, các nhà cựu giải cho rằng Bồ Tát Dược Vương là nhân [ký thác], cũng có thể được, chỉ có điều là dẫn việc xưa để chứng minh việc ngày nay thì có chút khác biệt. Hoặc nói rằng, do ngài Văn-thù giải thích sự nghi ngờ [cho đại chúng], nên khi [Phật] xuất định thuyết kinh này thì gọi bảo [ngài Văn-thù] không thích hợp. Nay nói rõ là không phải vậy. Chính trong kinh văn nói rằng nhân nơi ngài Diệu Quang mà chính thức thuyết kinh, do đó giải thích rằng ngài là nhân duyên ký thác lưu thông kinh này. Lại nêu Bồ Tát Dược Vương làm thí dụ, như vậy là trái với lời Phật mà nào có liên quan gì để đến việc giải thích kinh.

[Nay giải thích rằng,] thuở xưa nhân nơi ngài Diệu Quang [mà thuyết kinh], ngày nay nhân nơi ngài Xá-lợi-phất, đó chính là chỗ “nhân nơi người” giống nhau. Thuở xưa 8 người con của Phật thờ ngài Diệu Quang làm thầy, khi đức Như Lai xuất định liền trực tiếp gọi bảo ngài Diệu Quang, lại phó thác [việc thọ trì và lưu thông kinh này] cho ngài Diệu Quang. Ngày nay con Phật là ngài La-hầu-la cũng thờ ngài Xá-lợi-phất làm thầy, đức Phật xuất định cũng trực tiếp gọi bảo ngài Xá-lợi-phất, [giáo pháp] Tích môn rốt lại cũng phó thác cho ngài Xá-lợi-phất. Lấy việc ngày nay đem so hết những điểm dị đồng với chuyện thuở xưa thì rốt cùng không có cách giải thích nào thích hợp hơn, sao lại bỏ Xá-lợi-phất ở gần mà nhận Dược Vương ở xa [làm chỗ “nhân nơi người”]?Những người nghi ngờ lại cho rằng, ngài Diệu Quang là hàng Bồ Tát, ngài Xá-lợi-phất thuộc hàng Thanh văn thì làm sao giống nhau được? Đó là vì [đức Phật] thuở xưa [hóa độ] đã xong nên hiện rõ là Bồ Tát, còn [đức Phật] ngày nay [giáo pháp Đại thừa] chưa phát khởi nên gọi là Thanh văn. Nếu so đến lúc đã phát khởi hình tích thì ngài Xá-lợi-phất là Đại Bồ Tát, sao có thể nói là không giống nhau? Thuở xưa khi ngài Diệu Quang còn chưa hiển lộ hình tích chắc gì đã không là Thanh văn. Nhất là ngài Văn-thù khéo léo trong sự trình bày nên linh hoạt không nêu rõ tất cả.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra khỏi tam-muội, nhân vì Bồ Tát Diệu Quang mà thuyết kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm, trong 60 tiểu kiếp không đứng dậy khỏi tòa ngồi. Chúng hội cũng ngồi yên một chỗ, trong 60 tiểu kiếp thân tâm không dao động, lắng nghe Phật thuyết kinh, đều cho rằng chỉ như thời gian của một bữa ăn. Lúc ấy trong chúng hội không một người nào cảm thấy thân hoặc tâm sinh ra lười mỏi.

 Tiểu đoạn thứ hai từ câu “thị thời Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật tùng tam-muội khởi” trở đi, nói việc [đức Phật xưa và Phật ngày nay] thuyết pháp danh xưng giống nhau, điều này thấy rõ [qua tên kinh] trong kinh văn. Phần trên nói rằng ngài Di-lặc nhìn thấy ở các cõi kia, ban đầu [Phật thuyết] đốn giáo, sau đó lại thấy [Phật thuyết] tiệm giáo. Sau tiệm giáo rồi lại thấy đủ mọi công hạnh [của hàng Bồ Tát]. Sau khi thấy các công hạnh rồi không thấy cảnh giới nào khác, chỉ tiếp đến thấy Phật nhập Niết-bàn.

Trong lời giải đáp của ngài Văn-thù kể lại rằng đã từng gặp Phật, trước tiên thuyết đốn giáo, sau là tiệm giáo rồi đến đủ mọi công hạnh, sau đó nữa là thuyết kinh Pháp Hoa. Như vậy sau khi hiện sáu điềm lành ở cõi này và các cõi kia rồi thì sẽ thuyết kinh Pháp Hoa. Sau khi thuyết kinh Pháp Hoa rồi là nhập Niết-bàn. Đây rõ ràng là nêu ra để giải đáp nghi vấn [của ngài Di-lặc] về [những điều nhìn thấy] ở các cõi kia.

 Tiểu đoạn thứ ba từ câu “60 tiểu kiếp” trở đi, nói việc [đức Phật xưa và đức Phật ngày nay thuyết pháp] thời gian và nhân duyên giống nhau, như trong kinh văn phần sau nói 50 tiểu kiếp xem như nửa ngày, tức là [thời gian] cũng giống như nhau.

KINH VĂN

Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh qua 60 tiểu kiếp thuyết kinh này rồi, liền tuyên bố với chúng hội gồm các vị phạm [chí], ma, sa-môn, bà-la-môn, chư thiên, người, a-tu-la rằng: “Hôm nay vào lúc giữa đêm, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn Vô dư.”

 Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh qua 60 tiểu kiếp thuyết kinh này rồi” trở đi, nói việc [đức Phật thuở xưa và đức Phật ngày nay] báo trước sự nhập diệt đều giống nhau. [Đức Phật] thuở xưa sau khi thuyết kinh Pháp Hoa rồi liền báo trước sự nhập diệt, cũng giống như các đức Phật Ca-diếp [trước đó] v.v... Đức Phật ngày nay trong phẩm Hiện bảo tháp [của kinh này] cũng nói rõ “còn chẳng bao lâu nữa Như Lai sẽ vào Niết-bàn”. Sau khi giáo hóa truyền đạo đã trọn vẹn liền xướng lên báo trước việc nhập diệt, sự việc này xưa và nay giống nhau.

KINH VĂN

Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Đức Tạng, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh liền thọ ký, nói với các vị tỳ-kheo: “Bồ Tát Đức Tạng này sẽ thành Phật tiếp theo, hiệu là Tịnh Thân Đa-đà-a-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu Tam-phật-đà.

 Tiểu đoạn thứ năm từ câu “Bấy giờ có vị Bồ Tát” trở đi, nêu việc [đức Phật thuở xưa và đức Phật ngày nay] thọ ký giống nhau. Nhưng đức Phật thuở xưa thọ ký cho ngài Đức Tạng [thuộc hàng] Bồ Tát, còn kinh này ngày nay thọ ký cho hàng Thanh văn, sao có thể giống nhau? Đó là vì thuở xưa [việc giáo hóa] đã hoàn thành, cho nên chỉ nói thọ ký cho Bồ Tát, nhưng thật ra vì [giáo pháp kinh này dạy] ba thừa cùng quy về một Phật thừa, cho nên Thanh Văn cũng được thọ ký. Nhưng nếu kể việc xưa có thọ ký cho hàng Thanh văn thì sau khi Phật xuất định có gì để luận bàn. Ngài Văn-thù khéo léo trong sự trình bày nên không nêu việc phát khởi tích môn. Nếu là thọ ký cho Bồ Tát thì hết thảy các kinh đều nói như thế, những kẻ bám chấp giáo pháp [Nhị thừa] sẽ chưa lấy làm kinh sợ. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Đức Phật thọ ký rồi, đến giữa đêm liền nhập Niết-bàn Vô dư. Sau khi Phật diệt độ, Bồ Tát Diệu Quang thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trọn 80 tiểu kiếp vì người khác giảng thuyết. Tám người con của đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều thờ ngài Diệu Quang làm thầy, được ngài dạy dỗ, khiến cho được tâm kiên cố đối với quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Các vương tử này, sau khi cúng dường vô số trăm ngàn vạn ức vị Phật rồi thảy đều thành Phật. Vị thành Phật sau cùng hiệu là Nhiên Đăng. Trong số 800 đệ tử, có một người tên là Cầu Danh, tham chấp lợi dưỡng, tuy cũng tụng đọc kinh điển nhưng không thông hiểu, phần nhiều đều quên mất, cho nên có hiệu là Cầu Danh. Người này vì cũng từng gieo trồng nhiều căn lành nên được gặp vô số trăm ngàn vạn ức đức Phật, đều cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán. Ngài Di-lặc nên biết, Bồ Tát Diệu Quang thuở ấy đâu phải ai xa lạ, chính là tôi đây. Còn Bồ Tát Cầu Danh chính là ngài đó.

 Tiểu đoạn thứ sáu từ câu “Đức Phật thọ ký rồi, đến giữa đêm liền nhập Niết-bàn...” trở đi, nêu việc lưu thông kinh này [thuở xưa với ngày nay đều] giống nhau. Tiểu đoạn này lại có 5 ý. Thứ nhất là nêu thời gian nhân duyên, tức là sau khi Phật nhập diệt. Thứ hai là nêu ra người thọ trì lưu thông kinh, tức là Bồ Tát Diệu Quang. Thứ ba là nêu thời gian lâu mau, tức là nói 80 tiểu kiếp. Thứ tư là nêu chúng được giáo hóa, tức là 8 người con và 800 [đệ tử của ngài Diệu Quang]. Thứ năm là kết lại gặp [người] xưa nay, tức là các vị Cầu Danh, [nay là Di-lặc, Diệu Quang nay là Văn-thù, tức là] Diệu Đức v.v...

[Trong ý thứ tư] nêu việc chúng được giáo hóa lại chia thành hai phần. Phần đầu nói 8 người con [Phật] tu hành thành tựu, đều đã thành Phật từ lâu. Phần sau nói trong 800 vị đệ tử có một vị vừa sắp thành Phật, nay đang trụ ở địa vị [nhất sinh] bổ xứ. Sở dĩ dẫn ra 8 người con Phật và 800 vị đệ tử là vì cần thiết để giải thích điều nghi và ngấm ngầm khai mở thọ lượng [Như Lai].

Về việc giải thích điều nghi, vì có người nói ngài Di-lặc ở địa vị bổ xứ là lớn, ngài Văn-thù không phải địa vị bổ xứ nên là nhỏ. Địa vị nhỏ lẽ ra không nên đáp, địa vị lớn lẽ ra không nên hỏi. Do vậy nên nêu ra việc 800 đệ tử, đối với người nghi ngờ như trên nên hỏi lại. Bồ Tát Diệu Quang [tức ngài Văn-thù] thuở xưa tự thân trực tiếp gặp Phật, lại là thầy [của 8 người con Phật], nên có thể giải thích điều nghi không sai lầm.

Về việc ngấm ngầm khai mở thọ lượng [Như Lai], trong 8 người con [của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh] thì vị thành Phật sau cùng hiệu là Nhiên Đăng. Phật Nhiên Đăng cũng tức là Phật Định Quang, [trước đây thọ ký cho Phật Thích-ca], cho nên ngài Diệu Quang là tổ sư 9 đời của Phật Thích-ca. Đệ tôn bây giờ thành Phật, tổ sư lại làm đệ tử, nên biết quan hệ thầy trò không có sự xác định, làm như vậy để ngầm hiển bày ý nghĩa “sanh mà chẳng sanh, diệt mà chẳng diệt”.

● Hỏi: Bồ Tát Di-lặc thuở xưa đã gặp chư Phật, từng nghe kinh Pháp Hoa, sao bây giờ lại có chỗ nghi?

● Đáp: Vì cơ duyên chúng hội hiện thời có nghi nên nêu ra để hỏi.

4. Giải đáp phân biệt sáng tỏ

KINH VĂN

Nay thấy điềm lành này so với thuở xưa không khác, nên suy xét rằng: “Hôm nay đức Như Lai sẽ thuyết giảng kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.” Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi ở giữa đại chúng muốn trùng tuyên ý nghĩa trên nên đọc kệ rằng:

 Phần thứ tư từ “Nay thấy điềm lành này so với thuở xưa không khác” trở đi gọi là giải đáp theo sự phán xét phân biệt rõ ràng. So sánh ngày nay và thuở xưa đã thấy sáu điềm lành giống nhau. Từ sự suy nghĩ lượng xét đã quyết định không sai, lại dựa theo sơ lược cho đến mở rộng những điều từng thấy trong quá khứ cũng đều quyết định chắc chắn như vậy. Vì [Phật] quyết định sẽ thuyết kinh Đại thừa nên có điềm lành thuyết pháp trước. Vì kinh này quyết định sẽ có tên gọi là Diệu Pháp Liên Hoa nên có điềm lành trời mưa hoa trước. Vì kinh này quyết định sẽ là giáo pháp dạy cho hàng Bồ Tát nên có điềm lành đại chúng trong lòng hoan hỷ trước. Vì kinh này quyết định sẽ được chư Phật hộ niệm nên có điềm lành cõi đất chấn động trước. Riêng điềm lành [Phật] nhập định thì đã bao hàm trong tất cả những điều trên.

Có người nói [so việc thuở xưa với ngày nay thì] đúng là giống nhau ở việc vừa xảy ra và việc sắp sẽ ra, nhưng việc đang diễn ra thì không giống. Xét trong kinh văn thấy [ngài Văn-thù-sư-lợi] nói rằng: “Nay thấy những điềm lành này so với thuở xưa không khác.” Câu này chính là nói việc hiện nay đang diễn ra, vì sao đổi lại nói rằng sáu điềm lành là đã qua? Căn cứ theo câu kinh văn này nói việc hiện nay, nên đưa ra sự giải thích về cả 3 điều giống nhau là [đã giống, đang giống và sẽ giống].

Giải thích phần kệ tụng

KINH VĂN

Tôi nhớ đời quá khứ,
Vô lượng vô số kiếp,
Có Phật, đấng cao quý,
Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh.
Thế Tôn thuyết giảng pháp,
Độ vô lượng chúng sanh,
Vô số ức Bồ Tát,
Khiến vào trí tuệ Phật.

Phần kệ tụng [trùng tuyên của ngài Văn-thù-sư-lợi] có 45 khổ kệ, trong đó không tụng lại nội dung giải đáp theo suy nghĩ lượng xét và sơ lược những điều từng thấy. Trong nội dung mở rộng những điều từng thấy thì chỉ tụng lại phần trước và phần sau, không tụng lại phần ở giữa.

 Phần thứ nhất, hai khổ kệ đầu tiên nói rộng những việc từng thấy trong quá khứ, nêu ra các ý thời gian nhân duyên, tên kinh và việc thuyết pháp đều giống với việc ngày nay.

KINH VĂN

Khi Phật chưa xuất gia,
Sinh ra tám vương tử,
Thấy Đại thánh xuất gia,
Cũng theo tu thanh tịnh.
Khi Phật thuyết Đại thừa,
Kinh tên Vô Lượng Nghĩa,
Liền ở giữa đại chúng,
Vì người rộng phân biệt.
Phật thuyết kinh ấy rồi,
Liền ngồi trên pháp tòa,
Kết già nhập tam-muội,
Tên Vô Lượng Nghĩa Xứ.
Trời mưa hoa mạn-đà,
Trống trời tự nhiên vang,
Chư thiên, rồng, quỷ thần,
Cúng dường Bậc Tôn quý.
Hết thảy bao cõi Phật,
Đều tức thời chấn động,
Phật phóng quang giữa mày,
Hiện những việc ít có.

Phần thứ hai, từ câu “Khi Phật chưa xuất gia” trở đi gồm 39 khổ kệ, nêu việc vị Phật sau cùng có đủ 3 điều giống với ngày nay. Phần thứ ba gồm 4 khổ kệ cuối cùng, nêu lời giải đáp khẳng định chắc chắn.

 Trong phần thứ hai nêu ba điều giống với ngày nay lại chia làm 3 đoạn. Đoạn đầu tiên có một khổ kệ, nêu việc từng thấy so với việc vừa xảy ra hiện nay giống nhau. Đoạn thứ hai có 15 khổ rưỡi kệ (62 câu), nêu việc từng thấy so với việc đang xảy ra hiện nay giống nhau. Đoạn thứ ba có 22 khổ rưỡi kệ (90 câu), nêu việc từng thấy so với việc sắp xảy ra hiện nay giống nhau.

 Đoạn thứ hai, từ câu “khi Phật thuyết Đại thừa” trở đi nêu việc đang xảy ra giống với thuở xưa lại chia làm hai tiểu đoạn.

 Tiểu đoạn thứ nhất gồm 14 khổ kệ, nêu sáu điềm lành ở cõi này và cõi kia. Tiểu đoạn thứ hai từ câu “bấy giờ cả bốn chúng” trở đi gồm một khổ rưỡi kệ, nêu sự hoài nghi của bốn chúng. Tiểu đoạn thứ nhất lại chia làm hai phân đoạn.

§ Phân đoạn thứ nhất gồm 4 khổ kệ, nêu 6 điềm lành ở cõi này xưa nay giống nhau. Phần này có thêm ý “trống trời tự nhiên vang” là biểu ý “vô vấn tự thuyết” (không thưa hỏi mà [Phật] tự nói ra. Kệ nói “hiện những việc ít có” tức là nói chung về các điềm lành.

KINH VĂN

Hào quang chiếu phương đông,
Mười tám ngàn cõi Phật,
Chúng sanh đều được thấy,
Chỗ nghiệp báo sinh tử.
Cũng thấy các cõi Phật,
Dùng châu báu trang nghiêm,
Màu lưu ly, pha lê,
Đều do hào quang Phật.
Lại thấy chúng trời người,
Rồng, thần và dạ-xoa,
Càn-thát, khẩn na la,
Đều cúng dường Phật ấy.
Lại thấy các vị Phật,
Tự nhiên thành Phật đạo,
Thân sáng như núi vàng,
Đoan nghiêm rất vi diệu.
Trong sạch như lưu ly,
Hiện thành tượng vàng ròng,
Thế Tôn giữa đại chúng,
Rộng thuyết pháp sâu mầu.
Nơi mỗi một cõi Phật,
Có vô số Thanh văn,
Nương hào quang Phật chiếu,
Thấy rõ các chúng ấy.
Hoặc có những tỳ-kheo,
Thường sống giữa núi rừng,
Tinh tấn giữ giới hạnh,
Như giữ hạt minh châu.
Lại nhờ hào quang Phật,
Thấy được các Bồ Tát,
Hành bố thí, nhẫn nhục...
Nhiều như cát sông Hằng.
Lại thấy các Bồ Tát,
Vào sâu các thiền định,
Thân tâm lặng chẳng động,
Để cầu đạo Vô thượng.
Lại thấy các Bồ Tát,
Biết tướng pháp tịch diệt,
Ở nơi cõi nước mình,
Thuyết pháp cầu đạo Phật.

§ Phân đoạn thứ hai từ câu “hào quang chiếu phương đông ” trở đi gồm 10 khổ kệ, nêu việc sáu điềm lành ở các cõi kia xưa nay giống nhau. Phần văn trường hàng chỉ nói “như các cõi Phật ngày nay nhìn thấy”, đó là lược nói. Phần kệ tụng này nói mở rộng hơn. Phân đoạn này chia làm 5 ý.

- Ý thứ nhất gồm ba khổ kệ, nêu việc thấy chúng sanh trong sáu đường cũng giống như xưa.

- Ý thứ hai từ câu “lại thấy các vị Phật” trở đi gồm một khổ rưỡi kệ, nêu việc thấy Phật cũng giống như xưa.

- Ý thứ ba từ câu “Thế tôn giữa đại chúng” trở đi gồm 2 câu (nửa khổ kệ), nêu việc Phật thuyết đốn giáo, 7 điều thiện [của Đại thừa] cũng giống như xưa.

- Ý thứ tư từ câu “nơi mỗi một cõi Phật” trở đi gồm 3 khổ kệ, nêu việc nhìn thấy chúng Thanh văn, Duyên giác... đủ ba thừa, tức là thuở xưa chư Phật khai trừ giáo pháp tiệm giáo cũng giống như ngày nay.

- Ý thứ năm từ “lại thấy các Bồ Tát” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu việc nhìn thấy đủ mọi nhân duyên của hàng Bồ Tát, tức là nói việc khai trừ các giáo pháp Phương đẳng, Bát-nhã cũng giống như ngày nay.

 Ý thứ nhất gồm 3 khổ kệ có thể hiểu rõ ràng đúng theo kinh văn.

 Ý thứ hai gồm một khổ rưỡi kệ, nay giải thích câu “tự nhiên thành Phật đạo”. Nếu tu phương tiện đạo thì phải gia tâm nỗ lực trong việc tu tập, nhưng theo phát chân đạo thì tự nhiên tùy thuận mà hợp nhau với lẽ thật. Lược theo giáo pháp Tứ giáo thì có thể biết. Đại lược là như vậy.

● Hỏi: Nếu nói tu tập phát chân đạo chỉ cần thuận tự nhiên, vậy cần gì đến chư Phật thuyết pháp?

● Đáp: Như thuyền trôi xuôi theo dòng chảy, nếu gặp gió thuận chiều, lại thêm có người ra sức chèo, ắt sẽ đến nơi nhanh hơn. Gió thuận chiều là ví dụ như việc gặp Phật, nghe pháp. Thêm sức người chèo là ví dụ như sự nỗ lực tu hành. Lấy ví dụ như từ sơ quả, thuận theo tự nhiên phải qua 7 lần tái sanh, nếu được gặp Phật và nỗ lực tu hành thì chỉ cần một hoặc hai lần tái sanh đã có thể đạt đến quả vị vô học. Đại lược là như vậy. “Tự nhiên thành Phật đạo” là nói báo thân, “lưu ly” là pháp thân vốn thanh tịnh, “tượng vàng” là ứng theo vật mà hiện hành hình.

 Ý thứ ba gồm hai câu “Thế Tôn giữa đại chúng, rộng thuyết pháp sâu mầu”. Ở đây có thể dựa vào giáo pháp mà ước định về người [nghe pháp]. Pháp đã sâu xa huyền diệu, tất nhiên biết được [đức Phật] chuyển vận căn cơ lớn, khai mở đốn giáo. Hai câu kệ tụng này là ý nghĩa phần văn trường hàng ở trên đã nói “thuần nhất vô tạp”, nằm trong phần nói về 7 điều thiện [của Đại thừa].

 Ý thứ tư từ “nơi mỗi một cõi Phật, có vô số Thanh văn” trở đi, gồm 3 khổ kệ. Ở đây có thể dựa vào người [nghe pháp] mà ước định về giáo pháp. Người [nghe pháp] đã là [hàng Thanh văn] thuộc Nhị thừa, tất nhiên biết được [đức Phật] mở ra thuyết giáo pháp Tam tạng. Phần kệ tụng này là ý nghĩa [phần văn trường hàng] ở trên đã nói như là “vị người cầu quả Thanh văn, thuyết pháp Tứ đế thích hợp” v.v... Tuy trong kệ không nêu ra hàng Duyên giác nhưng ý nghĩa tự bao hàm trong đó. Kệ tụng nói “hành bố thí, nhẫn nhục...” hàm ý bao gồm cả bốn pháp ba-la-mật [còn lại]. Cho nên trọn một khổ kệ này là nói về 6 pháp ba-la-mật của Đại thừa.

 Ý thứ năm từ câu “Lại thấy các Bồ Tát, vào sâu các thiền định” trở đi, gồm 2 khổ kệ, nêu lại ý nghĩa trong đoạn kinh văn ở trên đã nói “lại thấy các vị Bồ Tát Ma-ha-tát với đủ mọi nhân duyên, đủ mọi tín giải, đủ mọi tướng mạo”. Ở đây lược bớt không nêu ý giải đáp về việc xây dựng bảo tháp [thờ xá-lợi Phật trong đoạn kinh văn tiếp theo]. Vì trong kinh văn phần trên không nói việc thấy Phật thuyết kinh Pháp Hoa ở các cõi khác mà tiếp theo nói việc xây dựng tháp [thờ xá-lợi Phật]. Nay trong phần giải đáp có nêu việc Phật thuyết kinh Pháp Hoa [ở các cõi khác] cho nên đưa việc nhập diệt và xây dựng tháp thờ xá-lợi Phật về sau.

KINH VĂN

Bấy giờ cả bốn chúng,
Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng,
Hiện sức thần thông lớn,
Trong tâm đều hoan hỉ,
Các vị cùng hỏi nhau,
Đây là nhân duyên gì?

 Tiếp theo là tiểu đoạn thứ hai, từ câu “Bấy giờ cả bốn chúng” trở đi, gồm một khổ rưỡi kệ, nêu lại lòng nghi của bốn chúng vào thuở đức Phật xưa, ý nghĩa có thể hiểu rõ ràng theo như kinh văn.

KINH VĂN

Đấng trời người tôn kính,
Vừa ra khỏi tam-muội,
Khen Bồ Tát Diệu Quang,
Ông là tai mắt đời,
Người người đều tin theo.
Có thể giữ kho pháp,
Những gì ta thuyết giảng,
Chỉ riêng ông rõ biết.
Thế Tôn ngợi khen rồi,
Khiến Diệu Quang hoan hỷ,
Liền thuyết kinh Pháp Hoa,
Trọn sáu mươi tiểu kiếp,
Không rời khỏi chỗ ngồi.
Pháp nhiệm mầu Phật thuyết,
Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Đều có thể thọ trì.

 Đoạn thứ ba từ câu “Đấng trời người tôn kính” trở đi, gồm có 22 khổ rưỡi kệ, nêu việc thuở xưa với những việc ngày nay sắp xảy ra giống nhau. Cấu trúc đoạn này chia làm 6 tiểu đoạn.

 Tiểu đoạn thứ nhất gồm hai khổ rưỡi kệ, nêu việc nhân nơi người [mà thuyết pháp] giống nhau.

 Tiểu đoạn thứ hai là câu “Liền thuyết kinh Pháp Hoa”, nêu lại việc thuyết pháp [xưa và nay] giống nhau.

 Tiểu đoạn thứ ba từ câu “trọn sáu mươi tiểu kiếp” trở đi, gồm 5 câu kệ, nêu lại việc thời gian nhân duyên [xưa và nay] giống nhau. Đây là lược nói về trí diên xúc kiếp1 không thể nghĩ bàn [của chư Phật]. Ngài Diệu Quang thọ trì hết thảy pháp Phật thuyết thuở xưa, cũng giống như ngài Xá-lợi-phất nhận sự phó chúc của đức Phật [ngày nay].

KINH VĂN

Phật thuyết kinh Pháp Hoa,
Khiến đại chúng hoan hỷ,
Rồi ngay trong ngày ấy,
Bảo khắp chúng trời, người:
“Nghĩa tướng thật các pháp,
Ta đã rộng giảng thuyết,
Nay vào giữa đêm này,
Ta sẽ nhập Niết-bàn.
Hãy chuyên tâm tinh tấn,
Lìa xa thói phóng túng,
Cơ hội gặp Phật khó,
Trăm ngàn kiếp mới có.”
Hàng đệ tử Thế Tôn,
Nghe Phật nhập Niết-bàn,
Ai ai cũng bi thương,
Sao Phật chóng nhập diệt?
Bậc Thánh chủ Pháp vương,
An ủi vô số chúng:
“Như Ta diệt độ rồi,
Các người chớ lo sợ.

 Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Phật thuyết kinh Pháp Hoa”trở đi gồm 5 khổ kệ nêu lại việc [đức Phật] báo trước sự nhập diệt [xưa nay] giống nhau, tức là giải đáp ý nghi vấn về việc nhập diệt [của chư Phật] ở các cõi kia. Nói chung phần này có đủ hai ý báo trước sự nhập diệt và chúc lụy. Về chúc lụy cũng giống như trong kinh Di giáo. Có nội dung bi thương buồn bã [khi Phật nhập diệt] như trong kinh Niết-bàn, cũng có sự an ủi dặn dò giống như trong kinh Di giáo vậy. [Vào lúc chư Phật nhập Niết-bàn], những người có thể hóa độ đều đã được hóa độ, những người chưa được hóa độ đều đã tạo được nhân duyên [trong tương lai] sẽ được hóa độ, cũng giống như đức Phật hiện nay sẽ phó chúc cho ngài Di-lặc. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Bồ Tát Đức Tạng này,
Tâm đã rõ thông được,
Tướng thật pháp vô lậu,
Kế tiếp sẽ thành Phật,
Hiệu Tịnh Thân Như Lai,
Cũng độ vô số chúng.”
Đêm ấy Phật diệt độ,
Như củi hết lửa tắt.
Phân chia Xá-lợi Phật,
Rồi dựng vô số tháp.
Tỳ-kheo, tỳ-kheo ni,
Nhiều như cát sông Hằng,
Lại càng thêm tinh tấn,
Để cầu đạo Vô thượng.
Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Vâng giữ Pháp tạng Phật,
Trong tám mươi tiểu kiếp,
Rộng thuyết kinh Pháp Hoa.

 Tiểu đoạn thứ năm từ câu “Bồ Tát Đức Tạng này” trở đi gồm một khổ rưỡi kệ, nêu lại việc Phật thọ ký.

 Tiểu đoạn thứ sáu từ câu “đêm ấy Phật diệt độ” trở đi gồm 12 khổ kệ, nêu lại việc lưu thông kinh này như đã nói trên. Nội dung lưu thông này lại có 5 phân đoạn.

§ Phân đoạn đầu tiên có 2 khổ kệ, nêu lại thời gian nhân duyên lúc Phật nhập diệt thì bốn chúng đều được lợi ích. [Lời kệ nói] “như củi hết lửa tắt”, đối với chư Phật Tiểu thừa thì báo thân là củi, trí tuệ là lửa. Trí tuệ ấy nương vào báo thân nên khi thân diệt thì trí mất. Đối với chư Phật Đại thừa thì cơ duyên [hóa độ chúng sanh] là củi, sự ứng hợp là lửa. Khi cơ duyên giáo hóa chúng sanh dứt hết thì hình hài ứng hiện cũng diệt. [Lại nói] “lại càng thêm tinh tấn”, nên [chư Phật] dùng sự diệt độ để hóa độ, [khiến cho chúng sanh tăng thêm sự tinh tấn].

§ Phân đoạn thứ hai gồm câu “ngài Pháp sư Diệu Quang” và câu tiếp theo, nêu lại về người có năng lực hoằng truyền kinh này.

§ Phân đoạn thứ ba gồm câu “trong tám mươi tiểu kiếp” (trong 80 tiểu kiếp) trở đi và câu tiếp theo, nêu lại về thời gian nhân duyên hành trì kinh này.

KINH VĂN

Tám vương tử con Phật,
Được Diệu Quang chỉ bày,
Vững vàng trong đạo Phật,
Rồi gặp vô số Phật,
Đều cung kính cúng dường,
Vâng theo tu hành đạo,
Tiếp nối đều thành Phật,
Lần lượt được thụ ký,
Cho đến Phật sau cùng,
Hiệu là Phật Nhiên Đăng,
Là thầy các tiên nhân,
Độ thoát vô số chúng.
Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Lại có một đệ tử,
Thường ôm lòng biếng nhác,
Mê đắm đường danh lợi,
Tham cầu không biết chán,
Giao du các nhà giàu,
Tụng kinh rồi vất bỏ,
Quên mất không rõ nghĩa.
Vì nhân duyên như thế,
Nên tên là Cầu Danh.
Nhưng tạo các nghiệp lành,
Được gặp vô số Phật,
Cúng dường chư Phật rồi,
Vâng theo, tu hành đạo,
Đủ sáu ba-la-mật,
Nay gặp đức Thích-ca.
Sau này sẽ thành Phật,
Hiệu là Phật Di-lặc,
Rộng độ khắp chúng sanh,
Số nhiều đến vô lượng.

§ Phân đoạn thứ tư từ câu “tám vương tử con Phật” trở đi gồm 8 khổ kệ, nêu lại chỗ lợi ích cho đệ tử. Phần này lại có hai ý. Ý thứ nhất gồm ba khổ kệ đầu, nêu việc chúng đệ tử sau đó đều thành Phật. Ý thứ hai từ câu “Ngài Pháp sư Diệu Quang lại có một đệ tử” trở đi gồm 5 khổ kệ, nêu việc người đệ tử này cũng sẽ thành Phật.

KINH VĂN

Phật xưa diệt độ rồi,
Cầu Danh chính là ông.
Còn Pháp sư Diệu Quang,
Nay chính là tôi đây.
Tôi thấy Phật Đăng Minh,
Xưa phóng quang như thế,
Nên biết Phật ngày nay,
Sắp thuyết kinh Pháp Hoa.
Tướng nay, điềm lành xưa,
Là phương tiện chư Phật.
Nay Phật phóng hào quang,
Giúp hiện nghĩa tướng thật.
Chư vị nay nên biết,
Chắp tay một lòng chờ,
Phật sẽ ban mưa pháp,
Sung túc người cầu đạo,
Người cầu quả Tam thừa,
Nếu như còn nghi vấn,
Phật sẽ giúp đoạn trừ,
Dứt sạch không còn nghi.

§ Phân đoạn thứ năm từ câu “Phật xưa diệt độ rồi” trở đi gồm một khổ kệ, nêu lại sự tương hợp giữa người thuở xưa và người hiện nay.

 [Phần thứ ba] gồm 4 khổ kệ cuối cùng, các nhà cựu giải cho đây là đoạn kết lại để khiến cho muôn loài đều kính ngưỡng mến mộ. Nay sẽ giải thích rõ là không phải vậy.

Phần văn trường hàng ở trên có nội dung giải đáp theo sự phán xét phân biệt rõ ràng, chính là [được trùng tuyên] trong đoạn kệ tụng này. Phần này lại chia làm 3 đoạn.

 Đoạn đầu tiên từ câu “tôi thấy Phật Đăng Minh” trở đi gồm một khổ kệ, nêu lại việc [đức Phật] sẽ nói kinh Đại thừa [Diệu Pháp Liên Hoa].

 Đoạn thứ hai từ câu “tướng nay [giống như] điềm lành xưa” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu lại việc thuyết giảng giáo pháp cho hàng Bồ Tát.

 Đoạn thứ ba từ câu “người cầu quả Tam thừa” trở đi gồm một khổ kệ, nêu lại việc chư Phật hộ niệm [người tu tập], y theo kinh văn có thể hiểu rõ được.

Lại nữa, phần trước ngài Di-lặc đã giải thích rõ bốn lần gặng hỏi, khiến cho ngài Văn-thù nhất định phải đưa ra lời giải đáp. Trong phần này, ngài Văn-thù lại làm rõ để đoạn trừ bốn điều nghi vấn tiềm tàng, khiến ngài Di-lặc không cần phải nêu ra để hỏi.

Điều nghi thứ nhất là khi ngài Văn-thù rộng dẫn việc chư Phật trước đây thuyết kinh Pháp Hoa, ngài Di-lặc nhân đó liền có lòng nghi tiềm tàng muốn hỏi: “Chư Phật thuyết pháp tùy theo nhân duyên, người nghe pháp mỗi thời kỳ đều khác nhau. Như vậy, chư Phật thuở xưa thuyết kinh gọi là Pháp Hoa nhưng đức Phật ngày nay đâu nhất thiết sẽ như vậy?”

Ngài Văn-thù liền nói đoạn kệ thứ nhất để dứt mối nghi [cho ngài Di-lặc].

Tôi thấy Phật Đăng Minh,
Xưa phóng quang như thế,
Nên biết Phật ngày nay,
Sắp thuyết kinh Pháp Hoa.

Đây là dứt mối nghi về tên gọi của kinh này.

Ngài Di-lặc nhân câu trả lời này lại khởi điều nghi [thứ hai]. “Tên kinh và nghĩa kinh có thể giống nhau, nhưng tên kinh và nghĩa kinh cũng có thể khác nhau, vậy làm sao biết tên kinh [Pháp Hoa] này hiển lộ điềm báo thuộc loại nào?”

Ngài Văn-thù liền nói đoạn kệ thứ hai để dứt trừ mối nghi này:

Tướng nay, điềm lành xưa,
Là phương tiện chư Phật.
Nay Phật phóng hào quang,
Giúp hiện nghĩa tướng thật.

Đây là dứt mối nghi về tánh thể của kinh này.

Ngài Di-lặc nhân câu trả lời này lại khởi lòng nghi: “Thật tướng vốn không có tướng, ai là người nhận hiểu được?” Ngài Văn-thù liền nói đoạn kệ thứ ba để dứt mối nghi này.

Chư vị nay nên biết,
Chắp tay một lòng chờ,
Phật sẽ ban mưa pháp,
Sung túc người cầu đạo,

Đây là đoạn trừ mối nghi về tông chỉ của kinh này.

Ngài Di-lặc nhân câu trả lời này lại khởi lòng nghi: “Phật ban mưa pháp thích hợp với hàng Bồ Tát, lẽ nào cũng tốt cho hàng Nhị thừa?” Ngài Văn-thù liền nói đoạn kệ thứ tư để dứt trừ mối nghi này.

Người cầu quả Tam thừa,
Nếu như còn nghi vấn,
Phật sẽ giúp đoạn trừ,
Dứt sạch không còn nghi.

Đây là đoạn trừ mối nghi về hoạt dụng của kinh này.

Ngài Di-lặc lắm phen khởi nghi, ngài Văn-thù lại nhiều lần dứt trừ, cho đến khi việc đã cùng, lý đã tận liền có chỗ đạt được trong lòng. Đây có thể nói là khéo hỏi khéo đáp, đầy đủ hai sự trang nghiêm.

Ngài Quang Trạch chỉ thuật lại theo ý Chiêu sư trước đây, giải thích [việc ngài Di-lặc đáp lại] bốn lần gặng hỏi khiến ngài Văn-thù phải đưa ra lời giải đáp. Nêu rõ được điểm tốt đẹp của ngài Di-lặc mà không thấy việc ngài Văn-thù giải thích bốn mối nghi tiềm tàng khiến cho ngài Di-lặc không cần phải hỏi, như vậy là làm ẩn khuất tài năng của ngài Văn-thù (Diệu Đức). Ý nghĩa này phát xuất từ tông Thiên Thai, không phải được truyền lại từ các bản sớ giải khác. Đây cũng là nhắn gửi người đời sau chớ để khuất lấp đi chỗ tốt đẹp của người trước. Kể từ Chiêu sư về sau, trong suốt mấy trăm năm, người giảng giải kinh Pháp Hoa rất nhiều, liệu có ai thấy được ý nghĩa này chăng? [Hiểu được như trên] chẳng phải tốt đẹp thì là gì?

GIẢI THÍCH PHẨM PHƯƠNG TIỆN

Phần giải thích này có giản lược và mở rộng. Về giản lược cũng chia ra hai phần, trước hết nói nghĩa giản lược, sau đó lượng xét phân biệt.

KINH VĂN

Phương tiện phẩm - đệ nhị

GIẢN LƯỢC

1. Giải nghĩa giản lược

Trước hết nói nghĩa giản lược. Phương là giáo pháp, tiện là hoạt dụng [của giáo pháp]. Giáo pháp có vuông, có tròn, hoạt dụng có khác biệt, có đúng hợp. Như ba thừa quyền biến là khuôn vuông, nên là vuông; một thừa chân thật là khuôn tròn, nên là tròn. Nếu trí tuệ hướng theo khuôn vuông [Tam thừa] ắt khéo léo vận dụng pháp khác biệt quyền biến phù hợp với chúng sanh. Nếu trí tuệ hướng theo khuôn tròn [Nhất thừa] ắt khéo léo vận dụng pháp chân thật viên mãn thích hợp với chúng sanh.

Cũng giống như có người đưa tay chỉ lệch hướng thì mắt nhìn theo lệch hướng. Tay chỉ lệch hướng là ví cho pháp, con mắt nhìn theo là ví cho trí tuệ. Cho nên dùng pháp để giải thích nghĩa của phương thì sẽ dùng sự hoạt dụng để giải thích nghĩa của tiện. Nếu đưa tay chỉ bao quát, mắt nhìn theo thấy được khắp cả thì nên dùng sự ẩn mật để giải thích nghĩa của phương, dùng sự vi diệu nhiệm mầu để giải thích nghĩa của tiện.

Nêu pháp thiên lệch để giải thích phương tiện, hết thảy đều là tùy thuận mong muốn của chúng sanh, không phải bản hoài của chư Phật. Y theo kinh điển thì phải lìa mọi bám chấp dính mắc, ra khỏi mọi khổ não trong ba cõi. Cho nên đức Như Lai mới ân cần ngợi khen, tán thán các pháp phương tiện. Ý nghĩa này có thể dùng để giải thích chung cho các kinh khác, chẳng phải ý riêng của phẩm Phương Tiện này.

Lại nữa, phương tiện là cửa vào. Gọi là cửa vào thì phải thông suốt, ấy là chủ thể thông suốt, đối tượng cũng thông suốt, mọi phương tiện giản lược quyền biến đều là giả lập để dẫn dắt, vì lẽ chân thật rốt ráo mà mở ra cửa vào phương tiện. Cho nên, lẽ chân thật rốt ráo được hiển bày là nhờ có phương tiện. Theo công năng hiển bày đó mà gọi tên, nên lấy ý nghĩa cửa vào để giải thích cho phương tiện. Y theo kinh điển trừ bỏ pháp phương tiện, chỉ bày tướng chân thật. Ý nghĩa này có thể dùng giải thích chung cho các kinh khác, cũng chẳng phải ý riêng của phẩm Phương Tiện này.

Lại nữa, phương là ẩn mật, tiện là mầu nhiệm. Mầu nhiệm đạt nơi phương thức tức là chân thật ẩn mật, như hạt châu vô giá giấu kín trong chéo áo cùng với hạt châu trên đỉnh đầu đức vua thật ra cũng chỉ là một hạt châu ấy, không phải hai, không có khác biệt; như người xa đến làm công với con trai ông trưởng giả cũng [chỉ là một người], không phải hai, không có khác biệt. Những lời như vậy là ẩn mật, là vi diệu nhiệm mầu. Như trong kinh này [Phật nói]: “Duy ngã tri thị tướng, thập phương Phật diệc nhiên. - 唯我知是相, 十方佛亦然。” (Chỉ riêng ta biết được tướng này, mười phương chư Phật cũng rõ biết như vậy.) Hoặc là: “Chỉ chỉ bất tu thuyết, ngã pháp diệu nan tư. - 止止不須說。我法妙難思。” (Thôi thôi chẳng cần nói, pháp của ta mầu nhiệm khó suy ngẫm.) Cho nên lấy sự ẩn mật để giải thích nghĩa chữ phương, lấy sự vi diệu nhiệm mầu để giải thích chữ tiện. Đây chính là ý nghĩa của phẩm kinh này, cho nên gọi là phẩm Phương Tiện.

2. Lượng xét phân biệt

Lượng xét phân biệt, cách thứ nhất giải thích theo tánh thể bên ngoài của phương tiện, quyền biến giáo hóa muôn loài, thuận theo ý của chúng sanh mà giảng nói. Tiếp đến cách thứ hai là giải thích cũng theo tánh thể bên ngoài của phương tiện, quyền biến trong việc tự mình hành trì và giáo hóa chúng sanh, lại cũng thuận theo ý mình và chúng sanh mà giảng nói. Cuối cùng theo cách thứ ba là giải thích phương tiện đồng một tánh thể, tức là quyền biến tự mình hành trì, tùy theo ý mình mà giảng nói.

Giải thích phương tiện như cách thứ nhất là chẳng phải năng nhập cũng chẳng phải sở nhập. Giải thích phương tiện như cách thứ hai là năng nhập nhưng không phải sở nhập. Giải thích phương tiện như cách thứ ba là sở nhập nhưng không phải năng nhập. Cho nên biết rằng, tên gọi tuy giống nhau nhưng ý nghĩa rất khác biệt. Đa phần người đời không thấy được ý nghĩa này, chỉ tùy tiện giải thích phẩm Phương Tiện. Đại lược là như vậy.

● Hỏi: Mối tương quan giữa phương tiện với quyền thừa là thế nào?

● Đáp: Có bốn trường hợp phân biệt. Thứ nhất là tự có phương tiện, phá bỏ quyền thừa. Thứ hai là quyền thừa phá bỏ phương tiện. Thứ ba là phương tiện hoàn thiện cho quyền thừa, quyền thừa hoàn thiện cho phương tiện. Thứ tư là phương tiện tức quyền thừa, quyền thừa tức là phương tiện.

Phương tiện phá bỏ quyền thừa nghĩa là cả bốn loại phương tiện đều là những phương tiện ẩn mật, vi diệu nhiệm mầu. Những phương tiện như vậy phá bỏ được sự quyền biến theo ý chúng sanh.

Quyền thừa phá phương tiện là nói sự quyền biến đồng tánh thể, phá bỏ được phương tiện theo tánh thể bên ngoài.

Trường hợp phương tiện và quyền thừa hoàn thiện lẫn nhau cũng có thể hiểu được. Trường hợp phương tiện tức quyền thừa, quyền thừa tức phương tiện cũng có thể hiểu được. Đại lược là như thế.

Ba trường hợp trước có thể dùng để giải thích chung cho các kinh khác, riêng trường hợp thứ tư là ý nghĩa của phẩm Phương Tiện này. Cho nên kinh Chánh Pháp Hoa gọi là phẩm Thiện Quyền. Quyền tức là phương tiện, không phải hai, không có khác biệt. [Mỗi một hành vi như] cúi đầu, chắp tay... đều là Phật đạo. Phương tiện hay quyền biến khéo léo cũng đều là chân thật.

GIẢNG RỘNG

Trước hết nêu quan điểm các nhà cựu giải phân chia giáo pháp thành 5 thời, bao gồm quyền pháp và thật pháp. Trước [thời kỳ] 12 năm [thuyết kinh A-hàm], [Phật dạy] quán chiếu sự việc vô thường, đó là quyền thuyết, soi chiếu lý vô thường, đó là lẽ chân thật, chỉ cho A-tỳ-đàm. Nay nói theo Thích luận thì phá vô thường là pháp đối trị, như vậy đều thuộc về pháp tất-đàn thứ ba [là đối trị tất-đàn], làm sao có sự chân thật? Cho nên ý nghĩa này nay không dùng đến. Sau [thời kỳ] 12 năm [thuyết kinh A-hàm, đức Phật] thuyết giảng giáo pháp Bát-nhã, quán chiếu các pháp hiện hữu đều là giả, đó là quyền thuyết, quán chiếu hiện hữu giả hợp ấy đều là không, đó là chân thật. Thích luận cũng bác bỏ ý nghĩa này. Khi quán chiếu trừ dứt niệm tưởng thì hết thảy ngôn ngữ cũng đều dứt sạch. Cho nên khi quán chiếu hiện hữu giả tạm thành không, là do quán tưởng mà thành. Nay cũng không dùng nghĩa này.

Tiếp đến [là thời kỳ Phật thuyết] các kinh Tịnh Danh, Tư Ích, trong tâm quán chiếu soi rõ hai cảnh “có, không” là thật trí, ngoài cảnh biến động biết vận dụng hợp theo là quyền trí. Nay cho rằng nếu trong tâm soi chiếu, ngoài cảnh vận dụng thì đó là chia hai, chẳng phải nhập pháp môn Bất nhị [của Tịnh Danh]. Cho nên nay cũng không dùng nghĩa này.

Kế đến Pháp Hoa quán chiếu “tam tam” (ba pháp tam) là quyền, quán chiếu “tứ nhất” (bốn pháp nhất) là thật. Nay cho rằng, ba pháp quyền ấy chẳng bao giờ hợp với lẽ thật, một pháp thật cũng chẳng liên quan đến ba pháp quyền. Cho nên nay cũng không dùng nghĩa này.

Tiếp sau kinh Niết-bàn nói rằng, trước Kim Cang giảng vô thường là quyền biến, sau Kim Cang giảng thường là chân thật. Nay cho rằng nói trước chân như cũng là thường, nói sau như lượng trí cũng là quyền. [Ý nghĩa phân chia] năm thời quyền thật như vậy nay không dùng đến. Cho đến [ý nghĩa] mãn tự, bán tự mà bốn tông dùng để làm sáng tỏ hai trí quyền thật, nay cũng không dùng.

Lại có người giải thích rằng, phương tiện là quyền biến theo lẽ, thật là thẩm xét chân thật. Lại nói phương tiện là quyền xảo linh hoạt, thật là đúng theo trí tuệ. Lại nói phương tiện là quyền biến giả lập, [như trong kinh này] giả lập ba xe bên ngoài cửa. Lại nữa, phương tiện là quyền biến thích nghi, vì thích nghi nên [Phật] thuyết dạy ba thừa. Lại nữa, quyền biến là tên gọi tương xứng, ví như [cùng một] quả cân, kéo ra bên ngoài đòn cân thì nặng xuống, kéo lùi về bên trong thì nhẹ lên, đưa về khoảng giữa thì thăng bằng. [Ví dụ như vậy] phù hợp với trí tuệ Phật có thể quán chiếu soi xét lượng định. Những sự giải thích như vậy, mỗi thuyết đi theo một đường. Quyền biến theo lẽ và giả lập thì hạn chế nơi phạm vi áp dụng; quyền biến thích nghi thì hạn chế nơi pháp môn; quyền xảo linh hoạt hay tên gọi tương xứng thì hạn chế nơi trí năng. Mỗi thứ đều không bao hàm được hết ý nghĩa, không dung thông được chỗ vi diệu, nên nay không thể dùng để giải thích phẩm kinh này.

Lại có người phân hai trí [quyền thật] thành bốn loại. Loại thứ nhất [phân ra] quyền trí và thật trí. Loại thứ hai phân ra không trí và hữu trí. [Không trí] thì quán không, không có chứng đắc, xa lìa Nhị thừa, [hữu trí] thì đi vào cảnh giới có mà không nhiễm ô, ra khỏi cảnh giới phàm phu. Loại thứ ba cho rằng chỗ tĩnh lặng bên trong của không và có là thật trí, chỗ công dụng bên ngoài là quyền trí. Loại thứ tư cho rằng nghĩa thường trước Kim Cang là quyền trí, nghĩa vô thường sau Kim Cang là thật trí.

Hai trí của loại thứ nhất làm khởi sanh tín tâm. Hai trí của loại thứ hai làm khởi sanh sự hiểu biết. Hai trí của loại thứ ba có thể giáo hóa chúng sanh. Hai trí của loại thứ tư là thành tựu quả.

Hai trí được phân chia như vậy đều có ba lượt chuyển biến. Lượt thứ nhất xem hữu là tục đế, không là chân đế. Tiếp theo xem hữu và không đều thuộc tục đế, phi hữu phi không (chẳng phải có, chẳng phải không) là chân đế. Cuối cùng xem không và hữu là nhị, phi không phi hữu (chẳng phải không chẳng phải có) là bất nhị; nhị và bất nhị (phân hai và chẳng phân hai) đều thuộc về tục đế, phi nhị phi bất nhị (chẳng phân hai chẳng phải không phân hai) là chân đế.

Trí tuệ theo giáo tông cũng giống như vậy. Vì sao vậy? Là vì theo vị nhân tất-đàn. Vì có người nghe pháp trước chẳng ngộ nhưng nghe pháp sau được ngộ, cho nên [việc xác định] nhị đế không đồng nhất.

Lại nữa, đức Như Lai thường y theo nhị đế để thuyết pháp, nên nhị đế ba môn. Lời Phật dạy tuy nhiều nhưng đều không ra ngoài ba môn, vì mục đích dần dần dẫn dắt chúng sanh. Phàm phu chấp rằng thân tâm đều là thật có, nên [Phật] dạy rằng đều là chẳng thật, chỉ tánh không của các pháp mới là chân thật. Phàm phu [theo lời dạy] liền xả bỏ chấp có, lại bám chấp nơi không, nên [Phật dạy] có với không đều là tục đế, chẳng phải có chẳng phải không mới là chân thật. [Phàm phu nghe lời dạy] buông xả cả hai bên có và không (nhị biên), lại vướng chấp vào Trung đạo. Cho nên đến lần thứ ba [Phật dạy] xa rời nhị biên, cũng không dính mắc vào Trung đạo, đó mới là chân thật. Đó là [tuần tự dẫn dắt] người trong năm thừa. Trước tiên dẫn dắt hạng phàm phu, khiến cho sanh khởi lòng tin, ra khỏi [sự bám chấp thân tâm là] thật có. Tiếp theo dẫn dắt hàng Nhị thừa, giúp cho nhập lẽ trung đạo. Cuối cùng dẫn dắt hàng Bồ Tát khiến cho xả bỏ cả sự thiên lệch [hai bên có không] cũng như trung đạo.

Lại vì người học lẽ trung đạo mà nói ba giả là thế tục đế, ba giả đều không là chân đế, như vậy là đạt được ý nghĩa ban đầu. Tiếp đến [dạy rằng] không ba giả cho đến không với hữu đều là tục đế, chẳng phải không chẳng phải có (phi không phi hữu) mới là chân đế. Đại lược là như vậy.

Nay chỉ rõ những cách giải thích như vậy đều là dựa vào [sự phân chia] năm thời [thuyết giáo] để nói theo ý riêng của mình, cũng như cách hiểu lần lượt dẫn lên từng bậc là không đúng. Có thể giải thích những kinh khác nhưng chẳng phải ý nghĩa của của phẩm kinh này.

Kinh nói rằng “hết thảy chúng sanh đều được nhìn thấy” thì đâu có lúc nào là trước sau khai ngộ chẳng đồng? Lại nói rằng “thẳng đường xả bỏ phương tiện”, sao phải dùng pháp tuần tự thứ lớp để nhận hiểu pháp viên mãn vi diệu? Lại như ban đầu nêu dẫn [các giai đoạn] khởi sanh tín tâm, khởi sanh hiểu biết, giáo hóa chúng sanh, thành tựu quả, đâu có liên quan gì đến ý nghĩa ngộ nhập trong kinh này? Như ngài Thế Thân kể ra 17 tên gọi [của kinh Pháp Hoa này], trong đó tên thứ 13 là Đại xảo phương tiện. Lại nữa, kinh Đại Thừa Phương Tiện giảng rõ về 10 loại phương tiện, trong đó loại thứ 9 có tên là “Thiện xảo di Nhị thừa linh nhập Đại thừa Phương tiện ba-la-mật”. Cho nên biết rằng phẩm kinh này là phương tiện của Như Lai, dung nhiếp hết thảy các pháp, như hư không bao hàm tất cả sắc tướng, như biển lớn dung nạp tất cả các dòng nước, há có thể dùng [cách hiểu] của các bậc thầy thuộc một chi nhánh, một tông phái mà giải thích đại lược cả pháp giới được sao?

Nay giảng rõ về quyền thật thì trước tiên nêu ra 4 luận thuyết. Thứ nhất, hết thảy các pháp đều là quyền; thứ hai, hết thảy các pháp đều là thật; thứ ba, hết thảy các pháp vừa là quyền, vừa là thật; thứ tư, hết thảy các pháp chẳng phải quyền, chẳng phải thật.

Hết thảy các pháp đều là quyền, [dựa trên lập luận] như kinh văn nói, các pháp đều [đúng thật] như thế, từ tánh, tướng, thể, lực, gốc, ngọn v.v... [không thể giảng nói,] cho nên nếu có dùng đến lời nói, ngôn ngữ, văn tự thì đều là quyền biến. [Cho nên hết thảy các pháp đều là quyền.]

Hết thảy các pháp đều là thật, [dựa trên lập luận] như kinh văn nói, đức Như Lai khéo léo thuyết dạy các pháp làm vui lòng đại chúng. Tâm đại chúng thể nhập lẽ thật là vui. Lại nữa, [kinh nói] “chư pháp từ xưa đến nay, tự tướng thường tịch diệt”. Lại nói rằng: “Hết thảy những gì Như Lai thuyết giảng đều đưa đến địa vị Nhất thiết trí.” Lại cũng nói: “Hết thảy đều chân thật không hư vọng.” Hơn nữa, bốn câu nêu ra của Đại kinh đều không thể dùng lời nói rõ. [Cho nên hết thảy các pháp đều là thật.]

Hết thảy các pháp vừa quyền vừa thật, như kinh văn nói tướng như thật của các pháp là cùng lúc làm rõ hết thảy các pháp vừa là quyền, vừa là thật. Đơn cử như pháp quán bất tịnh là vừa chân thật, vừa hư vọng. Đại lược là như vậy. [Cho nên hết thảy các pháp đều là vừa quyền vừa thật.]

Hết thảy các pháp chẳng phải quyền chẳng phải thật, [dựa trên lập luận] như kinh văn nói “chẳng phải như, chẳng phải khác”, lại cũng chẳng phải các pháp ở trên, ở giữa, ở dưới, cũng chẳng phải các pháp hữu vi, vô vi, thật hay không thật. Không hư cũng không thật, đó là tướng như thật [của các pháp].

Nếu nói hết thảy các pháp đều là quyền thì dù xét điểm nào cũng không hợp lý. [Bởi vì như vậy thì] ví như có đến trăm ngàn bậc thầy, mỗi thầy đều nêu ra trăm ngàn luận thuyết, thì cũng không có thuyết nào không phải là quyền. Giảng thuyết của đức Như Lai mà còn là quyền, huống chi những bậc thầy cõi người, có lý nào lại không phải quyền? Như đã nêu ra trước, nên tất cả đều là quyền. [Như vậy là không hợp lý.]

Nếu nói hết thảy các pháp đều là thật thì dù xét điểm nào cũng không hợp lý. [Bởi vì] chỉ có một sự thật này, thêm vào cái thứ hai ắt không phải thật. Chỉ có một đạo rốt ráo, lẽ nào lại có nhiều đạo rốt ráo? Như trước đã nêu về các vị thầy, tất cả đều bác bỏ việc thể nhập lẽ thật [mà cho rằng hết thảy các pháp đều là quyền], lẽ nào còn quay lại biện hộ cho căn bản của việc này? [Như vậy là không hợp lý.]

Nếu nói hết thảy các pháp đều vừa quyền vừa thật thì lại xét điểm nào cũng không hợp lý.

[Cho nên] hết thảy các pháp ắt phải có cả quyền, có cả thật, không thể cho rằng chỉ có một đường hướng đúng mà không có những giải thuyết khác. Ngay trong mỗi một pháp cũng đều có quyền có thật, không thể nghiêng hẳn về một phía [mà cho rằng] chỉ có quyền hoặc chỉ có thật.

Nếu nói tất cả pháp chẳng phải quyền chẳng phải thật thì lại xét điểm nào cũng không hợp lý, sao phải phân vân gượng sinh lập thuyết.

Chỉ nêu qua tên gọi [các luận thuyết] đã là như thế, chỉ nhìn từ xa cái huyền nhiệm mênh mông sáng tỏ là như thế, huống chi là luận sâu về tông chỉ khuynh hướng [của từng luận thuyết]?

Nay dùng luận thuyết có quyền, có thật, triển khai thành 10 pháp. Trong 10 pháp ấy lần lượt nêu 8 điều giải thích. Thứ nhất là kể ra 10 tên gọi, thứ hai nói trình tự sanh khởi, thứ ba là giải thích, thứ tư là dẫn chứng, thứ năm là tóm lại 10 pháp thành 3 loại quyền thật, thứ sáu là phân biệt 3 loại quyền thật, soi chiếu 3 tầng bậc nhị đế, thứ bảy là lược xét kinh điển để phán định quyền thật, thứ tám là lược nêu theo bản tích để phán định quyền thật.

1. Kể tên

[Hết thảy các pháp đều thuộc về mười phạm trù được kể tên sau đây:] sự lý, lý giáo, giáo hành, phược thoát (trói buộc và giải thoát), nhân quả, thể dụng, tiệm đốn, khai hợp, thông biệt, tất-đàn. Đó là 10 loại tên gọi [chung cho các pháp].

2. Trình tự sanh khởi

[Kinh Duy-ma-cật nói:] “Từ gốc là vô trụ mà lập nên hết thảy các pháp.” “Vô trụ” đó là lý, hết thảy các pháp là sự. [Vì có] lý sự cho nên có giáo pháp [thuyết dạy]. Do có giáo cho nên có hành [trì]. Do có hành nên có phược [trói buộc] hay [giải] thoát. Do có phược thoát nên thành nhân quả. Do có nhân quả nên có thể hiển bày, có dụng là công năng, từ đó mà có sự giáo hóa tuần tự theo thứ lớp (tiệm) hay nhanh chóng tức thời (đốn). Do mở ra tiệm đốn nên có khai (mở ra) hay hợp (hợp lại). Do khai hợp nên có phần lợi ích thông (chung) hay biệt (riêng). Do có phân biệt lợi ích thông biệt mà có bốn loại tất-đàn.

Đó là 10 trình tự khởi sinh. Đại lược là như thế.

3. Giải thích

- Sự lý

Lý là chân như. Chân như vốn thanh tịnh, dù có Phật [ra đời] hay không có Phật vẫn thường như vậy, chẳng hề thay đổi, nên gọi là thật.

Sự tức là tâm, ý, thức... khởi lên các nghiệp tịnh hay bất tịnh, thay đổi biến động không ổn định nên gọi là quyền.

Nếu không có lý thì không lấy gì để lập nên sự, không có sự thì chẳng lấy gì để hiển lộ lý. Sự có công năng làm hiển lộ lý, cho nên ân cần ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Lý giáo

Lý và sự đã nói ở trước đều được gọi chung là lý, theo lệ như chân [đế] và tục [đế] đều gọi chung là đế. Chư Phật thể nhập [lý giáo này] nên thành bậc thánh. Thánh ấy là chân thật. [Chư Phật vì] muốn dùng pháp của mình [đã chứng đắc] mà cứu vớt chúng sanh, nên nhân nơi lý [thật đó] mà thiết lập giáo pháp; giáo đó tức là quyền. Không có giáo này thì chẳng lấy gì để hiển bày lý. Hiển bày được lý là nhờ có giáo, cho nên Như Lai ngợi khen xưng tán đó là phương tiện. Đại lược là như vậy.

- Giáo hành

Y theo giáo [pháp] để cầu [thật] tức khởi sinh hành vi chân chánh. Hành vi có khuynh hướng chuyển tiến, sâu cạn khác biệt, cho nên hành gọi là quyền. Giáo không có khuynh hướng chuyển tiến, sâu cạn khác biệt, cho nên giáo gọi là thật. Không có giáo thì chẳng lấy gì để lập nên hành, không có hành thì không lấy gì để hiểu được giáo. Hiểu được giáo là nhờ có hành, cho nên Như Lai ngợi khen xưng tán đó là phương tiện. Đại lược là như vậy.

- Phược thoát

Việc làm trái nghịch với lý ắt sinh trói buộc, tức là phược. Sự trói buộc ấy là hư vọng, cho nên gọi là quyền. Việc làm thuận hợp với lý ắt được giải thoát. Giải chỗ mê mờ nơi lý, cho nên gọi là thật. Không có trói buộc thì chẳng do đâu mà cầu giải thoát, nên được giải thoát là nhờ có sự trói buộc. Cũng giống như có người nhờ [bám vào] thây người chết giữa biển mà trôi giạt được vào bờ. Thây người chết ấy có công năng đưa người vào bờ, [cũng như sự trói buộc có công năng thúc đẩy tìm cầu giải thoát], cho nên ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Nhân quả

Nhân có khuynh hướng chuyển tiến vận dụng tạm thời cho nên gọi là quyền. Quả có đích đến cuối cùng vĩnh viễn chứng đắc cho nên gọi là thật. Không có quả thì nhân không có chỗ hướng về. Không có nhân thì quả không thể tự hiển hiện. Cho nên dùng hai pháp quán làm phương tiện vào đạo. Đoạn trừ mê hoặc, thành tựu chánh nhân, thể nhập Trung đạo giải thoát là quả. Nếu không có hai pháp quán, làm sao khế hợp Trung đạo? Quả được thành tựu là do nhân, cho nên ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Thể dụng

Trước dùng phương tiện là nhân, sau dùng chánh quán thể nhập an trụ là quả. Từ chỗ an trụ phát xuất là thể và dụng. Thể là thật tướng nên không có phân biệt, dụng thì khởi lập hết thảy các pháp nên sai biệt cao thấp chẳng đồng. Cũng như mặt đất chỉ có một mà sinh ra đủ loại mầm chồi. Nếu không có mặt đất thì không thể sinh [các mầm chồi], không sinh thì chẳng lấy gì để hiển lộ. Ngược theo dòng chảy ắt tìm được nguồn nước, cho nên suy từ nơi dụng mà biết được thể. Hiển bày được thể là nhờ nơi dụng, cho nên ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Tiệm đốn

Tu tập nhân để chứng đắc quả hoặc từ nơi thể mà khởi sinh dụng, cả hai việc này đều [có nhanh có chậm], hoặc tuần tự theo thứ lớp (tiệm), hoặc thành tựu tức thời (đốn). Nay chỉ nêu rõ việc [từ nơi thể mà] khởi sinh dụng. Tuần tự theo thứ lớp (tiệm) mà khởi dụng là quyền, tức thời khởi sinh (đốn) là thật. Nhưng nếu không có tiệm dẫn khởi thì cũng không do đâu có thể tức thời vào đốn khởi. Từ nơi tiệm [là quyền] mà đạt được [đốn là] thật, cho nên ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Khai hợp

Từ nơi đốn mà khai trừ tiệm thì tiệm đó không tự hợp, cũng không hợp với đốn, cho nên gọi là quyền. Từ nơi tiệm mà rốt ráo lại hợp với đốn, cho nên gọi là thật. Do khai trừ [tiệm] mà hợp [với đốn], khai trừ như vậy có công năng đưa đến hợp, hợp ấy là từ nơi khai mà gọi thành tên, cho nên ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Thông biệt

Thông biệt ở đây là nói về lợi ích chung (thông) và riêng (biệt). Thông là lợi ích chưa rốt ráo, không thường còn, [nên gọi là quyền]; biệt là lợi ích rốt ráo thường còn, [nên gọi là thật]. Nhưng đối với chỗ lợi ích thường còn, đạo hạnh tăng trưởng, [chúng sanh] lại thường sinh tâm thối thất, lui sụt, [cho nên Phật] dùng hóa thành để tiếp dẫn, khiến chúng sanh khởi tâm tưởng rằng đó là an ổn, rồi sau đó mới dẫn dắt [đi tiếp] đến bảo sở, [tức là quả vị giải thoát rốt ráo]. Nếu không có chỗ lợi ích chưa rốt ráo thì không đến được chỗ [lợi ích] thường còn. Cái chưa rốt ráo ấy có công năng làm hiển bày chỗ rốt ráo, cho nên ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

- Tất-đàn

Tất-đàn ở đây là nói bốn pháp tất-đàn. Trong đó có ba pháp thuộc về thế gian cho nên là quyền. Đệ nhất nghĩa [tất-đàn] thuộc về xuất thế nên là thật. Không có thế gian thì không thể đạt được xuất thế, nhờ ba pháp tất-đàn [thế gian] mà đạt được đệ nhất nghĩa tất-đàn, cho nên Như Lai ngợi khen xưng tán đó là phương tiện.

Có thể vận dụng cả bốn luận đề để giải thích mười ý nghĩa quyền thật [như trên]. Trong đó có ba ý là của những kinh khác, một ý là riêng của phẩm kinh này. Đại lược là như vậy.

4. Dẫn chứng

Mười ý nghĩa nêu trên được vận dụng phù hợp trong cả giáo pháp Đại thừa cũng như Tiểu thừa, thông suốt hết thảy các pháp.

[Trước hết nói nghĩa “sự lý”], như trong kinh Pháp Hoa này nói: “Chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi.” “Ba cõi” đó là sự, “chẳng phải như ba cõi mà thấy”, đó là lý. [Hoặc như nghĩa “lý giáo”] thì các pháp vốn tịch diệt, không thể dùng lời nói diễn bày, đó là lý; dùng sức phương tiện vì 5 vị tỳ-kheo mà thuyết giảng, đó là giáo. “Nếu nghe kinh này là khéo thực hành đạo Bồ Tát”, đó là ý nghĩa “giáo hành”. Lại nữa, [kinh nói] “việc làm của các ông chính là đạo Bồ Tát”. Người Phật tử tu hành theo đạo pháp rồi thì đời sau được thành Phật. Lại nữa, dùng đủ mọi nhân duyên để cầu Phật đạo, “chỉ cần lìa bỏ hư vọng gọi là giải thoát”. Khi chưa đạt được giải thoát hết thảy thì tận lực thực hành đạo pháp của chư Phật, cho đến [ngồi nơi] đạo tràng chứng thành Phật quả. Đại lược là như vậy.

[Kinh văn lại nói:] “Ta dùng Phật nhãn quán sát chúng sanh trong sáu đường, những ai vừa thấy được thân ta, nghe ta thuyết pháp thì hết thảy đều tin nhận, thể nhập được trí tuệ Như Lai, chỉ trừ những kẻ trước đó đã tu tập theo Tiểu thừa.” Đại lược là như thế.

[Kinh văn kể chuyện] đứa con cùng khổ [của ông trưởng giả], ban đầu bỏ trốn đi [lưu lạc], sau đó quay về làm người ở tạm hốt phân [trong nhà mình], cho đến cuối cùng được [ông trưởng giả] giao phó hết tài sản gia nghiệp. Giai đoạn trước chính là “hóa thành”, giai đoạn sau là dẫn đến “bảo sở”. [Kinh văn cũng nói: “Như Lai thương xót chúng sanh do] đủ mọi tham muốn, đủ mọi tánh tướng, ức niệm [trói buộc mãi trong luân hồi không có ngày thoát ra].” Đại lược là như vậy.

Như trên là trích dẫn chung trong cả bộ kinh để chứng minh, bây giờ sẽ trích dẫn riêng trong một phẩm [Phương tiện] này, tuy không theo trình tự [như trên] nhưng có đủ mười ý nghĩa đã nêu.

[Kinh văn nói:] “Trí tuệ của chư Phật thâm sâu vô lượng. Pháp môn trí tuệ này rất khó nhận hiểu, rất khó thể nhập.” Hết thảy sự lý, cảnh trí... đều gọi là thật. Mở bày giảng giải giáo pháp A-hàm, đều là pháp môn trí tuệ. Đây là chứng minh nghĩa “lý giáo” luận quyền thật.

[Kinh văn nói:] “Khó nhận hiểu, khó thể nhập, hết thảy Thanh văn, Bích-chi Phật không thể rõ biết.” Đây là nghĩa “phược thoát” luận quyền thật.

[Trong câu kinh] từ “Vì sao vậy? Phật từng thân cận...” cho đến “... danh xưng được nghe biết rộng khắp”, tức là nghĩa “giáo hành” luận quyền thật.

Câu kinh từ “Thành tựu sâu xa” cho đến “ý nghĩa khó hiểu hết”, tức là nghĩa “thể dụng” luận quyền thật.

[Kinh văn lại nói:] “Ta từ thành Phật đến nay.” Thành Phật tức là quả, quả ấy tất phải có nhân, tức là nghĩa “nhân quả” luận quyền thật.

[Kinh văn nói:] “Đủ mọi nhân duyên, [đủ mọi] thí dụ” cho đến “khiến cho lìa xa những sự bám chấp”, tức là nghĩa “tiệm đốn” luận quyền thật.

Kinh văn lại nói: “Vì sao vậy? Vì đức Như Lai có đầy đủ hết thảy các phương tiện, tri kiến, ba-la-mật.” Đây là nghĩa “khai hợp” luận quyền thật.

Kinh nói, chư Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời, vì muốn giúp cho chúng sanh khai mở, thấy biết, nhận hiểu, thể nhập được tri kiến Phật. Đây là nghĩa lợi ích [“thông biệt”] luận quyền thật.

Kinh văn lại nói: “Nói tóm lại, [vô lượng vô biên các pháp chưa từng có,] Phật đều thành tựu.” Đây tức là nói thành tựu ba tất-đàn, thành tựu [thuộc về thế gian]. [Lại nói:] “Thôi thôi, đừng nói nữa!” Đây là Đệ nhất nghĩa tất-đàn. Như trên chính là nghĩa “bốn tất-đàn” luận quyền thật.

Lại nói: “Vì sao vậy? Chỗ thành tựu của Phật là pháp ít có, khó hiểu nhất, [chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến tận cùng tướng thật của các pháp.” Đây tức là lý. [Lại nói:] “Đó là nói tướng như thị của các pháp.” Đây tức là sự. Như vậy là nghĩa “lý sự” luận quyền thật.

Chỉ một đoạn kinh văn trường hàng như thế nêu rõ pháp quyền thật của năm vị Phật. Hết thảy chư Phật cũng đều như vậy.

Tuy nhiên, luận Pháp Hoa còn giảng giải rằng chư Phật trí tuệ rất sâu xa, vì chứng đắc rất sâu xa. Chỗ sâu xa đó có 5 phương diện. Đó là nghĩa sâu xa, thể chân thật sâu xa, nội chứng sâu xa, chỗ nương tựa sâu xa và pháp Vô thượng sâu xa. Vô thượng sâu xa tức là chứng đắc Đại Bồ Đề. Gọi là pháp môn trí tuệ vì Phật giảng thuyết ý nghĩa A-hàm rất sâu xa. Điều này so với nghĩa “lý giáo” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng “Phật từng thân cận trăm ngàn đức Phật”, vì sự tu hành rất sâu xa. “Dũng mãnh tinh tấn, danh xưng được nghe biết rộng khắp”, vì công đức tăng trưởng sâu xa. Điều này so với nghĩa “giáo hành” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng “thành tựu pháp sâu xa chưa từng có”, vì “sự” vi diệu rất sâu xa. “Ý nghĩa khó hiểu hết”, vì nghĩa vô thượng rất sâu xa, thể nhập rất sâu xa. Điều này so với nghĩa “thể dụng” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng “Ta từ thành Phật đến nay”, là nói về pháp công đức thành tựu của Như Lai. Điều này so với nghĩa “nhân quả” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng “vô số phương tiện” tức là giáo hóa thành tựu và thuyết pháp thành tựu. Điều này so với nghĩa “tiệm đốn” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng, câu kinh từ “Phương tiện tri kiến của Như Lai” cho đến “thâm nhập không cùng tận” chính là cảnh giới tự thân thành tựu không thể nghĩ bàn, vượt hơn hết thảy các vị Bồ Tát. Đây chính là làm sáng tỏ [ý nghĩa] lợi ích [thông biệt].

Luận giảng rằng, “[Như Lai] có thể phân biệt đủ mọi pháp, [khéo léo giảng thuyết các pháp, lời nói nhu hòa uyển chuyển] làm cho đại chúng được vui lòng”, chính là thành tựu về ngôn ngữ. Điều này so với nghĩa “lợi ích [thông biệt]” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng, kinh văn từ câu “Nói tóm lại, [vô lượng vô biên các pháp chưa từng có, Phật đều thành tựu]” cho đến “Thôi đừng nói nữa!” là có thể hóa độ chúng sanh thành tựu. Điều này so với nghĩa Tứ tất-đàn phân biệt [chúng sanh] có thể hóa độ và không thể hóa độ thì hàm ý tương đồng.

Luận giảng rằng “Chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến tận cùng tướng thật của các pháp”, vì khả năng rõ biết của chư Phật do thành tựu vô lượng phước đức, là tánh thể pháp thân Như Lai chẳng biến đổi nên gọi là giác, có thể tự chứng đắc thành tựu, có thể tùy thuận chúng sanh, thuyết dạy hết thảy các tướng pháp... Điều này so với nghĩa “lý sự” quyền thật thì hàm ý tương đồng.

Bản luận [Pháp Hoa] này giảng giải kinh Phật thuyết, nay giải rộng như trên phù hợp với lời của hai bậc thánh, có thể nói là so với khế kinh (Tu-đa-la) và luận Pháp Hoa (Ưu-ba-đề-xá) đều phù hợp.

5. Tóm kết các loại quyền thật

Mười pháp [quyền thật như kể trên] có đủ trong Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo, nên tính chung thành 40 pháp quyền thật.

Nếu tu tập theo Tạng giáo tự chứng được 10 pháp quyền thật này thì gọi là tự hành quyền thật. Đem 10 pháp tự mình đã chứng ra giảng thuyết làm lợi ích chúng sanh thì gọi là hóa tha quyền thật. Mười pháp hóa tha hợp chung gọi là quyền, mười pháp tự hành hợp chung gọi là thật. Như vậy gọi là tự tha quyền thật.

Đối với người tu tập theo Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo cũng đem 10 pháp xếp vào 3 loại quyền thật như vậy.

Lại nữa, trong mỗi giáo pháp đều phân chia bốn pháp sự lý, giáo hành, phược thoát, nhân quả là tự hành quyền thật; hai pháp lý giáo, khai hợp là hóa tha quyền thật; bốn pháp thể dụng, tiệm đốn, thông biệt, tất-đàn là tự tha quyền thật. Tuy [tứ giáo đều] gọi tên [ba loại quyền thật] giống nhau như vậy, nhưng ý nghĩa trong mỗi giáo pháp đều khác nhau.

Lại có cách phân chia khác. Trong Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo, [hết thảy các pháp] dù là [lợi ích] chung (thông) hay riêng (biệt), đều gọi chung là hóa tha quyền thật, vì tùy thuận ý người khác mà nói. Trong Viên giáo, [hết thảy các pháp] dù là [lợi ích] chung (thông) hay riêng (biệt), đều gọi chung là tự hành quyền thật, vì tùy thuận ý của chính mình mà nói. Các pháp hóa tha của Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo đều là quyền, các pháp tự hành [của Viên giáo] đều là thật, [nên gộp chung lại gọi là tự tha quyền thật.]

Tiếp đến còn có thể phân chia theo bốn luận đề. Các pháp tùy theo ý người khác mà nói thì hết thảy đều là quyền; các pháp theo tự ý mình mà nói thì hết thảy đều là thật. Chấp nhận cả hai luận đề trên thì tất cả pháp vừa là quyền vừa là thật, phủ nhận cả hai luận đề trên thì hết thảy pháp chẳng phải quyền chẳng phải thật.

Kế đến là phân chia theo 3 cách giải thích [tên] phẩm kinh này.

Nếu [xét theo các pháp] tự hành, tự ý thì trong văn này gọi là pháp đạt được ở đạo tràng. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói là “nhờ tu đạo mà đạt được”. Luận Nhiếp Đại Thừa gọi là “trí đúng thật như lý, đúng thật như lượng”. Đó đều là chỉ các pháp tự hành quyền thật, tùy tự ý mình mà nói, thuộc Viên giáo. Đức Phật tuy đối với các pháp không thể thuyết vẫn có khả năng dùng phương tiện để thuyết giảng, nhưng chúng sanh thì không đủ sức tiếp nhận. Nếu [Phật] vì xót thương mà riêng nói pháp này thì những chúng sanh được nghe cũng không thể hiểu được. Cho nên nói rằng “không thể thuyết, không thể thuyết”.

Cho nên gác lại việc [thuyết pháp “tự hành tự ý” như vậy] mà dùng các pháp tự hành quyền thật cùng với các pháp quyền thật của Biệt giáo để thuyết giảng cho chúng sanh. [Như vậy thì] những người thuộc căn cơ lớn, nếu nhanh nhạy liền có thể nhận hiểu ngay, nếu chậm lụt thì phải suy diễn quanh co rồi cũng nhận hiểu được. Nhưng với những người căn cơ nhỏ thì dù nhanh nhạy hay chậm lụt cũng đều không nhận hiểu được. Ý nghĩa này là nói về giáo pháp Hoa Nghiêm.

Do đó, lại tạm gác việc thuyết pháp như vậy, chỉ riêng dùng các pháp quyền thật của Tạng giáo để thuyết giảng cho chúng sanh. [Như vậy thì] hàng căn cơ lớn, kẻ nhanh nhạy cũng như người chậm lụt, đối với mật ý ngấm ngầm có thể nhận hiểu được, nhưng ở phương diện hiển lộ thì không hiểu được. Đối với hàng căn cơ nhỏ, dù nhanh nhạy hay chậm lụt, chỉ có thể chứng biết nhưng không thể hiểu được. Ý nghĩa này là nói theo Tạng giáo.

Lại tạm gác việc thuyết pháp như vậy, nếu dùng đủ cả bốn loại quyền thật [của Tứ giáo] để giảng thuyết cho chúng sanh thì hàng căn cơ lớn dù nhanh nhạy hay chậm lụt, đều có thể hoặc nhận hiểu được ngay, hoặc do suy diễn mà hiểu. Hàng căn cơ nhỏ thì chỉ chứng biết mà đều không nhận hiểu được. Ý nghĩa này là nói về giáo pháp Phương đẳng.

Nếu xả bỏ các pháp quyền thật của Tạng giáo, chỉ dùng các pháp quyền thật của Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo để thuyết giảng cho chúng sanh thì hàng căn cơ lớn dù nhanh nhạy hay chậm lụt cũng đều nhận hiểu được, còn hàng căn cơ nhỏ chỉ chứng biết mà đều không hiểu được. Ý nghĩa này là nói về giáo pháp Bát-nhã.

Lại nếu xả bỏ ba loại quyền thật của Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo, chỉ riêng dùng các pháp tự hành quyền thật của Viên giáo để thuyết giảng cho chúng sanh, thì hết thảy các hàng căn cơ lớn hay nhỏ, nhanh nhạy hay chậm lụt cũng đều nhận hiểu được. Ý nghĩa này là nói về giáo pháp Pháp Hoa.

Trí tuệ của đức Như Lai không gì không thông đạt, sáng suốt rõ biết thời cơ thích hợp cùng chỗ nên dùng hay không nên dùng. Do vậy mà [theo đó] giải thích [tên] phẩm kinh này, phương là các phương pháp, tiện là khéo léo vận dụng. Khéo léo vận dụng các phương pháp để thuyết giảng cho chúng sanh có thể nhận hiểu được, cho nên ân cần ngợi khen xưng tán là phương tiện. [Đây là cách thứ nhất để giải thích tên phẩm kinh này.]

Lại nữa, chỗ tự chứng của đức Như Lai, dù quyền hay thật đều không thể giảng nói. Vì thương xót chúng sanh mà nói các pháp quyền do Phật tự chứng để làm cửa ngõ [vào đạo]. Vì không thích hợp nên hết thảy chúng sanh đều không thể vào được. Cho nên pháp tự chứng [của Như Lai] cũng không thể giảng nói.

[Phật lại] thuyết các pháp quyền thật của Biệt giáo làm cửa ngõ vào đạo. Người lợi căn thì vào được, còn kẻ độn căn thì không thể vào. Cho nên đối với những chúng sanh không thích hợp thì các pháp quyền thật của Biệt giáo lại cũng không thể giảng nói.

Lại thuyết các pháp quyền thật của Tạng giáo để làm cửa ngõ vào đạo. Người lợi căn thì ngấm ngầm vào được, kẻ độn căn vẫn không thể vào, cho nên đối với chúng sanh không thích hợp vẫn không thể giảng thể nói.

Lại thuyết ba loại hóa tha quyền thật để làm cửa ngõ vào đạo. Người lợi căn vào được, kẻ độn căn vẫn không thể vào, nên đối với chúng sanh không thích hợp vẫn không thể giảng nói.

Lại thuyết hai loại hóa tha quyền thật để làm cửa ngõ vào đạo. Đối với người lợi căn thì vào được, những kẻ độn căn vẫn không thể vào, nên [các pháp này] vẫn không thể giảng nói với những chúng sanh không thích hợp.

Đức Phật liền xả bỏ ba loại hóa tha quyền thật, chỉ thuyết các pháp quyền tự hành. [Như vậy thì] những người lợi căn và độn căn đều có thể vào được.

Từ khởi đầu cho đến cuối cùng đều lấy phương tiện làm cửa ngõ [vào đạo] cho chúng sanh, cho nên Như Lai ngợi khen xưng tán phương tiện.

[Theo đó] giải thích [tên phẩm] này, phương tiện là cửa vào lẽ chân thật, tức là ý nghĩa như vậy. Phần giải thích trước nêu rõ việc Đức Như Lai khéo biết phương tiện, khéo vận dụng phương tiện. Phần giải thích này nêu rõ việc hành giả khéo tùy thuận phương tiện. Đại lược là như vậy. [Đây là cách giải thích thứ hai.]

Lại nữa, Như Lai tự tu chứng đạo, chỗ chứng đắc đối với hết thảy các phương tiện ngay đó cũng tức là chân thật, nhưng chỗ chân thật này lại không thể giảng nói. Tuy có thể giảng nói nhưng chúng sanh lại không thể ngay đó tức nhập lẽ thật.

[Đức Như Lai] dùng sức phương tiện đem pháp không thể tức nhập thuyết giảng thành một pháp tức nhập, những người lợi căn nhanh nhạy nhân đó có thể tức nhập lẽ thật, nhưng kẻ độn căn chậm lụt thì không thể.

Lại chỉ thuyết riêng một pháp không tức nhập. Những người lợi căn ngấm ngầm tức nhập, còn kẻ độn căn thì không thể.

Lại đem ba pháp không tức nhập thuyết giảng thành một pháp tức nhập. Những người lợi căn có thể nhân đó tức nhập, nhưng kẻ độn căn thì không thể.

Lại đem hai pháp không tức nhập thuyết giảng thành một pháp tức nhập. Những người lợi căn có thể tức nhập, nhưng kẻ độn căn vẫn không thể.

Lại bỏ đi ba pháp không tức nhập, chỉ riêng thuyết hết thảy các pháp đều tức nhập, người lợi căn hay độn căn đều có thể nhân đó tức nhập, nhờ nơi phương tiện đó mà đều thấy lẽ chân thật.

Hai cách [giải thích] trước đều vận dụng phương tiện, thuận theo phương tiện, riêng cách giải thích này thì ngay nơi phương tiện tức là chân thật. Chân thật tức là nhân trọn vẹn. Nhân trọn vẹn đó tức là phương tiện tự hành. Y theo phương tiện tự hành đó mà nay mới chứng nhập lẽ chân thật.

Theo cách giải thích tên phẩm kinh này ở đây thì phương tiện tức là chân thật, theo phương tiện tự hành mà đặt tên nên gọi là phẩm Phương Tiện.

6. Phân biệt quyền thật, soi chiếu nhị đế

Phần trước đã phân biệt các loại quyền thật theo thông biệt cũng như xếp gộp thành các nhóm. Nay lại cũng dựa theo đó để luận về trí tuệ soi chiếu nên sẽ dễ dàng thấy được ý nghĩa.

Ví như Thông giáo dùng 10 loại [quyền thật] để làm rõ nghĩa hai trí tự hành, tức là soi chiếu tùy trí nhị đế. Nếu Thông giáo dùng 10 loại quyền thật để tùy duyên [giáo hóa], tức là soi chiếu tùy tình nhị đế. Nếu gộp bốn pháp thành hai, tức là soi chiếu tùy tình trí nhị đế.

Nếu phân chia [theo nhóm] để luận sự soi chiếu nhị đế thì [nhóm các loại] sự lý, giáo hành, phược thoát, nhân quả đều thuộc về pháp tự hành tự chứng, tức là soi chiếu tùy trí nhị đế. Hai loại lý giáo, khai hợp đều thuộc về hóa tha, tức là soi chiếu tùy tình nhị đế. Bốn loại thể dụng, tiệm đốn, thông biệt, tất-đàn đều thuộc về cả tự hành và hóa tha, tức là soi chiếu tùy tình trí nhị đế.

Đối với Tạng giáo, Biệt giáo và Viên giáo, luận về soi chiếu nhị đế cũng đều dựa theo như trên mà nhận hiểu.

Lại nữa, Tam giáo có 30 loại [quyền thật] nhị trí, thuộc về hóa tha nhị trí nên đều soi chiếu tùy tình nhị đế.

Thông giáo và Biệt giáo tính chung có 60 loại [quyền thật nhị trí], thuộc về tự tha nhị trí, tức là soi chiếu tùy tình trí nhị đế.

Đôi khi cũng xếp chung [các pháp của] Thông giáo với Tạng giáo [thành 60 pháp quyền thật và] xem là [soi chiếu] tùy tình nhị đế.

Xét Viên giáo thì có 30 loại quyền thật, thuộc về tự hành nhị trí, nên chiếu soi tùy trí nhị đế.

Lại nữa, đối với Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo, dù là các pháp thông (chung khắp) hoặc biệt (dành riêng) cũng đều là tùy duyên [giáo hóa], cho nên đều thuộc về hóa tha nhị trí, soi chiếu tùy tình nhị đế.

Đối với Viên giáo, dù thông hay biệt cũng đều là tự hành nhị trí, tức là soi chiếu tùy trí nhị đế.

Nếu xem tất cả các pháp của Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo đều là quyền, tất cả các pháp của Viên giáo đều là thật, thì gộp chung lại là thuộc về tự tha nhị trí, soi chiếu tùy tình trí nhị đế.

7. Lược xét kinh điển phán định quyền thật

Giáo pháp Hoa Nghiêm luận về giáo thuyết thì chỉ nói pháp viên mãn rốt ráo; luận về giai đoạn thì giống như lúc sữa [còn nguyên vị thuần khiết]; luận về pháp hành thì [có đủ] một mặt tự hành, một mặt hóa tha; xem hết thảy người nghe [pháp] đều là Bồ Tát, riêng hàng Nhị thừa [ví như người] câm điếc, [không có khả năng tiếp nhận]; Bồ Tát hiện đời cũng chưa thể khởi phát pháp quyền tự hành tùy trí chân thật. Nếu xét theo kinh văn [Pháp Hoa] này thì chưa từng dạy người nghe những việc như thế.

Lược xét Tạng giáo, luận về giáo thuyết thì chỉ nói pháp chưa rốt ráo; luận về pháp hành thì chỉ một mặt hóa tha; luận về giai đoạn thì giống như lúc [sữa được chế biến thành] sữa đặc. Nếu xét theo kinh văn [Pháp Hoa] này thì là người đứng ngoài cửa, mặc áo quần dơ bẩn, tay cầm đồ dùng hốt phân. Đó là chỉ hàng Nhị thừa.

Lược xét giáo pháp Phương đẳng, luận về giáo thuyết thì đối với pháp chưa rốt ráo mà luận giải rốt ráo; luận về pháp hành thì có ba loại hóa tha, một loại tự hành; luận về giai đoạn thì giống như lúc sữa đặc để yên đã đóng thành váng sữa (sanh tô). Nếu xét theo kinh văn [Pháp Hoa] này thì [là người cùng tử đến lúc] trong lòng đã có niềm tin, vào ra [nhà trưởng giả] không gặp khó khăn.

Lược xét giáo pháp Bát-nhã, luận về giáo thuyết thì đem pháp chưa rốt ráo ra để luận giải rốt ráo; luận về pháp hành thì có hai loại hóa tha, một loại tự hành; luận về giai đoạn thì giống như lúc váng sữa sống (sanh tô) đã thành váng sữa chín (thục tô). Xét theo kinh văn [Pháp Hoa] này thì [là người cùng tử đã đến lúc được ông trưởng giả] cho biết rõ hết thảy về mọi thứ tài sản.

Nay lược xét giáo pháp Pháp Hoa, luận về giáo thuyết thì bỏ hẳn pháp chưa rốt ráo, chỉ luận pháp viên mãn rốt ráo; luận về pháp hành thì chỉ có tự hành; luận về giai đoạn thì [giống như lúc sữa đã chế biến xong,] chỉ thuần một vị đề-hồ. Nếu xét theo kinh văn thì là lúc trừ bỏ pháp quyền, hiển bày pháp thật, [như ông trưởng giả nói ra sự thật], “đây là con ta, do ta sinh ra, ta là cha nó”, rồi giao phó gia nghiệp, [tức là] thọ ký cho làm Phật.

Những gì các giáo pháp trước đây không nói thì đến lúc thuyết giảng Pháp Hoa đều nói ra, chính thức xả bỏ phương tiện, chỉ thuyết giảng đạo Vô thượng. Cho nên đây là pháp quyền tự hành, cho nên gọi đây là phẩm Phương Tiện.

Các giáo pháp khác, hoặc nói tự tha nhị trí, hoặc nói hóa tha nhị trí. Lại nữa, giáo pháp Hoa Nghiêm đối với nhị Bồ Tát nói một pháp tự hành, một pháp hóa tha, không lưu tâm đến hàng Nhị thừa không nghe, không hiểu. Giáo pháp Tạng giáo thì đối với hàng Nhị thừa chỉ thuyết một mặt hóa tha, không lưu tâm đến Bồ Tát nên không có pháp tự hành. Giáo pháp Phương đẳng thì hướng đến cả Đại thừa, Tiểu thừa nên đối với Nhị thừa thuyết hai pháp hóa tha, đối với Bồ Tát thuyết một pháp tự hành, một pháp hóa tha. Giáo pháp Bát-nhã thì có ba, thuyết một pháp tự hành, hai pháp hóa tha, trong đó đối với Nhị thừa thuyết một pháp hóa tha, đối với Bồ Tát thuyết một pháp tự hành, một pháp hóa tha.

Giáo pháp Pháp Hoa thì mở rộng đối với những người căn cơ đã thuần thục, chỉ giảng rõ một pháp tự hành,không luận đến hóa tha. Kinh văn nói rằng: “Bồ Tát nghe pháp này, những sự hoài nghi đều tiêu trừ, 1.200 vị A-la-hán, tất cả đều sẽ thành Phật.” Hết thảy chúng sanh đều sẽ thể nhập vào phương tiện tự hành, cho nên gọi tên là phẩm Phương Tiện. Đại lược là như vậy.

8. Lược nêu bản tích phán định quyền thật

Xét về bản địa, đức Như Lai vốn từ lâu đã chứng đắc hết thảy các pháp quyền thật, gọi là tự hành. Vì thương xót thị hiện độ sinh nên trong khoảng thời gian đó mới tuần tự thuyết dạy các giáo pháp Hoa nghiêm, A-hàm, Phương đẳng, Bát-nhã, cho đến ngày nay lại thị hiện tịch diệt nơi đạo tràng. Kèm theo pháp hóa tha của Biệt giáo, lại thuyết pháp tự hành. Kế đến thuyết riêng một pháp hóa tha [trong hội A-hàm]. Tiếp theo thuyết ba pháp hóa tha [trong hội Phương đẳng]. Tiếp nữa thuyết hai pháp hóa tha [trong hội Bát-nhã]. Sau lại thuyết không dùng ba pháp hóa tha. Những pháp như thế đều gọi chung là hóa tha quyền thật.

[Lại xét theo bản tích thì] các pháp quyền thuộc bản đều gọi là thật, các pháp thật thuộc tích đều gọi là quyền. Gộp chung lại tức là tự tha, quyền thật.

Kết lại như vậy có bốn luận đề: hết thảy đều là thật, hết thảy đều là quyền, hết thảy đều vừa quyền vừa thật, hết thảy đều chẳng phải quyền chẳng phải thật. Đại lược là như vậy.

Ngài Xá-lợi-phất, xét theo bản vốn đã chứng đắc hết thảy các pháp quyền thật, tức là tự hành, nhưng thị hiện hình tích tại vườn Lộc uyển riêng lãnh nhận pháp hóa tha; tại hội Phương đẳng một lần chịu quở trách, ba lần chịu bắt bẻ; tại hội Bát-nhã thì [thị hiện] từ Nhị thừa chuyển sang Đại thừa; cho đến hội Pháp Hoa từ bỏ ba thừa tỏ ngộ Phật thừa. Tất cả [những sự thị hiện đó] đều là hóa tha quyền thật. Xét theo bản nguyên thì quyền đó là thật, xét theo hình tích thị hiện thì thật đó là quyền, tức là tự tha quyền thật, cũng có đủ bốn luận đề như trước. Đại lược là như vậy.

Nếu xét từ chỗ thị hiện hình tích của Phật mà nói thì cũng là hóa tha quyền thật, cũng gọi là phẩm Phương Tiện. Nếu xét từ chỗ dẫn vào nhân viên mãn, là pháp tự hành, cũng gọi là phẩm Phương Tiện. Nếu xét từ các pháp quyền thị hiện hình tích của ngài Xá-lợi-phất thì cũng là phẩm Phương Tiện. Nếu xét từ chỗ thị hiện hình tích của ngài Xá-lợi-phất nhập vào lẽ thật thì cũng là phẩm Phương Tiện. Do hết thảy các nghĩa này cho nên gọi tên là phẩm Phương Tiện.

Giải thích phần chánh thuyết

Từ phẩm [Phương Tiện] này cho đến hết 19 khổ kệ [đầu tiên] của phẩm Phân Biệt Công Đức, hoặc sau phần kệ ấy đến hết đoạn văn “hiện tại tứ tín đệ tử”, là phần chánh thuyết.

Nếu phân chia theo cách có hai phần chánh thuyết thì từ đây đến hết phẩm “Thọ học vô học nhân ký” là Tích môn chánh thuyết.

Nay tạm lấy theo phần Tích môn chánh thuyết, lại phân chia thêm thành hai phần. Phần thứ nhất từ đây trở đi, nói sơ lược ý nghĩa trừ bỏ ba thừa, hiển bày một thừa duy nhất. Phần thứ hai từ câu “cáo Xá-lợi-phất, nhữ dĩ ân cần...” trở đi là nói rộng ý nghĩa trừ bỏ ba thừa, hiển bày Phật thừa.

Phần thứ nhất nói lược, lại chia thêm thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất là từ “Nhĩ thời Thế Tôn...” trở đi, đây là nói lược ý nghĩa trừ bỏ ba thừa, hiển bày Phật thừa. Đoạn thứ hai là từ “nhĩ thời đại chúng” trở đi, nói nghĩa “động chấp sanh nghi”.

Giải thích phần văn trường hàng

Đoạn thứ nhất gồm có phần văn trường hàng và kệ tụng. Văn trường hàng lại chia thành hai phân đoạn, thứ nhất là dùng ngôn từ tán thán nhị trí, thứ hai là dứt ngôn từ tán thán nhị trí. Nếu không có lời nói ra thì không ai có thể biết được. Tuy nhiên, xưng tán tuyên dương thì lời nói không đủ nói hết nhị trí [quyền thật] của chư Phật như trước đã nói. Đại lược là như vậy.

Phân đoạn thứ nhất lại chia làm hai tiểu đoạn, thứ nhất là nêu rõ quyền thật của chư Phật, thứ hai là nêu rõ quyền thật của Đức Phật Thích-ca. Chư Phật đạo hạnh như nhau cho nên đều tán thán. Phần trên đã nói hào quang soi chiếu đến các cõi khác, ngài Di-lặc nêu hỏi việc đương thời, ngài Văn-thù dẫn việc đại chúng được nghe thuở xưa, chính là nêu việc [chư Phật] khởi tâm thương xót [chúng sanh] mà xuất định, tức chỉ rõ đạo hạnh của chư Phật đều như nhau.

Phần kinh văn tán thán chư Phật lại chia làm ba. Thứ nhất là tán thán cả hai [trí quyền thật], thứ hai là giải thích cả hai và thứ ba là tóm kết cả hai.

Trong phần tán thán cả hai, trước tiên là mở đề của người chép kinh, sau đó là nội dung tán thán.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Thế Tôn an lành ra khỏi thiền định, bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trí tuệ của chư Phật rất sâu xa không thể suy lường, cửa trí tuệ ấy khó hiểu khó vào, hết thảy hàng Thanh văn, Phật Bích-chi đều không có khả năng rõ biết.

Kinh văn nói “bấy giờ”, đó là nói thời gian đúng vào lúc ấy.

“Đức Thế Tôn an tường ra khỏi thiền định”, Phật vẫn thường trụ trong định, ở đây vì sao lại nói “ra khỏi”? Điều này tự có những ý nghĩa thị hiện.

Chư Phật xưa kia trong quá khứ, trước khi thuyết giảng kinh [Pháp Hoa] này đều nhập [tam-muội] Vô Lượng Nghĩa, tức là nhập [tam-muội] Pháp Hoa. [Cho nên] đức Phật [Thích-ca] bây giờ cũng vậy. Đây là [đức Phật] thị hiện thế giới tất-đàn [tùy thuận thế gian] nên thương xót [chúng sanh] mà từ định khởi.

[Đức Phật] từng trải pháp duyên, thảy đều xét rõ tinh tường lẽ thật, nên thuyết giảng ắt không sai lầm, làm tăng trưởng niềm tin của chúng sanh. Đây là [đức Phật] thị hiện vị nhân tất-đàn, thương xót [chúng sinh] mà từ định khởi.

Đức Phật trụ nơi tịch nhiên vắng lặng nhưng thường soi chiếu sáng suốt, như vậy mà còn phải nhập định rồi mới thuyết pháp, huống chi [những kẻ] tán tâm sao có thể ngông cuồng nói pháp? Đây là đối trị tất-đàn, thương xót [chúng sanh] mà từ định khởi.

[Đức Phật] nhập định thì thuận theo duyên, tâm trụ yên nơi thật tướng, xuất định thì giúp cho chúng sanh được trụ yên nơi thật tướng. Đây là đệ nhất nghĩa tất-đàn, thương xót [chúng sanh] nên từ định mà khởi.

[Đức Phật trụ] yên nơi bốn pháp [tất-đàn] này cho nên nói rằng “an lành ra khỏi thiền định”.

“Bảo ngài Xá-lợi-phất”, là [nói với] bậc đệ nhất trí tuệ trong hàng Tiểu thừa. Đó là [Phật] muốn nhân đây phá bỏ trí nhỏ hẹp, hiển thị trí lớn rộng. Đây là nói các pháp khai, phế, hội, phú, như trong [Pháp Hoa] Huyền Nghĩa nói là có 10 loại.

Trên đây là câu văn của những người chép kinh dùng để mở đề.

Luận Pháp Hoa nói rằng: “Phật nhập tam-muội rất sâu, chánh niệm không dao động, dùng trí quán chiếu như thật, từ tam-muội mà khởi.” Đây là hiển lộ sức tự tại mà đức Như Lai đã đạt được.

Khi đức Như Lai nhập định thì không điều gì có thể làm kinh động. Luận với ý nghĩa này phù hợp nhau. Đệ nhất nghĩa tất-đàn vượt ngoài thế gian, cho nên không gì có thể làm kinh động. Bốn tất-đàn không chướng ngại, cho nên được tự tại. Đại lược là như vậy.

[Phật nhập tam-muội tức trong tư thế] ngồi kiết-già. Từ xa xưa đến nay, chư Phật nhiều như số hạt bụi nhỏ, như số cát sông Hằng, cùng các đệ tử đều thực hành cách ngồi này. Lại nữa, ngồi kết già dù khởi lên niệm xấu mà còn khiến người khác sanh tâm cung kính, huống chi là [chân chánh] nhập vào cảnh giới sâu xa, lẽ nào lại chẳng làm cho hàng người, trời ưa mến hay sao? Lại nữa, đây chẳng phải pháp thọ dụng của thế gian, cũng chẳng chung cùng với ngoại đạo, có thể phá trừ quân ma phiền não, làm sanh khởi ba loại đạo Bồ-đề. Đây là ý của bốn tất-đàn.

● Hỏi: Các kinh khác nói “buộc niệm ở phía trước” nghĩa là thế nào?

● Đáp: Quay lưng bỏ lại hình sắc, niệm tưởng thuộc cảnh giới phiền não, sinh tử ở sau, quán các duyên đưa đến tịch diệt, Niết-bàn ở trước. Cho nên lẽ ra nên giải thích [việc buộc niệm duyên trước mặt] theo bốn nghĩa [như dưới đây]. Đại lược là như vậy.

● Hỏi: Vì sao lại ở nơi mặt?

● Đáp: Con người thường khởi sự ham muốn từ nơi khuôn mặt, mừng vui cũng lộ ra ở đó rồi sau mới lan đến toàn thân. Lại nữa, [trên thân] có 9 lỗ thải ra những chất bất tịnh thì riêng nơi mặt đã có 7 lỗ, nên dùng [pháp quán] bất tịnh nơi đó để đối trị tham dục. Do vậy nên buộc niệm duyên ở mặt. Đó là ý nghĩa thứ nhất.

Lại nữa, 6 thức có đủ trên mặt nên tâm duyên theo nơi đó nhiều, biểu thị hết thảy hiền thánh đều chuộng lẽ không, tương ưng với không. Do vậy nên buộc duyên ở mặt. Đó là ý nghĩa thứ hai.

Lại nữa, nếu quán xét nơi mặt có thể phân biệt được 6 thức. Vì [tu tập quán xét] phân biệt nên buộc duyên ở mặt. Đó là ý nghĩa thứ ba.

Lại nữa, thân thể có 6 phần, trong đó đầu mặt là hơn hết, biểu thị trong các pháp thì tướng thật là hơn hết. Là pháp hơn hết cho nên buộc duyên ở mặt. Đó là ý nghĩa thứ tư.

Phần xưng tán nhị trí [lại chia ra thành hai], trước tiên xưng tán thật [trí], sau đó xưng tán quyền [trí].

Thật [trí] chính là trí tuệ của chư Phật, không phải ba loại [trí] hóa tha mà gọi là chư Phật. Hiển lộ sự chân thật của pháp tự hành, nên gọi là trí tuệ. Thể của trí tuệ này tức là một tâm ba trí.

Kinh nói “rất sâu xa không thể suy lường” tức là lời ngợi khen xưng tán. Nêu rõ trí tuệ chân thật của Phật, soi xét ngược dòng, thấu triệt đến tận cùng của lý như, cho nên nói là rất sâu xa; lớn rộng khắp cùng biên tế pháp giới, cho nên gọi là không thể suy lường. “Rất cao sâu không thể suy lường”, [đó là nói] cao sâu ngang rộng, ví như cây có gốc rễ sâu thì cành lá rậm rạp, nguồn nước xa thì dòng chảy càng dài. Trí chân thật đã vậy thì trí quyền biến cũng giống như thế. Đại lược là như vậy.

Kinh nói “cửa trí tuệ ấy”, tức là xưng tán quyền trí. Đó đều là phương tiện tự hành trước khi vào đạo, có sức tiến tới theo đường hướng cho nên gọi là “cửa vào”. Từ cửa này mà vào được trong đạo. Trong đạo gọi là thật, trước khi vào đạo gọi là quyền.

Kinh nói “khó hiểu khó vào”, đó là lời xưng tán quyền trí. Không suy tính mà rõ biết, không phương thức mà đạt được chỗ vận dụng lớn lao. [Hành giả ở] bảy giai vị phương tiện đều không thể ước độ suy lường, hàng Bồ Tát Thập trụ mới bắt đầu hiểu được và hàng Bồ Tát Thập địa mới thể nhập. Vì nêu chung các giai vị từ ban đầu, khoảng giữa cho đến sau cùng nên nói [pháp này] là khó gặp mà có thể biết, nhưng [kinh văn lại] nói riêng “hết thảy Thanh văn, Phật Bích-chi đều không có khả năng rõ biết”, đó là vì còn bám chấp nặng nề, cho nên phải có sự phá trừ riêng.

Ý nghĩa căn bản của Pháp thân vốn dùng tự hành quyền thật để hình dung phỏng theo, không có cách nào khác được, cho nên nói rằng không rõ biết. [Trong hội] Hoa Nghiêm [Phật dùng pháp] đốn ngộ soi chiếu, [hàng Nhị thừa như] câm điếc, mù lòa mê muội, cho nên nói là không rõ biết. [Giữa hội] Phương đẳng, [đức Phật] quở trách [hàng Nhị thừa] bám chấp am cỏ [sống đời ẩn dật], cho nên nói là không rõ biết. [Đến hội] Bát-nhã [Phật] chuyển dạy giáo pháp vô tâm, [hàng Nhị thừa vẫn muốn] giữ một chút ý niệm, cho nên nói là không rõ biết. Đến nay [trong hội Pháp Hoa này] khai mở căn cơ lớn lao, [điềm lành Phật] phóng hào quang, cõi đất chấn động, [hiển bày việc] chư Phật từ xưa đến nay, dù ở nơi đâu, đạo hạnh cũng tương đồng như nhau, [vậy mà hàng Nhị thừa] vẫn còn hoài nghi mê hoặc, cho nên nói là không rõ biết. Hàng Bồ Tát căn cơ nhanh nhạy thì mỗi mỗi đều rõ biết. Hàng Bồ Tát căn cơ chậm lụt thì cũng giống như Nhị thừa, cũng đều không rõ biết.

[Luận về] “cửa vào” ở đây, ngài Quang Trạch cho rằng phương tiện của Nhị thừa là “cửa vào” của kinh này. Như vậy thì phải có trao cho, có lấy lại, mà được như thế tức là vào được cửa. Nếu đúng vậy thì tại sao Đức Như Lai lại bác bỏ mà nói rằng [hàng Nhị thừa] không thể rõ biết? Đã không rõ biết thì tức là chẳng phải cửa vào [của Nhị thừa]. Cái được trao cho đó là khả năng cạn cợt nhất, vĩnh viễn không thể nhận hiểu. Đại lược là như vậy.

Nay giải thích rằng từ khi có phương tiện trí tuệ làm cửa vào thì thể nhập được trí tuệ Phật. Như kinh Anh Lạc nói: “Hai pháp quán là con đường phương tiện để thể nhập đệ nhất nghĩa đế của Trung đạo.” Lại nữa, trong Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo, mỗi giáo pháp đều có bốn môn làm phương tiện để vào Trung đạo. Cách giải thích của ngài Quang Trạch thì đối với hai pháp quán chỉ thấy là một, đối với 12 môn [của ba giáo pháp] cũng chỉ thấy là một môn. Đại lược là như vậy.

Lại nữa, dùng trí tuệ phương tiện làm cửa vào để thể nhập trí phương tiện, tức là cả ba giáo pháp [Tạng, Thông, Biệt], mỗi giáo pháp đều có bốn môn cùng dạy người thể nhập chứng đắc. Nên từ chỗ có trí tuệ Phật làm cửa vào là thể nhập trí tuệ Phật. Như trên đã nói, do nhân viên mãn nên gọi là phẩm Phương Tiện. Đó tức là dùng trí quán tự hành làm cửa vào, tức là “cửa trí tuệ” mà kinh này xưng tán. Trong bốn môn của Viên giáo thì đây là một. Từ chỗ chân thật thể nhập trí phương tiện cùng lúc soi chiếu Nhị đế tức là nghĩa này.

Giải thích như vậy là đầy đủ, rộng khắp, không giống như [cách giải thích của] ngài Quang Trạch chỉ nhỏ nhoi bó hẹp một nghĩa.

Nếu y theo luận giải lấy [giáo pháp] A-hàm làm cửa vào thì cần phải mở rộng theo pháp quán chuẩn mực của các giáo pháp, có thể rõ biết. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Vì sao vậy? Phật từng thân cận với trăm ngàn muôn ức vô số chư Phật, hết sức thực hành vô số đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, danh xưng được nghe biết rộng khắp, thành tựu pháp rất sâu xa chưa từng có, tùy chỗ thích hợp mà giảng thuyết, ý nghĩa khó hiểu.

[Kinh văn từ câu] “vì sao vậy” trở đi, [trước đây] ngài Quang Trạch cho là phần xưng tán đức Phật Thích-ca. Nay xét theo ý văn thì thấy là giải thích về hai trí [quyền thật] của chư Phật.

Kinh văn từ câu “Phật từng thân cận...” cho đến “hết sức thực hành vô số đạo pháp của chư Phật” là giải thích về trí tuệ chân thật của chư Phật. Đó là nhờ bên ngoài thì được gặp rất nhiều vị Phật, cung kính vâng theo, đạt được chỗ chí yếu nên trí tuệ chân thật hết sức sâu xa; bên trong thì nội tâm tu hành thuần hậu, đem hết sức thực hành đạo pháp, cho nên trí tuệ chân thật không thể suy lường. [Trước đây] nói “không thể suy lường” tức là giải thích về chiều kích lớn rộng trùm khắp đương thời; chỗ này nói “rất sâu xa” tức là giải thích về chiều kích lâu dài xuyên suốt xưa nay.

Kinh văn nói “dũng mãnh tinh tấn, danh xưng được nghe biết rộng khắp”. Đây là giải thích về trí quyền biến của chư Phật. Cửa trí tuệ này khó hiểu khó vào, phải nhờ nơi sức dũng mãnh tinh tấn mới có thể vào được cửa khó vào. Vào được cửa [trí tuệ này] rồi thì ân trạch lợi ích thấm nhuần khắp chốn không giới hạn, muôn loài đều khâm phục ngưỡng mộ đức hạnh thù thắng. Cho nên nói là “danh xưng được nghe biết rộng khắp”.

Lại có thể phân chia câu kinh này thành hai phần. “Dũng mãnh tinh tấn” có thể vào được cửa pháp môn, tức là giải thích trí quyền biến sâu xa. “Danh xưng được nghe biết rộng khắp”, tức là giải thích trí quyền biến rộng khắp. Xét câu văn nói về quyền [trí] thì không có từ ngữ nào nói nghĩa sâu xa, rộng khắp, nhưng theo lệ thường nói về thật trí thì hiểu được là có những nghĩa này. Đại lược là như thế.

Từ câu “thành tựu pháp rất sâu xa” trở đi là tóm kết lại về cả hai trí [quyền, thật] của chư Phật. Xứng hợp lý rốt ráo cho nên nói là thành tựu. Đạt đến cùng tận bờ [giải thoát bên] kia nên nói là rất sâu xa. Tóm kết như vậy thành [nói về] thật trí. Đúng thời cơ thích hợp nên nói là “tùy chỗ thích hợp”. Không phải chỗ mà bảy giai vị phương tiện rõ biết được, cho nên nói là khó nhận hiểu. Tóm kết như vậy thành [nói về] quyền trí.

Nương theo tình ắt che lấp lý, cho nên nói là khó nhận hiểu. Thấu hiểu nghĩa nên hiển lộ ý rõ ràng, nên nói là dễ rõ biết. Luận Nhiếp Đại thừa nói: “Đối với kinh liễu nghĩa thì y theo kinh văn để xác định ý nghĩa. Đối với kinh bất liễu nghĩa thì y theo ý nghĩa để xác định kinh văn.” Chính là nói ý nghĩa này.

Cũng có khi giải thích rằng, câu “thành tựu pháp rất sâu xa chưa từng có” là tóm kết nghĩa tự hành quyền thật, còn câu “tùy chỗ thích hợp mà giảng thuyết, ý nghĩa khó hiểu” là tóm kết ý nghĩa hóa tha quyền thật. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Xá-lợi-phất! Từ khi ta thành Phật đến nay, dùng đủ mọi nhân duyên, đủ mọi thí dụ, rộng nói các giáo pháp cùng vô số phương tiện, dẫn dắt chúng sanh khiến cho lìa bỏ mọi sự bám chấp.

Từ câu “Từ khi ta thành Phật đến nay” trở đi là xưng tán [hai trí] quyền thật của đức Phật Thích-ca. Các nhà cựu giải cho rằng [hai trí] quyền thật của đức Phật Thích-ca, câu nào cũng có ý xưng tán. Theo đó thì từ câu “Từ khi ta thành Phật đến nay” trở đi là xưng tán quyền trí. Từ câu “Vì sao vậy?” trở đi là giải thích quyền trí. Câu “Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa” là xưng tán thật trí. Từ câu “không có hạn lượng, không có ngăn ngại” trở đi là giải thích thật trí. Từ câu “Như Lai có thể phân biệt mọi điều” trở đi là tóm kết ý văn xưng tán thật trí.

Các nhà cựu giải phân tích phần này trước sau có ba ý.

Thứ nhất là xưng tán chung hai trí [quyền thật] của tất cả chư Phật, nêu rõ hai trí này tự thể đồng nhau ở chư Phật, mở ra xưng tán hai trí của đức Phật Thích-ca, nêu rõ công dụng của hai trí có khác biệt.

Thứ hai là nêu rõ chỗ cội nguồn thương xót thị hiện hình tích của chư Phật, cho nên trước tiên xưng tán thật trí, tiếp theo nêu rõ chỗ hiển bày sự thương xót đó, cho nên phần xưng tán đức Phật Thích-ca trước tiên xưng tán quyền trí.

Thứ ba, hiển lộ pháp tự hành của chư Phật nên trước tiên [nói việc] chứng đắc thật trí, nêu rõ pháp hóa tha của Phật Thích-ca nên trước tiên [nói việc] dùng quyền trí dẫn dắt kẻ sơ cơ, nhưng thị hiện sự ra đời và tịch diệt để hỗ tương [ý nghĩa] cho nhau, nêu rõ rằng dù tánh thể viên mãn cũng không thể khác biệt tồn tại [mãi mãi], nếu [thị hiện] thường tồn ắt mất đi yếu chỉ.

Nay cho rằng không đúng như sự giảng giải ấy. Chỉ cần y theo trình tự kinh văn thì ý nghĩa dễ hiểu, đâu cần gì phải biện luận quanh co khúc chiết. Hơn nữa, đã nói rằng đạo của chư Phật đều như nhau, vì sao lại giảng giải thành khác biệt? Như vậy chẳng khác nào người khéo xưng tán sự hiếu thuận mà lại đánh đập cha mẹ. Đại lược là như thế.

Phần kinh văn [xưng tán] Phật Thích-ca, nay cũng chia làm ba phần. Trước tiên là xưng tán hai trí quyền thật, tiếp là giải thích hai trí và cuối cùng là tóm kết về hai trí ấy.

[Câu kinh] “Từ khi ta thành Phật đến nay” là xưng tán thật trí. Nếu thật trí chưa viên mãn thì Phật đạo không thể thành tựu. [Cho nên,] đã nói là thành Phật thì [có nghĩa là] hết thảy đều thành tựu, tức là xưng tán trí tuệ Phật.

[Từ câu] “đủ mọi nhân duyên” trở đi là xưng tán quyền trí. Hơn 40 năm dùng ba loại hóa tha quyền thật để tùy nghi [giáo hóa] thích hợp mọi chúng sanh, cho nên nói là “đủ mọi nhân duyên”.

[Tiếp theo nói] “đủ mọi thí dụ”, đó là như trong Tiểu thừa lấy những ví dụ cây chuối, bọt nước... [để chỉ rõ sự hư huyễn, giả tạm, không bền chắc], còn trong Đại thừa thì lấy những ví dụ như thành càn-thát-bà, hình trong gương... [để chỉ rõ sự hư huyễn, không thật của các pháp]. Theo các bản luận giải thì Tiểu thừa ví như sữa, Đại thừa ví như đề-hồ.

[Kinh văn nói] “rộng nói các giáo pháp” nghĩa là đối với một pháp có thể giảng giải ra vô số ý nghĩa.

Lại nói “vô số phương tiện”. Đó là bảy loại phương tiện, dẫn dắt chúng sanh xa lìa hết thảy mọi sự bám chấp; đó là thuyết giảng ngợi khen mười nghiệp lành, giúp chúng sanh xa lìa ba đường ác; đó là nói mười nghiệp lành thanh tịnh, xa lìa Dục giới; đó là thuyết giảng giáo pháp Tạng giáo, giúp chúng sanh xa lìa sự bám chấp vào kiến hoặc, tư hoặc đó là thuyết giảng pháp Bồ Tát, giúp chúng sanh xa lìa sự bám chấp Niết-bàn; đó là thuyết giảng pháp Phật, giúp chúng sanh xa lìa sự bám chấp ưa muốn đối với pháp thuận đạo.

KINH VĂN

Vì sao vậy? Phương tiện, tri kiến ba-la-mật của đức Như Lai hết thảy đều trọn đủ. Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, không ngăn ngại, không thể suy lường, những phẩm tính lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát tam muội đều thâm nhập tận cùng, thành tựu hết thảy các pháp chưa từng có.

Từ câu “vì sao vậy” [trở đi] là giải thích cả hai trí quyền thật. Chữ “Như Lai” trong câu là giải thích về thật trí. Từ trong chân như thật tướng mà đến rồi thành tựu Phật đạo nên gọi là Như Lai. Đây là giải thích thành tựu thật trí. Chữ “phương tiện” là giải thích về quyền trí. Do nơi phương tiện thiện xảo nên mới có thể vận dụng đủ mọi nhân duyên. Kinh văn nói “tri kiến ba-la-mật” tức là cùng lúc nêu lên hai loại tri kiến quyền thật. Nhất thiết chủng trí [của chư Phật] gọi là rõ biết chân thật. Phật nhãn gọi là cái thấy chân thật. Đạo chủng trí gọi là sự rõ biết quyền biến. Pháp nhãn gọi là cái thấy quyền biến. Đạt đến tận cùng giới hạn của sự và lý nên gọi là ba-la-mật. [Kinh văn nói “hết thảy đều trọn đủ”, tức là chỗ rốt ráo của quyền thật. Nếu không nêu ý giải thích cả hai trí [quyền thật], đâu lẽ bỗng dưng lại nói “hết thảy đều”. [Cho nên] chữ “giai dĩ” là làm hiện rõ ý giải thích cả hai trí quyền thật.

Câu kinh “tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa” là tóm kết phần giải thích thêm cả hai trí quyền thật của Phật Thích-ca. “Tri kiến của Như Lai” là như trước đây đã nói. “Rộng lớn” là nêu rõ nghĩa rộng khắp, “sâu xa” là nêu rõ nghĩa xuyên suốt. Thật trí [của Như Lai] vốn chẳng thuộc về không gian hay thời gian, nhưng mượn ngôn từ để xưng tán nên phải luận rằng rộng khắp, xuyên suốt, soi chiếu cùng cực không có giới hạn, cũng như vật chứa càng lớn thì nắp đậy cũng càng lớn.

Từ câu “không ngăn ngại, không thể suy lường” trở đi là tóm kết về quyền trí. Pháp tự hành quyền biến là phương tiện trước khi vào đạo. Lược qua các pháp môn [ở đây] nên biết câu này rõ ràng tóm kết quyền trí, [bởi vì] thật trí không thể suy lường. Ngài Quang Trạch cho rằng câu này giải thích thật trí. Không chỉ riêng ngài Quang Trạch [nói như vậy là] chẳng hiểu gì về thật trí, mà [các bậc thầy] vào đời nhà Lương cũng đều không biết rằng trí tuệ vô ngại vốn không thể suy lường.

Kinh nói “không thể suy lường” tức là chỉ tứ vô lượng tâm của Phật, nói “không ngăn ngại” tức là tứ vô ngại biện (bốn biện tài không ngăn ngại) của Phật, đối với một từ ngữ, một ý nghĩa có thể ưa thích thuyết giảng thành vô số vô lượng [ý nghĩa] không cùng tận, nếu so với [năng lực của] các vị Bồ Tát Thông giáo, Biệt giáo thì chỉ như toàn cõi đất so với một chút đất trong móng tay.

Kinh nói “lực” tức là thập lực, nói “vô sở úy” tức là tứ vô sở úy, nói “thiền” tức là thật tướng của bậc thiền cao tột nhất, nói “định” tức là định Thủ-lăng-nghiêm, nói “tam-muội” tức là Vương Tam-muội.

Kinh nói “thâm nhập tận cùng” là tóm kết thành chỗ sâu xa xuyên suốt, nói “thành tựu hết thảy các pháp chưa từng có” là tóm kết thành sự ngang rộng trùm khắp.

KINH VĂN

Xá-lợi-phất! Như Lai có thể phân biệt mọi điều, khéo giảng thuyết các pháp, lời lẽ êm dịu uyển chuyển, làm vui lòng đại chúng. Xá-lợi-phất! Theo chỗ cốt yếu mà nói thì Phật đã thành tựu hết vô lượng vô biên các pháp chưa từng có.

Từ câu “Xá-lợi-phất! Như Lai có thể phân biệt mọi điều” trở đi, theo Cựu giải là tóm kết phần quyền thật ở trước, nay cho là mở ra phần muốn dứt tuyệt ngôn ngữ ở phía sau. Lại nêu nghĩa quyền thật là nguyên do dứt việc xưng tán.

Phần kinh văn này chia làm hai. Phần thứ nhất nêu nguyên do dứt việc xưng tán, phần thứ hai chỉ ra cảnh giới dứt tuyệt ngôn ngữ. Trịnh trọng, tức là biểu thị sự ân cần. “Như Lai có thể phân biệt mọi điều, khéo giảng thuyết các pháp”, đó là nêu quyền trí. “Lời lẽ êm dịu uyển chuyển làm vui lòng đại chúng”, đó là nêu thật trí.

Vì sao biết được như vậy? Vì như [kinh văn] phần trước đã nói về [chư Phật] ở quốc độ khác giảng thuyết pháp Đại thừa, rằng “âm thanh của Phật thanh tịnh, phát ra êm dịu uyển chuyển”, đến phần sau ngài Xá-lợi-phất sau khi nghe hiểu lại thưa rằng “Được nghe âm thanh êm dịu uyển chuyển của Phật, thật sâu xa và hết sức vi diệu.” Căn cứ vào hai đoạn kinh văn trước sau như vậy thì biết rõ là nêu lên thật trí.

Trong phần xưng tán ở trước thì trước xưng tán thật trí, sau xưng tán quyền trí. Nay [ở đoạn này] có hàm ý gì mà trước [xưng tán] quyền trí, sau xưng tán thật trí? Giải thích rằng, vì phần trước muốn mượn dùng ngôn ngữ, cho nên [bắt đầu] từ chỗ thật trí để mở ra nói về quyền trí, nay [trong phần này] muốn dứt tuyệt ngôn ngữ nên [bắt đầu] từ quyền trí để thâu tóm về thật trí.

Từ câu “Theo chỗ cốt yếu mà nói” là chỉ ra cảnh giới thật trí, vì “cốt yếu” là nói không gì có thể vượt hơn thật trí. “Vô lượng vô biên các pháp chưa từng có” là chỉ ra cảnh giới quyền trí.

Lại cũng giải rằng “cốt yếu” là đầu mối khai sáng, “vô lượng vô biên” là chỉ quyền trí, “các pháp chưa từng có” là chỉ thật trí. Nêu cả hai pháp [quyền thật] này để nói “Phật đã thành tựu hết”. Nhờ tu đạo mà chứng đắc nên những điều ấy làm sao có thể nói ra được? Nếu chỉ nêu một việc thì không thể nói là “thành tựu hết”, nay đã chỉ ra cả quyền và thật nên ý nghĩa này là sáng tỏ.

KINH VĂN

Thôi đi, Xá-lợi-phất! Không nên nói nữa. Vì sao vậy? Pháp mà Phật đã thành tựu cao tột khó hiểu ít có nhất, chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến chỗ rốt ráo.

Từ chữ “thôi đi” là phần thứ hai, tức là ý dứt tuyệt ngôn từ xưng tán.

Ấn sư dạy rằng: “[Đức Phật] bảo ‘thôi đi’ là muốn làm [cho đại chúng] khởi sinh lòng nghi mà thưa thỉnh.” Ngài Tuệ Quán nói: “Pháp chân thật khó rõ biết, nên trước hết ngăn dứt để làm cho kẻ tầm thường kinh sợ.”

Nay giải thích rằng, pháp này sâu xa, vắng lặng, dứt tuyệt đường ngôn ngữ, tánh thể ấy không thể giảng thuyết bằng lời, cho nên phải dứt lời để xưng tán. Ví như có vì lòng từ bi mà thuyết giảng thì người nghe cũng không thể hiểu, còn bị tổn thương căn lành, cho nên [Phật dạy] phải dứt lời.

Từ câu “vì sao vậy” trở đi là giải thích ý nghĩa việc dừng lại để xưng tán. Ý này lại chia thành hai phần. Thứ nhất, [chỉ ra rằng] đức Phật là bậc tối thượng, tu chứng thành tựu pháp tối thượng, cho nên không thể giảng nói. Thứ hai, nêu rõ cảnh giới hết sức sâu xa không thể nghĩ bàn, cho nên không thể giảng nói.

[Thứ nhất], từ câu “Pháp mà Phật đã thành tựu” trở đi, nêu rõ pháp quyền thật của bậc tối thượng là rộng khắp trọn vẹn nên không thể giảng nói. [Thứ hai], từ câu “chỉ Phật với Phật” trở đi, nêu rõ pháp quyền thật của bậc tối thượng là sâu xa xuyên suốt nên không thể giảng nói.

[Kinh văn nói] “thành tựu” trái ngược với không thành tựu, cho đến “khó hiểu” trái ngược với dễ dàng nhận hiểu, tức là làm sáng tỏ việc thành tựu theo ý nghĩa rộng khắp, do tu tập đạo pháp mà [tự mình] chứng đắc cho nên không thể giảng nói.

“Chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến chỗ rốt ráo.” Đó là nói [chư Phật thuyết pháp] lúc ban sơ và khoảng giữa, sự lợi lạc chưa đạt được đến tận cội nguồn, cũng giống như vào ngày 14 âm lịch thì ánh trăng [khuyết nên] còn chưa tỏa khắp. Riêng Phật với Phật mới đạt đến chỗ rốt ráo tận cùng của mọi giới hạn, giống như ánh trăng rằm, hình thể tròn đầy, ánh sáng chiếu khắp mọi nơi. Ý nghĩa thành tựu sâu xa xuyên suốt này là do tu tập đạo pháp mà [tự mình] chứng đắc nên không thể giảng nói.

KINH VĂN

Thật tướng của các pháp, đó là nói các pháp có tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, chỗ làm như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, từ gốc đến ngọn rốt ráo bình đẳng như vậy.

Từ câu “tướng thật của các pháp” trở đi tức là cảnh giới hết sức sâu xa, không thể nghĩ bàn, cho nên không thể giảng nói.

Ngài Quang Trạch nói: “Một câu đầu tiên nêu rõ hai trí. “Các pháp” là nêu cảnh giới của quyền trí. Cả ba pháp tam đều không phải một, cho nên nói là “các pháp”. Trong ba pháp [giáo, nhân, cơ] thì giáo là rõ rệt nhất. “Giáo” tất nhiên phải tùy nơi “cơ” nên vẫn có “nhân”. Do vậy mà biết ba pháp tam là thuộc về quyền trí. “Thật tướng” là cảnh giới của thật trí. Chỉ một lẽ thật không hư dối cho nên gọi là thật tướng. Trong bốn pháp nhất, hết thảy đều nêu lên một lý. Vì lý ấy là căn bản, cho nên là chân thật. Trong phần này có chín luận đề, giải thích lại hai nghĩa [quyền thật] đã nêu trên.

Năm luận đề đầu tiên giải thích nghĩa quyền. “Tướng như vậy” nghĩa là nói giáo pháp Tam thừa tuy bao quát nhưng có thể phân biệt. “Tánh như vậy” nghĩa là giáo tánh Tam thừa dù phân chia chẳng thể thay đổi. “Thể như vậy” là nói tám âm thanh [thuyết pháp] trong Tam thừa, mỗi âm đều có tự thể, còn giáo pháp của hàng Bồ Tát thì lấy sáu ba-la-mật làm thể. Đại lược là như vậy.

“Lực như vậy” là nói Tam thừa dùng sức dạy dỗ dẫn dắt. “Chỗ làm như vậy” là nói giáo pháp Tam thừa có chỗ tạo tác.

Phần nói rộng về cảnh giới của thật trí đã lược bớt để không trùng lắp rườm rà. Thật cảnh có bốn pháp nhất, dùng bốn pháp để nói rộng một lý. “Nhân như vậy” là cảnh sinh ra sự nhận hiểu chân thật là nguyên nhân, muôn điều lành đều hướng đến quả. “Duyên như vậy” là từ cảnh khởi phát thật trí làm duyên, dùng chỗ nhân hướng về làm quả, quả tương ứng với nhân là báo.

Hai luận đề cuối là tóm kết cả quyền và thật. Phần “từ đầu đến cuối” là tóm kết về quyền trí, trong đó “từ gốc” là nêu “hình tướng”, “đến ngọn” là nêu “hành vi”. Phần sau “rốt ráo bình đẳng” là tóm kết về thật trí, trong đó “rốt ráo” là tóm kết về nhân, “bình đẳng” là tóm kết về báo.

Các luận sư phái Địa luận ở phương bắc giải thích rằng: “Giáo pháp Tam thừa đều có đủ tướng tánh, quả báo, gốc ngọn.” Dao sư nói rằng: “Những tướng tánh như thế được giải thích ở đây là công năng soi chiếu của trí tuệ.” Tam thừa khởi lên khác biệt là tướng, rốt lại thành như vậy là tánh. Phát tâm là thể tùy theo tâm, sức kham nhẫn là lực. Chỗ tạo thành của lực, đó là tác. Do tạo tác chiêu cảm quả, đó là nhân. Nhân là nói việc đã thành, những gì thúc đẩy [việc ấy] là duyên. Duyên là nói lực [tác động từ] bên ngoài, rốt cùng tạo thành quả. [Quả] tương ứng với nhân là báo. Tướng là gốc, [là căn bản], báo là ngọn, [là quả phát sinh]. Hết thảy đều đồng nhất đi đến cứu cánh rốt ráo.

“Như vậy”, là nói sự việc đúng thật như vậy, không sai khác. Sướng sư lập luận chỉ căn cứ nơi quả vị Phật [không xét đến Tam thừa quyền biến]. Nói về tướng thì Thập lực [của Phật], mỗi lực đều có tướng mạo. Nói về tánh thì từ nơi các căn, mỗi căn đều có sự huân tập. Tập tánh không sửa đổi gọi là tánh, là cảnh giới của cả lực và tánh.

Nói về thể thì do căn tánh chẳng đồng nhau nên chỗ ham muốn cũng khác biệt. Vì nói lên chỗ trói buộc công năng của tâm nên lấy thể làm tên. Đây là cảnh giới [rốt ráo] của dục lực.

Lực là tên gọi khác của định. Các pháp thần thông biến hóa chuyển động, nếu không có định không thể vận dụng. Điều phục tâm, chế phục vọng loạn, nếu không có định thì không thể [đạt đến] vắng lặng. Cho nên lực là cảnh giới [rốt ráo] của thiền định.

Tạo tác, đó là nghiệp, tức là cảnh giới của nghiệp lực. Nói về nhân thì tu đạo là nhân có thể đưa đến Niết-bàn, tức đến chỗ cảnh giới [rốt ráo] của đạo lực. Duyên, nghĩa là cảnh giới duyên theo [nghiệp] lực đã tạo trong đời trước. Quả, nghĩa là dựa vào nhân tạo ra hiện nay mà chiêu cảm quả trong tương lai, là cảnh giới [rốt ráo] của lực thiên nhãn [có thể nhìn thấy]. Báo, nghĩa là báo ứng hiện nay dựa trên nhân đã tạo trong quá khứ, là cảnh giới [rốt ráo] của lậu tận lực. Cho nên nói báo tức là lậu tận.

Bản là tướng, [là gốc], mạt là báo, [là ngọn]. Nhìn chung đều thuộc về cảnh giới của xứ phi xứ lực.

Những cách giải thích như trên tuy chẳng phải là không nhất quán, nhưng xét về lý thì không thông suốt, xét về văn thì không thỏa đáng. Xét về văn không thỏa đáng, là vì kinh văn đã nói “các pháp” thì pháp nào lại chẳng bao gồm, lẽ nào lại chỉ dừng ở [các pháp thuộc] Tam thừa? Xét về lý không thông suốt, là vì kinh văn nói “thật tướng” thì có nơi nào mà không tồn tại, đâu chỉ ở nơi thể của nhân quả? Nếu thật trí chỉ riêng ở nơi Phật, thì Phật ấy hẳn không có quyền trí. Nếu quyền trí chỉ riêng ở nơi Tam thừa, thì Tam thừa hẳn vĩnh viễn không bao giờ có thật trí. Nếu nói [giáo pháp] Tam thừa chỉ có năm [câu “như thị”] thì pháp quyền không đầy đủ, lại hoàn toàn không có pháp thật. Nếu nói bốn câu [như thị] chỉ ở nơi Phật, thì Phật hoàn toàn không có quyền, pháp thật lại cũng không đầy đủ. Ý nghĩa như vậy không liên quan gì đến phàm phu, nên kinh văn nói “chư pháp” là không thể vận dụng. [Như vậy là] thật tướng không biến hiện khắp, mà ngoài thật tướng lại còn riêng có pháp khác.

Do có những lỗi như thế nên [cách giải thích trên] không vận dụng được.

Trong [Pháp Hoa] luận thích, quyển 34, có giảng rõ rằng hết thảy các pháp, mỗi pháp đều có 9 loại [tính chất].

- Thứ nhất là mỗi pháp đều có thể riêng.

- Thứ hai là mỗi pháp đều có pháp riêng, như mắt và tai tuy có điểm giống nhau là đều do bốn đại hợp thành, nhưng mắt thì nhìn thấy, còn tai không thể thấy; như lửa thì có sức nóng là pháp riêng mà không thể thấm ướt...

- Thứ ba là mỗi pháp đều có năng lực riêng, như lửa lấy sức thiêu đốt làm năng lực, nước lấy sức thấm ướt làm năng lực.

- Thứ tư là mỗi pháp đều có nhân [tạo thành].

- Thứ năm là mỗi pháp đều có duyên.

- Thứ sáu là mỗi pháp đều có quả.

- Thứ bảy là mỗi pháp đều có tánh.

- Thứ tám là mỗi pháp đều có giới hạn ngăn ngại.

- Thứ chín là mỗi pháp đều có phương tiện khai thông.

Ngài Đạt-ma-uất-đa đem 9 loại [tính chất này của các pháp] để so sánh tương hợp với mười như [thị] trong kinh Pháp Hoa.

Mỗi pháp đều có pháp riêng, tức là hợp với “như thị tác” trong kinh Pháp Hoa.

Mỗi pháp đều có giới hạn ngăn ngại, tức là hợp với “như thị tướng” trong kinh Pháp Hoa.

Mỗi pháp đều có quả, tức là hợp với “như thị quả, như thị báo” trong kinh Pháp Hoa.

Mỗi pháp đều có phương tiện khai thông, tức là hợp với “như thị bản mạt cứu cánh đẳng” trong kinh Pháp Hoa.

Những pháp còn lại đều cùng tên [với các “như thị”] nên có thể nhận hiểu được.

Nay giải thích rõ văn cảnh này chia làm hai phần. Phần đầu có một câu, lược nêu chung về quyền thật, rõ ràng như ý văn. Phần tiếp theo 10 câu, giảng rộng về tướng của quyền thật. Việc giải thích sẽ chia thành bốn ý. Thứ nhất là vận dụng mười pháp giới để giải thích, thứ hai là vận dụng Phật pháp giới để giải thích, thứ ba là vận dụng ý nghĩa khai hợp để giải thích và thứ tư là vận dụng theo giai vị để giải thích.

[Trước hết,] kinh văn dùng “các pháp” nên vận dụng mười pháp giới để giải thích. Kinh văn nói “Pháp mà Phật đã thành tựu cao tột khó hiểu ít có nhất” nên vận dụng Phật pháp giới để giải thích. Kinh văn [phần sau] nói “thôi thôi không nói nữa, diệu pháp khó nghĩ bàn” nên vận dụng ý nghĩa khai hợp để giải thích. Kinh văn nói “chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến chỗ cùng tận” nên vận dụng các giai vị để giải thích.

1. Giải thích theo mười pháp giới

Đây là nói sáu cõi phàm, bốn cõi thánh, cộng thành mười pháp giới. Tuy có vô số các pháp nhưng vẫn không vượt ngoài số mười. Trong mỗi cảnh giới tuy lại có nhiều phân nhánh nhưng vẫn không ra ngoài Thập như. Ví dụ như trong cảnh giới địa ngục, ngay đó đã có đủ tướng, tánh, bản mạt [của địa ngục], lại cũng có đủ tướng, tánh, bản, mạt của cảnh giới súc sinh, cho đến có đủ tánh, tướng, bản, mạt của Phật pháp giới, không hề thiếu bớt. Cho nên, trong luận A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa, quyển 7 nói rằng: “Trong cõi địa ngục thành tựu pháp cõi trời Tha hóa Tự tại.” Chỉ nêu một việc để làm thí dụ, chín pháp giới khác cũng đều như vậy. Nên biết rằng trong mỗi một pháp giới đều có đủ chín pháp giới [khác] với mười như thị. Nếu nhìn từ địa vị của chín pháp giới thì mười như thị đều gọi là quyền. Nếu nhìn từ địa vị của Phật pháp giới thì mười như thị đều là thật. Trong một pháp có đủ vô lượng pháp, trong vô lượng pháp đều có đủ một pháp, cho nên gọi là không thể nghĩ bàn.

Nếu nhìn từ [chín cõi] sáu phàm ba thánh thì năm pháp như [trong câu kinh này] là quyền. Nếu nhìn từ pháp giới Phật thì bốn pháp như [trong câu kinh này] đều là thật. Nếu phân tích tầng tầng lớp lớp như vậy thì ý nghĩa này có thể thuyết giảng, có thể chỉ bày, đâu phải đợi [đức Như Lai bảo] “thôi thôi đừng nói” để xưng tán.

Đó là vì tuy trong một pháp có vô lượng pháp, nhưng phàm phu dù dứt hết lý mà còn mê nơi tình, hàng Nhị thừa tuy đã xả ly mà còn mong cầu giải thoát, hàng Bồ Tát tuy sáng suốt soi chiếu mà chưa cùng khắp nên gọi là chưa sáng tỏ rốt ráo, đức Như Lai thấu triệt cùng khắp, đầy đủ rộng lớn xuyên suốt, chỉ riêng tự mình sáng tỏ rõ biết hết thảy những điều người khác không thể nhìn thấy, không thể thuyết giảng, không thể chỉ bày. Cho nên Phật dạy “thôi thôi đừng nói” là do nghĩa này. Trong Pháp Hoa huyền nghĩa đã có nói, ở đây [chỉ lược nói một phần] không ghi chép lại tất cả.

2. Giải thích theo Phật pháp giới

Cảnh giới Phật chẳng phải tướng cũng chẳng phải không tướng, nên gọi là “tướng như vậy”. Đây là chỉ nhân [thành tựu] muôn duyên lành, nên kinh văn phần sau nói “chúng bảo trang hiệu” (trang sức bằng các loại châu báu), chính là nói nghĩa này.

Cảnh giới Phật chẳng phải tánh cũng chẳng phải không phải tánh, nên gọi là “tánh như vậy”. Đây là chỉ nhân [thành tựu] trí tuệ rốt ráo, nên kinh văn phần sau nói “hữu đại bạch ngưu” (có trâu trắng lớn).

Cảnh giới Phật chẳng phải có thể cũng chẳng phải không thể, nên gọi là “thể như vậy”. Đây là chỉ chánh nhân của thật tướng, nên kinh văn phần sau nói “kỳ xa cao quảng” (xe ấy cao rộng).

Cảnh giới Phật chẳng phải có sức lực cũng chẳng phải không sức lực, nên gọi là “lực như vậy”. Đây là chỉ từ lực, thiện lực, căn lực v.v... của tâm Bồ-đề, nên kinh văn phần sau nói “hựu ư kỳ thượng trương thiết hiển cái” (lại dùng màn trướng che phủ bên trên).

Cảnh giới Phật chẳng phải tạo tác cũng chẳng phải không tạo tác, nên gọi là “chỗ làm như vậy”. Đây là chỉ cho đạo không dụng công, tùy thời vận hành, nên kinh văn phần sau nói “kỳ tật như phong” (nhanh như gió thổi).

Cảnh giới Phật chẳng phải do nhân cũng chẳng phải không do nhân, nên gọi là “nhân như vậy”. Đây là chỉ 41 giai vị [của hàng Bồ Tát], nên kinh văn phần sau nói “thừa thị bảo xa du ư tứ phương” (ngồi trên xe báu rong chơi bốn phương).

Cảnh giới Phật chẳng phải do duyên cũng chẳng phải không do duyên, nên gọi là “duyên như vậy”. Đây là chỉ hết thảy các pháp trợ đạo Bồ-đề, nên kinh văn phần sau nói “hựu đa bộc tùng nhi thị vệ chi” (lại có nhiều người hầu đi theo hầu hạ).

Cảnh giới Phật chẳng phải có quả cũng chẳng phải không có quả, nên gọi là “quả như vậy”. Đây là chỉ tánh giác nhiệm mầu sáng tỏ rõ ràng đạt được do nhân viên mãn, nên kinh văn phần sau nói “trực chí đạo trường” (thẳng đến đạo tràng).

Cảnh giới Phật chẳng phải có báo cũng chẳng phải không có báo, nên gọi là “báo như vậy”. Đây là chỉ sự rốt ráo thể nhập Niết-bàn, nên kinh văn phần sau nói “đắc vô lượng vô lậu thanh tịnh chi quả báo” (được vô lượng quả báo thanh tịnh vô lậu).

Quả vị Phật không phải bản (gốc) không phải mạt (ngọn) mà nói là bản mạt. Bản là tướng của Phật, mạt là báo của Phật, tức là pháp quyền tự hành.

Cảnh giới Phật chẳng phải bình đẳng cũng chẳng phải không bình đẳng mà nói là “rốt ráo bình đẳng”. Đây là chỉ thật tướng, nên [kinh văn] nêu rõ “thật tướng”, tức là pháp thật tự hành.

Ngay nơi thật là quyền nên nói là “bản mạt”, ngay nơi quyền là thật nên nói là “đẳng”. Đây là pháp tự hành quyền thật của Như Lai, là pháp cao trổi nhất không gì hơn được, tướng không gì hơn cho đến quả báo không gì hơn, rộng khắp xuyên suốt không gì hơn được. Cho nên [kinh văn] nêu rõ là “thật tướng của các pháp”. Theo lệ thường thì lẽ ra phải nói cả “chư pháp thật tánh, chư pháp thật thể, chư pháp thật lực”, cho đến phải nói cả “chư pháp thật cứu cánh đẳng”, nhưng nay chỉ lược nêu một việc để bao quát hết thảy.

Đức Như Lai soi chiếu rộng khắp xuyên suốt thấu đáo như nhìn quả [am-ma-lặc] trong lòng bàn tay. Nhưng chỉ vì [đối với sự thấy biết của Như Lai thì] những kẻ phàm phu như mù hai mắt, hàng Nhị thừa như chột một mắt, hàng Bồ Tát như người đi đêm chỉ thấy được lờ mờ không rõ, nên không thể nói ra được. Ý nghĩa Phật dạy “thôi thôi không nên nói” là ở chỗ này.

3. Giải thích theo ý nghĩa khai hợp

Nếu quán chiếu từ nơi tâm Phật thì mười pháp giới, mười như thị đều là tướng vô thượng, không gì hơn được, cho đến quả báo cũng không gì hơn, chỉ là một pháp giới Phật như biển lớn gồm thâu hết thảy muôn dòng nước, như ngàn cỗ xe [đi qua trên đường để lại] cùng một dấu vết. Đây là pháp tự hành quyền thật.

Nếu thuận theo tâm ý chúng sanh thì có đủ tánh, tướng v.v... của mười như thị trong chín pháp giới. Đây là pháp hóa tha quyền thật.

Pháp hóa tha tuy cũng có thật nhưng đều được xem là quyền, pháp tự hành tuy cũng có quyền nhưng đều được xem là thật. Đây là pháp tự hành hóa tha quyền thật.

[Pháp] thuận theo tâm ý chúng sanh thì khai (mở ra), pháp tự [vận hành] thì hợp, rộng khắp xuyên suốt, thấu đáo cùng cực, khai hợp tùy ý tự tại. Tuy khai vô lượng [pháp], vô lượng [pháp] nhưng là một; tuy hợp [thành] một [pháp], một [pháp nhưng] là vô lượng [pháp]. Tuy là vô lượng, là một nhưng không phải vô lượng, không phải một. Tuy không phải một, không phải vô lượng nhưng là một, là vô lượng. Chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến cùng tận rốt ráo. Những kẻ phàm phu ắt là không tin, sinh lòng chê bai phỉ báng; hàng Nhị thừa ắt mê muội không tin nhận; hàng Bồ Tát thì bụi trần che lấp chưa sáng tỏ. Do nghĩa này nên [Phật dạy] “thôi thôi không nên nói”. Đại lược là như thế.

4. Giải thích theo giai vị

“Tướng như vậy”, tức là hết thảy chúng sanh đều có tướng thật, vốn xưa nay tự có, đó chính là tướng mạo của tạng Như Lai.

“Tánh như vậy”, tức là tánh đức trí tuệ, là nghĩa không đệ nhất.

“Thể như vậy”, tức là lý pháp tánh trung đạo, là tam đức mà trong khắp mười pháp giới, hết thảy mọi giai vị đều có đủ.

Nếu phân tích kỹ về tam đức thể nhập vào các giai vị Thập tín thì gọi là “như thị lực, như thị tác”. Nếu thể nhập 41 giai vị thì gọi là “như thị nhân, như thị duyên”. Nếu thành tựu quả Phật thì gọi là “như thị quả, như thị báo”. Ba tên trước gọi là “bản”, ba tên sau gọi là “mạt”. Trước hay sau cũng đều là tam đức, cho nên nói “rốt ráo bình đẳng”. Ở giai vị đầu, tam đức này thiện ác đều có, hiền thánh giống nhau, lớn nhỏ không khác, từ khởi thủy đến tận cùng không thay đổi. Tam đức này ở trong cảnh giới ác mà không chìm xuống, ở trong cảnh giới thiện mà không tăng lên; ở nơi bậc hiền không thấp, ở nơi bậc thánh không cao; tuy ở nơi nhỏ hẹp cũng không chật chội, ở nơi to lớn cũng không rộng rãi; dù ở chỗ khởi đầu cũng không phải mới, dù ở nơi tận cùng cũng chẳng phải cũ. Vì thế không thể nghĩ bàn, không thể giảng nói, cho nên [Phật dạy] “thôi thôi không nên nói”.

Lại nữa, tam đức rốt ráo đều như nhau [có nghĩa là], trong mười pháp giới, hết thảy tướng tánh, quyền thật, khai hợp... dù sai biệt đến đâu, khi dùng trí tuệ lớn lao bình đẳng mà quán chiếu thì rốt ráo cũng đều bình đẳng như nhau.

Nếu mê nơi cảnh giới này thì có tướng tánh trong sáu cõi, gọi là thế tục đế.

Nếu hiểu rõ cảnh giới này thì có tướng tánh Nhị thừa, gọi là chân đế.

Đối với chỗ này không mê cũng không rõ, liền có tánh tướng trong cảnh giới Bồ Tát và Phật, gọi là trung đạo đệ nhất nghĩa đế.

Nếu dùng trí tuệ này, đồng như tục đế, thì tục đế chẳng phải mê, đồng như chân đế, thì chân đế không phải rõ biết, không phải rõ biết cũng không phải mê, cả mê muội hay rõ biết đều không, chỉ gọi là bình đẳng. Nếu cùng lúc soi chiếu cả hai thì quyền tức là thật, thật tức là quyền, tuy hai mà chẳng phải hai, cũng gọi là “rốt ráo bình đẳng”.

Lại nữa, quyền thật không phải hai cảnh giới. [Hành giả ở] bảy giai vị phương tiện không có khả năng dùng trí bất nhị [để quán sát] cảnh bình đẳng bất nhị, chỉ riêng chư Phật mới có thể dùng trí bất nhị [quán sát] cảnh bình đẳng cảnh, cho nên nói là “rốt ráo bình đẳng”.

Lại nữa, nay cơ duyên Đại thừa đã đến, nên không giảng về tánh tướng của chín pháp giới mà nói thẳng rằng hết thảy tánh tướng đều thể nhập vào tánh tướng của pháp giới Phật. Các giáo pháp trước đây không thuyết dạy [như vậy], nghĩa là nói giáo pháp trước đây không đồng với giáo pháp bây giờ. Nay thuyết dạy [giáo pháp này rồi] thì biết xưa với nay cũng đồng như nhau. Do vậy nói là “rốt ráo bình đẳng”.

[Như vậy, trên đây luận nghĩa “rốt ráo bình đẳng” theo ba phương diện.] Trước tiên dựa vào chỗ mê muội hay rõ biết, tiếp theo dựa vào [năng lực nhận thức mê ngộ của] người, và cuối cùng dựa vào giáo pháp [thuyết dạy trước sau]. Điều này nói ra rất rộng, người ghi chép không có khả năng bao quát hết.

Nếu lấy sự dứt tuyệt ngôn ngữ, vắng bặt tư duy để làm rõ nghĩa không thể nghĩ bàn, thì như trong sách [Pháp Hoa] luận thích quyển 79 có nói: “Không thể nghĩ bàn, đó là [nói pháp] không có tính nhất định, vượt ngoài hết thảy các pháp tâm, tâm sở, vượt ngoài hết thảy ngôn ngữ, không thể thi hành, không thể đạt đến, cho nên gọi là không thể nghĩ bàn.”

Nếu dùng thí dụ để làm rõ nghĩa không thể nghĩ bàn thì như trong sách Pháp Hoa luận thích, quyển 14 có nói: “Chẳng phải dùng hình sắc hư hoại mà có thể hướng đến đạo bình đẳng. Quán chiếu hình sắc không khác biệt mới có thể bình đẳng nơi Đại thừa. Như sáng với tối hòa hợp cùng nhau, do người không thấy được [lẽ đó mà] cho rằng sáng với tối khác nhau. Nếu muốn rõ biết nghĩa này, [hãy quan sát] như ánh sáng của mặt trăng, lại như khi mặt trời mọc thì bóng tối cũng chẳng phải chạy mất về mười phương, mà bóng tối vẫn thường ở đó, chẳng đi đâu cả. Ánh sáng cũng giống như vậy, [vẫn thường ở đó], cùng với bóng tối hòa hợp [cùng hiện hữu]. [Cũng vậy], sanh tử với Đạo cùng hòa hợp, Đạo cũng chính là sanh tử. Những gì mà đức Phật [cần] dứt trừ đã dứt trừ, [cần] vượt qua đã vượt qua, hết thảy đều không thể nghĩ bàn.” Thí dụ này được dùng rất nhiều trong các kinh luận.

Nếu dùng sự việc [để nêu nghĩa] không thể nghĩ bàn thì như trong kinh A-hàm nói rõ có bốn việc không thể nghĩ bàn. Đó là chúng sanh, thế giới, loài rồng và Phật.

Chúng sanh từ đâu đến và sẽ đi về đâu? Vì đâu mà có sanh, vì đâu mà có chết?

Thế giới là hữu biên (có biên giới cùng tận) hay vô biên (không cùng tận)? Là có thể đoạn trừ hay không thể đoạn trừ? Là do trời, rồng, người, quỷ hay ai đã tạo ra?

Kinh A-hàm nói rằng, có một người ở thành Vương Xá, ngồi bên bờ hồ Câu-hy-la suy nghĩ về việc thế gian có cùng tận hay không cùng tận, bỗng thấy bốn đạo quân binh kéo nhau chui vào một lỗ trống nhỏ trong ngó sen, liền hết sức kinh sợ, tự nghĩ mình phát điên rồi chăng, vì thế gian không thể có [chuyện quái lạ này, chắc mình đã bị] điên cuồng [nên mới nhìn thấy như vậy]. [Ông liền tìm đến] thưa hỏi Phật. Phật dạy, không phải ông điên cuồng, [đó là chuyện thật], là quân binh A-tu-la [đánh nhau với] chư thiên thua chạy nên lui về trốn vào trong lỗ ngó sen ấy.

[Những suy nghĩ như trên], đức Phật dạy rằng, đó chỉ là cách nghĩ của thế gian, chẳng phải đạo Niết-bàn, chẳng có ý nghĩa lợi lạc, chẳng có pháp lợi lạc, chẳng có hạnh thanh tịnh lợi lạc. Đại lược là như vậy.

Về loài rồng, khi làm mưa là từ nơi miệng rồng, hay từ nơi tai, mắt, mũi, lưỡi? Thật ra đều không phải từ tất cả những chỗ ấy, chỉ là từ ý nghĩ [của rồng] mà có mưa, dù suy nghĩ việc thiện hay suy nghĩ việc ác cũng đều có thể hóa ra mưa. [Điều này là] do những việc [rồng] đã làm trong đời trước mà nay có được năng lực như vậy. Trong lòng núi Tu-di có vị trời tên là Đại Lực, cũng có khả năng làm mưa.

Lại nữa, trong năm cảnh giới, mỗi một cảnh giới đều có một điều không thể nghĩ bàn. [Như cảnh giới] địa ngục có [sự sống] dứt rồi lại nối. Súc sanh có loài biết bay. Loài quỷ cũng có thể biến hóa vật ít thành nhiều. Loài người có thể nhen lửa đốt củi. Chư thiên có thể tự nhiên được hưởng phước báo. Hết thảy đều là những quả báo [vận hành của] pháp không thể nghĩ bàn. Đại lược là như vậy.

Như trên là dựa vào những sự việc nhân duyên [thường tình] để giải thích ý nghĩa không thể nghĩ bàn, huống chi là những cảnh giới sâu xa, lẽ nào lại không phải là không thể nghĩ bàn?

Giải thích phần kệ tụng

Phần kệ tụng có 21 khổ kệ [bốn câu], chia làm hai phần. Phần đầu gồm 17 bảy khổ rưỡi là tụng lại [ý nghĩa của] phần văn trường hàng. Phần sau gồm 3 khổ rưỡi [là ý nghĩa] lược nói về trừ bỏ ba thừa, hiển lộ nhất thừa và nói việc tâm bám chấp khởi lên sinh ra nghi ngờ.

Phần đầu [trùng tuyên ý nghĩa văn trường hàng] lại cũng chia làm hai. Trước tiên là 4 khổ, tụng lại về ý nghĩa dùng ngôn từ xưng tán [hai trí quyền thật]. Sau đó là 13 khổ rưỡi, tụng lại về ý nghĩa dứt tuyệt ngôn ngữ để xưng tán.

Nhìn chung hai phần kệ tụng và văn trường hàng có đủ nội dung nói rộng và nói lược, hỗ tương cho nhau, làm cho ý nghĩa dễ hiển bày. Văn trường hàng nêu lên xưng tán hai trí quyền thật của cả chư Phật và Phật Thích-ca, biểu hiện cho nhân duyên giáo hóa khác nhau. Trong phần kệ tụng thì hợp chung lại xưng tán, để chỉ ra rằng hai trí [quyền thật] cũng đồng một lý như nhau.

KINH VĂN

Bấy giờ đức Thế Tôn muốn nhắc lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Bậc Thế Hùng khôn lường,
Chư thiên và nhân loại,
Cùng các loài chúng sanh,
Đều không thể hiểu Phật.
Phật lực, vô sở úy,
Giải thoát, các tam-muội,
Các pháp khác của Phật,
Đều không thể suy lường.
Từng theo vô số Phật,
Tu hành đủ các pháp,
Rất sâu xa nhiệm mầu ,
Khó thấy, khó rõ biết.
Trong vô số ức kiếp,
Đã tu các phẩm đạo,
Chứng quả nơi Đạo trường,
Ta đều rõ biết hết.

 Phần [4 khổ kệ] dùng ngôn từ xưng tán lại được chia làm hai đoạn. [Đoạn thứ nhất gồm] hai khổ kệ đầu hợp tụng nhị trí của chư Phật nói chung. [Đoạn thứ hai gồm] hai khổ kệ sau hợp tụng chư Phật, xưng tán, giải thích và tóm kết ý nghĩa xưng tán.

 Đoạn thứ nhất lại chia thành hai tiểu đoạn.

 [Tiểu đoạn thứ nhất, nay xét] phần đầu một câu “Bậc Thế hùng khôn lường” là tụng lại ý nghĩa “trí tuệ của chư Phật” trong văn trường hàng ở trên. “Khôn lường” hay không thể suy lường là tụng lại nghĩa “rất sâu xa không thể suy lường” [trong văn trường hàng] ở trên. Nguyên câu này là xưng tụng thật trí của chư Phật.

Ba câu kế tiếp [của đoạn đầu] là tụng lại ý nghĩa xưng tụng quyền trí của chư Phật [trong văn trường hàng].

Trong đoạn đầu, xét có ba điểm khác biệt.

Thứ nhất là trong văn trường hàng ở trên có nói về người lại nêu cả pháp, cho nên nói là “trí tuệ của chư Phật. Nay trong phần kệ tụng này chỉ nói về người, dùng người để ca ngợi pháp, cho nên nói là “bậc Thế hùng”.

Thứ hai là trong văn trường hàng nói mở ra để xưng tán, nay trong kệ tụng này thì hợp lại để xưng tán. Vì trên có nêu riêng pháp nên cần mở ra; vì kệ tụng nêu người để nói chung nên cần hợp lại.

Thứ ba là trong văn trường hàng nói tất cả Nhị thừa đều không thể biết, nay trong kệ tụng này nói hết thảy các loài chúng sanh đều không thể biết.

 [Tiểu đoạn thứ hai] từ chữ “Phật lực” trở đi sau đó một khổ kệ là xưng tán hai trí quyền thật của đức Phật Thích-ca. Chữ “Phật” là tụng lại ý nghĩa “Ta từ khi thành Phật đến nay” trong văn trường hàng. Đây chính là xưng tụng thật trí. [Tiếp theo nói] “lực, vô sở úy...” là xưng tụng những công đức [của Phật]. Đây là xưng tụng quyền trí. [Lại nói] “các pháp khác” tức là chỉ các pháp quyền hóa tha, là những pháp khác để giúp vào thật trí. Đây chính là tụng lại ý nghĩa “đủ mọi nhân duyên” trong phần văn trường hàng. Đại lược là như thế.

 [Đoạn thứ hai] từ câu “Từng theo...” trở đi sau đó hai khổ kệ là hợp tụng chư Phật, gồm đủ các ý giải thích, xưng tán và tóm kết ý xưng tán. Hai câu “Từng theo vô số Phật, tu hành đủ các pháp” là tụng lại ý nghĩa giải thích xưng tán chư Phật trong phần văn trường hàng, tức là câu văn “Phật từng thân cận trăm ngàn muôn ức vô số chư Phật, tu hành hết thảy vô số đạo pháp của chư Phật”.

Câu kệ “Rất sâu xa nhiệm mầu” là tụng lại câu kinh văn tóm kết phần xưng tán thật trí: “Thành tựu pháp rất sâu xa, chưa từng có.”

Câu kệ “khó thấy, khó rõ biết” là tụng lại phần tóm kết ý nghĩa xưng tán quyền trí trong văn trường hàng nói “ý nghĩa khó hiểu được”.

Hai câu “Trong vô số ức kiếp, đã tu các phẩm đạo” là tụng lại ý nghĩa trong văn trường hàng giải thích về đức Phật Thích-ca “các tri kiến, pháp ba-la-mật đều đã đầy đủ”. Hai câu kệ trên nói về nhân đầy đủ, một câu kệ dưới “Chứng quả nới Đạo trường” là nói quả thành tựu đầy đủ. Câu kệ [cuối cùng của đoạn này] “Ta đều rõ biết hết” là tụng lại ý nghĩa phần tóm kết về hai trí quyền thật của đức Phật Thích-ca, tức là câu kinh văn “Tri kiến của đức Như Lai rộng lớn sâu xa...”

Cũng có khi 4 khổ kệ [vừa giải thích trên] được cho là hợp tụng về nghĩa quyền thật của chư Phật trong văn trường hàng. [Theo cách giải thích đó thì] phần này được chia làm sáu ý.

 Thứ nhất là câu “Bậc Thế hùng khôn lường” xưng tán chung hai trí quyền thật của chư Phật.

 Thứ hai, 3 câu tiếp theo từ chữ “chư thiên” trở đi là nói nghĩa chọn lọc [loại ra những chúng sanh không rõ biết]...

 Thứ ba, một khổ kệ bắt đầu từ “Phật lực...” trở đi, tụng lại ý nghĩa giải thích quyền thật của đức Phật Thích-ca.

 Thứ tư, một khổ kệ bắt đầu từ “Từng theo...” trở đi, tụng lại ý nghĩa giải thích quyền thật của chư Phật.

 Thứ năm, hai câu bắt đầu từ “Trong vô số ức kiếp...” trở đi, tụng lại ý nghĩa các nhân tu hành [của Phật].

 Thứ sáu, hai câu bắt đầu từ “Chứng quả nơi Đạo trường...” trở đi, tụng lại ý nghĩa thành tựu quả Phật [trong văn trường hàng].

KINH VĂN

Quả báo lớn lao ấy,
Đủ mọi nghĩa tánh tướng,
Ta với mười phương Phật,
Mới có thể rõ biết.
Pháp không thể chỉ bày,
Tướng ngôn ngữ dứt bặt.

 Từ câu “Quả báo lớn lao ấy” trở đi là phần thứ hai gồm 13 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa dứt tuyệt ngôn ngữ trong văn trường hàng. Phần này chia làm 5 đoạn.

 Đoạn thứ nhất gồm hai câu, bắt đầu từ “Quả báo lớn lao ấy...” trở đi là tụng ý nghĩa cảnh giới không thể nghĩ bàn. Chỉ nêu [ý nghĩa] đầu và cuối, khoảng giữa [người nghe] có thể tự rõ biết. Chữ “nghĩa” là kiêm tụng ý nghĩa “cứu cánh bình đẳng”. Các chữ “lớn lao” và “đủ mọi” thì như trong Pháp Hoa huyền nghĩa đã giảng giải.

 Đoạn thứ hai gồm hai câu, bắt đầu từ “Ta với mười phương chư Phật” là tụng lại ý nghĩa của đoạn văn trường hàng “Nói theo chỗ cốt yếu... ...Phật đều thành tựu hết”.

 Đoạn thứ ba gồm hai câu, bắt đầu từ “Pháp không thể chỉ bày” trở đi là tụng lại ý nghĩa “thôi không nên nói nữa” trong văn trường hàng. Thật tướng không có phương hướng, nơi chốn, cho nên không thể chỉ bày; không còn ngôn ngữ nên nói “tướng ngôn ngữ dứt bặt”.

KINH VĂN

Các loài chúng sanh khác,
Không thể nào hiểu được,
Trừ các vị Bồ Tát,
Với đức tin kiên cố.
Chúng đệ tử của Phật,
Từng cúng dường chư Phật,
Đã dứt sạch lậu hoặc,
Trụ nơi thân cuối cùng,
Dù những bậc như vậy,
Vẫn không sức thọ nhận.
Nếu người khắp thế gian,
Đều như Xá-lợi-phất,
Dùng hết sức suy lường,
Cũng không rõ trí Phật.
Ví như khắp mười phương,
Đều như Xá-lợi-phất,
Cùng các đệ tử khác,
Tràn ngập khắp mười phương,
Cùng hết sức suy lường,
Cũng không thể rõ biết.

 Đoạn thứ tư, từ câu “Các loài chúng sanh khác” trở đi, nêu ra những người không có khả năng rõ biết, [đồng với] trong văn trường hàng nói không có người rõ biết nên dừng lại không nói. Đoạn này có 10 khổ rưỡi kệ, [gồm 42 câu], nêu ra những người không [có khả năng] rõ biết [pháp này], lại chia làm 8 tiểu đoạn.

 Tiểu đoạn thứ nhất, gồm 2 câu, nói tổng quát loại ra những hạng người không có khả năng vào được pháp này, tức là [các hành giả] ở 7 giai vị phương tiện.

 Tiểu đoạn thứ hai, gồm 2 câu, từ chữ “trừ các vị Bồ Tát...” trở đi, chọn nêu ra những người có khả năng vào được pháp này, tức là các giai vị Thập tín của Viên giáo, cho nên nói “đức tin kiên cố”. Trong văn trường hàng nói Phật rõ biết rốt ráo, trong kệ tụng này nói giai vị Sơ tín rõ biết, đó là hỗ tương cho nhau [để nêu đầy đủ].

 Tiểu đoạn thứ ba, gồm 6 câu, từ “chúng đệ tử của Phật...” trở đi, tuyển chọn loại ra hàng Nhị thừa không có khả năng rõ biết.

 Tiểu đoạn thứ tư, gồm 4 câu, từ “nếu người khắp thế gian...” trở đi, nêu ra ngài Xá-lợi-phật [làm ví dụ để nói chung những người] không có khả năng rõ biết [pháp này].

 Tiểu đoạn thứ năm, gồm 6 câu, từ “ví như khắp mười phương...” trở đi, [tiếp tục] nêu các vị đại đệ tử [Thanh văn cũng đều không có khả năng rõ biết pháp này].

KINH VĂN

Phật Bích-chi trí sáng,
Bậc Vô lậu thân cuối,
Cũng đầy khắp mười phương,
Số nhiều như tre rừng,
Như vậy cùng chuyên tâm,
Trong vô số ức kiếp,
Muốn suy biết trí Phật,
Cũng không biết được gì.
Bồ Tát mới phát tâm,
Cúng dường vô số Phật,
Rõ biết các ý nghĩa,
Lại khéo thuyết giảng pháp.
Nhiều như lúa, mè, tre...
Đầy khắp cõi mười phương,
Chuyên tâm dùng trí mầu,
Trong Hằng sa số kiếp,
Cùng chung sức suy lường,
Không thể rõ trí Phật.

 Tiểu đoạn thứ sáu, gồm 8 câu, từ “Bích-chi Phật” trở đi, nêu các vị Bích-chi Phật [cũng không có khả năng rõ biết pháp này].

 Tiểu đoạn thứ bảy, gồm 10 câu, từ “tân phát ý” trở đi, nêu ra các vị Bồ Tát [ở giai vị] phát tâm không có khả năng vào được [pháp này]. “Phát tâm” là từ ngữ thông dụng, hoặc có thể chỉ hàng Bồ Tát tu tập sáu ba-la-mật trong thời gian ba a-tăng-kỳ [kiếp] còn chưa đoạn trừ được mê hoặc, gọi là phát tâm, hoặc cũng có thể chỉ hàng trời, người nhờ tự nhiếp phục [mà tu tập] được sáu ba-la-mật. Cho nên riêng danh xưng phát tâm này có thể dùng cho cả Thông giáo, Biệt giáo, đều gọi là phát tâm.

KINH VĂN

Các Bồ Tát bất thối,
Nhiều như cát sông Hằng,
Một lòng cùng suy cầu,
Cũng không thể rõ biết.
Phật bảo Xá-lợi-phất:
Pháp sâu xa vi diệu,
Vô lậu, không nghĩ bàn,
Ta nay đã trọn thành,
Tướng ấy riêng ta biết,
Cũng như mười phương Phật.

 Tiểu đoạn thứ tám, gồm 4 câu, từ “Các Bồ Tát bất thối” trở đi, nêu việc loại cả hàng Bồ Tát bất thối cũng không có khả năng rõ biết [trí tuệ Phật]. [Đây là nói hàng Bồ Tát] bất thối của Thông giáo, đoạn trừ cảnh giới nội hoặc, không rõ biết lý của Biệt giáo. Hàng Bồ Tát của Biệt giáo chưa lên đến Thập địa tuy cũng chứng được Vị bất thối, Hạnh bất thối v.v... nhưng cũng không có khả năng rõ biết.

 Đoạn thứ năm gồm một khổ rưỡi kệ (6 câu), từ câu “Phật bảo Xá-lợi-phất” trở đi, tụng lại ý nghĩa trong văn trường hàng nói rằng pháp này khó hiểu, chỉ Phật mới rõ biết được cảnh giới thật tướng.

Câu “vô lậu, không nghĩ bàn” là tụng lại phần tóm kết ý chính nêu ra cảnh giới quyền thật trong văn trường hàng.

Câu “pháp sâu xa vi diệu” là tụng lại ý nghĩa “thành tựu pháp cao tột khó hiểu ít có nhất” trong văn trường hàng.

Từ câu “Ta nay đã trọn thành” trở đi là 3 câu tụng lại ý nghĩa “chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến cùng tận” trong văn trường hàng. Đây là nêu rõ đạo của chư Phật đồng như nhau, đều là rốt ráo. Cho nên kệ nói rằng: “Tướng ấy riêng ta biết, cũng như mười phương Phật”.

Giải thích về nghĩa “không nghĩ bàn” thì giống như hạt châu như ý, tự nó không sở hữu gì nhưng lại có thể làm mưa xuống các loại trân bảo quý giá. [Cũng vậy,] thật tướng vốn không sinh nhưng lại có thể sinh ra Bát-nhã.

Một khổ rưỡi kệ với câu “vô lậu, không nghĩ bàn” này là căn bản, từ đây phát xuất 4 cách giải thích như phần trên đã nói.

Từ một nửa câu kệ “vô lậu” (không lậu hoặc, không rỉ chảy, không thiếu sót) này là căn bản giải thích mười pháp giới. Mười như thị của mười pháp giới bao gồm hết thảy phàm thánh, lý tánh không gì thiếu sót. Bao gồm tam đế cũng không thiếu sót, bao gồm quyền trí thật trí cũng không thiếu sót.

Nếu dựa vào câu “không nghĩ bàn”, dùng cách giải thích theo khai hợp làm căn bản thì ngay nơi quyền tức là thật, ngay nơi thật tức là quyền, cho nên nói đủ là “không thể nghĩ bàn”.

Nếu dựa vào câu “pháp thâm sâu vi diệu”, dùng cách giải thích theo Phật pháp giới làm căn bản thì ý nghĩa có thể tự hiểu được.

Nếu dựa vào câu “tướng ấy riêng ta biết”, dùng cách giải thích theo giai vị làm căn bản thì ý nghĩa cũng có thể tự hiểu được. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Xá-lợi-phất nên biết,
Lời chư Phật không khác,
Đối với pháp Phật thuyết,
Phải tin sâu, tin chắc.
Pháp Phật lâu về sau,
Phải thuyết dạy chân thật.
Phật bảo chúng Thanh văn,
Cùng chúng cầu Duyên giác:
Ta dạy cho thoát khổ,
Nhưng chưa được Niết-bàn.
Đó là Phật phương tiện,
Tạm bày ra Ba thừa,
Để chúng sanh bám chấp,
Thảy đều được giải thoát.

Từ câu “Xá-lợi-phất nên biết” trở đi, [gồm ba khổ rưỡi kệ, 14 câu], lược nói việc trừ bỏ ba thừa [trước đây], hiển bày Nhất thừa và nói việc tâm bám chấp khởi lên sinh ra nghi ngờ.

Phần nói nghĩa trừ bỏ và hiển bày được chia làm hai phần. Phần đầu nêu việc chư Phật hiển thật, phần sau nói việc đức Phật Thích-ca khai thị trừ bỏ ba thừa, hỗ tương nhau cùng làm rõ một ý.

 Câu “Lời chư Phật không khác” là luận về sự giáo hóa của chư Phật, tất cả đều giống nhau.

Hai câu tiếp theo khuyến khích khởi lòng tin sâu [đối với pháp Phật]. Hai câu sau nữa chính là hiển lộ pháp chân thật. [Kệ nói:] “Pháp Phật lâu về sau, phải thuyết dạy chân thật”, tức là ý nghĩa hiển bày chân thật. Do tâm bám chấp từ xưa khởi lên, ngày nay mới sanh nghi ngờ. [Nên kinh văn phần sau nói] “lẽ nào chẳng phải ma đang giả Phật”. Chính là nói do nghe lời [chân thật] này. Phật đã dùng lời chân thật khuyến khích khởi lòng tin, việc gì phải trái lời Phật mà khởi tâm nghi ngờ? Vì ngăn ngừa việc [người nghe] do nghi ngờ mà hủy báng cho nên Phật mới khuyến khích khởi lòng tin.

 Từ câu “Phật bảo chúng Thanh văn” trở đi là nêu rõ việc đức Thích-ca khai thị [trừ bỏ] ba thừa. Phần này lại chia làm 3 đoạn.

 Đoạn thứ nhất, một khổ kệ, chính là nêu việc trừ bỏ ba thừa, sắp chỉ ra chỗ chưa đúng của Nhị thừa, cho nên nói là “nhưng chưa được Niết-bàn”.

Lại giải thích rằng: “Ta dạy cho thoát khổ, nhưng chưa được Niết-bàn” là nói phỏng theo sáu ba-la-mật của Bồ Tát thừa. Do đâu biết như vậy? Vì [Phật dạy] tu tập công hạnh sáu ba-la-mật thoát được trói buộc trong bốn cảnh giới, nhưng chưa thể đạt đến diệt độ [Niết-bàn], còn phải qua ba a-tăng-kỳ kiếp và 100 [đại] kiếp nữa mới được Niết-bàn. Cho nên [Hán văn] dùng chữ “đãi” (逮) là nói còn rất lâu xa mới đạt đến.

Lại nữa, người tu hạnh sáu ba-la-mật thì trước là cứu độ chúng sanh, cho nên nói “ta giúp cho thoát khổ [trói buộc]”. Vì lâu sau mới đạt quả vô lậu, cho nên nói “nhưng chưa được Niết-bàn”. Do nghĩa này suy ra nên biết là nói đến sáu ba-la-mật của Bồ Tát thừa. Lại dựa theo số lượng mà suy ra thì câu sau nói “Đó là Phật phương tiện, tạm bày ra ba thừa.” Nếu không chỉ đến Bồ Tát thừa thì lấy gì mà nói là ba thừa? Không thể lấy số Nhị thừa [ở trước] mà gọi là ba.

 Đoạn thứ hai, nửa khổ kệ, “đó là Phật phương tiện, tạm bày ra Ba thừa”, chính là bác bỏ ba thừa, chỉ rõ đó đều là hư ngụy không thật.

 Đoạn thứ ba, 2 câu kệ [cuối], nêu ra ý nghĩa [mục đích giả] lập ba thừa. Ý nghĩa này là quyền biến, để dẫn dắt [chúng sanh nhiều bám chấp] xa lìa các nỗi khổ, chưa phải là chân thật, Đây chỉ là pháp môn phương tiện mà thôi.

Khởi nghi thưa hỏi

KINH VĂN

Bấy giờ trong đại chúng có các vị Thanh văn đã chứng A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, giống như ngài A-nhã Kiều-trần-như... cả thảy 1.200 vị, cùng những vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di phát tâm cầu quả Thanh văn, quả Phật Bích-chi, hết thảy đều nghĩ rằng: “Hôm nay đức Thế Tôn vì sao lại ân cần ngợi khen xưng tán pháp phương tiện mà nói: ‘Pháp Phật đã chứng đắc rất sâu xa khó hiểu, có nói ra điều gì thì ý nghĩa đều khó rõ biết, hết thảy hàng Thanh văn, Phật Bích-chi đều không thể hiểu được.’”

Từ câu “Bấy giờ trong đại chúng” trở đi là nói việc vì khởi tâm nghi mà thưa thỉnh. Do nghe [Phật dạy] ba thừa là hư ngụy, chỉ có Nhất thừa là chân thật, nên tình chấp khởi động sinh tâm nghi hoặc. Phần kinh văn này chia làm hai phần, thứ nhất là trình bày chỗ nghi, thứ hai là thưa thỉnh [cầu Phật] giải quyết chỗ nghi.

 Phần thứ nhất trình bày chỗ nghi lại chia làm hai đoạn. Đoạn thứ nhất là trình bày của người chép kinh, đoạn thứ hai là chính thức nêu việc khởi sinh lòng nghi.

 Đoạn thứ nhất,] trước tiên trình bày chỗ nghi của 1.200 vị [tỳ-kheo], sau trình bày chung chỗ nghi của cả bốn chúng [phát tâm cầu quả vị Nhị thừa].

Phần trên [đức Phật đã] bác bỏ, [nói rằng] cả ba thừa đều là phương tiện, phần trình bày chỗ nghi lại chỉ nói đến Nhị thừa. Đó là vì [hàng Nhị thừa] bám chấp sâu nặng, lòng nghi quá sâu cho nên mới nêu riêng, nhưng đọc tiếp đến phần nêu chi tiết bên dưới thấy nói rõ rằng: “Các vị Bồ Tát cầu quả Phật, số nhiều đến tám vạn” cũng đều có lòng nghi, cho nên biết rằng [thính chúng trong cả] ba thừa đều có lòng nghi, nhưng ở đây chỉ nêu riêng hàng Nhị thừa.

 Đoạn thứ hai từ câu “hết thảy đều nghĩ rằng” trở đi, chính thức nêu việc khởi sinh lòng nghi. Đoạn này lại chia thành hai tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là nghi hai trí [quyền thật] của Phật. Tiểu đoạn thứ hai là nghi chỗ chứng đắc của tự thân.

 Từ câu “vì sao lại ân cần ngợi khen...” là nói sự hoài nghi chung đối với cả hai trí quyền thật.

Từ câu “...mà nói: ‘Pháp Phật đã chứng đắc rất sâu xa khó hiểu,..” là nói nghi thật trí. Từ câu “có nói ra điều gì thì ý nghĩa đều khó rõ biết” là nói nghi quyền trí. [Vì các vị] từng nghe rằng lời của chư Phật đã nói ra không bao giờ khác biệt, chỉ nói những lời chân thật, cho nên từ đó mới sanh nghi. Vì sao trước đây Phật nói rằng ba thừa đều chứng đắc được trí tuệ như nhau, chỉ khác biệt ở chỗ tập khí còn lại đã dứt hoặc chưa dứt hết. Ngày nay bỗng dưng [Phật] lại xưng tán hai trí [quyền thật] của Như Lai, nói rằng hàng Tam thừa không thể đạt đến. Do đó mà nghi ngờ hai trí [quyền thật] của Phật.

KINH VĂN

“Phật [từng] thuyết dạy một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng được pháp ấy, [tưởng rằng] đạt đến Niết-bàn, nhưng nay thì không biết nghĩa ấy hướng về đâu?”

 Câu “Phật [từng] thuyết dạy một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng được pháp ấy” là tự nghi chỗ sở đắc của mình. [Vì trước đây Phật dạy rằng] thánh đạo Tam thừa là con đường chân chánh xuất ly [giải thoát], chỉ cần tu tập theo pháp ấy sẽ đạt đến Niết-bàn, mà nay bỗng dưng [Phật] lại nói rằng tất cả đều là phương tiện, chẳng biết điều gì mới là chân thật. Cho nên [kinh văn] nói “không biết nghĩa ấy hướng về đâu”. Đây là do phần trên [Phật] bác bỏ, nói rõ ba thừa đều là hư ngụy, nên mới sinh ra sự nghi ngờ này.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất biết lòng nghi của bốn chúng và chính mình cũng chưa hiểu nên bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà nay Phật ân cần ngợi khen xưng tán phương tiện bậc nhất cùng pháp thâm sâu vi diệu khó hiểu của chư Phật? Con từ xưa đến nay theo Phật chưa từng được nghe những lời như vậy. Nay bốn chúng đều ôm lòng nghi, xin nguyện Thế Tôn giảng rõ việc này: Thế Tôn vì sao lại ân cần ngợi khen xưng tán pháp thâm sâu vi diệu khó hiểu?”

Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên đọc kệ rằng:

 Từ câu “Lúc bấy giờ ngài Xá-lợi-phất” trở đi là phần thứ hai, chính thức thưa thỉnh [cầu Phật giải nghi]. Trong phần này có 3 lần thưa thỉnh và 2 lần [Phật] bảo thôi.

Theo như [sự giảng giải] trước đây thì có 3 lần bảo thôi. Các ngài Dao sư và Long sư đều nói rằng: “Lần bảo thôi thứ nhất là vì lý sâu xa [Phật e rằng đại chúng] khó hiểu được. Lần thưa thỉnh đầu tiên là vì chính mình và người khác mà thỉnh cầu quyết nghi. Lần bảo thôi thứ hai là vì [đức Phật e rằng đại chúng] kinh sợ nghi ngờ chẳng tin. Lần thỉnh cầu thứ hai là vì [tin rằng] những người đã từ lâu trồng sâu căn lành ắt có thể hiểu được. Lần bảo thôi thứ ba là vì [đức Phật e rằng những kẻ không tin] ắt sẽ hủy báng rồi đọa vào đường ác. Lần thưa thỉnh thứ ba là vì những người căn cơ nhanh nhạy ắt sẽ được lợi ích.”

Các bậc thầy ngày nay đôi khi lại cho rằng: “Đức Phật đã biết trước ba lần được lợi ích [của thính chúng] trước sau không giống nhau, cho nên ngăn lại ba lần để chờ đủ ba lần thưa thỉnh, [lợi lạc cho khắp thính chúng].”

[Phần nói về] lần thưa thỉnh đầu tiên được chia làm hai phần, gồm phần văn trường hàng và phần kệ tụng. Văn trường hàng lại cũng chia làm hai phần. Phần thứ nhất trình bày sự hoài nghi, phần thứ hai trình bày thưa thỉnh. Trình bày nghi là nói việc nghi về hai trí. Trình bày thưa thỉnh thì đã thỉnh lại vì đại chúng thỉnh.

KINH VĂN

Đấng Đại Thánh trí tuệ,
Lâu mới thuyết pháp này.
Tự nói đã chứng đắc,
Lực, vô úy, tam-muội,
Cùng thiền định giải thoát,
Pháp không thể nghĩ bàn.
Nơi đạo trường chứng đắc,
Không ai đủ sức hỏi,
Ý Phật khó suy lường,
Cũng không thể thưa hỏi,
Nên Phật tự nói ra,
Ngợi khen đạo chư Phật,
Trí tuệ cực vi diệu,
Chư Phật đã đạt được.
A-la-hán vô lậu,
Cùng người cầu Niết-bàn,
Nay chìm trong lưới nghi,
Vì sao Phật nói vậy?
Những người cầu Duyên giác,
Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Chư thiên, rồng, quỷ thần,
Với loài càn-thát-bà...
Nhìn nhau lòng phân vân,
Cùng chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Việc này là thế nào?
Nguyện được Phật giảng giải.
Trong hàng chúng Thanh văn,
Phật khen con bậc nhất,
Nay con dùng trí mình,
Không thể hiểu, nghi hoặc.
Đây là pháp rốt ráo?
Hay là đạo tu hành?
Chúng từ miệng Phật sinh,
Đều chắp tay mong đợi,
Nguyện Phật ban tiếng mầu,
Nói ra pháp như thật.
Chư thiên, rồng, quỷ thần...
Số nhiều như cát sông,
Bồ Tát cầu quả Phật,
Số đến tám mươi ngàn,
Lại từ muôn ức nước,
Vua Chuyển luân đến đây,
Cùng chắp tay cung kính,
Muốn nghe đạo trọn đủ.

Phần kệ tụng có 11 khổ kệ, chia thành 6 phần.

Phần thứ nhất là 2 câu đầu tiên, tụng về [ý nghĩa] hoài nghi thật trí.

Phần thứ hai từ câu “Tự nói đã chứng đắc...” trở đi, gồm 3 khổ kệ, tụng về [ý nghĩa] hoài nghi quyền trí.

Phần thứ ba từ câu “A-la-hán vô lậu...” trở đi, gồm 3 khổ kệ, nêu việc tứ chúng trong ba thừa đều có sự hoài nghi. Câu đầu [khổ thứ nhất] nói các vị A-la-hán [hoài nghi]. Hai câu đầu [khổ thứ hai] nói các vị Duyên giác [cũng hoài nghi]. Trong khoảng giữa có câu “cùng người cầu Niết-bàn” là nói về hàng Bồ Tát tu sáu ba-la-mật.

Làm sao biết được [câu này là nói về hàng Bồ Tát]? Như phần trên có nói “những người chưa được Niết-bàn”, ở đây lại dùng chữ “cùng”. “Cùng” là nói cùng với các vị Bồ Tát, bởi vì [chính các vị Bồ Tát là người] “cầu Niết-bàn”. Hơn nữa, “cùng” nghĩa là với đối tượng khác nữa, tức là khác với hàng Nhị thừa [đã nói], cho nên biết đây chính là nói đến các vị Bồ Tát.

Phần thứ tư từ câu “Trong hàng chúng Thanh văn...” trở đi, gồm một khổ rưỡi kệ (6 câu), nêu việc ngài Xá-lợi-phất hoài nghi.

Phần thứ năm từ câu “chúng từ miệng Phật sinh...” trở đi, gồm một khổ kệ, nêu việc hàng Phật tử [trong pháp hội] hoài nghi.

Phần thứ sáu từ câu “chư thiên, rồng, quỷ thần...” trở đi, gồm 2 khổ kệ, nói tổng quát [các thành phần trong thính chúng] đều có lòng nghi và đồng thỉnh [Phật giải nghi].

Nói chung, với kệ tụng và văn trường hàng, có thể dùng ý nghĩa suy tìm [để hiểu], nếu như không có trong kệ tụng, tức là được nói trong văn trường hàng. Đối với những ý nghĩa không cần yếu cấp thiết thì không cần phân tích chia chẻ làm rườm rà câu văn, cho nên thường lược bớt.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Thôi, thôi, không nên nói nữa. Nếu ta nói ra việc này thì hết thảy chư thiên và loài người ở thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ.”

Ngài Xá-lợi-phất lại bạch Phật: “Thế Tôn! Kính nguyện Phật nói ra, kính nguyện Phật nói ra. Vì sao vậy? Trong chúng hội này có vô số trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ chúng sanh đã từng được gặp chư Phật, căn tánh lanh lợi dũng mãnh, trí tuệ sáng suốt rõ biết, nếu được nghe Phật thuyết dạy ắt có thể cung kính tin nhận.” Lúc ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Đấng Pháp vương Vô thượng,
Xin thuyết dạy, đừng lo,
Vì vô số chúng hội,
Phải có người kính tin.

Đức Phật lại ngăn lời ngài Xá-lợi-phất: “Nếu ta nói ra việc này, hết thảy hàng trời, người, a-tu-la... trong khắp thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ, các tỳ-kheo tăng thượng mạn sẽ phải sa vào hố sâu [tội lỗi vì phỉ báng].”

Bấy giờ, đức Thế Tôn nhắc lại nghĩa trên bằng kệ rằng:

Thôi thôi không nên nói,
Pháp Phật khó nghĩ bàn.
Những kẻ tăng thượng mạn,
Ắt không thể kính tin.

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất một lần nữa bạch Phật: “Thế Tôn! Kính nguyện Phật nói ra, kính nguyện Phật nói ra. Nay trong hội này, những người như con số nhiều đến trăm ngàn muôn ức, trải qua nhiều đời đã từng được Phật giáo hóa. Những người này ắt sẽ có thể kính tin, trong đêm dài [sinh tử] họ sẽ an ổn, được nhiều lợi ích.” Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Đấng Thế Tôn Vô thượng,
Nguyện thuyết pháp bậc nhất.
Con là con trưởng Phật,
Xin thương mà giảng thuyết,
Trong hội vô số chúng,
Có thể kính tin lời.
Phật đã qua bao đời,
Giáo hóa những người này,
Nay một lòng chắp tay,
Muốn nghe lời Phật dạy.
Chúng con một ngàn hai,
Cùng người cầu quả Phật,
Nguyện vì hội chúng này,
Thương xót phân biệt nói.
Đại chúng nghe pháp này,
Ắt sinh lòng hoan hỷ.

Từ câu “Bấy giờ đức Phật bảo...” trở đi là hai lần [Phật] bảo thôi, rồi [ngài Xá-lợi-phất] lại [tiếp tục] trình chỗ nghi để thưa thỉnh, hết thảy đều y theo [ý nghĩa trong] kinh văn có thể hiểu được]. Đại lược là như thế.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Các tông phái đạo Phật


Kinh Di giáo


Những Đêm Mưa


Những tâm tình cô đơn

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 13.59.136.170 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập