Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi."
Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Lời tựa bản Sớ giải kinh Pháp Hoa của Đại sư Trí Khải, núi Thiên Thai
Kính Trung Sa-môn Thích Thần Quýnh trước thuật
Trước hết thưa rằng: Chân lý tột cùng không có danh xưng, [khi có thì] danh xưng ấy lưu truyền khắp thiên hạ; giáo pháp chân thật vốn bất động, [nhưng] khi động thì hiện ra trong Ba cõi. Chứng đắc giáo pháp thì muôn việc đều dứt bặt, nhưng phương tiện phải tùy cơ duyên mà hóa độ. Không toan tính mưu cầu mà nâng đỡ dẫn dắt, thành tựu ấy lớn lao thay, không gì hơn được.
Bậc Hùng lực Từ bi ra đời, vì một đại sự nhân duyên mà thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Thế nhưng, các loài cây thuốc chẳng giống nhau, đối với người bệnh thì sự thích nghi không đồng nhất. Sự nhận hiểu giáo pháp cũng khác biệt như vậy. Cho nên, [Đức Thế Tôn] thi hành pháp quyền biến phương tiện mà Chuyển pháp luân nơi Lộc Uyển nói pháp Tứ đế, còn hiển bày lẽ thật thì nơi đỉnh Linh Thứu ba lần hóa hiện ra Tịnh độ. [Giáo pháp của đức Thế Tôn] ý chỉ thâm sâu, ngôn từ mạch lạc. Người tôn kính đạo cao vời, làm sáng tỏ thọ lượng [Như Lai] vốn từ xa xưa vô lượng kiếp, [giúp] thấu hiểu nghĩa thật của sự thành đạo gần đây nơi Bồ-đề Đạo tràng. Mưa pháp tuôn nhuần, khuyến thiện phá ác, diễn bày khắp chốn, bỏ đi những điều phương tiện quyền thuyết trước đây, như người bắt cá bỏ nơm, thợ săn vất lưới, khai mở chỉ bày chúng sanh nhận hiểu, thể nhập vào tri kiến Phật, được lợi ích hiện đời, như người đã bắt được cá, thợ săn đã bắt được thỏ. Bồ Tát số nhiều như vi trần, đạo quả ngày càng tăng trưởng, sanh tử biến dị ngày càng giảm dần. Hàng Thanh Văn nơi am tranh [nghe pháp rồi] hổ thẹn với giáo pháp Tiểu thừa, mừng vui tiếp nhận giáo pháp Đại thừa. [Trong Pháp hội,] Bồ Tát Dược Vương thiêu cánh tay cúng dường, đức Như Lai Đa Bảo hiện toàn thân để chứng minh [lời Phật], trọn vẹn cùng cực, nhỏ nhiệm tinh vi, chẳng thể dùng lời mà nói hết được.
Có bậc Đại sư ở núi Thiên Thai, pháp hiệu Trí Khải, thuở xưa từng đối trước Đức Như Lai tự thân được nghe kinh điển này. Đại sư chứng đắc quả vị hàng Ngũ phẩm, danh tiếng vang dội qua cả hai triều vua. Ngài không cần nghe giảng thuyết ở giảng đường mà đã suốt thông thấu triệt giáo pháp Phật thừa. Được sức tổng trì (đà-la-ni), vui thích giảng thuyết giáo pháp không cùng tận. Ngài thường ở điện Thái Cực của vua Trần, trước mặt vua giảng giải kinh Nhân vương Bát-nhã, muôn dân quỳ mọp, trăm quan mừng vui tán thán. Lại như pháp Quán tâm thích [mà Đại sư chỉ dạy], khéo lìa cả hai mặt có không, lấy chân tánh làm khuôn phép, dựa vào sự chiếu soi tự thân mà thấu triệt. [Đại sư] giảng giải danh xưng, trình bày tông chỉ đều khác với người xưa, nêu lên năm tầng nghĩa để khảo xét nghĩa lý [kinh điển], thảy đều giúp phát huy Thánh giáo.
Từ khi Đại sư Trí Giả ra hoằng pháp đến hơn 30 năm, duy nhất chỉ [trước tác] có một bản sớ giải kinh Duy-ma. Cho đến đời nhà Tùy, vâng sắc chỉ của Tùy Dạng Đế mới soạn ra bản văn huyền diệu này. Chỉ riêng phần ghi chép của Pháp Sư Quán Đảnh đã hợp thành 20 quyển. Không có trí tuệ thì không thể thành tựu được như vậy, đó là lời chân thật.
Sau khi Đại sư viên tịch hơn trăm năm, đến năm Mậu Tý (748), niên hiệu Thiên Bảo [thứ 7] đời nhà Đường, có Hòa Thượng Huyền Lãng ở chùa Thanh Thái thuộc quận Đông Dương, là hàng trưởng lão trong đạo pháp, trí tuệ và công hạnh song toàn; công phu tu tập và nghiêm trì giới luật, xem trọng như nhau; uyên thâm cả nội điển và ngoại điển. Ngài đạt được công năng quý báu là lòng từ rộng khắp, an trụ vững vàng trong định lực vô sanh. Sau những lần giảng truyền giáo pháp, ngài thường lặng lẽ than rằng: “Nếu quán xét nơi nghĩa lý thì [bản văn này] thật sâu xa, khế hợp với Phật thừa, nhưng tìm hiểu vào cấu trúc văn chương thì thường không theo thứ lớp thích hợp. Hoặc câu văn tương tục mà ý nghĩa dứt đoạn; hoặc câu văn theo sau mà ý nghĩa đã nêu ở trước; hoặc có cả đoạn văn dài trước khi mở đầu chương sách; hoặc đã dứt chương rồi, phần theo sau mới nêu lên ý nghĩa chương ấy; hoặc trong kệ trước đó đã nêu con số, nhưng phần danh xưng theo sau lại không phù hợp [với những số ấy].
Thế nhưng, thánh ý khó suy lường, nên chỉ dám kính ngưỡng tin nhận mà thôi. Nay nhân vì những người đến nghe giảng pháp nhiều lần thưa thỉnh khuyến khích rằng: ‘Bậc thượng căn dễ đạt ngộ, cứu xét vào nghĩa lý sâu xa mà không mê lầm, nhưng đối với hàng trung căn, hạ căn, nếu phải tìm kiếm theo văn chương liền sai lệch mất ý chỉ. Ví như có sự so sánh thay đổi sắp xếp lại thì điều đó hẳn sẽ rộng làm lợi ích cho rất nhiều người.’ Lại thêm nhiều lần suy đi tính lại những lời trên, xét thấy thật là việc chẳng đặng đừng, mới một lòng cầu nguyện với Đại sư để xem việc này có thể làm được hay chăng. Nhân vì trong giấc mộng có sự chiêu cảm [đồng thuận] nên mới bắt đầu việc sắp xếp chỉnh sửa lại [bản văn này]. Hết thảy đều tùy theo từng nơi mà sắp xếp thích hợp, thành tâm lượng xét, chẳng phải cẩu thả vì muốn có sự giống nhau hay khác nhau mà tùy tiện theo ý mình thêm bớt trong văn bản. Mong sao các bậc học giả đời sau thấu hiểu cho ý nguyện ban đầu, truy chỗ cốt yếu, tìm phần thiết thực, chọn lấy vàng ròng mà vất bỏ đá sỏi, thuyết pháp chân thật, chẳng phải dối lừa. Vì giúp cơn gió pháp nhiệm mầu nên mượn cây quạt lớn, nơi ngọn Đan Khâu trọn thành việc thêm bớt sửa sang, ắt là trăm pháp giới, ngàn như thị, [hết thảy muôn pháp] tự nhiên thảy đều khế hợp. Cho dù quả vị quyền thừa (hóa thành) hay nhất thừa (bảo sở), hết thảy đều đến được bến bờ giải thoát. Cậy Bồ Tát Di-lặc quan tâm [thưa hỏi], Pháp vương tử Văn-thù hồi đáp. Dùng sáu bộ Túc luận làm rõ thêm luận Phát trí, nêu một lời xưng tán chẳng khác kinh Xuân Thu.”
Bọn chúng tôi là [Sa-môn] Thần Quýnh và các đồng sự, cùng thu thập, chọn lọc văn xưa, an nhiên thanh thản trong lẽ thật, không một người nào là không cùng phát tâm [Bồ-đề] trước đức Phật Không Vương thuở xưa, như mười sáu vị sa-di đều thay Phật giảng nói [kinh Pháp Hoa]. [Gặp được kinh này] khác nào như đóa hoa trong bóng tối gặp được ánh mặt trời, dứt trừ nạn khổ, vun bồi châu báu.
Nay thật lòng hổ thẹn không có được văn tài như Nhạn Môn, cũng trộm nhìn vào chỗ sâu xa uyên áo của mày rồng, may ra làm kẻ thăm dò nghĩa lý diệu huyền, thấm nhuần trong dòng đạo pháp mà vẫn giữ được nguồn cội vậy.
1. GIẢI THÍCH PHẨM TỰA
([Thưa rằng:] Phật ra đời khó gặp, được nghe Phật thuyết dạy là khó; chuyển dịch kinh văn lưu truyền là khó, tự mình khai mở giác ngộ càng khó; được nghe thầy thuyết giảng là khó, nghe qua một lần ghi chép lại càng khó. Bản thân tôi năm hai mươi bảy tuổi ở đất Kim Lăng được nghe nhận pháp này, đến sáu mươi chín tuổi mới ở núi Đan Khâu làm xong việc sửa sang thêm bớt [bản văn này]. Nay ghi chép lưu lại tặng các bậc hiền giả đời sau, cùng được hưởng nhờ trí tuệ Phật.)
KINH VĂN
Phẩm Tựa, thứ nhất
Giải thích tên phẩm
Về nguyên ủy bản sớ giải kinh này đã nói rõ ở phần trên. [Chữ] tựa [trong phẩm tựa] có nghĩa là giải rõ tường tận. Đó là nói [ý nghĩa phân chia] rõ ràng vai trò người thuyết pháp và người nghe pháp, người thưa hỏi và người trả lời. Các nhà nghiên cứu kinh điển dựa theo ý nghĩa này mà phân chia thành ba nghĩa: thứ tự (trình bày các thứ lớp), do tự (trình bày nguyên do) và thuật tự (trình bày đi vào nội dung). [Chẳng hạn] như năm việc nêu ra ở phần đầu của mỗi bản kinh, đó là thứ tự. Đức Phật phóng hào quang, hiện sáu điềm lành trước khi thuyết giảng kinh này, đó là do tự. Những lời hỏi đáp thích hợp [giữa Bồ Tát Di-lặc và Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi] để dẫn vào phần thuyết giảng chính văn, đó là thuật tự. Có đầy đủ ba ý nghĩa [thứ tự, do tự và thuật tự] nên gọi là tựa.
[Chữ] phẩm, Phạn ngữ là bạt-cừ, [phiên âm từ chữ varga], trong kinh Trung A-hàm gọi là phẩm. Phẩm có nghĩa là phân loại ý nghĩa tương đồng với nhau. Gồm chung [những ý nghĩa tương đồng] vào trong một phần nên gọi là phẩm. [Việc xác lập mỗi phẩm kinh và tên gọi] hoặc do đức Phật tự nói ra, như kinh Phạm Võng, hoặc do người kết tập sắp xếp đặt tên, như Đại luận, hoặc do người dịch kinh thêm vào cho đầy đủ, như [cách làm của] ngài La Thập. Nay [xét như trong kinh Pháp Hoa này thì] phẩm Dược Vương [Bồ Tát] Bổn Sự là do chính đức Phật xác định và đặt tên, các phẩm Diệu Âm [Bồ Tát], Quán Thế Âm [Bồ Tát] là những vị chép kinh ghi vào. Chưa nghe [có phẩm nào trong kinh này do] người dịch [thêm tên gọi vào].
Vì [phẩm này] mở đầu cho tất cả các phẩm nên gọi là thứ nhất. Phật tùy theo nhân duyên [của chúng sanh] mà [thuyết kinh văn, như] rải hoa khắp nơi [hoặc thuyết kệ tụng, như] xâu hoa thành chuỗi. Các vị kết tập y theo lời Phật đã thuyết mà truyền lại [kinh này]. Các bậc luận sư dựa vào kinh văn mà suy diễn giảng rộng thêm, hết thảy đều không phân chia tiết mục. Các bậc giảng sư từ xưa cũng chỉ giảng rộng nghĩa lý mà không phân chia chương đoạn. Nếu chỉ hoàn toàn theo cách này thì người đời sau e rằng không hiểu hết [được nghĩa kinh].
Lại nữa, đức Phật thuyết kệ tụng (quán hoa) hoặc kinh văn (tán hoa) [là hình thức khác nhau], nhưng các vị kết tập phải tùy theo ý nghĩa mà xác lập, [phân chia] phẩm loại. Kinh Tăng nhất A-hàm nói rằng: [Giáo pháp của Phật gồm] một phần Khế kinh, một phần Luật, một phần Luận [A-tỳ-đàm].
Khế kinh lại chia ra làm bốn phần, gồm: kinh Tăng nhất A-hàm, kinh Trường bộ, kinh Trung bộ và kinh Tạp A-hàm. Kinh Tăng nhất A-hàm làm sáng tỏ nhân quả trong hai cõi trời, người. Kinh Trường A-hàm phá tà kiến. Kinh Trung A-hàm làm rõ nghĩa sâu xa. Kinh Tạp A-hàm nói rõ về thiền định.
Phần Luật tạng có Ngũ bộ [luật] và Bát thập tụng [luật]. Luận A-tỳ-đàm thì chia ra có Lục túc luận, Bát kiền-độ luận v.v...
Kinh A-hàm nói Bố thí độ, Trì giới độ, Trí tuệ độ... Lục độ đều có đủ; nói đủ căn tánh, đạo, định v.v... trong Bát chủng tụ.
Những phương thức phân chia trước đây
Ngài Thiên Thân tạo [Pháp Hoa kinh] luận dùng bảy công đức [thành tựu] để phân chia phẩm Tựa, lấy năm phần thị hiện [để phân chia] phẩm Phương Tiện. Các phẩm khác cũng đều có chỗ phân chia. Từ xưa ở Hà Tây có [Đạo] Bằng, Giang Đông có Dao sư, đều dựa theo cách này để phân chia tiết mục kinh văn, hết sức rườm rà. Đến ngài Quang Trạch chuyển sang hướng phân chia tinh tế. [Nhưng chia nhỏ như vậy khác nào như] sương mù dày đặc che lấp bầu trời cao rộng, khiến cho ánh sáng mặt trời, mặt trăng và tinh tú đều ẩn khuất. Đây không phải chỗ đáng trân quý của người cầu học đạo.
Ngài Đàm Loan nói: Phân chia tiết mục kinh văn quá chi ly, khác nào như khói bụi hỗn tạp gặp cơn gió lộng, [che lấp yếu chỉ của kinh. Cho nên, từ trước đến giờ việc phân tiết mục kinh văn] hoặc [chi ly] thái quá, hoặc sơ sài không đủ. Long sư ở Lô Sơn phân chia kinh văn [thành ba phần là] phần Tựa, phần Chánh văn và phần Lưu thông. Toàn bộ kinh 27 phẩm được chia thành hai nhóm. Từ phẩm Tựa đến phẩm Pháp Sư [là nhóm thứ nhất] nói pháp phương tiện (quyền pháp) và pháp chân thật (thật pháp), lẽ thật tuy chỉ có Nhất [thừa] nhưng giảng nói thành Tam thừa. Từ phẩm [Hiện] Bảo Tháp trở về sau [là nhóm thứ hai, nói về] thân phương tiện và thân chân thật. Đó là [ý nghĩa thành Phật từ] lâu xa mà [mượn việc thành đạo] gần đây [nơi Bồ-đề Đạo tràng] để nói.
Lại từ phẩm Phương Tiện đến phẩm An Lạc Hạnh là nói nhân môn, từ phẩm [Tùng Địa] Dũng Xuất trở về sau là nói quả môn. Ngài Huyền Sướng chùa Tề Hưng (Trung Hưng) và ngài Pháp Dao chùa Tiểu Sơn đều theo ngài Long Thụ, phân chia kinh văn như nhau. Ngài Huyền Sướng lấy từ phẩm Tựa cho đến phẩm Hiện Bảo Tháp là phần nhân, từ phẩm Khuyến Trì đến phẩm Thần Lực là phần quả, từ phẩm Chúc Lụy cho đến hết kinh là phần hộ trì.
Lại có bậc thầy cho rằng, từ phẩm Tựa cho đến phẩm Học Vô Học Nhân Ký là thể của Pháp Hoa, từ phẩm Pháp Sư cho đến phẩm Chúc Lụy là nói rõ công đức của việc thọ trì [kinh này]. Từ phẩm Dược Vương cho đến hết kinh là ngợi khen bổn nguyện của chư vị Bồ Tát.
Lại có bậc thầy phân chia [kinh văn] làm bốn phần. Phẩm tựa là phần đầu tiên. Từ phẩm Phương Tiện cho đến phẩm An Lạc Hạnh là [phần thứ hai] giảng rộng Tam thừa để nêu rõ Nhất thừa. Từ phẩm [Tùng Địa] Dũng Xuất đến hết phẩm Phân Biệt Công Đức là phần [thứ ba] giảng rộng nghĩa [thành đạo] gần đây để làm rõ nghĩa [Như Lai vốn đã thành Phật từ] lâu xa. Phần còn lại từ đó về sau là phần lưu thông.
Ngài Quang Trạch [Pháp] Vân thì đối với ba phần kinh văn, tất cả đều chia hai, [như trong phần Tựa (Tự phẩm) thì chia ra] có thông tự và biệt tự, trong phần chánh văn thì chia thành nhân môn và quả môn, trong phần lưu thông thì chia thành hóa tha (giáo hóa người khác) và tự hành (tự mình hành trì). [Như vậy] phần tựa có năm đoạn, tất cả đều chia hai thành mười, phần chánh văn có bốn đoạn, tất cả đều chia hai thành tám, phần lưu thông có ba đoạn, tất cả đều chia hai thành sáu. Toàn bộ hợp lại thành hai mươi bốn đoạn. Đại lược là như vậy.
Nói chung, việc phân chia tiết mục kinh văn [như trên] hết thảy đều dựa theo cảm nhận của mỗi người. Hoa lan, hoa cúc mỗi loại đều có vẻ đẹp riêng. Người đời sau không nên vì sự khác biệt mà tranh biện đúng sai, [như vậy là] chẳng được ba lợi ích, mất đi một mối đạo. Ba lợi ích là nói [ba tất-đàn, gồm] thế giới tất-đàn, [vị nhân tất-đàn và đối trị tất-đàn]. Một mối đạo là nói Đệ nhất nghĩa tất-đàn.
Ngài Thiên Thai Trí Giả phân chia toàn kinh làm ba phần. Phẩm đầu là phần Tựa. Từ phẩm Phương Tiện đến [phần đầu] phẩm Phân biệt công đức, [vừa hết] 19 đoạn kệ tụng, gồm cả thảy mười lăm phẩm rưỡi, là phần Chánh văn. Từ sau phần kệ tụng ấy cho đến hết kinh, gồm cả thảy mười một phẩm rưỡi, là phần Lưu thông.
Lại có khi [toàn kinh] được chia làm hai phần. Từ phẩm Tựa đến phẩm An Lạc Hạnh, gồm 14 phẩm, xếp thành phần Tích [môn] khai trừ phương tiện, hiển bày lẽ thật. Từ phẩm [Tùng Địa] Dũng Xuất đến hết kinh, gồm 14 phẩm, xếp thành phần Bản [môn] khai trừ phương tiện, hiển bày lẽ thật.
[Hai phần] Bản môn và Tích môn, [mỗi phần] đều bao gồm đủ các phần tựa (tự), chánh văn (chánh) và lưu thông. [Như trong phần Tích môn,] phẩm đầu tiên là phần Tựa, từ phẩm Phương Tiện đến phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký là phần Chánh văn, từ phẩm Pháp Sư đến phẩm An Lạc Hạnh là phần Lưu thông. [Trong phần Bản môn thì chia hai] phẩm [Tùng Địa] Dũng Xuất, [từ đầu] cho đến [câu Di-lặc] “dĩ vấn tư sự, Phật kim đáp chi, [nhữ đẳng tự đương nhân thị đắc văn”] là phần Tựa, từ câu “Nhĩ thời Thích-ca Mâu-ni Phật cáo Di-lặc Bồ Tát” đến hết [19 đoạn] kệ tụng trong phẩm Phân Biệt Công Đức là phần Chánh văn, từ đó cho đến hết kinh là phần Lưu thông. Nay ghi lại [cách phân chia] ba phần như trên để hiểu rõ ý nghĩa trong kinh.
● [Có người] hỏi rằng: [Nếu nói như trên, vậy chỉ] một bản kinh sao có đến hai phần Tựa?
● Đáp: Trong kinh Hoa Nghiêm, mỗi nơi hội chúng vân tập [đều có phần Tựa]. Trong kinh A-hàm mỗi phần cũng đều [mở đầu bằng] “như thị” [giống như một bản kinh riêng biệt]. Kinh Đại Phẩm hai phần trước sau đều có Phó chúc. [Những điều ấy] đều không ngăn ngại [việc hình thành] một bộ kinh. [Nên trong kinh này có] hai phần Tựa cũng không trở ngại gì. Nay [nếu không như vậy thì] không thiết lập đủ năm nghĩa, phần Bản môn không phân vạch được chỗ khởi đầu, phần Tích môn chỉ có riêng phần Lưu thông, việc thuyết pháp chưa rốt ráo. Ý nghĩa có hay không chỉ là như vậy mà thôi.
Cách phân chia trong sách này
Nay tạm phân trong kinh văn có bốn ý.
Thứ nhất là trình bày theo số lượng (liệt số), thứ hai là nêu lý do (sở dĩ), thứ ba là nêu dẫn chứng và thứ tư là chỉ rõ tướng thật (thị tướng).
Trình bày theo số lượng là kể ra: Thứ nhất nhân duyên, thứ hai ước giáo, thứ ba là [ý nghĩa] bản môn và tích [môn], thứ tư là quán tâm. Bắt đầu từ “Như thị [ngã văn]” (Tôi nghe như thế này) cho đến kết thúc “[tác lễ] nhi khứ” (lễ bái lui ra), hết thảy đều phải vận dụng bốn ý này để nhận hiểu kinh văn. Ngày nay ghi chép giản lược, hoặc chỉ còn ba, hai hay một ý. Điều quan trọng là nhận hiểu được ý kinh, không cần đến văn tự rườm rà.
Thứ hai là nêu lý do. Có người hỏi rằng, nếu nói giản lược ắt chỉ còn một ý, nếu giảng rộng ra ắt không chỉ bốn ý, lý do vì sao? Đáp rằng, nếu giảng rộng [quá] sẽ làm cho trí tuệ [người học] suy thối, còn nói giản lược [quá] thì không trọn ý. Nay ta ở khoảng giữa hai điều ấy mà giảng nói, làm cho ý nghĩa [kinh văn] dễ được sáng tỏ hơn.
Nhân duyên cũng gọi là cảm ứng. Chúng sanh thiếu cơ duyên thì dẫu kề bên cũng không thấy được. [Ngược lại], có đủ lòng từ và căn lành thì dù xa xôi vẫn tự thông suốt, là do có sự cảm ứng giao hòa trong mối đạo. Đó là dùng lẽ nhân duyên để giải thích.
Nhìn chung những chúng sanh cầu giải thoát với căn cơ như vậy rất nhiều, bậc thánh khởi lên sự ứng hiện ắt cũng phải nhiều tương ứng như vậy. Ý nghĩa [kinh] này rộng lớn như thế, [nói] khoảng giữa biết là nằm ở chỗ nào? Nhưng kinh điển Đại thừa dạy rằng: Sức mạnh của lòng từ với căn lành có vô lượng phương thức, nói đơn giản là các thần thông. Nếu như căn cơ [chúng sanh] và sự cảm ứng trong mười phương rộng lớn như hư không, thì nay chỉ xét trong thế giới Ta-bà, những âm thanh làm Phật sự chính là rộng mở cửa cam lồ. Y theo giáo pháp giải thích, chọn cách trung dung để giảng nói rõ ràng. Nếu tùy theo căn cơ mà thiết lập giáo pháp, thì giáo pháp ấy phải có quyền, có thật, có nông cạn, có sâu xa chẳng đồng nhau, nên phải biết quên đi ngón tay mà nhận lấy mặt trăng, quên đi bản [môn] để tìm cầu tích [môn].
Thầy Tăng Triệu nói rằng: “Không có bản [môn] thì chẳng lấy gì để truyền lại tích [môn], không có tích [môn] thì chẳng lấy gì để hiển bày bản [môn].” Cho nên dùng Bản [môn] và Tích [môn] để giải thích. Nếu tìm cầu Tích [môn “khai quyền hiển thật”] thì Tích [môn] rộng lớn mênh mông, [kẻ tìm cầu chỉ] nhọc công vô ích. Nếu tìm cầu [Bản môn “khai cận hiển viễn”] thì Bản môn cao vời, [kẻ tìm cầu] không thể theo đến cùng cực. Suốt ngày đêm chỉ lo đếm châu báu của người khác thì tự mình không có được [dù chỉ] nửa đồng xu. Chỉ cần quán xét sự cao rộng của tự tâm mình, khơi dậy sự cảm ứng vô cùng của bậc thánh. Cơ duyên đạt đến sự cảm ứng mới có được lợi ích cho bản thân mình. Cho nên dùng sự quán xét [tự] tâm để giải thích.
Thứ ba là nêu dẫn chứng. Phẩm Phương Tiện nói rằng: “Mười phương chư Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.” [Như vậy thì giáo pháp] Nhân thừa, Thiên thừa, Tiểu thừa chẳng phải Nhất thừa, chẳng phải Đại thừa. Hơn nữa, không có Phật sự thì không thành tựu cơ duyên cảm ứng. Thật tướng gọi là Nhất thừa, rộng khắp gọi là Đại thừa. Đức Phật chỉ rõ việc này, đó là “sự”, [Phật] xuất hiện ở đời gọi là một “đại sự nhân duyên”. [Cũng trong phẩm Phương Tiện] còn nói rằng: “Dùng đủ mọi pháp môn để nêu cao chỉ rõ đạo [giải thoát của] Phật.” Nên biết rằng, [đức Phật dạy] hết thảy mọi giáo pháp bằng âm thanh, hoặc tinh tế nhỏ nhiệm, hoặc sáng tỏ rõ ràng, hoặc quyền biến phương tiện, hoặc chân thật rốt ráo, tất cả đều chỉ là vì đạo giải thoát của Phật mà tạo phương tiện [cũng giống như] nơm [để bắt cá], lưới [để bắt thỏ] mà thôi.
Kinh điển Đại thừa dạy rằng: “Lời nói thô thiển hay nhu nhuyễn cũng đều quy về nơi Đệ nhất nghĩa.” Chính là nói lên ý nghĩa như thế. Trong phẩm Thọ Lượng, [đức Phật] nói: “Nay hàng trời, người, a-tu-la đều cho rằng ta xuất gia từ thuở nhỏ, ra khỏi cung điện dòng họ Thích, đi đến [đạo tràng] cách thành Già-da không bao xa, chứng quả [Vô thượng Chánh đẳng giác] Tam Bồ-đề. Thế nhưng thật ra ta thành Phật tính đến nay đã trải qua vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, chỉ dùng phương tiện như thế để dẫn dắt chỉ bày làm lợi ích cho chúng sanh.”
Trong phẩm Phương Tiện cũng có kệ rằng:
“Phật xưa đã thệ nguyện, Độ hết thảy chúng sinh, Được như Phật không khác.”
Lại nữa, trong phẩm Ngũ Bá Thọ Ký có kệ rằng:
Trong hành Bồ Tát hạnh, Ngoài hiện tướng Thanh Văn. Tự thanh tịnh cõi Phật, Thị hiện đủ tham, sân, Lại hiện tướng tà kiến. Đệ tử Phật như thế, Phương tiện độ chúng sanh.
Như vậy thì cả Phật và đệ tử đều làm sáng tỏ ý nghĩa Bản môn, Tích môn. Đại lược là như thế.
Trong [kệ trùng tuyên] ở phẩm Thí dụ, [đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất] rằng: “Nếu người nào có thể tin nhận lời ông nói tức là thấy được Ta, cũng là thấy được ông và chúng tỳ-kheo Tăng cùng các vị Bồ Tát.” Do đó nên biết rằng, tùy theo chỗ nghe được mà để tâm quán sát thật kỹ thì trong tâm tin tưởng ấy sẽ thấy được Tam bảo. Nghe được lời thuyết dạy, đó là Pháp bảo; liền “thấy được Ta”, đó là Phật bảo; “thấy được ông và chúng tỳ-kheo tăng...”, đó là Tăng bảo. Đại lược là như thế.
Thứ tư là chỉ rõ tướng thật. Hãy nói gọn về ba giai đoạn chỉ rõ tướng nhân duyên. Chúng sanh từ lâu xa vẫn mong nhờ phương tiện thiện xảo của Phật để giúp gieo trồng nhân duyên Phật đạo. Trong [lúc mong chờ] ấy được gặp [Phật], dùng phương tiện khác giúp hiển bày Đệ nhất nghĩa mà làm cho thành thục [hạt giống Phật]. Ngày nay mưa hoa, lòng đất chấn động, là dùng sự diệt độ của Như Lai để độ thoát [những chúng sanh ấy].
Lại nữa, [nhân duyên] từ rất lâu xa nên [gọi là] gieo trồng, từ trong quá khứ nên được thành thục, trong đời gần đây được giải thoát. Trong phẩm [Tùng] địa dũng [xuất] [là nói] những việc như thế.
Lại nữa, trong thời gian [chưa giác ngộ] là gieo trồng nhân duyên, [trải qua] bốn mùi vị [của sữa] là thành thục, [sanh nơi] cung vua là giải thoát, nay làm việc khai mở (khai), chỉ bày (thị) [cho chúng sanh nhận hiểu] (ngộ), thể nhập (nhập) [vào tri kiến Phật].
Lại nữa, [những việc làm trong] đời này là gieo trồng nhân duyên, những đời sau là thành thục và đời sau nữa là giải thoát. Người đời sau được độ thoát chính là [ý nghĩa] như vậy. Tuy chưa phải là Bản môn, nhưng chỉ theo ý mà nói thôi. Thời thời khắc khắc trong suốt thời gian [chưa giải thoát] đó, trải qua ba đời, chín đời gieo trồng nhân duyên, thành thục, rồi giải thoát. Sự cảm ứng [với cơ duyên] cũng không hề chướng ngại. Vì sao vậy? Vì đức Như Lai có sức thần thông tự tại, có sức sư tử phấn chấn nhanh nhẹn lớn lao uy dũng.
Vì để nói đến sức tự tại cùng những năng lực như thế nên [kinh văn] có phần Tựa. Vì đại chúng thấy điềm lành hy hữu liền trang nghiêm khát ngưỡng muốn được nghe đầy đủ [Phật] đạo, đức Phật tùy cơ duyên ấy lập pháp giáo hóa để khai mở, chỉ bày [cho chúng sanh] nhận hiểu, thể nhập tri kiến Phật, cho nên [kinh văn] mới có phần Chánh văn. Không những chỉ [chúng sanh] đương thời được lợi ích lớn, mà đến hơn 500 năm sau nữa cũng được hưởng nhờ đạo mầu, cho nên [kinh văn] mới có phần Lưu thông.
Lại nữa, [về phương diện] hiển bày hình tướng giáo pháp, phần Tựa [của Kinh văn] chẳng phải vì [hàng phàm phu cầu] thăng tiến trong hai cõi trời người mà nói ra; chẳng phải vì hàng Nhị thừa cầu đạo hạn hẹp mà nói ra; chẳng phải vì [hàng Duyên giác quán pháp] không thông suốt ba cõi mà nói ra; chẳng phải riêng vì giáo pháp dành cho hàng Bồ Tát mà nói ra, nhưng là vì sự chân chánh ngay thật buông bỏ [các pháp] phương tiện, chỉ vì thuyết dạy Phật đạo vô thượng mà nói ra phần Tựa này. Sự chân chánh này, chẳng xem pháp thế gian là chân chánh, chẳng xem trí tuệ [phàm phu] phân biệt chia chẻ [ví như] ánh sáng đom đóm là chân chánh, chẳng xem trí tuệ [của hàng Nhị thừa thấy được] thực thể các pháp [ví như ánh sáng] đèn đuốc là chân chánh, chẳng xem trí tuệ thấu rõ các pháp thế gian và xuất thế gian [của hàng Bồ Tát ví như ánh sáng] trăng sao là chân chánh, mà chỉ xem trí tuệ rõ biết tất cả [của chư Phật ví như] ánh sáng mặt trời mới là chân chánh.
Phần lưu thông [của kinh] này không phải vì những phương tiện quyền biến giả tạm mà nói ra, chẳng phải lưu thông giáo pháp không rốt ráo [của hàng Tiểu thừa], chẳng phải lưu thông giáo pháp chung cùng [của hàng Nhị thừa], chẳng phải lưu thông giáo pháp chuyên biệt [của hàng Bồ Tát], hoàn toàn là để lưu thông Kinh điển [Nhất thừa] rốt ráo trọn vẹn.
Kế đến là chỉ bày bản (chỗ phát khởi ban sơ) và tích (dấu tích sự phát triển). Từ thuở xa xưa lúc [đức Phật] còn tu hành đạo Bồ Tát, đã tuyên dương kinh Pháp Hoa của chư Phật trước đó, cũng có 3 phần thượng, trung và hạ, [trong đó] cũng có đủ bản và tích.
Nhưng dù chư Phật tiếp nối nhau đến vô cùng vô tận, cũng chỉ riêng lấy kinh Pháp Hoa do vị Phật vào thuở tối sơ thuyết giảng gồm 3 phần thượng, trung, hạ mà xem là phần thượng, mới gọi là bản. Vì sao vậy? Vì là do vị Phật thuở tối sơ thuyết giảng nên xem là phần thượng, gọi là bản. Ý nghĩa này có thể biết được.
Rồi trong khoảng giữa thời gian hành hóa, [Bồ Tát] trợ giúp các vị Phật như Phật Đại Thông Trí Thắng, Phật Nhiên Đăng... tuyên dương kinh Pháp Hoa cũng gồm 3 phần, đây được xem là phần trung, được gọi là tích. Vì sao vậy? Vì trước đó đã có phần thượng, đã được gọi là bản.
Ngày nay, [kinh Pháp Hoa do đức Phật Thích-ca] thuyết giảng tại thành Vương xá có ba phần, được xem là phần hạ, cũng gọi là tích.
Cho đến chư Phật vĩnh viễn trong tương lai về sau sẽ dùng sức mạnh mẽ phấn chấn như sư tử để thuyết giảng [kinh Pháp Hoa này] gồm đủ ba phần, nhưng cũng chỉ riêng bản kinh được thuyết giảng vào thuở tối sơ mới được xem là phần thượng, được gọi là bản [mà thôi]. Ví như cây đại thọ tuy có ngàn cành muôn lá, nhưng luận về căn bản thì không thể xem tất cả [những cành lá ấy] cũng đồng như cội gốc. Ví dụ này có thể giải thích rõ [ý nghĩa bản, tích như trên]. Đại lược là như vậy.
Thứ tư nói về tướng trạng của việc quán tâm. Trong việc thúc ước tâm này phải luận đến ba phần là giới, định và tuệ. Tu tập hành trì phải khởi đầu từ giới, tiếp theo là định rồi sau cùng là tuệ. Nhưng [nếu phân chia] về mặt pháp môn thì tuệ được xem là bản, định và giới là tích.
Trong giới, định và tuệ, mỗi yếu tố lại gồm đủ 3 phần [tự, chánh và lưu thông].
Giới có ba phần, các phương tiện trước [để thực hiện là tự], bạch tứ yết-ma [là chánh], đi đến phán quyết chung [(kết cánh) là lưu thông].
Định có ba phần, 25 phương tiện [là chuẩn bị, là tự], [tu tập] chân chánh quán chiếu các duyên [là chánh], khéo nhập, xuất hoặc an trụ trong trăm ngàn pháp môn Tam-muội [là lưu thông].
Tuệ có ba phần, hết thảy các pháp đều do nhân duyên mà sinh ra, [nhìn thấy các pháp] đều không [là tự], [nhìn các pháp theo] trung đạo [là chánh], [thấy các pháp đều] giả tạm [là lưu thông].
Tạm phân ba phần như vậy để chỉ rõ bốn chủng tướng, nên vận dụng ý nghĩa như vậy. [Đó là nói] từ câu “như thị [ngã văn...]” cho đến [cuối kinh văn] “tác lễ nhi khứ”, toàn bộ kinh này có thể chia ra bốn ý chính, nhưng nếu đem so với ý nghĩa vừa nêu ắt thấy có khác biệt. Nếu phân biệt chỉ rõ từ ngữ [theo cách đó] thì rất khó, nên người đọc phải khéo léo tự mình suy xét. [Phải thấy rằng] từ ngữ tuy có chỗ khác biệt nhưng ý nghĩa vẫn tương đồng. Đây chính là ý nghĩa ngàn chiếc xe [đi qua để lại] cùng một dấu vết, muôn dòng nước [chảy về biển] đều cùng một vị mặn.
Phần tự (lời tựa) có chia ra thông tự (tựa chung) và biệt tự (tựa riêng). Từ chữ “như thị...” cho đến “khước tọa nhất diện” là phần thông tự. Từ “nhĩ thời Thế Tôn” cho đến hết phẩm này là phần biệt tự.
Thông tự nghĩa là tương thông, tương đồng với các giáo nghĩa, kinh điển khác. Biệt tự là phần khác biệt, riêng biệt của một bộ kinh. Phần thông tự [có thể chia ra] 5, 6, 7 ý hoặc nhiều hơn. Chẳng hạn, “như thị” là nêu lên tánh thể của việc nghe pháp, “ngã văn” là nói người nghe có khả năng ghi nhớ, nắm giữ [giáo pháp], “nhất thời” là nói việc nghe pháp và ghi nhớ diễn ra trong cùng một thời điểm, chẳng phải vào lúc khác, “Phật” là nói rõ giáo pháp được nghe chính từ kim khẩu Phật, “Vương Xá thành, Kỳ-xà-quật sơn trung” là nêu rõ địa điểm được nghe kinh và ghi nhớ, “dữ đại tỳ-kheo” là nói những người cùng nghe kinh và ghi nhớ. Những điều này đều là nhân duyên hòa hợp lần lượt tác động lẫn nhau mà sinh ra.
KINH VĂN
Tôi nghe như vậy, vào lúc đức Phật ở tại thành Vương Xá, giữa núi Kỳ-xà-quật.
Giải thích chữ “như vậy”
Chữ “như vậy”, Hán văn chép là “như thị”, có nghĩa là 3 đời chư Phật đều an ổn như nhau, đạo hạnh tương đồng, [tùy thuận mà] chẳng tranh chấp với thế gian. Đó là giải thích theo thế giới tất-đàn.
Đại [Trí độ] luận nói: “Nêu lên thời điểm và nơi chốn mới có thể khiến người sanh khởi lòng tin.” Đó là giải thích theo [vị] nhân tất-đàn.
Lại nữa, đối phá ngoại đạo [vì họ] dùng hai chữ, “a” [là không] và “âu” [là có], vốn chẳng phải “như”, chẳng phải “thị”. Đây là giải thích theo đối trị tất-đàn.
Lại nữa, “như thị” là từ ngữ tin thuận. Tin thì có thể nhận hiểu những điều được nghe, thuận thì thành tựu được sự truyền thừa giữa thầy với học trò. Đây là giải thích theo đệ nhất nghĩa tất-đàn.
Vì lẽ nhân duyên được giải thích rất rộng nên ở đây không thể ghi chép hết... Lược giải theo giáo nghĩa, kinh là giáo pháp của chư Phật ba đời, ban sơ đều giống nhau nên gọi là “như thị”. Chư Phật trước đây có phân ra các kinh điển Tiệm giáo, Đốn giáo, hoặc Bí mật giáo, hoặc Bất định giáo. Trong Tiệm giáo lại có Tam tạng giáo (hay Tạng giáo), Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo. Chư Phật ngày nay cũng giống như vậy, cũng có phân chia các kinh điển khác nhau, không thể dùng duy nhất một phương thức để khai mở chỉ bày ra cho hết thảy chúng sanh.
Lại nữa, Phật và A-nan, chỗ nghe không khác nhau, gọi là “như”. Người thuyết giảng làm rõ pháp được thuyết giảng, gọi là “thị”. Ngày nay ngài A-nan truyền lại những lời của Phật như thế nào thì phải giảng giải đúng như thế ấy. Không thể đem pháp tiệm truyền lại thành đốn, pháp quyền thừa truyền lại thành rốt ráo. Nếu sự truyền đạt và giảng giải sai lệch thì kinh văn chẳng gọi là “như”. Kinh văn không “như” thì nghĩa lý chẳng phải “thị”. Ý nghĩa này thật khó nhận hiểu sáng tỏ nên cần phụ giải thêm.
Hơn nữa, nếu y theo Tiệm giáo mà phân biệt, Phật đã giảng rõ, theo tục đế thì có văn tự nhưng nếu thật chân đế ắt không có văn tự. Ngài A-nan truyền lại văn tự của Phật thuộc tục đế, so với những gì Phật thuyết dạy không hề sai khác, cho nên gọi là “như”. Nhân nơi văn tự thế tục mà nhận hiểu được nghĩa lý của chân đế, cho nên gọi là “thị”. Đây chính là ý nghĩa của hai chữ “như thị” được giảng rõ theo Tạng giáo.
Đức Phật giảng rõ “sắc tức là không, không tức là sắc”; sắc với không, không với sắc vốn chẳng phải hai, chẳng phải khác biệt. Không và sắc chẳng khác biệt nhau, đó là “như”, ngay nơi sự đã có chân, đó là “thị”. Ngài A-nan truyền lại lời Phật không sai khác, ấy là “như”, chỗ giảng giải không khác điều được giảng giải, ấy là “thị”. Đó là ý nghĩa của hai chữ “như thị” theo Thông giáo.
Đức Phật giảng rõ trong vòng sanh tử là có giới hạn, còn đạt đến Niết-bàn là không giới hạn. Vượt khỏi sanh tử vẫn còn giới hạn, thể nhập Niết-bàn không còn giới hạn. Ra khỏi Niết-bàn không giới hạn ấy là thể nhập trung đạo. Ngài A-nan truyền lại ý nghĩa này là “ra ngoài cõi có, nhập vào cõi không, vượt ngoài cõi không, nhập vào trung đạo”. So với lời Phật thuyết dạy không khác nên gọi là “như”, từ cạn đến sâu đều không sai lầm nên gọi là “thị”. Đây chính là ý nghĩa hai chữ “như thị” theo Biệt giáo.
Đức Phật cũng giảng rõ sanh tử chính là Niết-bàn, cũng là trung đạo, lẽ nào Niết-bàn lại không phải trung đạo? Pháp giới chân như, thật tánh thật tế, khắp thảy mọi nơi không đâu không phải là pháp Phật. Ngài A-nan truyền lại ý nghĩa này so với lời Phật thuyết dạy không có gì sai khác nên gọi là “như”, như như không động chuyển nên gọi là “thị”. Đây chính là ý nghĩa hai chữ “như thị” theo Viên giáo.
Nếu dùng nghĩa động của tục đế thể nhập nghĩa “như”, đó là theo ý nghĩa theo Tạng giáo. Nếu dùng nghĩa chẳng động của tục đế thì chính là ý nghĩa theo Thông giáo. Nếu dùng các nghĩa “động như”, “nhập như”, ấy là ý nghĩa của Biệt giáo. Nếu dùng nghĩa “bất động như” thì là ý nghĩa của Viên giáo. Đại lược là như vậy.
Nếu theo Đốn giáo thì ý nghĩa của “như thị” tương đồng với Viên giáo. Theo Bất định giáo thì ý nghĩa “như thị” trước sau có sự hỗ tương cho nhau. Theo ý nghĩa Bí mật giáo thì ẩn khuất không truyền. Bày ra [tấm lưới] tám giáo như vậy rộng trùm khắp biển pháp giới, chỉ sợ còn có thất thoát, huống chi chỉ như một mắt lưới giăng ra. Lại như người cùng lúc đón bắt bốn mũi tên không cho rơi xuống đất cũng chẳng dám gọi là nhanh, huống gì kẻ chậm chạp như thúc con lừa đần, đuổi con rùa què, dẫu một còn chưa bắt được, nói gì đến bốn? Đại lược là như thế.
Nay lược nói ý nghĩa “bản tích” để giải nghĩa “như thị” (đúng thật như vậy). Mười phương ba đời dọc ngang đều đúng thật như vậy, cho đến quá khứ xa xôi, hiện tại mênh mang, tương lai mãi mãi, hết thảy cũng đều đúng thật như vậy, biết đâu là “bản” (ban sơ), biết đâu là “tích” (dấu vết)? Cho nên tạm nói rằng, đức Thích-ca Thế Tôn từ thuở ban sơ vừa mới thành đạo đúng thật như vậy, đó gọi là bản. Qua thời gian làm Phật giảng kinh đúng thật như vậy, cho đến ngày nay những kinh điển Phật thuyết giảng đúng thật như vậy, đều gọi là tích.
Lại nữa, những gì ngài A-nan truyền lại đúng thật như vậy đều gọi là tích, những gì đức Phật thuyết giảng đúng thật như vậy đều gọi là bản.
Lại nữa, những gì được truyền đạt thông suốt đúng thật như vậy giữa thầy và trò, chẳng phải mới bắt đầu từ hôm nay, cũng chẳng có khoảng chuyển tiếp trung gian, như thế gọi là bản. Những gì có khoảng trung gian chuyển tiếp cho đến ngày nay, đó gọi là tích.
Nếu giải thích theo nghĩa quán tâm thì các ý nghĩa “như thị” theo [tứ] tất-đàn, giáo tông, bản tích đã nói ở trước, hết thảy đều là pháp nhân duyên sanh. Đó là quán xét theo Thông giáo. Hết thảy nhân duyên vốn là không, vốn là giả hợp, đó là quán xét theo Biệt giáo. [Nếu xem] hai pháp quán [của Thông giáo và Biệt giáo] đều là phương tiện thì thể nhập được ý nghĩa tột cùng của trung đạo. Lại cùng lúc quán chiếu cả Không và Giả (nhị đế) thì đó là cách quán theo cả Thông giáo cũng như Biệt giáo. Như trên đã thấy, quán xét theo trung đạo thì không phải Thông giáo cũng không phải Biệt giáo.
Phần kinh văn tiếp theo [trong phẩm Thí dụ] nói rằng: “Nếu có người tin lời ông nói, tức là thấy được ta, thấy được ông và các vị tỳ-kheo tăng cũng như chư Bồ Tát.”
Đây chính là đoạn văn giảng rõ việc thực hành quán chiếu. “Tin lời” là luận về “cơ”, còn “thấy được” là luận về “ứng”, tức là nói lẽ nhân duyên. Lại nữa, trong sự “tin nhận” cũng có mức độ cạn hoặc sâu, trong chỗ “thấy được” cũng chia ra quyền biến hay chân thật. Từ đó mà phân biệt thành đủ mọi hạng loại, chẳng giống như nhau, tức là giáo nghĩa phân biệt.
Lại nữa, tin nhận kinh văn Pháp Hoa là thấy được chỗ ban sơ của thật tướng. Thấy được sự hóa hiện của Xá-lợi-phất thì thấy được chỗ ban sơ của Phật. Nếu thấy được đức Thích Tôn vừa mới thành đạo, thì cũng thấy được chư Phật trước đây đã thành đạo từ lâu. Nếu thấy được 1.200 tỳ-kheo, 80.000 Bồ Tát, thì cũng thấy được chỗ ban sơ của các vị ấy.
Lại nữa, khi nghe kinh khởi tâm tin nhận không nghi, hiểu rõ được tâm tin nhận sáng suốt thanh tịnh đó tức là thấy Phật; trí tuệ thường sáng suốt phân biệt tức là thấy Xá-lợi-phất; phân biệt số lượng sáng suốt rõ ràng là chúng tỳ-kheo; tâm từ bi thanh tịnh là thấy các vị Bồ Tát. Lược giải về tâm có bốn ý như vậy xoay vần giảng rõ.
Nếu giảng giải những kinh điển khác chỉ dùng ba ý, vì chưa có nghĩa “phát bản hiển tích” (phát khởi chỗ ban sơ để làm sáng rõ ý nghĩa về sau). Nên biết rằng, kinh điển này giảng rõ ba ý tương đồng với những kinh khác, riêng có một ý khác biệt. Đến đây trọn vẹn bốn lượt giải thích ý nghĩa [hai chữ] “như thị”. Đại lược là như vậy.
Giải thích chữ “tôi nghe”
[Hai chữ] “tôi nghe”, Hán văn chép là “ngã văn”, hoặc [cũng có bản kinh chép là] “văn như thị”. Tuy kinh bản không giống nhau nhưng trước sau đều nêu việc “nghe kinh”. Nay xin dẫn ra bốn cách giải thích.
Đại Trí độ luận nói: “Lỗ tai bình thường không hư hoại, âm thanh phát ra trong phạm vi có thể nghe, người khởi tâm muốn nghe. Các duyên như vậy hòa hợp đủ nên nói rằng ‘tôi nghe’.”
Có người hỏi: “Lẽ ra nên nói ‘tai nghe’, sao lại nói ‘tôi nghe’?” Đáp rằng: “Nói ‘tôi’ đó là chủ thể của lỗ tai. Nêu chữ ‘tôi’ lên là để gồm hết các duyên [như trên]. Đó là giải thích theo thế giới [tất-đàn].”
Ngài A-nan lên tòa cao cất tiếng nói “tôi nghe” thì đại chúng đều bi thương, bởi vừa thấy đức Như Lai đó mà nay đã phải nói lại rằng “tôi nghe”. Các vị A-la-hán đều nói kệ, nhắc rõ lời Phật dạy. Ngài Văn-thù [khi chủ trì] kết tập, trước tiên nêu đề kinh, tiếp theo phải nói “tôi nghe như vậy”. Khi ấy “đại chúng buồn thương”, đó là giải thích theo vị nhân [tất-đàn].
Ngài A-nan khi lên tòa cao cất tiếng nói “tôi nghe” là để xua tan sự nghi hoặc của đại chúng. Vì thân hình ngài A-nan tương tự như Phật, chỉ thấp hơn Phật ba lóng tay, [nên khi vừa lên tòa cao thì trong] đại chúng [khởi sanh ba mối nghi]. [Một là có người] nghi rằng đức Thích Tôn xuất hiện trở lại, [hai là có người] nghi rằng Phật từ phương khác đến, [ba là có người] nghi rằng ngài A-nan nay đã thành Phật. Khi nói rõ “tôi nghe” thì ba mối nghi ngờ như thế liền tiêu tan. Đây là giải thích theo nghĩa đối trị [tất-đàn].
[Lại nữa,] ngài A-nan chứng quả hữu học, do tùy thuận thế tục mới nói là “ngã văn” (tôi nghe). Theo nghĩa rốt ráo (đệ nhất nghĩa) thì không có “tôi”, cũng không có “nghe”. Các giải thích từ xưa đến nay đều đồng thuận theo ý nghĩa nhân duyên như vậy. Đó là giải thích theo ước giáo.
Luận giải nói rằng, phàm phu có ba loại chấp ngã là ngã kiến, ngã mạn và ngã danh tự. Người chứng quả hữu học có hai loại, bậc chứng quả vô học vẫn còn một loại. Ngài A-nan chứng quả hữu học, không còn chấp ngã tà vạy, có khả năng chế phục ngã mạn, nhưng tùy theo thế tục mà dùng “ngã danh tự” nên không có lỗi. Đây là giải thích ý nghĩa của “ngã” theo Tạng giáo.
Theo luận Thập trụ Tỳ-bà-sa thì rơi vào bốn câu chấp “ngã” đều là tà kiến. Trong chánh pháp của Phật không có ngã, ai là người nghe? Đây là nói theo ý nghĩa của Thông giáo.
Kinh điển Đại thừa nói rằng, ngài A-nan là bậc đa văn, biết rằng “ngã” và “vô ngã” vốn chẳng phải hai, đồng thời cũng phân biệt rõ “ngã” và “vô ngã”. Đây là giải thích theo ý nghĩa của Biệt giáo.
Lại nữa, ngài A-nan rõ biết ngã và vô ngã vốn chẳng phải hai, nhưng vì phương tiện [thị hiện] làm thị giả cho [Phật] để truyền nối giữ gìn trí tuệ vô ngại của Như Lai, dùng âm thanh tự tại để truyền [thừa giáo pháp] quyền và thật, nên chẳng có gì là không làm được. Đây là giải thích ý nghĩa của “ngã” theo Viên giáo.
Lại nữa, kinh Chánh Pháp Niệm giải thích rõ là có ba vị [mang tên] A-nan. [Vị thứ nhất là] A-nan-đà (Ānanda), Hán dịch là Hoan Hỷ, là vị truyền giữ tạng kinh điển Tiểu thừa. [Vị thứ hai là] A-nan-bạt-đà (Ānandabhadra), Hán dịch là Hoan Hỷ Hiền, [là người] thọ trì Tạp tạng. [Vị thứ ba là] A-nan-sa-già (Ānandasāgara), Hán dịch là Hoan Hỷ Hải, [là người] thọ trì Phật tạng. Trong kinh A-hàm thì có Điển Tạng A-nan, [là người] thọ trì Bồ Tát tạng. Nói chung thì đây chỉ là một vị có đủ bốn đức, truyền thừa bốn loại giáo pháp. Ý nghĩa này tự nó đã rõ ràng. Đại lược là như vậy.
Theo ý nghĩa “bản tích” để giải thích thì nếu chưa hội nhập, có thể nói rằng ngài A-nan tùy thuận thế tục nên tự xưng là “ngã”, còn đi vào chỗ “phát tích hiển bản”, nêu rõ việc hiện nay để hiển bày chỗ ban sơ, thì [thuở ban sơ ở] chỗ đức Phật Không Vương, [ngài A-nan với Phật] đồng thời phát tâm, ngày nay [ngài A-nan] dùng phương tiện thị hiện làm người thọ trì truyền giữ giáo pháp, có gì là không thể?
Giải thích theo ý nghĩa quán tâm thì các pháp đều do nhân duyên sanh, tức là không, tức là giả, tức là trung đạo. Tức không, là nói “ngã” và “vô ngã”. Tức giả, là nói sự phân biệt ngã. Tức trung, là nói chân ngã nhiệm mầu. Đại lược là như vậy.
Theo các bản thích nghĩa kinh văn thì ngài A-nan sinh ra vào đêm đức Phật thành đạo, [sau đó] theo làm thị giả cho Phật hơn 20 năm. Vậy lúc chưa làm thị giả thì lẽ ra không nghe [những lời Phật dạy]. Luận Đại trí độ nói: “Lúc ngài A-nan kết tập giáo pháp có tự nêu ra: ‘Khi Phật chuyển pháp luân lần đầu, tôi chưa được gặp Phật, về sau mới dần dần được nghe.’ Như vậy thì biết rằng, không nhất thiết là nghe [theo nghĩa thông thường].”
Các bản giảng giải xưa thì cho rằng, ngài A-nan được sức [gia trì của] Tam-muội Phật giác nên tự mình có thể nghe được [những kinh Phật thuyết trước đó].
Kinh Báo Ân nói rằng: “Ngài A-nan thỉnh cầu bốn việc. Trong đó có nguyện ‘những kinh chưa được nghe xin Phật giảng [cho nghe]’.” Lại nói: “Từ kim khẩu Phật bí mật [nói riêng] cho A-nan nghe.”
Thai kinh nói rằng: “Đức Phật [sau khi nhập Niết-bàn], từ trong kim quan đưa cánh tay vàng [ra bên ngoài], vì ngài A-nan mà tái hiện hình tướng nhập thai.” Cho nên, các kinh [từ lúc nhập thai ngài] đều được nghe, huống là những kinh thuyết ở nơi khác [sau này]. Bản văn này nói rằng ngài A-nan ghi nhớ được là do bổn nguyện thọ trì giáo pháp của chư Phật trước đây, cũng đều giống như ngày nay [thọ trì giáo pháp của Phật Thích-ca]. Đó là giải thích theo nhân duyên.
Nếu [giải thích theo] ước giáo thì ngài A-nan-đà (Hoan Hỷ) khuôn mặt sáng như trăng tròn, mắt đẹp như hoa sen xanh, tự thân đón nhận lời Phật dạy như [nước rót] vào bình, rồi truyền giáo pháp lại để giáo hóa chúng sanh như [rót nước] sang bình khác [không hề vơi mất]. Đây là truyền lại giáo pháp phàm phu có thể nghe được. Ngài A-nan-bạt-đà (Hoan Hỷ Hiền) thì trụ nơi địa vị hữu học, chứng đắc nguyện Không vô tướng, các căn như mắt, tai, mũi, lưỡi... đều không khiếm khuyết, [có khả năng] thọ trì truyền lại giáo pháp mà phàm phu không thể nghe. Ngài Điển Tạng A-nan thì đa phần những điều [Phật thuyết đều] thọ nhận giữ gìn, cũng giống như đám mây lớn chứa giữ nước mưa. Đây là thọ trì truyền lại giáo pháp của hàng Bồ Tát. Ngài A-nan-sa-già (Hoan Hỷ Hải) là bậc đa văn, tự nhiên có thể hiểu rõ ý nghĩa thường và vô thường. Nếu ai biết rằng Như Lai thường không thuyết pháp thì được gọi là bậc Bồ Tát có đủ phẩm hạnh đa văn. [Có câu rằng:] “Phật pháp như nước biển lớn chảy cả vào tâm ngài A-nan.” Đây gọi là thọ trì truyền lại giáo pháp rốt ráo chân đế. Kinh điển ngày nay đều là do ngài A-nan-sa-già (Hoan Hỷ Hải) thọ trì truyền lại, thuộc giáo pháp chân đế rốt ráo nhiệm mầu.
Nếu giải thích theo ý nghĩa bản tích thì cả bốn ý nói trên đều thuộc về tích, còn chỗ phát khởi ban sơ thì không thể nghĩ bàn. Đại lược là như thế.
Nếu giải thích theo ý nghĩa quán tâm thì quán pháp nhân duyên là quán về giáo pháp phàm phu có thể nghe hiểu được. Quán các pháp đều không là quán về giáo pháp phàm phu không thể nghe hiểu được. Quán các pháp giả tạm là quán về giáo pháp của hàng Bồ Tát. Quán pháp trung đạo là quán về giáo pháp rốt ráo chân đế. Đại lược là như vậy. Mỗi một niệm quán chiếu đều là sự quán chiếu nhiệm mầu...
Giải thích chữ “vào lúc”
[Bây giờ nói về] hai chữ “vào lúc”, Hán văn chép là “nhất thời”. Ngài Tăng Triệu nói rằng: “[Thời ở đây] là thời điểm đấng Pháp Vương khai mở vận hội tốt lành.”
Về [chữ thời theo] thế giới [tất-đàn], luận giải nói rằng: “[Có thật thời và giả thời,] ca-la là thật thời, là thời điểm chỉ bày cho đệ tử. Như giờ ăn đắp y [trì bát] là [hiểu theo] vị nhân [tất-đàn]. Tam-ma-da là giả thời, phá trừ tà kiến ngoại đạo, là đối trị [tất-đàn]. Nếu thời và đạo hòa hợp nhau, đó là đệ nhất nghĩa tất-đàn. Đại lược là như thế.
Nếu [trong hội chúng nghe kinh gồm những bậc] chứng bốn thánh quả thì nghĩa “nhất thời” thuộc về bậc hạ; nếu có ba người cùng chứng đắc đệ nhất nghĩa thì nghĩa “nhất thời” thuộc về bậc trung; nếu đều là [Bồ Tát] đăng địa trở lên thì nghĩa “nhất thời” thuộc về bậc thượng; nếu đều là Bồ Tát Sơ trụ trở lên thì nghĩa “nhất thời” thuộc bậc thượng thượng. Nay [xét hội chúng] trong kinh này là thuộc về bậc thượng thượng. Đó là phân biệt giải thích theo Tạng giáo (ước giáo).
[Nếu xét chữ “nhất thời” theo nghĩa] bản tích thì những giải thích như vừa nói trên đều thuộc về tích, rất lâu xa về trước mới thuộc về bản.
Lại theo nghĩa quán tâm mà xét thì trước tiên là quán tánh không, tiếp theo là quán sự giả tạm và sau cùng quán lẽ trung đạo. Đó là thứ tự của sự quán tâm. Nếu ngay nơi sự quán tâm thấy được [vạn pháp] là rỗng không, là giả tạm, là trung đạo, thì đó là quán tâm viên mãn nhiệm mầu.
Giải thích chữ “Phật”
Vào thuở kiếp sơ [chúng sanh] không có bệnh, đến giai đoạn kiếp tận thì nhiều bệnh. Vào thuở tuổi thọ trung bình lâu dài thì chúng sanh vui thú, đến giai đoạn tuổi thọ ngắn ngủi thì khổ đau. Cõi phía đông thiên hạ thì chúng sanh giàu có và trường thọ. Cõi phía tây thiên hạ có nhiều châu báu, nuôi nhiều trâu dê. Cõi phía bắc thiên hạ [chúng sanh sống bình đẳng], không có người trị vì, không có kẻ thần thuộc.
Những thời gian và xứ sở như kể trên không thể cảm ứng được Phật ra đời. [Trong khoảng thời gian từ lúc tuổi thọ loài người là] tám vạn tuổi [giảm dần đến] lúc còn 100 tuổi, nơi cõi phía nam thiên hạ, [chúng sanh tuy] chưa thấy quả nhưng đã biết tu nhân, cho nên Phật ra đời ở xứ này.
[Trong kinh Đại thừa, Bà-la-môn Vô Thắng bảo] Ly-xa tử rằng: “Đức Phật ra đời ở nước Ma-kiệt-đà như hoa sen lớn mọc lên trong hồ nước lớn.” Vô Thắng lại nói: “Phật đối với chúng sanh bình đẳng không phân biệt, do các ông mê đắm năm món dục nên không thấy Phật, chẳng phải Phật tránh bỏ các ông mà ra đời tại xứ Ma-kiệt-đà.” Đây là giải thích theo nghĩa thế giới tất-đàn.
Nếu mặt trời không mọc lên thì các loại hoa chưa sanh hoặc đã sinh ra trong hồ kia chắc chắn đều phải héo úa mà chết. Đức Phật ra đời liền có các hạng sát-đế-lợi, bà-la-môn, cư sĩ, Tứ thiên vương cho đến chư thiên cõi trời Hữu đỉnh [vây quanh]. Đây là giải thích theo vị nhân tất-đàn.
Do những chúng sanh có căn tánh thuộc hàng tam thừa mà cảm ứng được sự ra đời của Phật, còn những hạng chúng sanh khác không thể cảm được. [Cho nên nói rằng:] “Khéo dứt nhân sanh về cõi trời Hữu đỉnh mới có thể vĩnh viễn vượt qua dòng sanh tử.” Đây là nói theo đối trị tất-đàn.
Đối với tánh pháp thì Phật chẳng hề dao động, cũng không có ra đời, tuy có thể khiến cho chúng sanh do cảm ứng mà thấy như Phật có hoạt động, có ra đời, nhưng đức Như Lai thật không có hoạt động, không có ra đời. Đây là nói theo đệ nhất nghĩa tất-đàn.
Những giải thích như trên cũng đều là lý nhân duyên [cảm ứng].
Phật là danh xưng của bậc giác ngộ rõ biết. Ngài ngồi dưới gốc [bồ-đề] nơi đạo tràng mà giác ngộ rõ biết hết thảy các tướng chung và riêng của [các pháp] thế gian và xuất thế gian. Giác ngộ các pháp thế gian, đó là khổ đế và tập đế. Giác ngộ các pháp xuất thế gian, đó là diệt đế và đạo đế. Phật cũng có khả năng giáo hóa giúp người khác giác ngộ. [Đó là hiện tướng] thân hình cao một trượng sáu thước, sống đến 80 tuổi, hình dáng như vị tỳ-kheo già. Dưới gốc bồ-đề, ngài đoạn trừ được cả 34 tâm chánh sử và tập khí. Đây là [hình tượng] Phật tự giác, giác tha theo Tạng giáo.
Lại nữa, Phật mang hình dạng tỳ-kheo, thị hiện thân tôn quý đặc biệt, ngồi dưới gốc cây [bồ-đề] chỉ trong một niệm tương ưng liền đoạn sạch hết thảy tàn dư tập khí. Đây là [hình tượng] Phật tự giác, giác tha theo Thông giáo.
Chỉ nói việc hiện tướng tôn quý đặc biệt ngồi trên tòa sen nhận danh xưng Phật, đó là [hình tượng] Phật tự giác, giác tha theo Biệt giáo.
Nếu ẩn đi ba tướng vừa nêu, chỉ thị hiện tướng như hư không không thể nghĩ bàn, thì đó là [hình tượng] Phật tự giác, giác tha theo Viên giáo.
Cho nên, trong kinh dạy rằng: “Hoặc thấy thân Như Lai cao một trượng sáu thước, hoặc thấy thân [Như Lai] có nhỏ hoặc lớn, hoặc thấy [thân Như Lai] ngồi trên tòa sen vì trăm ngàn vị Thích-ca thuyết giảng pháp môn tâm địa, hoặc thấy thân [Như Lai] đồng với hư không, biến hiện khắp pháp giới không có sự phân biệt.” Chính là những ý nghĩa chỗ này. Đây là cách phân biệt theo Tạng giáo.
Nếu giải thích theo ý nghĩa bản tích thì có một vị Phật là bản (ban sơ), ba vị Phật là tích (truyền thừa về sau). Trong khoảng trung gian lại thị hiện vô số lần sanh, vô số lần diệt, hết thảy đều là tích, nhưng chỉ có bốn vị Phật căn bản được xem là bản.
Hoặc giải thích theo ý nghĩa quán tâm thì là quán tâm do nhân duyên sanh. Trước hết [thấy các pháp] là rỗng không, thứ đến là giả tạm, sau thấy khoảng giữa hết thảy đều là chỗ nhận hiểu còn thiên lệch hẹp hòi. [Chỉ khi ngay lúc] quán tâm [thấy tất cả đều] là không, là giả tạm, là trung đạo thì đó mới chính là chỗ giác ngộ viên mãn. Đại lược là như vậy.
Giải thích chữ “ở tại”
[Chữ “ở tại”], Hán văn chép là “trụ”, có nghĩa là “năng trụ” (chủ thể) ở tại nơi “sở trụ” (nơi trụ). Nơi trụ ở đây chính là thành Vương [Xá] thuộc cõi Ta-bà. Chủ thể trụ là [đức Thế Tôn với] bốn oai nghi đang còn trụ thế chưa diệt độ. Đó là giải thích chữ “trụ” bằng lý nhân duyên theo thế giới tất-đàn.
Lại nữa, trụ có nghĩa là trụ nơi mười nghiệp lành, trụ nơi bốn cảnh giới thiền. Đó là giải thích chữ trụ bằng lý nhân duyên theo vị nhân tất-đàn.
Lại nữa, trụ có nghĩa là trụ nơi ba pháp tam-muội. Đây là giải thích chữ trụ bằng lý nhân duyên theo đối trị tất-đàn.
Lại nữa, trụ có nghĩa là trụ nơi [Tam-muội] Thủ-lăng-nghiêm. Đây là giải thích chữ trụ bằng lý nhân duyên theo đệ nhất nghĩa tất-đàn. Đại lược là như vậy.
Nếu giải thích theo ước giáo, thì Tạng giáo cho rằng Phật từ nơi tích môn phát khởi đức vô lậu chân thật, trụ nơi Niết-bàn hữu dư hoặc vô dư; Thông giáo cho rằng Phật từ nơi thể môn phát khởi đức chân thật, trụ nơi Niết-bàn hữu dư hoặc vô dư; Biệt giáo cho rằng Phật tuần tự theo các pháp môn mà vào, trụ nơi tạng bí mật; Viên giáo cho rằng Phật từ các pháp môn chẳng theo thứ tự mà vào, trụ ở tạng bí mật. Ba vị Phật [theo giải thích] của Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo thì năng trụ, sở trụ đều thô. Vị Phật [theo giải thích của] Viên giáo thì năng trụ, sở trụ đều mầu nhiệm. Theo kinh Pháp Hoa này thì chính là Phật của Viên giáo trụ nơi chỗ nhiệm mầu.
Nếu dùng nghĩa “bản tích” để giải thích thì theo Tạng giáo, đức Phật đúng ra đã nhập Niết-bàn, do tâm từ bi thương xót [chúng sanh] mà để lại vết tích thân Phật vẫn trụ ở đời. Thông giáo thì cho rằng Phật do thệ nguyện từ bi cứu giúp hóa độ chúng sanh, thực hiện các Phật sự. Biệt giáo và Viên giáo đều cho rằng Phật dùng tâm từ bi huân tập pháp tánh, thương xót chúng sanh nên rủ lòng ứng hiện vào pháp giới. Cho nên biết rằng [theo bốn giáo lý ấy thì] Phật vốn trụ ở nơi Phật trụ, [đó là theo nghĩa bản], vì lòng từ bi [thị hiện] trụ nơi thành Vương Xá thuộc cõi Ta-bà [với hình thể đủ bốn] oai nghi, đó gọi là trụ [theo nghĩa] tích.
Nếu dùng nghĩa quán tâm để giải thích thì việc quán trụ nơi ngoại cảnh, hoặc trụ nơi cảnh giới vô thường, đó tức là những cảnh rỗng không, giả tạm, trung đạo. Dùng pháp không chỗ trụ để trụ trong những cảnh ấy nên mới gọi là trụ.
Giải thích tên gọi “thành Vương Xá”
Thành Vương Xá, tên Phạn ngữ là La-duyệt-kỳ Già-la (Rājagṛha). Chữ La-duyệt-kỳ, Hán dịch là Vương Xá, chữ Già-la dịch là thành.
Nước này tên là Ma-già-đà, có nghĩa là bất hại, vì ở đây không dùng những hình phạt giết hại. Tên nước này cũng gọi là Ma-kiệt-đề, Hán dịch là Thiên La. Thiên La là tên của một vị vua [xưa kia], được dùng làm tên nước. Vua Thiên La là phụ vương của vua Bác Túc. Trong một kiếp xa xưa trước đây, vua Thiên La cai trị một ngàn nước nhỏ. Một lần vua đi tuần thú ngang qua vùng núi, bỗng gặp một con sư tử cái, mọi người đều chạy tứ tán, [bỏ vua ở lại đơn độc]. Khi ấy sư tử cái lại cùng vua giao phối. Về sau, khi [mang thai] đã đủ ngày tháng, sư tử đi vào cung điện của vua sanh con. Vua biết đó là con của mình [với sư tử] nhưng lại nói dối rằng do mình không có con nên [đứa con này] có lẽ trời ban cho, liền nhận làm con nuôi, [rồi phong] làm thái tử. Trên hai chân thái tử có màu vằn vện nên người thời ấy gọi là Bác Túc (chân vằn vện).
Về sau [thái tử] nối ngôi vua, rất thích ăn thịt, ban lệnh cho nhà bếp không được thiếu thịt. Có một lần bị thiếu thịt, người đầu bếp gấp rút quá liền dùng thịt của một đứa bé vừa mới chết ở phía tây trong thành để nấu dâng lên vua. Vua khen thịt rất ngon, ban lệnh phải thường dùng đúng loại thịt này. Từ đó người đầu bếp mỗi ngày đều phải bắt một người giết thịt, khiến cho khắp nước kinh sợ oán hận. Một ngàn nước nhỏ cùng nhau khởi binh lật đổ vua Bác Túc, giam vua vào bên trong vùng núi Kỳ-xà-quật.
Các quỷ la-sát [trong vùng] theo giúp vua, tôn làm Quỷ vương. Nhân đó vua liền cùng với thần núi ở đây lập lời nguyền sẽ bắt 1.000 vị vua [nước nhỏ] để cúng tế thần núi. Sau đó bắt được 999 vua, chỉ còn thiếu vua Phổ Minh, lại tiếp tục tìm kiếm bắt được. [Vua Phổ Minh] khóc lóc to tiếng nói rằng, suốt cả đời chỉ nói lời chân thật mà nay phải thất hứa [vì có việc chưa làm xong]. Vua Bác Túc [nghe vậy] liền thả cho về nước.
Vua Phổ Minh về nước rồi lập tức mở hội đại bố thí và lập thái tử. [Xong việc quay trở lại chịu chết,] nhưng đến lúc bị mang ra giết vẫn tỏ ra vui vẻ, trong lòng hết sức an ổn. Vua Bác Túc [lấy làm lạ lùng nên] hỏi, [vua Phổ Minh] liền trả lời là do đã được nghe giáo pháp của bậc thánh [nên dù chết cũng vui vẻ].
Nhân đó liền thuyết pháp cho vua Bác Túc nghe, hết lời xưng tán tâm từ và chê trách sự giết hại. Tiếp theo liền nói kệ về bốn ý nghĩa vô thường. Đại lược là như vậy.
Vua Bác Túc nghe pháp rồi liền chứng đắc địa vị Không, bình đẳng, tức là Sơ địa. Sau đó, một ngàn vị vua [của các nước nhỏ] mỗi người đều lấy một giọt máu và ba sợi tóc để cúng tế thần núi như lời thề nguyền [trước đây].
Vua Bác Túc cùng với 1.000 vị vua [nước nhỏ] cùng nhau dựng lập thành quách nhà cửa, đặt kinh đô giữa 5 ngọn núi lập thành một nước lớn, mỗi vua trong số 1.000 vua nước nhỏ đều được truyền lại cho con cháu nối dõi, lần lượt thay nhau cai trị nước lớn.
[Bấy giờ,] nhân dân trong vùng giữa năm ngọn núi 7 lần làm nhà là 7 lần bị hỏa hoạn. Mọi người đều bàn tán với nhau rằng: “Do chúng ta phước mỏng nên mới bị lửa thiêu đốt nhiều lần, còn đức vua phước lớn nên cung vua không bị cháy, từ nay nên xây dựng nhà cửa theo như cung vua.” Nhờ đó không còn bị hỏa hoạn nữa nên liền gọi tên thành là Vương Xá, [nghĩa là nhà của vua].
Lại nữa, vua Bác Túc cùng với 1.000 vị vua đều dựng lập nhà cửa trong thành này, cho nên gọi là Vương Xá.
Lại nữa, vua Bác Túc sau khi chứng đạo liền tha [chết], trả tự do cho 1.000 vị vua. Thành này có 1.000 vị vua được xá tội nên gọi là Vương Xá (王赦), nhưng trải qua nhiều đời nên âm xá (赦) [là tha tội] đã chuyển dần thành chữ xá (舍) là nhà cửa.
Các nhân duyên như trên được trích từ Đại Trí độ luận và các kinh điển khác.
Nếu giải thích theo ước giáo thì trong kinh Tượng Pháp quyết nghi nói rằng: “Chỗ thấy của mỗi người trong đại chúng không giống nhau, hoặc thấy nơi đất rừng Sa-la toàn đất cát, cây cỏ, vách đá... hoặc thấy bảy món báu thanh tịnh trang nghiêm. Hoặc thấy khu rừng này là nơi đi đến của ba đời chư Phật. Hoặc thấy rừng này là cảnh giới thể pháp thể chân thật không thể nghĩ bàn của chư Phật. Theo đó mà xét thì biết rằng ý nghĩa về chỗ trụ có bốn cách nhìn không giống nhau. Về chỗ trụ đã như vậy thì đối với chủ thể trụ cũng vậy. Đây là cách phân biệt [giải thích] theo Tạng giáo (ước giáo).
[Những cách giải thích theo ý nghĩa] bản tích và quán tâm sẽ bàn đến sau.
Giải thích tên gọi “núi Kỳ-xà-quật”
Núi Kỳ-xà-quật là phiên âm từ Phạn ngữ Gṛdhrakūṭa, Hán dịch là Linh Thứu, cũng gọi là Thứu Đầu, cũng gọi là Lang Tích. [Chim thứu] cũng gọi là lương thư hay vương sư, chính là loài chim mà tác giả bài thơ vịnh trong Kinh Thi gọi là chim thư cưu. Sách Nhĩ nhã nói chim này giống với chim cú.
Lại có giải thích rằng, đỉnh núi có hình dạng tương tợ như [đầu] chim thứu nên đặt tên là núi Thứu.
Lại có người nói rằng phía nam của núi có rừng thi-đà, chim thứu ăn [xác người chết ở đó] rồi tụ về đậu trên đỉnh núi này, nên người thời ấy gọi là núi Thứu.
Lại có giải thích rằng, chư Phật trước đây và hiện nay đều trụ tại núi này. Sau khi Phật diệt độ thì có các vị A-la-hán trụ. Chánh pháp diệt mất thì có các vị Phật Bích-chi trụ. Khi không có Phật Bích-chi thì quỷ thần trụ ở đây.
Vì là nơi các bậc thánh linh cư ngụ, lại có ba nguyên nhân nói trên nên người đời gọi là núi Linh Thứu.
[Nơi đây] có 5 chỗ yên tĩnh tu tập. [Thứ nhất là] Bệ-bà-la-bạt-thứ, Hán dịch là động Thiên chủ, thứ hai là Tát-đa-bát-na-cầu-ha, Hán dịch là động Thất Diệp, thứ ba là Nhân-đà-thế-la-cầu-ha, Hán dịch là núi Xà Thần, thứ tư là Tát-bá-thứ-hồn-trực-ca-bát-bà-la, Hán dịch là núi Thiếu Độc Lực, thứ năm là núi Kỳ-xà-quật.
Có người hỏi rằng: “Vào thời kiếp hỏa, trời đất rỗng rang trong sáng, làm sao có thể nói chư Phật trước sau đều trụ tại núi này?”
Trả lời: “Khi kiếp sau đó đang hình thành vừa sắp hiện ra, những người có thần thông đều biết được tên gọi trước kia, liền lấy đó làm tên gọi hiện tại. Lấy ví dụ như người kiếp trước có họ Cù-đàm [thì sinh ra] cũng dùng họ ấy đặt tên hiện nay.”
Nếu giải thích theo ước giáo [về tên] núi [Kỳ-xà-quật] thì ý nghĩa cũng tương tự như cách giải thích về thành [Vương Xá]. Đại lược là như vậy.
Nếu giải thích về [tên thành và tên núi] theo ý nghĩa quán tâm thì chữ vương [trong Vương Xá] tức là tâm vương, chữ xá tức là năm ấm. Tâm vương tạo ra nhà cửa [ấy là năm ấm]. Nói theo nghĩa tích thì nhà cửa năm ấm ấy đều là không. Nghĩa không ấy là thành quách Niết-bàn.
Nếu quán xét cạn cợt thì chỉ thấy đất đai, cây cối. Nếu quán xét thấu triệt thể tánh căn nhà năm ấm đó thì thấy là rỗng không. Tánh không ấy là thành quách Niết-bàn. Đó là giải thích theo Thông giáo.
Nếu quán xét căn nhà năm ấm đó, khi nhân [tạo ra chúng] đã diệt thì sắc [ấm] sẽ đạt đến sắc chân thường. Thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm cũng đều như vậy.
Bốn phẩm đức [thường, lạc, ngã, tịnh] vốn thường là chỗ dạo chơi của chư Phật. Nếu quán chiếu năm ấm chính là tánh pháp thì tánh pháp vốn không có thọ, tưởng, hành, thức, hết thảy chúng sanh chính là Niết-bàn, không thể lại có diệt mất. Đó là ngôi nhà rốt ráo rỗng không vắng lặng. Niết-bàn như vậy chính là thực thể chân như. Đại lược là như vậy.
[Bây giờ] giải thích tên núi theo ý nghĩa quán tâm. Nếu quán sắc ấm [tự nó vốn không biết], đó là núi; thức ấm là Linh; ba ấm [còn lại] là Thứu. Quán chiếu “Linh Thứu” ấy là vô thường, tức là quán xét phân tích. Quán “Linh Thứu” ấy vốn là không, tức là quán chiếu tánh thể.
Quán “Linh” tức là tánh của trí, rõ biết nhân trí tuệ trang nghiêm. [Quán] “Thứu” tức là nhân duyên tụ tập, là phước đức trang nghiêm. [Quán] “núi” tức là tánh pháp chánh nhân không lay động. Ba pháp như vậy gọi là tạng bí mật, [chư Phật] tự mình an trụ trong [các pháp] ấy và cũng vận dụng để hóa độ người.
Phần tiếp theo nói rằng “Phật tự mình an trụ trong Đại thừa”, đó là hai cách quán của Biệt giáo và Viên giáo. Đại lược là như vậy.
Giải thích chữ “giữa”
Chữ “giữa”, Hán văn chép là “trung”, [nghĩa là khoảng giữa]. Đức Phật chuộng theo khoảng giữa. [Ngài] thăng lên giữa cõi trời vào khoảng giữa ngày, đản sanh vào một đất nước ở khoảng giữa [thế giới] và nhập Niết-bàn vào khoảng giữa đêm. Tất cả đều biểu thị ý nghĩa khoảng giữa, tức là Trung đạo. Nay [Phật] ở [trong thành Vương Xá] giữa núi [Kỳ-xà-quật] thuyết giảng giáo pháp Trung đạo.
GIẢI THÍCH VỀ THÍNH CHÚNG
KINH VĂN
Cùng với hội chúng đại tỳ-kheo 12.000 vị, hết thảy đều là các bậc A-la-hán.
Đại chúng cùng nghe [thuyết giảng kinh này] có ba hạng. Đầu tiên [nói đến] các vị Thanh Văn, sau là chư Bồ Tát và cuối cùng là tạp chúng [gồm hết thảy các thành phần khác]. Các kinh khác đa phần cũng đều như vậy.
[Các chú giải] xưa phân ra hai mặt là sự tướng và ý nghĩa. Về sự tướng thì xét theo [hai yếu tố là] hình tích và sự thân cận. Các vị Thanh văn mang hình tướng xuất tục, hành trạng gần gũi đức Như Lai, trong việc nghe kinh được xem là thân, do vậy [các vị] được kể ra trước tiên. Chư thiên và loài người hình thể y phục khác nhau, hành trạng thì không được kề cận phụng sự [Như Lai], nên trong việc chứng kinh được xem là sơ, do vậy kể ra cuối cùng. Chư Bồ Tát hình thể không theo khuôn khổ, hành trạng không có nơi chốn nhất định, đã không giống với người thế tục, lại cũng khác biệt với chúng tăng, ở về khoảng giữa không cao không thấp, cho nên được kể ra ở khoảng giữa.
Về mặt ý nghĩa thì các vị Thanh văn ham thích Niết-bàn, còn hàng chư thiên và loài người thì bám chấp nơi sanh tử, mỗi bên đều có sự thiên lệch. Chư Bồ Tát thì không ham thích [Niết-bàn] cũng chẳng bám chấp [sanh tử], ở nơi khoảng giữa mà cầu tông chỉ [Phật], nên được xếp vào giữa hai bên. Luận văn cũng giải thích theo như ý này. Đây là một cách giải thích có vẻ như thuộc về hai phương thức. Nói về sự tướng thì giải thích [như trên] là lý nhân duyên, còn xét về ý nghĩa thì giải thích [như trên] lại theo ước giáo. Đại lược là như vậy.
Nếu giải thích theo ý nghĩa bản tích thì các vị Thanh văn vốn thật bên trong ẩn tàng công hạnh Bồ Tát, bên ngoài thị hiện hình tướng Thanh văn, có bao giờ lại [khởi tâm] ham thích Niết-bàn? Còn hàng chư thiên và loài người [trong Pháp hội này], hết thảy đều là Đại Bồ Tát, có lẽ nào lại bám chấp sanh tử? [Cho nên] tất cả đều chỉ là hình tích [hiển lộ] để dẫn dắt [những kẻ rơi vào] nhị biên, nhưng thực chất căn bản chưa hề rời Trung đạo.
Nếu giải thích theo ý nghĩa quán tâm thì quán chiếu từ chỗ giả tạm đi vào tánh không là nghiêng về sự phá trừ sanh tử, còn quán chiếu từ tánh không thấy rõ được sự giả tạm là nghiêng về phá trừ [sự bám chấp] Niết-bàn. Chân chánh quán chiếu theo Trung đạo thì không rơi vào hai điều đó. Đại lược là như vậy.
I. Hội chúng Thanh văn
[Kinh văn] liệt kê [hội chúng] Thanh văn chia làm hai hạng, trước là tỳ-kheo, sau mới đến tỳ-kheo-ni. [Trong chúng] tỳ-kheo lại cũng chia làm hai hạng, trước tiên kể những vị được nhiều người biết đến, tiếp theo mới nói những vị ít người biết hơn. Theo cách gọi xưa kia là “đại danh văn” và “tiểu danh văn”, nhưng cách gọi như vậy là không có căn cứ. Nay y theo kinh văn để phân biệt như trên.
A. Chúng tỳ-kheo
Những vị tỳ-kheo nhiều người biết đến
Về những vị [Thanh văn] được nhiều người biết đến, sẽ trình bày theo 6 yếu tố. Thứ nhất là phẩm loại, thứ hai là số lượng, thứ ba là địa vị, thứ tư là sự xưng tán, thứ năm là danh hiệu được kể ra và thứ sáu là kết lại.
1. Phẩm loại
Về phẩm loại thì tất cả các vị đều là đại tỳ-kheo có khí chất [siêu phàm] như nhau. Ví như kẻ sang người hèn trong khắp thiên hạ, mỗi người đều có thứ bậc của riêng mình. Nay các vị tỳ-kheo [trong Pháp hội này] đều là những bậc danh vang khắp chốn, phẩm đức lớn lao, tôn quý cao trổi. Các bản luận giải làm rõ điều này bằng cách nêu lên bảy sự đồng nhất [của chư tỳ-kheo], bao gồm đồng nhất về thời gian, đồng nhất về nơi chốn, đồng nhất về giới hạnh, đồng nhất về tâm ý, đồng nhất về chỗ thấy biết, đồng nhất về con đường tu tập và đồng nhất về sự giải thoát.
Nếu xét qua các giáo nghĩa khác nhau thì mỗi giáo nghĩa đều có cách hiểu riêng về bảy sự đồng nhất [như trên]. Tạng giáo có một, Thông giáo có hai, Biệt giáo có vô lượng cách hiểu về bảy sự đồng nhất. Viên giáo chỉ có một cách hiểu. Nếu theo nghĩa chưa phát tích thì đó là nghĩa của bảy sự đồng nhất theo Tạng giáo và Thông giáo. Có thể thấy rõ trong cách giải thích của hai bên có những điểm khác nhau. Như các điểm về thời gian, nơi chốn, giới hạnh và sự giải thoát đều giống nhau, nhưng ba điểm về tâm ý, chỗ thấy biết và con đường tu tập thì có khác biệt.
Nếu xét [đến cách phân chia] “trừ bỏ ba [thừa], hiển lộ nhất thừa” là đi vào cách giải thích của Viên giáo về bảy sự đồng nhất.
Luận Pháp Hoa phân ra bốn loại Thanh văn. Nay những vị khai mở rồi trụ yên nơi quả [Thanh văn] được chia làm hai hạng, đắc pháp rồi trụ yên là hạng Thanh văn theo Tạng giáo, thể nhập giáo pháp rồi trụ yên là hạng Thanh văn theo Thông giáo.
Hạng ứng hóa Thanh văn vừa nhập đạo chia làm hai loại. Đăng địa ứng hóa là hạng Thanh văn của Biệt giáo. Đăng trụ ứng hóa là hạng Thanh văn của Viên giáo.
Hạng Thanh văn khai mở Phật đạo [cho chúng sanh] cũng chia làm hai loại. Thuyết giảng Phật pháp tuần tự theo thứ lớp cho người khác là hạng Thanh văn của Biệt giáo. Thuyết giảng Phật pháp cho người khác không tuần tự theo thứ lớp là hạng Thanh văn của Viên giáo. Ý nghĩa hai chữ Thanh văn mênh mông rộng lớn như thế, làm sao có thể riêng lấy việc chứng Niết-bàn để phân định được. Đại lược là như thế.
Giải thích chữ “đại”
Theo luận giải thì “đại” có hai nghĩa, hoặc là số nhiều, hoặc là thù thắng, vượt trội. Khí chất đáng tôn trọng, được các bậc Thiên vương, đại nhân đều tôn kính nên gọi là “đại”. Vượt cao hơn cả 95 loại ngoại đạo nên nói là thù thắng, vượt trội. Hiểu biết rộng khắp đủ các loại kinh sách nội điển, ngoại điển nên gọi là nhiều. [Số lượng] lên đến 12.000 vị nên nói là nhiều.
Nay nói rõ thêm, [chư tỳ-kheo] nắm hiểu giáo pháp lớn lao, có chỗ vận dụng lớn lao, có trí tuệ lớn lao, cho nên gọi là “đại”. Lại nói về nghĩa thù thắng thì [các vị có] giáo pháp thù thắng, chỗ vận dụng thù thắng, trí tuệ thù thắng, do vậy nói là thù thắng. Lại nói về nghĩa nhiều thì [các vị] có nhiều giáo pháp, nhiều chỗ vận dụng, nhiều trí tuệ, cho nên nói là nhiều.
Giáo pháp tức là tánh niệm xứ, lớn lao hơn hết thảy trí của ngoại đạo. Chỗ vận dụng tức là cộng niệm xứ, vượt hơn hẳn những thần thông của ngoại đạo. Trí tuệ tức là duyên niệm xứ, rộng lớn hơn cả bốn bộ Vệ-đà của ngoại đạo.
[Tiếp theo] giải thích các ý nghĩa lớn lao, số nhiều và thù thắng theo ước giáo. Lớn lao là được mọi người kính trọng, đó là giải thích theo Tạng giáo.
Nếu giải thích theo Thông giáo thì lớn lao có nghĩa là được các bậc A-la-hán có thần lực tôn kính, số nhiều có nghĩa là rộng biết hết thảy các pháp sanh diệt chính là không sanh không diệt, thù thắng có nghĩa là vượt hơn bốn môn của Tạng giáo.
Nếu giải thích theo Biệt giáo thì lớn lao có nghĩa là được các bậc A-la-hán thể pháp có thần lực tôn kính, số nhiều có nghĩa là vô số pháp Phật đều rõ biết, thù thắng có nghĩa là vượt hơn những người [tu tập theo] Nhị thừa.
Nếu giải thích theo Viên giáo thì lớn lao có nghĩa là được các vị Đại Bồ Tát tôn kính, số nhiều có nghĩa là hết thảy các pháp không thể suy lường trong pháp giới ắt đều rõ biết, thù thắng có nghĩa là vượt hơn cả các vị Bồ Tát.
Giải thích theo ý nghĩa bản tích thì các bậc đại đức [trong chúng tỳ-kheo] này từ lâu đã được chư Phật ngợi khen xưng tán. Từ ban sơ (bản) các vị đã đạt được pháp Tam-muội Thắng Tràng, vượt hơn các ngoại đạo, trước đây đã thành tựu trí tuệ rộng biết khắp thảy mọi việc. Nhưng ngày nay các vị thị hiện (tích) [hình thể trong chúng hội] là đến để phò trì phụ giúp cho sự giáo hóa của đức Phật, thị hiện ở giữa vòng ái nhiễm kiến chấp [mà có đủ các phẩm tính] lớn lao, số nhiều và thù thắng, giống như “đun sữa thành sữa đặc”, [đó là dẫn dắt chúng sanh mê lầm vào đạo giải thoát]. [Các ngài] lại [cũng thị hiện các phẩm tính] lớn lao, số nhiều và thù thắng trong Tạng giáo, giống như “chế biến sữa đặc thành váng sữa”, [đó là dẫn dắt chúng sanh trên đường tu tập]. Lại cũng thị hiện [các phẩm tính] lớn lao, số nhiều và thù thắng trong hội chúng Phương đẳng, giống như “làm cho váng sữa thành thục tô (sữa chín)”, [đó là dẫn dắt chúng sanh lên hàng Nhị thừa]. Lại thị hiện [các phẩm tính] lớn lao, số nhiều, thù thắng trong pháp hội thuyết giảng Bát-nhã, giống như để làm cho “thục tô thành đề-hồ”, [dẫn dắt chúng sanh từ hàng Nhị thừa đi lên Đại thừa rốt ráo].
[Cho nên,] các ngài thị hiện các phẩm tính lớn lao, số nhiều, thù thắng trong hội Pháp Hoa này, nhưng vốn thật căn bản từ thuở ban sơ đã có đầy đủ các phẩm tính lớn lao, số nhiều và thù thắng. Đại lược là như vậy.
Giải thích theo nghĩa quán tâm thì quán [các pháp đều] không là lớn lao, quán giả tạm là nhiều và quán Trung đạo là thù thắng. Lại đi thẳng vào pháp quán Trung đạo thì tâm tánh rộng mở, khoáng đạt như hư không, cho nên gọi là lớn lao. Ngăn lấp cả hai bên biên kiến, thể nhập vào biển tịch diệt, cho nên gọi là thù thắng. Soi chiếu cả tục đế và chân đế, dung thông hàm chứa rất nhiều, một tâm [bao hàm] hết thảy tâm, cho nên gọi là nhiều.
Giải thích chữ “tỳ-kheo”
Ngài Tăng Triệu nói, [chữ tỳ-kheo (bhikṣu)] dịch sang Hán ngữ có các nghĩa là “người khất thực sống thanh tịnh, phá trừ phiền não, thường giữ giới hạnh và hàng phục chúng ma”. Trong Phạn ngữ, danh từ bhikṣu hàm chứa bốn nghĩa như trên. Hán ngữ không có từ ngữ nào có thể dùng để phiên dịch được, cho nên chỉ phiên âm [thành tỳ-kheo], tức là giữ theo nguyên bản.
Ngài La-thập nói: “[Người xuất gia] ban sơ [vì muốn] lìa bỏ căn nhà thế tục là đời sống gia đình, vợ con, nên dùng pháp khất thực để tự nuôi dưỡng đời sống thanh tịnh. Cuối cùng [vì muốn] ra khỏi căn nhà ba cõi, nên phải phá trừ phiền não, nghiêm trì giới luật để tự giữ mình. Đầy đủ hai ý nghĩa trên thì khiến cho thiên ma khiếp sợ, thành tựu việc xuất gia.”
Luận giải nói, [người xuất gia là] khiến cho thiên ma khiếp sợ, phá trừ điều xấu ác, làm người khất thực tự nuôi sống. Ma ưa thích sanh tử, người xuất gia giáo hóa người khác, đều cùng nhau ra khỏi ba cõi, như vậy là trái với ý muốn của ma. Ma dùng sức để chế ngự, nhưng trái lại bị [vị tỳ-kheo] dùng năm pháp trói buộc [đối trị], nên ma phải than khóc mà bỏ đi. Do vậy nên gọi là làm cho ma khiếp sợ.
Người xuất gia tất nhiên phá trừ bảy điều xấu ác của thân và khẩu, cho nên gọi là phá ác. Người thế tục tại gia có ba cách tự nuôi sống đúng pháp. Một là làm ruộng vườn nông nghiệp, hai là kinh doanh buôn bán, ba là dùng tri thức [phụng sự bằng sự hiểu biết]. Ba cách này có thể được người tại gia dùng để nuôi dưỡng mạng sống. Đối với người xuất gia, đức Phật [chế giới luật] không cho phép làm những việc ấy, chỉ được khất thực tự nuôi thân, sống an ổn trong đạo, tạo phước đức lợi ích cho đàn-việt. Cả ba nghĩa ấy đều thành tựu thì hỗ tương nhau thành nghĩa tỳ-kheo.
Trong sách Niết-bàn kinh tập giải của ngài Bảo Lương [nhiều chỗ] đều nói nghĩa phá ác gọi là tỳ-kheo, đó là nói không đầy đủ. Nay giảng rõ cả ba nghĩa này tương thông trước sau, [từ lúc mới xuất gia đến khi thành tựu đạo nghiệp].
Như trước tiên khi mới xuất gia, lúc bạch Tứ Yết-ma, nhờ sức vô tác giới [ngăn phòng] nên biến đổi tất cả ngoại cảnh trở thành môi trường không tạo việc ác. Đến lúc bắt đầu tu tập thiền định, phát khởi được định lực kết hợp cùng [sức ngăn ngừa của] giới, ngăn phòng khuất phục tham sân không cho khởi lên trong tâm ý. Lại đến lúc bắt đầu tu tập quán tuệ, phát khởi được tương tự đạo kết hợp cùng [sức ngăn ngừa của] giới có thể hàng phục được phiền não. Cho nên những giai đoạn sơ tâm [ban đầu] cũng gọi là phá ác, không chỉ riêng những giai đoạn thành tựu về sau [mới gọi là phá ác].
Về ý nghĩa làm cho ma khiếp sợ, người xuất gia vừa mới cạo tóc và được truyền giới đã làm cho ma lo lắng sợ hãi. [Đến khi] tu định là muốn hàng phục phiền não, tu tuệ là muốn phá trừ phiền não. Những tâm sơ phát ấy cũng đều làm cho ma khiếp sợ, đâu chỉ riêng những tâm thành tựu về sau.
Về ý nghĩa khất sĩ, [người xuất gia] ban đầu lìa bỏ việc kiếm sống bằng những việc tà ác, chỉ dùng pháp khất thực để tự nuôi sống. Đến khi tu tập thiền định, trải qua các cảnh giới để cầu được định, tu tuệ nương theo lý để cầu không lậu hoặc, [các giai đoạn ấy] cũng đều phải làm người khất thực tự nuôi sống. Huống chi [những giai đoạn tu tập] tương ưng lại có thể không làm người khất thực?
Đầy đủ những nghĩa này nên được tôn xưng là tỳ-kheo. Các vị giảng kinh đều chỉ tán thán tâm [thành tựu] về sau của vị tỳ-kheo. Đó đều là [ý nghĩa] theo Tạng giáo.
Nếu trải qua muôn duyên chỉ để cầu lẽ chân thật thì gọi là người khất thực. Phá trừ những nghi hoặc chướng lý thì gọi là phá ác. Tu tập công hạnh như vậy khiến cho bốn loại ma đều khiếp sợ. Đó là ý nghĩa theo Thông giáo.
Nếu trải qua Tam đế [không, giả và Trung đạo] để cầu chân lý thì gọi là người khất thực. Dứt trừ thông hoặc và biệt hoặc được gọi là phá ác. Hàng phục tám thứ ma, mười thứ ma, đó là ý nghĩa theo Biệt giáo.
Nếu ngay nơi sanh tử cầu nếm được mùi vị của thật tướng, đó gọi là người khất thực. Đạt đến chỗ ngay nơi phiền não tức là Bồ-đề, như vậy gọi là phá ác. [Đối với người như vậy thì] cảnh giới ma tức là cảnh giới Phật. Đây là ý nghĩa theo Viên giáo.
Nếu chưa rõ hình tích thì chỉ sáng tỏ hai nghĩa phía trước, khi đã hiển lộ đầy đủ cội nguồn mới có đủ ý nghĩa theo sau.
Theo nghĩa bản tích mà nói thì bản là lên đỉnh núi Niết-bàn, cùng kết nghiệp nhận vô minh, si ái là cha mẹ, đến khi lìa bỏ vợ con, ra khỏi căn nhà [sanh tử] phần đoạn và biến dịch, từ lâu đã trừ dứt năm loại phiền não, phá sạch mọi điều ác, đạt được pháp hỷ chân chánh, [khoan khoái] như ăn món cháo sữa, rốt cùng chẳng còn một pháp nào phải tu. Giữ theo đường Trung đạo cùng Thi-la ba-la-mật, dùng giới hạnh nhiếp hóa chúng sanh, hàng phục ma giới tức cảnh giới Phật, như gánh vác vâng theo lời dạy.
Xét về bản môn thì công đức vốn đã thành tựu từ lâu, nhưng vì điều phục chúng sanh mà thị hiện hình tích có năm vị tỳ-kheo để truyền thừa dẫn dắt chúng sanh, nêu ví dụ cũng giống như phần giải thích ở trước.
Nói theo nghĩa quán tâm thì quán chiếu một niệm tâm thanh tịnh như hư không, không bị trói buộc chướng ngại bởi hai biên kiến, trí tuệ bình đẳng lớn lao, không bám luyến, không tham chấp, đó là xuất gia. Lấy pháp quán theo Trung đạo làm chỗ tự nương cậy, pháp thân tuệ mạng đang sống gọi là khất sĩ. Lại quán năm loại phiền não tức là Bồ-đề, đó gọi là phá ác. Hết thảy các quan điểm sai lệch điên đảo đều không ngoài Trung đạo, đó là làm cho ma kinh sợ. Đại lược là như vậy.
Giải thích chữ “chúng”
Trong Phạn ngữ là Tăng-già, Hán dịch là hòa hợp chúng (和合眾). Chỉ một người thì không thể gọi là hòa hợp, từ bốn người trở lên mới gọi là hòa hợp chúng. Nói về sự thì hòa nghĩa là không sống riêng rẽ. Nói về pháp thì hòa là không có lý riêng biệt. Đức Phật thường sống chung hòa hợp với 1.250 vị tỳ-kheo. [Trong đó, những người do] ba vị Ca-diếp [dẫn đến] có 1.000 người, [do] hai ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên [dẫn đến] có 250 người. Cũng có chỗ nói ngài Da-xá [dẫn theo] 50 người. Trong Tạp A-hàm, quyển 45, nói rằng trong 500 vị tỳ-kheo có 90 vị chứng Tam minh, 90 người đạt được Câu giải thoát, còn lại [320 vị] được Tuệ giải thoát.
Trong các bản luận giải thích rõ về 4 loại tăng. Không sống đời thanh tịnh, gọi là tăng phá giới. Tăng không rõ biết [giáo] pháp và [giới] luật gọi là tăng ngu si. [Tu tập] năm phương tiện là tăng tàm quý. [Quán] khổ [thành tựu] pháp [trí] nhẫn là tăng chân thật. Trong [hội chúng Pháp Hoa] không có ba hạng tăng trước, chỉ có tăng chân thật.
Nếu nói theo Tứ giáo thì trong [hội chúng Pháp Hoa] này đã trải qua năm giai vị ở mức tương đối và tuyệt đối, nay làm hội chúng cùng nghe [kinh trong pháp hội này], nay chính là yếu tố chứng tín [cho kinh này] theo Viên giáo.
Giải thích theo bản tích thì bản nguyên là [hội chúng này] hòa hợp với lý thật tướng, lại cũng hòa hợp với cơ duyên của chúng sanh trong pháp giới, còn hình tích hiển lộ là chúng tăng với sự lý phương tiện chưa rốt ráo, trải qua năm giai vị để dẫn dắt chúng sanh. Đại lược là như vậy.
Theo ý nghĩa quán tâm thì những người mới học Trung quán chỉ nhập được phép quán tương tợ, chưa phát triển tánh chân thật, tự thấy xấu hổ với chư Phật, thẹn với các bậc thánh, đó là hạng tăng [tàm quý,] có tu tập. Tu tập phép quán nếu phát triển được trí tuệ gọi là tăng chân thật. Nếu khác với hai hạng [tăng tàm quý và tăng chân thật] tức là 2 loại tăng [phá giới và tăng ngu si đã nói] ở phần trước. Không tu tập quán tưởng gọi là tăng phá giới. Không hiểu rõ được hình tướng các phép quán thì gọi là tăng ngu si.
2. Số lượng
Sau khi nêu ra hạng loại [trong chúng tăng] rồi, tiếp theo nói rõ về số lượng, nghĩa là con số 12.000 người.
Giảng giải theo bản tích thì bản nguyên là 12.000 vị Bồ Tát, theo hình tích hiển thị thì là 12.000 vị Thanh văn.
Theo nghĩa quán tâm thì quán 12 nhập, mỗi nhập đầy đủ 10 pháp giới, mỗi pháp giới lại gồm đủ 10 pháp giới, mỗi pháp giới có đủ 10 như thị, tức đủ số 1.000. Mỗi nhập là 1.000, nên 12 nhập tức là 12.000 pháp môn.
3. Giai vị
Tiếp theo giảng rõ về giai vị [trong thính chúng]. [Kinh văn nói] các vị đều là A-la-hán. Kinh A-bạt gọi [quả vị A-la-hán] là Ứng chân, kinh Thụy ứng gọi là Chân nhân, đều là những bậc [đã chứng] vô sinh, đó là giải nghĩa [danh hiệu] La-hán. Các nhà cựu dịch thì dịch là Vô trước, Bất sanh, Ứng cúng, hoặc không phiên dịch [chỉ gọi theo phiên âm là A-la-hán]. Danh xưng này bao gồm 3 nghĩa. [Hạt thóc] vô minh đã bóc sạch vỏ, trong ruộng đời sau chẳng phải chịu quả báo sanh tử, nên gọi là Bất sanh. 98 sử phiền não diệt hết; cho nên gọi là Sát tặc. Đầy đủ công đức trí tuệ và dứt trừ, có thể làm ruộng phước cho hàng trời người nên gọi là Ứng cúng. Gồm cả 3 nghĩa này là giải thích [danh xưng] A-la-hán.
Hoặc cũng nói rằng, khi mới tu học vô sanh, trong vòng sanh tử chưa được vô sanh, tu tập trừ ma nhưng ma chưa khiếp sợ, tu hành khất sĩ nhưng chưa rõ ràng xứng đáng nhận cúng dường. Nay [chứng quả này rồi] được Vô sanh nhẫn, phá sạch giặc phiền não, là ruộng [phước] tốt đẹp [cho hai cõi trời, người]. Dùng quả [chứng đắc] đối với nhân [tu hành] để giải thích 3 nghĩa của danh xưng A-la-hán. Nếu bàn về sự thành tựu thì dùng 3 nghĩa quả [chứng đắc], nếu bàn thêm cả sự tu tập ban đầu thì phải dùng cả 3 nghĩa của nhân [tu hành].
Giải thích như trên đều là ý nghĩa theo Tạng giáo và Thông giáo. Theo Biệt giáo và Viên giáo thì ý nghĩa có khác. Chẳng những trừ giặc [phiền não] mà còn dứt trừ cả không phiền não. Không phiền não, ấy là Niết-bàn, [Niết-bàn ấy] cũng phải tu tập dứt trừ. Đó là ý nghĩa là “sát tặc” [theo Biệt giáo và Viên giáo]. [Chẳng những] không sanh đối với sanh [tử] mà còn không sanh đối với không sanh. Vô lậu là không sanh. Chẳng những xứng đáng nhận cúng dường mà còn bố thí, cung ứng. Hết thảy chúng sanh đều được bố thí, đều xưng tán đức hạnh của [hàng Bồ Tát] Sơ địa, Sơ trụ.
Theo ý nghĩa bản tích thì bản nguyên đã được Tam-muội Bất thọ, đối với hai biên kiến không có chỗ vướng mắc nên gọi là không sanh. Dứt trừ năm trụ địa phiền não nên gọi là Sát tặc. Thường tạo phước trong chín đường, làm lợi lạc chúng sanh nên có đức ứng cúng, đây là nghĩa bản nguyên. Dùng phương tiện cứu độ chúng sanh, trải qua năm giai vị nối truyền không dứt, thành đức vô sanh, đây là nghĩa hiển thị hình tích. Lại cũng giải thích rằng bản nguyên là pháp thân, hình tích thị hiện lợi mình; bản nguyên là Bát-nhã, hình tích thị hiện không sanh; bản nguyên là giải thoát, hình tích thị hiện trừ giặc phiền não. Đại lược là như vậy.
Giải thích theo nghĩa quán tâm thì quán [muôn pháp đều] không là Bát-nhã, quán [các pháp] giả tạm là giải thoát, quán trung đạo là pháp thân.
Lại cũng theo nghĩa quán tâm, từ chỗ quán giả tạm đi vào quán không cũng có 3 nghĩa, cho đến quán trung đạo. [Sát tặc là] giết giặc vô minh, [Bất sanh là] chẳng sanh tâm nhị thừa, [Ứng cúng là] cúng dường con người ở đây cũng như cúng dường đức Thế Tôn.
Kinh Phương đẳng nói: “Cúng dường Phật và Văn Thù chẳng bằng bố thí cho người tu tập kinh Phương đẳng một bữa ăn nuôi thân.”
Phần sau của kinh [Pháp Hoa] nói: Người hủy báng hay tán dương Phật chịu tội hay được phước không nhiều so với kẻ hủy báng hay tán dương người trì kinh, chịu tội hay được phước rất lớn. Vì rằng Phật không nghĩ tưởng đến việc ăn uống, từ lâu đã lìa khỏi 8 ngọn gió đời, không còn chịu sự tác động. Còn bố thí [thức ăn] cho người trì kinh thì [giúp họ] duy trì thân thể, kéo dài mạng sống, sanh khởi pháp thân, tăng trưởng đời sống trí tuệ, cho nên có lợi ích lớn. [Ngược lại] hủy báng [người trì kinh khiến họ] lo lắng sầu não, thối tâm, hối hận. Nếu để mất đi cơ hội [tu tập] tốt thì không thể cứu vãn, cho nên nói là tổn hại lớn. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
Các lậu hoặc đã dứt, không bị phiền não trở lại, được lợi lạc bản thân, dứt hết các trói buộc, tâm được tự tại.
4. Xưng tán đức hạnh
[Kinh văn] có 5 câu xưng tán ba thánh đức như trên [của bậc A-la-hán]. Luận Pháp Hoa nói rằng: “Câu đầu nói tổng quát, những câu sau nêu cụ thể.” Nên biết rằng, tất cả các câu này đều tán thán bậc A-la-hán.
“Các lậu hoặc đã hết, chẳng còn khởi lại các phiền não.” Hai câu này xưng tán thánh đức Sát tặc, tức giết giặc phiền não như vừa nói trên. Lậu hoặc là chỉ ba thứ lậu hoặc. Thành luận nói: “Để mất đạo cho nên gọi là lậu hoặc.” Trong Luật nói: “Người si mê tạo nghiệp là mở ra các cánh cửa lậu hoặc.” [Luận] Tỳ-đàm nói: “Do lậu hoặc rơi vào sanh tử.” Luận và Luật tuy dùng lời khác nhau nhưng đều làm rõ ý nghĩa lậu hoặc. Do giặc cướp lừa gạt mà mất đi của báu, trở nên bần cùng cô độc, cũng giống như người tạo các nghiệp ác phải rơi vào sanh tử khổ não, đánh mất pháp thân, mất cả đời sống trí tuệ, mất sạch của báu. Tất cả đều là ý nghĩa [so sánh với] giặc cướp. Không nên cho rằng chỉ ý nghĩa không sanh là xưng tán thánh đức.
Nói về phiền não, đó là 98 loại phiền não sử, thôi thúc, ngăn chặn, trói buộc, che chướng... luôn bức bách não hại người tu hành. Phiền não là yếu tố có khả năng thấm đẫm và lậu nghiệp là đối tượng bị thấm đẫm. Cái thấm đẫm (phiền não) và cái bị thấm đẫm (lậu nghiệp) đều dứt sạch, đó chính là ý nghĩa Sát tặc, [giết giặc phiền não]. Sao có thể nói là xưng tán nghĩa không sanh.
Câu “đã được lợi mình” là xưng tán đức Ứng cúng. Nhân quả trong ba cõi đều gọi là “người khác”; [các phẩm tính như] trí tuệ, đoạn trừ, công đức, hết thảy đều gọi là “lợi mình”. Đầy đủ sự lợi mình nên thành Ứng cúng, [xứng đáng nhận sự cúng dường].
“Dứt hết trói buộc trong các cõi hiện hữu, tâm được tự tại”, hai câu này là xưng tán thánh đức Bất sanh. Các cõi hiện hữu là 25 cảnh giới. Trói buộc là chỉ nghiệp nhân sinh ra trong 25 cảnh giới hiện hữu. Nhân dứt, quả không còn, đó rõ ràng là xưng tán đức Bất sanh, không nên cho là xưng tán đức Sát tặc.
[Giai vị] A-la-hán thường là đã dứt hết trói buộc nhưng chưa dứt sạch hiện hữu. Hiện hữu dứt sạch là trong nhân nói quả, lại như dứt sạch cũng không được lâu. Nói “tâm được tự tại” là do định lực đầy đủ nên gọi là tâm tự tại. Trí tuệ đầy đủ gọi là tuệ tự tại. Tuệ tự tại cũng chưa hẳn tâm được tự tại, nhưng tâm tự tại ắt tuệ cũng tự tại. [Cho nên] ở đây nói tâm tự tại nghĩa là đầy đủ cả định lực và trí tuệ, tức là bậc chứng đắc Câu giải thoát. Bậc chứng Câu giải thoát thì nhất định đã chấm dứt không còn tái sinh. Do đó suy ra, có thể biết là [câu này] xưng tán đức bất sanh.
Nếu y theo luận giải Pháp Hoa thì gọi đây là “thượng thượng khởi môn”, nghĩa là dùng những câu sau để giải thích câu trước. Luận [này] nói rằng, do đã dứt hết các lậu hoặc nên gọi là A-la-hán, do tâm được tự tại nên gọi là dứt hết trói buộc. Lần lượt như vậy mà giải thích cho câu trên.
Giải thích theo nghĩa bản tích thì không sanh chỗ bất sanh gọi là Đại Niết-bàn, cội nguồn của dòng chảy phiền não lậu hoặc đã khô cạn từ lâu, không còn đọa lạc trở lại trong hàng Nhị thừa và phàm phu. Đó là bất sanh theo nghĩa bản nguyên. Đầy đủ pháp thân, trí tuệ đoạn trừ [phiền não], thật tướng, công đức, đó gọi là lợi mình theo nghĩa bản nguyên. Đạt được Vương Tam-muội, phá trừ [không còn tái sanh trong] 25 cảnh giới hiện hữu, hiển bày tánh thật của ngã, đầy đủ 8 đức tự tại. Đó gọi là sát tặc theo nghĩa bản nguyên. Nhưng về hình tích thì thị hiện công đức của hàng Nhị thừa.
Theo nghĩa quán tâm thì quán chiếu chân chánh theo Trung đạo, không lậu hoặc, không rơi vào hai bên quán không hay quán giả, nên phiền não [khởi sanh từ] hai biên kiến này đều dứt hết. Thường quán tánh của tâm, gọi là định bậc cao. Kho báu giấu kín như ngọc quý trong chéo áo là tài vật của mình, đó là nghĩa “đã được lợi mình”.
Chánh quán theo Trung đạo liền dứt trừ giặc phiền não kết sử. Không còn kết sử nên hiện hữu cũng dứt. Hai biên kiến không thể trói buộc tâm nên gọi là tự tại, phiền não tuy có cũng như không. Chẳng dứt phiền não mà nhập Niết-bàn, chính là ý nghĩa ấy.
[Kinh văn] ở đây chỉ lược nêu 21 vị tôn giả. Tất cả đệ tử của Phật đều có đủ công hạnh nhưng tự giấu đi năng lực trọn vẹn của mình, mỗi vị đều tùy theo đức hạnh để nêu tên, nhằm dẫn dắt [chúng sanh] theo khuynh hướng tốt đẹp hơn.
Kinh Tăng Nhất A-hàm nói rằng: “Các vị tỳ-kheo thuộc nhóm Kiều-trần-như đều được tôn xưng là bậc Thượng Tọa, có các bậc đại nhân đức hạnh cùng đi. Ngài Xá-lợi-phất có những bậc có trí tuệ thâm sâu nhạy bén cùng đi. Ngài Mục-kiền-liên có những vị được sức thần thông lớn cùng đi... [Cứ như vậy] mỗi vị đều nắm giữ một pháp, dẫn dắt những người có khuynh hướng tốt đẹp như vậy cùng đi. [Cho nên] muốn nêu tên mỗi vị phải biết rõ được công hạnh của vị ấy. Tùy theo đức hạnh [của mỗi người] mà đặt tên hiệu, với tất cả các vị đều như vậy. Mỗi vị A-la-hán đều nêu ra 4 nội dung giải thích để làm ví dụ. Đại lược là như vậy.
Danh hiệu A-nhã Kiều-trần-như
[Chẳng hạn như] Kiều-trần-như là họ, được dịch là “hỏa khí” (vật giữ lửa), thuộc chủng tộc bà-la-môn. Tổ tiên dòng tộc này vốn thờ lửa, truyền nối nhiều đời trong họ. Lửa có hai nghĩa là chiếu sáng và thiêu đốt. Chiếu sáng thì bóng tối không sinh, thiêu đốt thì muôn vật không sinh, cho nên “không sinh” (bất sanh) là tánh [của lửa].
A-nhã là tên, Hán dịch là “dĩ tri” (đã biết) hoặc “vô tri” (không biết). Nói “không biết” [ở đây] không phải là không biết gì, mà là rõ biết về tánh không. Nếu y theo nhị đế [thấy biết tánh không và giả tạm] thì đó là sự rõ biết chân chánh, cho nên dùng trí vô sanh để đặt tên gọi. Trong kinh Vô lượng thọ, kinh Văn-thù vấn và luận A-tỳ-đàm Bà-sa đều nói [A-nhã] có nghĩa là rõ biết chân đế. Nếu nói theo Tứ diệu đế thì là rõ biết về Diệt đế, nhưng trong đa số kinh điển đều gọi tên ngài là Vô Tri, hoặc cũng dịch là Đắc Đạo. Trong kinh Tăng nhất A-hàm, [đức Phật] nói rằng: “Trong Phật pháp của ta toàn những người khoan hòa nhân ái và hiểu biết sâu rộng. Người đầu tiên được nếm mùi vị Chánh pháp là tỳ-kheo Câu-lân-như, cho nên được đặt tên là A-nhã.
Do nguyện thành tên
Thuở ấy [tiền thân của] Phật sinh vào thời có nạn đói, nên ngài hóa làm con cá mắt đỏ rất lớn, tự nín thở đến chết [để cho người đời có thức ăn]. [Lúc ấy] có 5 người thợ mộc đến trước tiên dùng lưỡi búa để lóc thịt cá. Lúc đó Phật phát lời thệ nguyện rằng: “Đời sau này [khi ta thành Phật] sẽ hóa độ những người [thợ mộc] này trước nhất. Do Phật trước kia có nguyện giúp cho [Kiều-trần-như] được chứng vô sanh nên gọi tên ông là A-nhã.
Lại nữa, vào thời đức Phật Ca-diếp, có 9 người học đạo, trong đó 5 người chưa chứng quả, lập thệ nguyện rằng [sau này khi tu tập] trong giáo pháp của đức Phật Thích-ca sẽ được khai ngộ trước tiên. Do bổn nguyện ấy dẫn dắt nên chứng pháp Vô sanh trước nhất, được gọi tên là A-nhã.
Do hạnh thành tên
Trí sinh, mê hoặc diệt là công hạnh trí tuệ đoạn trừ [phiền não]. Đang khi đêm dài tăm tối, giấc ngủ mê say, không một ai tỉnh giấc, mặt trời còn chưa lên thì đã có ánh sao hiện ra trước. Tỳ-kheo Kiều-trần-như vừa chứng trí Vô sanh cũng ví như ánh sao sáng đầu tiên trong tất cả các vì sao sáng. Trong tất cả những người được trí sáng suốt, không có ai trước ngài Kiều-trần-như, cho nên gọi là A-nhã. Xua tan đêm dài tăm tối, trước nhất không gì hơn một ánh sao sáng. Ngài Kiều-trần-như cũng giống như vậy, trong tất cả những người dứt trừ được vô minh si ám không có ai trước ngài, cho nên gọi là A-nhã.
Do việc trước đây thành tên
Khi thái tử từ bỏ ngôi vua, rời khỏi đất nước, vào chốn núi rừng học đạo. Phụ vương mong nhớ liền sai 5 người tìm đến theo hầu. Đó là các ông Câu-lân-át-bệ, cũng gọi là Thấp-bệ, cùng với A-thuyết-thị, Mã-tinh-bạt-đề, Ma-ha-nam và Thập-lực Ca-diếp, cùng theo giúp thái tử. [Trong 5 người này thì] hai người là thân tộc bên ngoại, ba người là thân tộc bên nội. Nhóm hai người cho rằng thụ hưởng dục lạc là pháp tu thanh tịnh, còn nhóm ba người lại cho rằng sự khổ hạnh là pháp tu thanh tịnh. Khi thái tử siêng năng tu khổ hạnh thì nhóm hai người [không đồng tình] liền bỏ đi, ba người còn lại vẫn theo hầu. Khi thái tử từ bỏ việc tu khổ hạnh, trở lại thọ nhận món cháo sữa, uống nước ấm thì ba người kia cũng bỏ đi. Khi thái tử thành đạo, trước tiên vì cả 5 người ấy thuyết pháp Tứ diệu đế.
Lần thuyết pháp đầu tiên giáo hóa cho hai người, còn ba người kia đi khất thực về để Phật và cả năm người cùng ăn. Ngay lần ấy ngài Câu-lân chứng được pháp nhãn thanh tịnh, bốn người còn lại chưa chứng đắc. Lần tiếp theo thuyết pháp cho ba người, hai người kia đi khất thực để Phật và năm người cùng ăn. Lần này cả ba người đều chứng được pháp nhãn thanh tịnh. Lần thuyết pháp thứ ba, cả nhóm Kiều-trần-như 5 người và 80.000 chư thiên đều xa lìa trần cấu. Nhóm 5 người ấy được chứng Vô sanh. Đức Phật ba lần hỏi “đã hiểu rõ pháp chưa”, các vị cũng ba lần thưa “đã hiểu rõ”. Khi ấy, thần đất xướng lên, thần hư không truyền rộng, cho đến khắp thế giới Phạm thiên đều nói lên “đã hiểu”.
Ngài Câu-lân (Kiều-trần-như) là người đắc pháp trước tiên. Ngài là người trước tiên thấy được tướng trạng Phật đạo, nghe được tiếng trống pháp trước tiên, ngửi được hương thơm Chánh pháp trước tiên, nếm được vị cam lộ trước tiên, dự vào dòng pháp trước tiên, chứng đắc chân đế trước tiên. Trong số người đắc đạo ở cõi Diêm-phù-đề, ngài là người trước nhất trong tất cả loài người, chư thiên cũng như tất cả các vị A-la-hán. Cho nên trong kinh Thập nhị du nói rằng: “[Sau khi] Phật thành đạo, năm đầu tiên hóa độ 5 người [nhóm Kiều-trần-như], năm thứ hai hóa độ ba anh em Ca-diếp [và đồ chúng của họ], đến năm thứ năm hóa độ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên [cùng đồ chúng của họ].” Nên biết danh xưng A-nhã đặt ở trước như đã nói rõ. Đó là giải thích theo nhân duyên.
Nếu giải thích theo Tạng giáo thì người mù chẳng sinh ra ví như trí vô sanh, tấm gương ví như cảnh giới vô sanh, là ấm, nhập, giới. Đầu [mình và tứ chi] sáu phần ví như nhân trong hiện tại, ảnh tượng [trong gương] ví như quả vị lai. Nếu như mở con mắt sáng, tay cầm tấm gương, đối trước hình liền sinh ra ảnh tượng trong gương. Nếu nhắm mắt lại như người mù thì không thấy gì cả. Không nhìn thấy sáu phần là nhân [hiện tại] không sanh, không nhìn thấy ảnh tượng trong gương là quả [vị lai] không sanh. Cho nên kinh A-hàm nói rằng: “[Đối với năm ấm, nếu nói có sắc và sắc là tịnh, tịnh ấy là sanh, chẳng phải bất sanh. Nếu nói có thọ, tưởng, hành, thức và thức là tịnh, tịnh ấy là sanh, chẳng phải bất sanh. Nếu nói có thọ và thọ là lạc, lạc ấy là sanh, chẳng phải bất sanh. Cho đến [nếu nói có] sắc và sắc là lạc, lạc ấy là sanh, chẳng phải bất sanh. Lại nếu cho rằng có tưởng, có hành và hành là ngã, ngã ấy là sanh, chẳng phải bất sanh. Cho đến [nếu cho rằng có] sắc và sắc là ngã, ngã ấy là sanh, chẳng phải bất sanh. Nếu cho rằng có thức và thức là thường, thường ấy là sanh, chẳng phải bất sanh. Cho đến [nếu cho rằng có] sắc và sắc là thường, thường ấy là sanh, chẳng phải bất sanh. Cũng như cầm tấm gương nhìn vào thấy khuôn mặt, khuôn mặt ấy là sanh, chẳng phải bất sanh. Nếu nói rằng có năm ấm thì đều là sanh, chẳng phải bất sanh.
Nếu có thể biết rằng sắc chẳng phải tịnh..., cho đến thức chẳng thường, lại có thể biết sắc là vô thường, là khổ, là không, là bất tịnh, cho đến thức là vô thường, là khổ, là vô ngã, là bất tịnh thì đó là bất sanh, chẳng phải sanh. Như người mù tay cầm tấm gương nhưng không thấy ảnh tượng sinh ra [trong gương], đó là bất sanh, chẳng phải sanh. Khi đã rõ biết bất sanh, đâu có lẽ nào trong [chỗ bất sanh] đó lại cho rằng ngã là sắc, hoặc cho rằng ngã khác với sắc, hoặc ngã ở trong sắc hay sắc ở trong ngã. Cho đến [thọ, tưởng, hành,] thức cũng đều như vậy. Quán xét như vậy thì nhân hiện tại với quả vị lai, tất cả đều không sinh ra. Giống như người mù nhìn vào tấm gương cũng chẳng thấy ảnh tượng. Đó gọi là quán năm ấm, là pháp quán với trí vô sanh.
Lại nói về pháp quán [12] nhập [và 18] giới. Thường khi nói đến biển, tuy là sâu rộng nhưng vẫn có giới hạn ở bờ bên này với bờ bên kia, do vậy vẫn xem là nhỏ. Nếu [so với] khi mắt nhìn thấy hình sắc rồi, ý niệm luyến ái đắm nhiễm, tham muốn dục lạc, làm sanh khởi cả ba nghiệp thân, miệng, ý, [không có giới hạn], đó mới thật là biển lớn, nhấn chìm hết thảy chúng sanh trong thế gian, trời, người, a-tu-la... Cho nên phải biết rằng mắt chính là biển lớn, hình sắc là sóng to gió lớn. Do luyến ái hình sắc ấy nên phải xoay vòng quay lại [trong luân hồi]. Trong biển lớn ấy khởi lên những tri giác xấu ác thì chính là cá dữ, rồng độc; khởi tâm niệm đố kỵ, mưu hại chính là quỷ la-sát nam; khởi tâm niệm nhiễm ô tham ái chính là quỷ [la-sát] nữ. Thân, miệng, ý khởi lên chính là uống nước biển mặn tự chết chìm. Đó là con mắt với hình sắc đều không có tri giác [nhưng kết hợp] mà sinh ra ái nhiễm vô minh.
Ái luyến sinh nên sinh ra hành, hành sinh nên sinh ra nghiệp. Nghiệp trói buộc thần thức đi vào [thân] trung ấm. Đây là thức sinh. Tuy thành bào thai nhưng chưa trọn thành năm vóc, đó là sinh ra danh sắc, năm vóc trọn thành là sinh ra sáu nhập. Sáu nhập còn chưa phân biệt được khổ, vui gọi là sinh ra xúc; phân biệt được khổ, vui rồi gọi là sinh ra thụ. Đối với trần cảnh khởi lên sự đắm nhiễm là sinh ra ái luyến, rong ruổi khắp nơi tìm cầu [những điều tham muốn] là sinh ra chấp thủ. Tạo thành thân, miệng, ý là sinh ra hiện hữu.
Theo nghiệp thọ nhận năm ấm trong vị lai là hình thành sự sinh. Khi năm ấm trong vị lai dần biến đổi là sinh ra sự già suy. Năm ấm trong vị lai hư hoại mất đi là sinh ra sự chết. Trong tâm nóng nảy là sinh ra sầu ưu, buồn đau than khóc là sinh ra bi thương. Thân tâm tiều tụy rúng động là sinh ra khổ não. Đây gọi là khi mắt nhìn thấy hình sắc liền có khổ não lớn của 12 nhân duyên trong ba đời tụ lại sinh ra, chẳng phải bất sanh. Đối với [các nhập còn lại như] tai [với âm thanh], mũi [với mùi hương], lưỡi [với vị nếm], thân [với sự xúc chạm], ý [với các tư tưởng, và 18 giới, từ nhãn giới cho đến pháp giới cũng đều như vậy. Đó là 12 nhập và 18 giới đều sinh ra, chẳng phải bất sanh.
Thế nào là bất sanh? [Đó là] quán xét khi mắt thấy hình sắc chẳng trồng hạt giống khổ đau, nên chẳng nảy lên mầm khổ đau. Không rỉ chảy ra mùi hôi thối thì chẳng thu hút ruồi nhặng tụ tập. Hạt giống không sinh thì mầm sẽ không sinh; mùi hôi thối không sinh thì ruồi nhặng không sinh. Cho nên gọi là bất sanh.
Thế nào là gieo trồng khổ não? Khi mắt nhìn thấy hình sắc, khởi sanh tri giác tham lam, sân hận, đó là những hạt giống khổ đau. Nghĩ tưởng đến năm món dục lạc là mầm sanh khổ đau. Sáu căn bám giữ theo sáu trần cảnh, đó gọi là rỉ chảy nước hôi thối. Ở trong sáu trần, các ý niệm lành dữ tranh nhau khởi lên, đó gọi là ruồi nhặng.
Nếu rõ biết con mắt với hình sắc đều là vô thường, khổ, không, vô ngã thì tham lam, sân hận chẳng sinh, những ý niệm tham muốn chẳng sinh, sự bám giữ trần cảnh chẳng sinh, các hành vi thiện ác chẳng sinh. Đây là bất sanh.
[Đối với các nhập khác như] tai [với âm thanh], mũi [với mùi hương], lưỡi [với vị nếm], thân [với sự xúc chạm], ý [với các tư tưởng] cũng đều như vậy. [Và đối với 18 giới từ] nhãn giới cho đến pháp giới cũng đều như vậy.
Ngài A-nhã là người đầu tiên đạt được trí vô sanh này theo Tạng giáo, cho nên có tên là A-nhã Kiều-trần-như.
Theo nghĩa Thông giáo quán trí vô sanh thì ví như một người ảo hóa cầm tấm gương ảo hóa, dùng thân thể ảo hóa soi vào tấm gương ảo hóa nhìn thấy ảnh tượng trong gương ảo hóa. Ảnh tượng ấy chẳng phải do tấm gương sinh ra, chẳng phải do khuôn mặt sinh ra, cũng chẳng phải do tấm gương hợp với khuôn mặt sinh ra, chẳng phải lìa tấm gương và khuôn mặt mà sinh ra. Đã không phải do 4 nguyên nhân trên mà sinh ra, [nên ảnh tượng ấy] chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, cũng chẳng phải ở khoảng giữa, không thể tự hiện hữu, không có chỗ mất đi, cũng chẳng thể rời đi bốn phương đông, tây, nam, bắc. Tánh vốn tự vô sanh, chẳng phải do diệt mất chỗ sinh mà thành vô sanh. Tánh vốn tự không diệt, chẳng phải do diệt mất chỗ diệt mà thành vô diệt. Chẳng sanh chẳng diệt cho nên gọi là vô sanh. [Đối với các ấm] thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.
Lại quán hình sắc ảo hóa như ảnh tượng ảo hóa trong tấm gương soi. Quán thọ như bọt nước nổi, quán tưởng như hơi nóng lung linh [nhìn thấy từ xa], quán hành như thân cây chuối, quán thức như ảo hóa.
Sự ảo hóa ấy chẳng phải từ vật ảo hóa sinh ra, chẳng phải từ nhà ảo thuật sinh ra, chẳng phải do vật ảo với nhà ảo thuật hợp lại sinh ra, cũng chẳng phải lìa khỏi vật ảo với nhà ảo thuật mà sinh ra.
Theo bốn cách ấy mà tìm thì thấy chỗ ảo hóa thật không từ đâu sinh ra cả. Lại trong khắp bốn phương mà tìm chỗ ảo hóa ấy diệt mất thì thấy chẳng diệt về đâu cả. [Cho nên] tánh vốn vô sanh, chẳng phải do diệt mất sự sanh mới thành vô sanh; tánh vốn vô diệt, chẳng phải do diệt mất sự diệt mới thành vô diệt. Không sanh không diệt nên gọi là vô sanh.
Quán xét các căn và trần như xóm làng nơi các phiền não kết sử tụ họp, từ xưa đến nay hết thảy đều chẳng có gì chân thật, chỉ do vọng tưởng mà khởi lên. Sự vận hành tác động của nghiệp lực giả hợp nơi chỗ rỗng không. Thể tánh của vô minh vốn chẳng tự có, chỉ do nhân duyên vọng tưởng hòa hợp mà thành có. Chỗ có ấy tự nó vốn là không, do nhân duyên mà thành có. Nghiệp khổ phiền não như bánh xe lửa xoay tròn. Quán xét thấy cội gốc [những thứ ấy] vốn đều là không, như trên đã nói, đó là ý nghĩa giải thích theo Thông giáo.
Theo Biệt giáo quán xét trí vô sanh thì lấy tấm gương dụ cho pháp giới, mắt nhìn [vào gương] ví như trí quán sát, [các màu sắc] xanh, vàng, đỏ, trắng [và các hình tượng] nhỏ, lớn, ngắn, dài là dụ cho Mười pháp giới. Màu xanh dụ cho nhân và quả cảnh giới địa ngục, màu vàng dụ cho nhân và quả cảnh giới ngạ quỷ, màu đỏ dụ cho nhân và quả cảnh giới súc sanh, màu trắng dụ cho nhân và quả cõi trời, cõi người, hình tượng nhỏ dụ cho nhân quả hàng Nhị thừa, hình tượng lớn dụ cho nhân quả hàng Bồ Tát Thông giáo, hình tượng ngắn dụ cho nhân quả hàng Bồ Tát Biệt giáo, hình tượng dài dụ cho nhân quả pháp giới Phật. Tất cả đều rõ ràng trong gương, phân biệt không nhầm lẫn.
Nếu muốn tự sửa mình chân chánh thì làm sao cho 9 loại nhân quả đều không sanh, chỉ sanh một nhân quả [pháp giới Phật]. Nếu muốn giúp người khác tu sửa chân chánh thì làm sao cho 9 loại nhân quả của họ đều chẳng sanh, chỉ sanh một nhân quả [pháp giới Phật]. Y pháp giới thực hành theo hạnh Bồ-đề, tuần tự dùng trí quán sát chia chẻ tự thể, đoạn trừ sự sanh khởi của 4 trụ địa, khiến cho không thể sanh khởi. Kế tiếp dùng vô số pháp Phật để đoạn trừ hết thảy phiền não khách trần, làm cho chẳng còn sanh khởi si mê vô trí. Sau đó dùng trí tuệ thật tướng đoạn trừ vô minh, khiến cho căn bản vô minh không còn sanh khởi. Dứt trừ 4 trụ địa, thì phần đoạn [sanh tử] không sanh khởi. Nếu không si mê vô trí thì Phương tiện độ không sanh. Nếu không còn vô minh thì Thật báo độ cũng không sanh. Sanh đã không sanh, cho đến bất sanh cũng không sanh, cho nên gọi là bất sanh. Đây gọi là trí vô sanh theo Biệt giáo.
Nói lược qua về quán xét trí vô sanh theo Viên giáo thì giống như quán sát tấm gương soi tròn đầy, không lưu tâm đến trước hay sau, không lưu tâm đến hình tượng, mặt sau chẳng phải tối tăm, mặt trước cũng chẳng phải sáng tỏ, không bám giữ lấy các loại hình thù, chẳng bám giữ hình tượng của gương, chỉ quán sát chỗ tròn đầy viên mãn, không bờ mé giới hạn, không khởi đầu hay kết thúc, không sáng không hay tối, không đồng nhất không sai khác. Ví như cái nhìn tròn đầy viên mãn, không bám giữ nơi tướng mạo của Mười pháp giới, không thiện không ác, không tà không chánh, không lớn không nhỏ v.v... hết thảy đều dứt sạch. Chỉ nương theo tướng thật của các pháp, pháp tánh của Phật pháp. Dù là hình sắc hay mùi hương đều không ngoài thật tướng.
Quán xét nghiệp phiền não sanh tức là vô sanh. Vô sanh ấy không sanh nên gọi là vô sanh. Các nỗi khổ nơi ấm, nhập, giới tức là pháp thân. Vì không hiển hiện nên gọi là pháp thân. Chướng ngại ngăn che là pháp thân, tham sân si là Bát-nhã. Không thường sáng tỏ nên gọi là Bát-nhã. Không nơi nào có thể soi chiếu, tánh tự sáng tỏ. Hết thảy hành nghiệp trói buộc đều gọi là giải thoát, không phải do dứt trừ trói buộc mà được giải thoát, cũng không hình thể nào có thể trói buộc. Lại vì không thể trói buộc nên gọi là giải thoát.
Giải thoát tức là nghiệp không sanh khởi. Bát-nhã tức là phiền não không sanh khởi. Pháp thân tức là khổ não không sanh khởi. Ba điều này không sanh tức một không sanh, một không sanh tức ba không sanh. Chẳng phải ba, chẳng phải một nên gọi là không sanh. Huống chi những sự biến dịch, phiền não, nghiệp khổ lại chẳng phải không sanh. Đây là quán trí vô sanh theo Viên giáo. Đại thể là như vậy.
Theo ý nghĩa bản tích thì Kiều-trần-như vốn tự không sanh, chẳng phải chỉ lúc ban đầu không sanh. Đó là muốn dẫn ví dụ sữa làm thành sữa đặc. Cho nên, theo nghĩa Tích môn thì Sơ giáo vốn không sanh, là dẫn ví dụ sữa đặc làm thành sanh tô; cũng theo nghĩa Tích môn thì Thông giáo vốn không sanh, là dẫn ví dụ sanh tô làm thành thục tô; cũng theo nghĩa Tích môn thì Biệt giáo vốn không sanh, là dẫn ví dụ thục tô làm thành đề-hồ; cũng theo nghĩa Tích môn thì Viên giáo vốn không sanh, mà Bản môn ở nơi A tự môn, nghĩa là nói tất cả các pháp ban sơ vốn không sanh. [Cho nên,] nếu nghe đến A tự môn thì hiểu được nghĩa hết thảy đều chẳng phải sanh, chẳng phải không sanh. Vì thị hiện theo Tích môn để dẫn dụ giáo hóa nên có thể là [nghĩa] sanh, có thể là không sanh. Chúng sanh nào có thể hiểu được nghĩa không sanh theo Viên giáo tức là đồng với A-nhã [Kiều-trần-như].
Chẳng phải Bản môn, chẳng phải Tích môn, chẳng phải sanh cũng chẳng phải không sanh, ngay nơi chỗ này mà đại sự nhân duyên [của chư Phật] hoàn tất. Cho nên, ở phần sau [trong quyển 4] nói rằng: “Phú-lâu-na đủ các tài biến hóa, nếu ta nói đầy đủ, chúng sanh nghe điều này, tâm ắt sanh nghi hoặc”, tức là nghĩa này vậy.
Trong kinh Tăng nhất A-hàm nói: “A-nan cầm lọng bưng đèn theo sau Phật, Đại Phạm vương cầm lọng bưng đèn theo sau Kiều-trần-như.” Đó là thị hiện Tích môn vì muốn hiển lộ Bản môn.
Lược nói ba pháp quán như trên thì có thể rõ được [ý nghĩa] không sanh [trong tên gọi Kiều-trần-như], không cần nói đủ rườm rà.
Tên gọi Ma-ha Ca-diếp
Ma-ha Ca-diếp (Mahākāśyapa), Hán dịch là họ Đại Quy (大龜氏), [nghĩa là con rùa lớn], do tổ tiên đời trước khi học đạo có con rùa thần cõng sách học đạo tiên ứng hiện đến. Theo mệnh đức của gia tộc như vậy nên lấy họ Quy. Ngài Tam Tạng Chân Đế dịch là Quang Ba, nghĩa là “che lấp ánh sáng”. Các vị tiên nhân thuở xưa thân hình phát ra ánh sáng chói lọi, khiến cho các loại ánh sáng khác đều phải lu mờ, không còn thấy được, cho nên nói gọi là Quang Ba, lại cũng gọi là Ẩm Quang. Ánh sáng nơi thân ngài Ca-diếp cũng có thể che mờ [ánh sáng từ] vật khác.
[Ngài cũng có tên] là Tất-bát-la hoặc Tất-bát-ba-la-diên, hoặc Thê-tỳ-lê. Tất-bát-la là tên cây, do cha mẹ cầu đảo với thần cây này mà sanh được ngài, nên lấy tên cây đặt tên cho con. [Còn danh hiệu] Bạt-kỳ tử là do sinh ra ở làng Bạt-kỳ nên lấy [tên làng] làm hiệu. Gia đình này cực kỳ giàu có. Kinh Tăng nhất A-hàm nói: “Có vị trưởng giả cực kỳ giàu có ở xứ La-duyệt-kỳ tên là Ca-tỳ-la, người vợ tên Đàn-na, con trai tên Tất-bát-la, con dâu tên là Bà-đà, giàu có hơn Bình Sa vương gấp ngàn lần, trong 16 nước lớn chẳng ai sánh bằng.
Trong sách Phó pháp tạng nói rằng: “Sau khi đức Phật Tỳ-bà-thi diệt độ, tượng Phật trong tháp bằng vàng bị đổi màu hư hoại. Lúc ấy có cô gái nghèo nhặt được viên ngọc quý màu vàng liền [dùng để] thuê người thợ vàng bạc đến tô phết lại tượng Phật. [Người này] hoan hỷ tô sửa làm cho tượng Phật sáng đẹp. [Sau đó] hai người có lời thề nguyền trở thành vợ chồng với nhau. Trong suốt 91 kiếp sau đó, dù sinh trong cõi người hay cõi trời, thân thể người này thường có màu sáng như vàng ròng, tâm thường được vui. Đời sau cùng sanh vào gia đình bà-la-môn Ni-câu-luật-đà ở nước Ma-kiệt-đà. [Vua nước Ma-kiệt-đà dùng 1.000 lưỡi cày bằng vàng để cày ruộng, gia đình này] sợ hơn vua sẽ bị bắt tội nên giảm bớt một lưỡi cày, chỉ dùng 999 cặp bò kéo lưỡi cày vàng để cày ruộng.
Trong kinh cũng nói rằng, trong nhà này loại vải lụa phẩm chất kém nhất cũng có giá trị đến trăm ngàn lượng vàng. Nếu [trải lụa trên đất rồi] dùng đinh đóng xuống sâu đến 7 thước cũng không xuyên thủng được [loại vải lụa này], khi rút đinh lên lụa vẫn như cũ không hề khác đi. Trong nhà có 60 kho chứa đầy vàng, mỗi kho là 340 hộc. Các kho chứa lúa cũng đều như vậy.
Trong kinh lại cũng nói rằng, nhờ dùng lúa gạo cúng dường Phật Bích-chi nên [cả hai người] thường được sinh về cõi trời Đao-lợi cả ngàn lần, hưởng sự vui thú.
Thân hình ngài Ca-diếp có 30 tướng tốt. Đây chỉ nói về tướng thân có sắc vàng thì loại vàng diệm-phù-na-đà nếu đặt dưới đáy nước bùn, ánh sáng có thể tỏa chiếu lên khỏi mặt nước, nếu đặt ở chỗ tối thì xua tan tăm tối, nhưng hào quang từ thân thể ngài Ca-diếp tỏa chiếu sáng hơn cả loại vàng này, chiếu xa đến một do tuần. [Nếu so với đức Phật] thì kém hơn hai tướng, là không có tướng bạch hào (lông trắng giữa hai chân mày) và tướng nhục kế (khối thịt nhỏ trên đỉnh đầu).
Cho nên, lúc cung thỉnh ngài kết tập kinh điển, chư thiên đọc kệ xưng tán rằng:
Bậc trưởng lão đã trừ tham, sân, mạn; Thân uy nghi như trụ tử kim, Đoan nghiêm vi diệu không gì bằng, Mắt sáng thanh tịnh như hoa sen.
Ngài Ca-diếp xả bỏ gia nghiệp như vậy. Lại nữa, cha mẹ cưới cho một người vợ thân có sắc vàng, hai vợ chồng thay nhau kẻ thức người ngủ, không hề phạm vào sắc dục, rồi lại xả bỏ để đi xuất gia. [Lúc đi xuất gia,] trên thân đang mặc tấm áo quý vô giá, liền cắt ra làm bốn tấm dâng lên cúng dường Phật làm tòa ngồi, còn mình nhận y tăng-già-lê. Ba lần xả bỏ như vậy, [xả bỏ gia nghiệp, xả bỏ gia đình, xả bỏ áo quý,] trong đời không ai sánh kịp nên gọi là bậc đại xả. Ngài gặp Phật ở làng Bạt-kỳ liền dâng cúng áo quý, Phật [nhận rồi] ban cho ngài đại y phấn tảo. Tấm y này là y của bậc đại thánh, lại không thô nặng. Cho nên ngài Ca-diếp nói rằng: “Ta thọ nhận y của Phật, luôn kính y như kính thầy, kính tháp, chưa từng dám gối đầu lên y, huống chi đến việc trải nằm. Như tấm đại y này giúp ta luôn hết sức tinh tấn tu hành, cho nên nói là được sự lớn lao.”
Trong hàng đệ tử Phật có nhiều vị khác cũng tên Ca-diếp, như Thập lực Ca-diếp, ba anh em Ca-diếp ... Các ngài đều là những bậc đại nhân, nhưng trong những người cùng tên ấy, ngài lớn tuổi nhất nên gọi là Đại Ca-diếp. Ban sơ gặp Phật tại làng Bạt-kỳ, vừa được nghe Phật giảng về sự tăng trưởng giới, định, tuệ, ngài liền chứng quả vô lậu. Ngài nhận lãnh pháp khất thực và thực hành 12 hạnh đầu đà, cho đến tuổi già vẫn không từ bỏ. Về sau, đức Phật bảo ngài: “Ông đã cao tuổi, có thể thôi việc khất thực, về theo đại chúng thọ thực, cũng có thể bỏ y phấn tảo thô nặng, dùng loại y hoại sắc nhẹ nhàng của cư sĩ.” Ngài Ca-diếp bạch Phật rằng: “Nếu không có Phật ra đời, con sẽ làm Phật Bích-chi suốt đời tu hạnh đầu đà. Nay con không dám bỏ những điều đã tu tập từ lâu mà học theo pháp khác. Con cũng muốn nêu gương sáng cho đời sau. Người đời sau sẽ nói: ‘Thượng tọa Ca-diếp [tu khổ hạnh] được Phật ngợi khen, chúng ta cũng nên học theo hạnh khổ hạnh khó làm.’” Đức Phật dạy: “Lành thay! Đây thật là công hạnh lớn lao.”
Theo kinh Tăng nhất A-hàm, trong Phật pháp việc thực hành 12 hạnh đầu đà thì khó làm nhất là tu khổ hạnh, mà ngài Đại Ca-diếp [tu hạnh này] không ai hơn được. Khi ngài tu hạnh đầu đà đã lâu, râu tóc mọc dài, y phục xấu rách, vừa đến chỗ Phật thì các tỳ-kheo khác nhìn thấy đều khởi tâm xem thường. Đức Phật gọi đến, nhường một nửa tòa ngồi, bảo ngài cùng ngồi, nhưng ngài Ca-diếp không dám nhận. Phật dạy: “[Sao lại không dám ngồi cùng ta?] Ta có Tứ thiền, khi thiền định thì tâm dừng nghỉ, từ khởi đầu cho đến kết thúc, tâm không hao tổn, ông cũng được như ta. Ta có lòng đại từ, thương yêu che chở tất cả [chúng sanh], ông cũng giống như ta, cũng đầy đủ lòng từ. Ta có lòng đại bi tế độ chúng sanh, ông cũng giống như vậy. Ta có bốn phép thần tam-muội, một là tam-muội vô hình, hai là tam-muội vô lượng ý, ba là tam-muội tích chứa thanh tịnh và bốn là tam-muội không thối chuyển, ông cũng giống như vậy. Ta có sáu phép thần thông, ông cũng giống như vậy. Ta có bốn phép định, một là thiền định, hai là trí định, ba là tuệ định, bốn là giới định, ông cũng giống như vậy.”
Kinh lại nói tiếp: “Có người bà-la-môn thưa với Phật: ‘Hôm qua có người bà-la-môn đến nhà con, đó là ai vậy?’ Phật chỉ ngài Ca-diếp. Người kia lại hỏi: “Vị sa-môn này đâu phải bà-la-môn?” Đức Phật dạy: “Những pháp và luật của sa-môn, pháp và luật của bà-la-môn ta đều rõ biết, Ca-diếp cũng rõ biết. Công đức của Ca-diếp so với ta chẳng khác, vì sao lại chẳng [dám] ngồi [chung với ta]?”
Các vị tỳ-kheo nghe Phật ngợi khen [Ca-diếp] như vậy đều kinh sợ trong lòng, lông tóc dựng lên. Phật liền kể lại nhân duyên ngày trước: “Thuở xưa có vị thánh vương hiệu Văn-đà-kiệt, tài giỏi vô song. Thiên đế kính ngưỡng đức hạnh ấy liền cho 1.000 chiếc xe ngựa dàn thành cổng chào nghênh đón nhà vua. Thiên Đế ra khỏi cung chờ đón, rồi cùng vua ngồi chung một chỗ. Sau khi chung vui rồi mới đưa tiễn nhà vua về cung. Xưa kia Ca-diếp [là Thiên đế] dùng tòa ngồi trong chốn sinh tử mời ta [là thánh vương Văn-đà-kiệt] cùng ngồi. Nay ta thành Phật nên dùng tòa ngồi Chánh pháp để đáp lại tấm lòng thuở xưa.” Ngài Ca-diếp ngồi xuống đối diện với Phật, hàng trời người thấy vậy đều cho rằng đó là thầy của Phật.
Lại nữa, [có lần] ngài Ca-diếp cùng đi với ngài A-nan, thuyết pháp cho các tỳ-kheo-ni. Có một tỳ-kheo-ni không hài lòng nói rằng: “Thằng bé bán kim châm dám đến trước ông thầy châm cứu mà bán kim châm.” Ngài Ca-diếp liền bảo ngài A-nan: “Tỳ-kheo-ni này ví ông như thầy châm cứu, còn tôi như đứa trẻ bán kim châm.” Rồi ngài Ca-diếp nói với tỳ-kheo-ni ấy: “Phật thuyết trong kinh Nguyệt Dụ rằng, duy nhất chỉ có Đại Ca-diếp là mỗi ngày đều tăng trưởng sự học giống như người mới học, cô có nghe việc ấy chăng? Ở giữa đại chúng [được Phật] nhường cho một nửa tòa ngồi [để cùng ngồi với [Phật], cô có nghe việc ấy chăng? Ở giữa đại chúng [Ca-diếp] được [Phật ngợi khen] công đức rộng lớn cũng đồng như Phật, cô có nghe việc ấy chăng? Làm sao một người như vậy [mà cô lại có thể ví như] đứa trẻ bán kim châm?”
Do những việc như vậy nên được Phật ấn khả cho [danh xưng của ngài] là Đại [Ca-diếp].
Về địa vị [được xưng là] Đại, [ngài Ca-diếp] ở trong đại chúng được xưng là Đại, ở trong 1.250 vị [tỳ-kheo] được xưng là Đại, ở trong 500 vị [A-la-hán] được xưng là Đại, ở trong 4 đại đệ tử được xưng là Đại, là vị chủ trì tự viện của 5 núi, là bậc Thượng Tọa tri sự trong cõi Diêm-phù-đề, cho nên về địa vị gọi là Đại.
Sau khi trà-tỳ nhục thân Phật, chỗ tro tàn nơi ấy mọc lên 4 cây đa-la, tượng trưng cho việc ngài Ca-diếp kết tập giáo pháp của Phật trong 3 a-tăng-kỳ kiếp, thành 3 tạng kinh điển, 4 bộ A-hàm.
Bài tựa của ngài Tăng Triệu nói rằng: “Chỗ cao tột của tông chỉ là dứt sạch sự ngợi khen, giảng giải. Bậc hiền thánh xem đó là hòa nhập vào tĩnh lặng. [Nhưng] tông chỉ sâu xa huyền diệu, nếu không dùng đến ngôn từ thì không thể truyền lại [cho đời sau]. Đức Thích-ca thiết lập giáo pháp, vì ước thúc hành vi và lời nói, ngăn phòng [việc xấu ác] nên dùng giới luật với các điều ngăn cấm; vì để phân biệt sáng tỏ những điều thiện ác, làm khuôn mẫu dẫn dắt [chúng sanh] nên dùng kinh điển; vì diễn giảng những chỗ sâu xa uyên áo tinh vi nên dùng [các luận giải vi diệu] biện biệt rõ các tướng của pháp.” Đây chính là nói rõ về giới, định, tuệ trong Tam tạng [kinh điển].
Kinh Tăng nhất A-hàm làm sáng tỏ lý nhân quả trong hai cõi trời, người. Kinh Trường A-hàm phá trừ tà kiến. Kinh Trung A-hàm làm sáng tỏ những ý nghĩa sâu xa. Kinh Tạp A-hàm giảng rõ về thiền định. [Lưu truyền được các bộ kinh này,] đều là do công lao của ngài Đại Ca-diếp. Nếu nói riêng về việc kết tập thì ngài A-nan tụng đọc lại Kinh tạng (Tu-đa-la), ngài Ưu-ba-ly tụng đọc lại Luật tạng (Tỳ-ni), ngài Ca-diếp tụng đọc lại Luận tạng (A-tỳ-đàm). Cho nên nói việc kết tập là lớn lao.
Sau khi Đức Như Lai viên tịch, Chánh pháp được giao phó cho ngài Ca-diếp. [Phật dạy rằng: “Ca-diếp] có thể vì tất cả [chúng sanh] làm chỗ nương tựa noi theo, cũng giống như Đức Như Lai [còn tại thế]. Vì sao vậy? Nếu còn có người thực hành hạnh đầu đà khổ hạnh [như Ca-diếp] thì Chánh pháp của ta còn tồn tại. Nếu không có người như thế thì Chánh pháp không tồn tại. Ca-diếp có thể gánh vác Phật pháp, khiến cho được trụ thế lâu dài, cho đến khi đức Phật vị lai ra đời để giao phó Chánh pháp, trao lại y [của Phật], xong việc rồi sau đó mới nhập diệt.” Cho nên nói việc giữ gìn Chánh pháp là lớn lao.
Ngài Ca-diếp khi sắp [vào núi] ẩn mình liền hiện lên cõi trời đảnh lễ tóc Phật [được thờ ở đó] rồi vì chư thiên thuyết pháp, dạy rằng:
Làm thiện sanh cõi trời, Làm ác đọa lạc sâu. Năm dục chẳng thường còn, Như sương đọng trên hoa, Nắng lên liền tan biến.
Thuyết giảng như vậy rồi từ biệt, chư thiên buồn khóc, than rằng:
Khốn khổ buồn lo cùng quẫn, Đớn đau ốm yếu gầy còm, Nghèo khổ cô độc chơ vơ, Tôn giả xót thương che chở. Nay ngài xả thân diệt độ, Còn ai chở che, bảo bọc?”
[Ý nghĩa danh xưng “Đại Ca-diếp”] đại lược là như vậy.
Giải thích về hạnh đầu đà
Lược theo giáo nghĩa giải thích rõ về hạnh đầu đà, gồm 12 sự nỗ lực vượt trội.
Đó là nói kẻ tham muốn mong cầu y tốt là khổ. Khi được y thì nhiều nỗi lo lắng sợ sệt, khi mất y thì sinh ra buồn rầu khổ não. Người mặc y phấn tảo thì không có 5 mối lo sợ [mất y] như: bị nước trôi, bị lửa cháy, bị trộm, bị cướp, bị vua quan tịch thu. Nếu tích chứa nhiều y thì khổ nhọc cũng nhiều vì những việc giặt giũ, khâu vá, cắt sửa. Cho nên [người tu hành] chỉ có 3 y. Nếu ở trong chúng mà ăn [của tăng chúng] thì phải giúp vào phục vụ việc chung, nên chỉ đi khất thực [để sống]. Nếu ăn quá dư thừa, ăn nhiều bữa vặt thì lăng xăng nhiễu động, mất nhiều thời gian, nên mỗi ngày chỉ ngồi xuống ăn một bữa. Ăn quá no thì khó tiêu hóa, sinh ra buồn ngủ và lười biếng; ăn quá ít thì đói gầy mất sức, cho nên phải ăn uống tiết chế vừa đủ. Dùng nhiều bát đĩa phải mất nhiều công rửa sạch càng thêm chướng ngại [sự tu tập], nên chỉ ăn trong một bình bát. Tham cầu các loại nước uống khiến tâm lăng xăng loạn động, nên [sau bữa ăn] không uống nước. [Ngủ nghỉ trong] phòng ốc sẽ sinh tâm bám chấp, nên [ngủ nghỉ] dưới gốc cây. Dưới gốc cây cũng sinh bám chấp, nên ngủ nghỉ nơi bãi tha ma. Nơi bãi tha ma lại bị những sự bi thương buồn khổ gây chướng ngại [sự tu tập] nên [ngủ nghỉ nơi] đồng trống. Nằm thì tiêu hao công đức, tăng sự lười nhác, cho nên chỉ thường ngồi.
[Trong 12 hạnh đầu đà như kể trên,] có 2 điều là phép tắc dùng y phục, 6 điều là phép tắc ăn uống và 4 điều là về chỗ ngủ nghỉ.
Hãy lược nói qua về việc khất thực để hiểu rõ về hạnh đầu đà. Lúc đi khất thực [cũng có thể mắc lỗi lầm], nếu dễ dàng có được thức ăn thì sinh tâm vui mừng, nếu khó khăn mới có được thì sinh ra bực tức, sân hận; nếu được món ngon thì thích ý, gặp món dở thì buồn phiền. Tâm buồn lo hay vui thích ấy do nơi hình sắc [bên ngoài] mà khởi lên, tức là sắc ấm. Nhận lấy những buồn lo, vui thích ấy là thọ ấm. Bám chấp nơi tướng buồn lo, vui thích ấy là tưởng ấm. Buồn lo, vui thích ấy chính là hành ấm. Phân biệt những sự buồn lo, vui thích, ấy là thức ấm. Buồn lo, vui thích ấy là gồm cả ý và pháp, Hai việc ấy thành ra 2 nhập [trong 6 nhập], [với thức ở giữa thành ra] 3 giới [trong 18 giới]. Ấm, nhập và giới tức [hình thành] Khổ đế.
Thấy mình có thể đi khất thực, liền khởi tâm chấp mình là ngã, [phân biệt với] không phải ngã; cho việc khất thực là đạo, là chân thật, suy xét như vậy thì tán thán niềm vui, chê ghét sự sân hận, thường bị trách mắng tức sinh lòng nghi, [đối với sự việc] không rõ biết ấy là si... [Những kiến chấp, tham, sân, si, mạn...] ấy chính là thập sử. Xét qua Tứ đế trong Tam giới thì gồm đủ Bát thập bát sử (88 phiền não kết sử), gọi là Tập đế.
Nếu rõ biết được trong pháp khất thực có 4 sự điên đảo, tương tợ như nhau, tương tục không ngừng che lấp nên cho là thường, được khi thích ý cho là lạc (vui), cử động đi lại vì [si mê] che lấp mà cho là ngã, [thân bất tịnh] có lớp da mỏng che đậy lại cho là tịnh. Thấu suốt được bốn sự che lấp ấy, không còn bốn điên đảo, tinh tấn chuyên cần ngăn hai việc ác, sanh hai việc thiện, tu tập tứ định, [ngũ] căn, [ngũ] lực, [các] giác đạo. Đây chính là Đạo đế.
Trong khi khất thực không thấy có tự ngã thì si mê diệt. Si diệt nên tham ái diệt. Tham ái diệt nên sân hận diệt. Sân diệt nên không tự đề cao mình, do đó kiêu mạn diệt. Kiêu mạn diệt rồi nên khi bị trách mắng không sinh lòng nghi. Không thấy có tự ngã nên diệt được ngã kiến. Ngã kiến diệt nên biên kiến diệt. Không bám chấp [việc khất thực] là đạo nên giới thủ diệt, không cho [việc khất thực] là chân thật nên kiến thủ diệt, không bám chấp tà vạy nên diệt được tà kiến. [Tham, sân, si, mạn... cho đến giới thủ kiến, kiến thủ kiến,] thập sử đều diệt nên Bát thập bát sử (88 kết sử phiền não) [trong Tam giới] đều diệt. Bát thập bát sử đã diệt nên sự trói buộc bởi sự chết cũng diệt. Trói buộc nơi sự chết đã diệt nên trói buộc với [nghiệp] quả cũng diệt. Trói buộc nơi nghiệp quả đã diệt nên 25 cảnh giới hiện hữu đều diệt. Đây chính là Diệt đế.
Nếu trong việc khất thực mà không thấy biết được Tứ chân đế thì phải lưu chuyển lâu dài trong biển khổ sanh tử mênh mông. Nếu có thể thấy biết Tứ đế thì trừ dứt được sanh tử. Sanh tử đã dứt rồi thì không còn phải thọ [sanh] trong các cảnh giới hiện hữu. Đó là dùng trí tuệ quán xét trong hạnh đầu đà khất thực. Trong các hạnh đầu đà về y phục, đầu đà về trụ xứ cũng đều [quán xét] giống như vậy. Đây là giảng giải về hạnh đầu đà theo Tam tạng giáo.
Theo Thông giáo giảng giải về hạnh đầu đà thì duyên theo chân thật để chứng tịch tịnh là [hạnh đầu đà] trụ xứ, trí tuệ rõ biết tánh không là [hạnh đầu đà] khất thực, giữ tâm không trong mọi hành vi là [hạnh đầu đà] y phục. Thường thấy tánh không, khi không thấy gì không là tánh không thì hạnh đầu đà trí tuệ Không ấy thấy hết thảy đều như huyễn hóa, hết thảy vọng tưởng, các niệm xấu ác đều vắng lặng không còn sinh khởi, cho nên các pháp tâm và tâm sở đều không hiện hành. Do không gì có thể nắm bắt nên trong các pháp tương ưng thì tương ưng Không là cao trổi hơn hết, trong các pháp khổ hạnh thì hạnh Không là cao trổi hơn hết, trong các pháp đầu đà thì đầu đà trí tuệ Không là cao trổi hơn hết. Đó là lược nói về hạnh đầu đà [theo Thông giáo].
Giảng giải về hạnh đầu đà theo Biệt giáo thì nương theo pháp thân là [hạnh đầu đà] trụ xứ, trí tuệ Bát-nhã là [hạnh đầu đà] khất thực, hết thảy mọi hành vi đều trang nghiêm là [hạnh đầu đà y phục] ngăn che. Đầu đà [y phục] ngăn che cái xấu của nghiệp ác, đầu đà [khất thực] Bát-nhã ngăn che cái xấu của phiền não, đầu đà [trụ xứ] Pháp thân ngăn che cái xấu của khổ não sanh tử. Hạnh đầu đà trước [chấp nhận] nghiệp khổ phiền não phần đoạn, hạnh đầu đà tiếp theo [chấp nhận] nghiệp khổ phiền não biến dịch. Đây là quán xét hạnh đầu đà chân chánh theo Trung đạo, vượt hơn tất cả những sự hành trì khổ hạnh của hàng Nhị thừa. Đại lược là như vậy.
Giải thích về hạnh đầu đà theo Viên giáo thì [hạnh đầu đà] trụ xứ cũng tức là hạnh đầu đà về y phục, cũng tức là hạnh đầu đà khất thực, vốn chỉ là một pháp phân biệt nói thành ba. Một hạnh đầu đà là hết thảy các hạnh đầu đà, tất cả các hạnh đầu đà là một hạnh đầu đà, không phải một, không phải tất cả. Đối với hết thảy các hạnh đầu đà không gì là không phải thật tướng. Hết thảy việc làm của chư Phật đều là hạnh Như Lai, vượt qua chỗ hành trì thanh tịnh của chư Bồ Tát. Đại lược là như vậy.
Giải thích về hạnh đầu đà theo bản tích thì ban sơ vốn cùng ngồi với Như Lai, rốt ráo nơi lẽ không, cùng được pháp thân rộng lớn, cùng được trí tuệ không ngăn ngại, cùng được công đức vô lượng, trong buông xả mọi pháp ái nhiễm, ngoài không có cáu bẩn nhiễm ô. Các pháp đầu đà vốn dĩ trong ngoài đều tự thanh tịnh, vì muốn dẫn dắt [chúng sanh sơ cơ, như giới thiệu] mùi vị sữa (nhũ), nên [thị hiện] các hạnh đầu đà trong hành sự. Tiếp theo vì dẫn dắt [chúng sanh đi xa hơn, như giới thiệu] mùi vị sữa đặc (lạc), nên [thị hiện] các hạnh đầu đà quán Không. Tiếp nữa vì dẫn dắt [chúng sanh đi xa hơn, như giới thiệu] mùi vị bơ sống (sinh tô), nên thị hiện các hạnh đầu đà theo Biệt giáo. Lại tiếp theo nữa vì dẫn dắt [chúng sanh đi xa hơn, như giới thiệu] mùi vị bơ chín (thục tô), nên thị hiện các hạnh đầu đà theo Viên giáo.
Giải thích hạnh đầu đà theo quán tâm thì quán Không thấy các hạnh đầu đà là chấp giữ tướng, quán giả tạm thấy các hạnh đầu đà như cát bụi không thật, quán Trung đạo thấy các hạnh đầu đà là vô minh, quán nhất tâm thấy năm trụ phiền não... Đại lược là như vậy.
Ba vị Ca-diếp
[Danh xưng] Ca-diếp (Kāśyapa) như trước đã giải thích. [Ba anh em Ca-diếp gồm có] ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp (Uruvilvā-kāśyapa), cũng được đọc là Ưu-lâu-tỳ (優樓毘), hoặc cũng đọc là Ưu-vi (優為), dịch nghĩa là Mộc Qua Lâm; ngài Na-đề Ca-diếp (Nadī-kāśyapa), dịch nghĩa là Hà hoặc Giang; ngài Già-da Ca-diếp (Gayā-kāśyapa), cũng đọc là Kiệt-di, dịch là Tượng (象), cũng dịch là Thành (城), vì nhà ngài ở phía nam thành Vương Xá, cách 7 do-tuần.
Vào thời đức Phật Tỳ-bà-thi, [ba người] cùng nhau dựng trụ tháp thờ Phật, do nhân duyên đó [nên sinh ra] làm anh em một nhà. Người anh [cả] là thầy của vua Bình Sa, có 500 đệ tử, hai người em mỗi người có 250 đệ tử, cùng tu hành theo giáo pháp của người anh. Đức Phật [vì muốn hóa độ nên] thị hiện 10 pháp biến hóa như là: không trúng độc của rồng, rồng phun lửa không đốt cháy được, nước dâng không chìm, hái quả từ ba hướng [đông, tây, nam] trong khi hướng bắc cắt lúa, lấy nước cam lồ từ cõi trời Đao Lợi, rõ biết những việc ẩn khuất trong quá khứ, biết rõ những ý niệm [của người khác] trong hiện tại và tương lai, [làm cho] lửa tắt không thể cháy lên được, [làm cho kẻ] đưa búa lên không thể hạ xuống được, và hiện ra rất nhiều điềm lành. Tuy nhìn thấy đủ các sự biến hóa như vậy [nhưng Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp vẫn] bám chấp tà kiến không chịu hối cải nên nói rằng: “Cù-đàm tuy có thần thông nhưng không thể sánh bằng đạo chân thật của ta.” Đức Phật liền bảo: “Ông chẳng phải A-la-hán, cũng không hề đắc đạo.” [Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp nghe nói vậy] hốt nhiên tỉnh ngộ, tất cả thầy trò đều quy phục theo Phật. Hai người em thấy việc như vậy liền [dẫn theo các đệ tử cùng về] quy y với Phật, tổng cộng thành 1.000 vị tỳ-kheo.
Theo ước giáo thì như trong kinh Tăng nhất A-hàm có nói rằng: “Ngài Ưu-lưu-tỳ là bậc dẫn đầu trong việc giúp đỡ hộ trì bốn chúng, cung cấp bốn sự thiết yếu không để cho thiếu thốn. Tỳ-kheo Na-đề thì tinh tấn bậc nhất, tâm ý vắng lặng an nhiên, hàng phục được hết thảy phiền não kết sử. Tỳ-kheo Già-da là bậc đứng đầu trong việc quán xét rõ các pháp, hết thảy đều không vướng mắc, lành hay thường khéo léo giáo hóa người khác.
Giải thích như trên là giáo pháp [dẫn dắt], giống như vị sữa đặc (lạc). Nếu tiến thêm một bước, thành giống như vị bơ sống (sinh tô), suy theo lệ thường thì biết, ắt phải xem nhẹ Tiểu thừa mà hâm mộ Đại thừa. Lại nếu tiến lên bước nữa, giống như vị bơ chín (thục tô), ắt phải nương theo nghiệp mà nhận hiểu giáo pháp. Nếu tiến lên một bước cao hơn nữa, như vị đề-hồ, tức là [tầng bậc] như trong kinh [Pháp Hoa] này nói là được thọ ký sẽ thành Phật.
Giải thích theo nghĩa bản tích thì trụ ở ba đức. [Ngài Ưu-lâu-tần-loa là] rừng (Lâm), tức là Bát-nhã, [ngài Già-da là] thành tức là pháp thân, [ngài Na-đề là] nước (Hà), tức là giải thoát. Đây chính là kho tàng căn bản bí mật, mà dấu tích biểu hiện là dựa vào [ba yếu tố] “rừng, thành, nước” như trên để hóa độ chúng sanh.
Giải thích theo nghĩa quán tâm thì chân chánh quán xét tâm tánh, theo Trung đạo chẳng lay động giống như thành ngăn quân địch; chẳng động mà động giống như nước làm sạch các bờ điên đảo, mưa nắng hai mùa soi chiếu như rừng cây sầm uất. Ba tướng pháp ấy hỗ tương cho nhau nên gắn kết thành anh em một nhà.
Xá-lợi-phất
Xá-lợi-phất (Śāriputra), nói đầy đủ phải là Xá-lợi-phất-la, Hán dịch là Thân Tử, cũng dịch xá-lợi là châu ngọc. Mẹ ngài khi còn trẻ vốn đã thông minh, tướng thông minh ấy hiện ra nơi đôi mắt đẹp như châu ngọc, nên sanh con ra gọi tên là Châu tử. Lại cũng dịch [tên ngài là] là Thân vì người mẹ có thân hình đẹp, nên sanh con ra gọi là Thân tử. Người thời bấy giờ dùng tên con để nêu danh mẹ nên gọi như vậy. Lại có tên do người cha đặt là Ưu-ba-đề-xá (Upatiṣya), hoặc cũng gọi là Ưu-ba-thế, Hán dịch là Luận Nghĩa. [Cha ngài] nhờ việc luận nghĩa mà cưới được vợ, nên sinh con ra đặt tên là Luận, đó là để nêu đức tốt của cha.
Luận giải nói rằng: “Ta tên là Đề-xá nên noi theo tên ta mà đặt tên con là Ưu-ba-đề-xá.” Ưu-ba dịch nghĩa là noi theo, đề-xá là tên một ngôi sao.
Lại nữa, [trong tên gọi Xá-lợi thì] Xá là nêu tên cha, Lợi là nêu tên mẹ. Vì muốn nêu tên cả cha lẫn mẹ nên gọi là Xá-lợi-phất, vì chữ Phất nghĩa là con. Họ của ngài là Câu-lật-đà, thuộc chủng tộc Bà-la-môn.
Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, [Phật] nói: “Ở trong Phật pháp của ta, [nếu xét về] trí tuệ mênh mông không giới hạn, dứt hết được mọi sự nghi ngờ thì Xá-lợi-phất là bậc nhất.”
Thuở xưa, theo Sanh kinh nói rằng, trong quá khứ có hai cậu cháu đều là thợ dệt, biết rõ về kho tàng của nhà vua nên nhân đó đào đường hầm xuyên dưới đất để lẻn vào, lấy trộm được rất nhiều châu báu. Người giữ kho [phát hiện châu báu bị mất] liền tâu lên vua. Vua nói: “Đừng nói ra việc này, kẻ trộm thế nào cũng quay lại, hãy âm thầm rình bắt nó.”
[Hai cậu cháu không biết việc đã bại lộ nên quay lại trộm nữa.] Người cháu bảo cậu chui ngược vào đường hầm, [đưa chân vào trước], liền bị quân canh tóm được. Người cháu sợ bị người của vua nhận biết nên [ở phía sau] chặt lấy đầu người cậu mang chạy đi mất, [quân canh chỉ giữ được thi thể không đầu].
Nhà vua ra lệnh đem thi thể người chết [không có đầu] đặt ở ngã tư đường để dụ người thân tìm đến [thì bắt]. Người cháu chờ khi khách buôn tấp nập đông đúc ở nơi ấy thì đưa hai xe củi khô chen vào, đi ngang qua đổ củi lên phủ lấp tử thi.
Vua lại cho người rình rập canh giữ chung quanh, [đợi kẻ nào đến nổi lửa thiêu xác thì bắt]. [Người cháu thuê] một đám trẻ con cầm đuốc chơi đùa nhảy múa quanh đó rồi ném đuốc vào, thiêu được xác.
[Vua lại lệnh người canh giữ cẩn mật, chờ có kẻ đến lấy tro cốt thì bắt.] Người cháu giả làm người đi đường mang rượu ngon đặt quanh đó, đợi quân canh uống rượu say thì lẻn đến dùng bình đựng rượu hốt lấy tro cốt đi mất.
Vua [không bắt được kẻ trộm] giảo hoạt, liền nghĩ cách cho một người con gái đẹp đến ở trong căn phòng bên bờ sông, dặn trước là khi có người tìm đến phải nắm chặt lấy và la lên, [rồi cho quân canh phòng quanh đó chờ bắt]. [Người cháu liền núp bên dưới] một gốc cây khô rồi thả trôi đến gần. Quân canh phòng nghi là có người liền đến xem thì chỉ thấy gốc cây khô nổi. Qua nhiều ngày liên tiếp đều như vậy nên lơ là không chú ý nữa. Người cháu nhân đó [rời khỏi gốc cây khô] vào phòng người con gái đẹp. [Trong lúc gần nhau, cô gái nhớ lời vua dặn liền nắm giữ chặt tay áo người cháu. [Người cháu đã tính toán trước nên mang theo một] cánh tay người chết, lúc đó tráo sang cho người con gái nắm lấy rồi thoát ra được mà trốn đi. Khi ấy cô gái mới la to lên gọi người đến bắt, hóa ra chỉ đang nắm giữ một cánh tay người chết.
[Sau lần đó, cô gái mang thai] rồi sinh ra một đứa bé trai khôi ngô tuấn tú. Nhà vua liền ra lệnh cho người nuôi trẻ bồng đứa bé đi ra ngoài, dặn có ai quan tâm đến thì bắt giữ. Đi tiếp mấy ngày [chẳng gặp ai,] vừa đói vừa khát, đến chỗ một lò nấu bánh, người [cháu chính là người thợ] làm bánh, lấy bánh đưa cho đứa trẻ mà nựng nịu. [Hôm sau] vua ra lệnh mang đứa trẻ đi ra ngoài đến đó lần nữa. Người cháu dùng rượu ngon chuốc cho những người canh giữ uống đến say khướt rồi bồng đứa bé trốn ra khỏi nước.
[Vua] nước làng giềng xem trọng người nhiều mưu kế nên phong làm đại thần, lại muốn đem con gái gả cho, nhưng người cháu không nhận, xin với đức vua giúp sang hỏi cưới con gái vua nước mình. Vua nước ấy liền nhận người cháu làm con rồi mới sang hỏi cưới con vua lân quốc, được vua thuận hứa gả cho. [Lúc đưa sính lễ sang, vua nhận ra những châu báu bị mất trước đây] nên nghi là kẻ trộm ngày trước. Người cháu dùng đến 500 người cưỡi ngựa y phục giống hệt như nhau để đi đón dâu. Khi gặp mặt, nhà vua liền gặng hỏi thì quả đúng là kẻ trộm trước đây. Vua thán phục là người đa mưu túc trí, [nên vẫn chấp nhận] gả con gái cho. Người cháu ấy nay là Xá-lợi-phất, còn người cậu nay là Điều-đạt ... Đại lược là như thế.
Kể về giai đoạn nhập thai. Cha ngài là Ưu-ba-đề-xá học tinh thông kinh điển thư tịch, dùng lá sắt mỏng quấn quanh bụng, đầu đội mũ trên có ngọn đèn, một mình đi vào thành Vương Xá đánh trống thách người tranh luận. Quốc sư Đà-la tự biết người phô bày như thế cùng tranh biện không hay, nên khi ông tranh luận khuất phục được tất cả liền đem con gái gả cho làm vợ, [tức là mẹ ngài Xá-lợi-phất].
Mẹ ngài một hôm mộng thấy một người, thân mang giáp trụ, tay cầm chày kim cang đập nát hết các ngọn núi, cuối cùng chỉ còn lại một ngọn liền đến đứng bên cạnh. Khi tỉnh mộng cảm thấy thân thể nặng nề, liền đem việc ấy hỏi cha ngài. Cha ngài bảo: “Bà đã mang thai rồi. [Đứa con này về sau] sẽ thắng hết tất cả luận sư, chỉ không thắng được một người nên sẽ làm đệ tử của vị ấy.”
Người cậu, em của mẹ ngài, tên Câu-hy-la, khi tranh luận thường thắng chị, nhưng khi người chị mang thai thì luôn thắng được người em. Người em tự nghĩ, đây không phải năng lực của chị mình, ắt là do đang mang thai một người có trí tuệ nên khiến cho người mẹ tranh biện được vậy. Nay ở trong thai mà còn vậy, huống chi sau này khi sinh ra, [làm sao ta có thể thắng được nó? Nghĩ vậy rồi liền] sắp xếp việc gia đình, đi du học khắp nơi, nỗ lực đến mức không có thời gian rảnh để cắt móng tay. Do vậy người thời bấy giờ gọi ông là Phạm chí Trường Trảo, [nghĩa là ông Phạm chí móng tay dài]... [Chuyện về giai đoạn trong thai của ngài Xá-lợi-phất] đại lược là như vậy.
Có hai vị long vương là Nan-đà và Bạt-nan-đà thường hộ trì thành Vương Xá, giúp mưa thuận gió hòa, trong nước không bị đói thiếu, đức vua và thần dân mỗi năm đều mở đại hội [ăn mừng], bên trên thiết lập ba tòa ngồi cao, một dành cho đức vua, một dành cho thái tử và một dành cho luận sư. Ngài Xá-lợi-phất năm ấy mới 8 tuổi, đến tham dự đại hội, thấy ba tòa ngồi trên cao liền dọ hỏi, có người trả lời cho biết như vậy. Ngài liền vượt qua hết thảy mọi người để trèo lên tòa của luận sư mà ngồi. Các luận sự dự hội đều xấu hổ không muốn ra tranh luận, vì nếu thắng một đứa bé cũng chẳng vinh dự gì, mà nếu thua thì thật là nỗi nhục quá lớn. Do vậy, mỗi người đều đặt câu hỏi rồi sai người hầu của mình mang đến chất vấn. Tất cả những câu hỏi đều được [ngài Xá-lợi-phất] trả lời và giải thích sâu rộng hơn nữa. Cho đến khi hết thảy mọi luận sư dự hội đều hạ cờ khuất phục, không còn ai dám chất vấn nữa. Đức vua và tất cả nhân dân đều hết sức vui mừng khen ngợi, cho rằng đất nước gặp vận thái bình nên mới có bậc hiền trí ra đời.
Đến năm 16 tuổi thì ngài Xá-lợi-phất đã nghiên cứu hết tất cả kinh điển thư tịch trong cõi Diêm-phù-đề, không có việc gì không thông thuộc, thông kim bác cổ, diễn thuyết hết thảy mọi điều sâu xa uyên áo, trong 16 nước lớn không còn ai có thể tranh luận ngang tài, trở thành [luận sư] bậc nhất trong khắp năm vùng Thiên Trúc.
Ngài theo học với thầy là Phạm chí Sa-nhiên, hết thảy đạo lý phương thuật đều học được. Thầy có 250 đệ tử, tất cả đều dựa vào ngài Xá-lợi-phất mà được thành tựu. Khi Sa-nhiên sắp chết bỗng hân hoan nở nụ cười, ngài Xá-lợi-phất thưa hỏi, ông đáp rằng: “Người thế tục không có mắt, lấy sự ân ái làm thân thiết. Ta nhìn thấy vua nước Kim vừa chết, phu nhân của vua đâm đầu vào đống lửa chết theo, nguyện được cùng sanh về một chỗ với nhau.” Phạm chí Sa-nhiên nói như vậy rồi liền mạng chung.
Về sau, [ngài Xá-lợi-phất] gặp thương nhân người nước Kim, hỏi ra quả đúng [có sự việc] như vậy, liền hối tiếc là chưa học được hết phương thuật của thầy, có lẽ vì mình không phải người thích hợp nên thầy còn che giấu. Ngài tự biết mình chưa thông đạt nên vẫn có lòng mong cầu pháp thù thắng, nhưng không còn ai để có thể theo học được nữa. Tuy không đạt được pháp như vậy nhưng hết thảy các pháp khác ngài đều thông suốt, là bậc cao trổi nhất trong chúng ngoại đạo [lúc bấy giờ].
[Một hôm], trên đường đi ngài gặp tỳ-kheo Át-bệ dáng vẻ uy nghiêm chững chạc, nhân đó liền hỏi [ngài Át-bệ] giáo pháp nào ông đã học được với thầy. Át-bệ [đọc kệ] trả lời rằng:
Các pháp từ duyên sanh, Cho nên nói nhân duyên. Pháp cũng do duyên diệt, Thầy ta dạy như vậy.
Ngài Xá-lợi-phất vừa nghe qua liền chứng quả Tu-đà-hoàn. [Sau đó] tìm đến chỗ Phật, trải qua 7 ngày liền thông đạt hết Phật pháp sâu thẳm như biển lớn. Lại nói, sau 15 ngày ngài chứng quả A-la-hán. [Ngài được đức Phật giao cho làm] hòa thượng dẫn dắt La-hầu-la, làm thầy của ngài Kiều-phạm-ba-đề. Trong chúng Thanh văn, ngài là đệ tử luôn đứng hầu bên phải đức Phật.
Khi Đề-bà-đạt-đa phá hoại Tăng đoàn, dẫn 500 tỳ-kheo bỏ đi, ngài Xá-lợi-phất là người đến giáo hóa đưa 500 vị này quay về... Đại lược là như vậy.
Về chuyện đấu sức thần thông với Lao Độ Sai, [đệ tử của ngoại đạo]. Khi Độ Sai hóa ra một cái hồ trong có đủ các loại hoa thì Xá-lợi-phất hóa ra một con voi lớn nhổ hoa phá nát hồ. Độ Sai lại hóa làm quỷ dạ-xoa thì Xá-lợi-phất hóa làm Thiên vương Tỳ-sa-môn [khiến quỷ dạ-xoa khiếp sợ]... Với đủ cách biến hóa khác nhau, Xá-lợi-phất đều vượt trội, Độ Sai chịu khuất phục.
Kinh Trung A-hàm nói rằng, Xá-lợi-phất là người mẹ sinh ra Tứ chúng, Mục-kiền-liên là người mẹ dưỡng nuôi... Đại lược là như vậy.
Kinh Trung A-hàm, quyển 2, kể rằng: Các vị tỳ-kheo an cư ở Sinh xứ [khi đến lễ Phật] đều khen ngợi xưng tán ngài Mãn Từ tử là người [tự mình có đủ các pháp] thiểu dục tri túc, tinh tấn, sống nơi vắng vẻ, nhất tâm, chánh niệm, trí tuệ, vô lậu, lại cũng khuyến khích người khác và giảng thuyết về các pháp ấy.
Lúc bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất nghe như vậy tự nghĩ, biết bao giờ ta mới được gặp vị ấy, biết bao giờ vị ấy mới đến chỗ Phật?
[Ngài Xá-lợi-phất liền hỏi các vị tỳ-kheo về ngài Mãn Từ tử,] có vị tỳ-kheo nói cho biết rằng: “Thầy ấy là người có nước da trắng, mũi cao như mỏ chim anh vũ.” [Ngài Xá-lợi-phất liền ghi nhớ như vậy.]
Sau đó, nơi rừng An-đà (Jeta), Hán dịch là Thắng lâm, hai người có dịp gặp nhau [nhưng chưa hỏi tên]. Ngài Xá-lợi-phất thưa hỏi rằng: “Thưa hiền giả! Có phải hiền giả theo đức Cù-đàm (Gotama) tu Phạm hạnh chăng?” Đáp: “Đúng vậy.”
Lại hỏi: “Có phải hiền giả vì muốn được giới thanh tịnh mà tu Phạm hạnh chăng?” Đáp: “Không phải.”
[Lại hỏi:] “Vậy có phải hiền giả vì muốn làm thanh tịnh tâm, hoặc làm thanh tịnh tri kiến, hoặc làm cho sự nghi ngờ ngăn che được thanh tịnh, hoặc làm cho những gì thuộc về đạo và không phải đạo đều được thanh tịnh, hoặc làm cho tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh, hoặc làm cho sự đoạn dứt tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh, vì [bảy điều] như thế mà tu Phạm hạnh chăng?” Đáp: “Cũng không phải.”
Lại hỏi rằng: “Hiền giả! Tôi đã thưa hỏi [bảy điều] như trên, hiền giả đều nói là không phải. Vậy là ý nghĩa thế nào?”
[Ngài Mãn Từ tử] đáp rằng: “Tôi vì hướng đến Niết-bàn vô dư nên mới tu Phạm hạnh.”
[Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi: “Vậy có phải vì giới thanh tịnh [mà đức Thế Tôn] thiết lập Niết-bàn vô dư chăng?” Đáp: “Không phải.”
[Lại hỏi:] “Vậy có phải vì [tâm thanh tịnh...] cho đến vì sự đoạn dứt tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh mà thiết lập Niết-bàn vô dư chăng?” Đáp: “Cũng không phải.”
[Ngài Xá-lợi-phất] lại hỏi: [“Thưa hiền giả! Tôi đã hỏi [bảy điều] như trên, hiền giả đều nói là không phải. Vậy là ý nghĩa thế nào?”
[Ngài Mãn Từ tử đáp: “Nếu vì giới thanh tịnh mà thiết lập vô dư thì đó là dùng hữu dư để giảng nói vô dư... Cho đến nếu vì sự đoạn dứt tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh mà thiết lập vô dư cũng là dùng hữu dư để giảng nói vô dư. Nếu [đức Thế Tôn] lìa bỏ bảy pháp này [mà thiết lập Niết-bàn vô dư] thì dù phàm phu cũng sẽ chứng Niết-bàn, bởi vì phàm phu vốn lìa bảy pháp này. [Thưa hiền giả!] Nhờ giới thanh tịnh nên tâm được thanh tịnh, [nhờ tâm thanh tịnh nên tri kiến được thanh tịnh...] cho đến sự đoạn dứt tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh.
“Xin hiền giả hãy nghe tôi nói một thí dụ, như vua Ba-tư-nặc [có việc gấp] muốn đi từ [thành Xá-vệ nước] Câu-tát-la đến Bà-kê-đế [chỉ trong một ngày], nên trên suốt chặng đường liền bố trí bảy chiếc xe. Vua đi xe thứ nhất đến chỗ xe thứ hai, bỏ xe thứ nhất lên xe thứ hai... [tuần tự đi như vậy] cho đến bỏ xe thứ sáu lên xe thứ bảy. [Nhờ vậy có thể đi nhanh trong một ngày đến được Bà-kê-đế]. Người ở Bà-kê-đế hỏi vua: ‘Có phải vua đi xe thứ nhất đến chăng?’ Đáp: ‘Không phải.’ Cho đến hỏi rằng: ‘Có phải vua đi xe thứ bảy đến chăng?’ Vua cũng đáp rằng: ‘Không phải.’ Lại hỏi rằng: ‘Có phải vua lìa bỏ cả bảy xe [mà đến được] chăng?’ [Vua] đáp: ‘Cũng không phải.’ Thí dụ này có thể làm rõ câu hỏi [của hiền giả].”
Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi: “Hiền giả tên là gì? Những người tu Phạm hạnh gọi tên ngài như thế nào?”
Đáp rằng: “Cha tôi tên Mãn, mẹ tôi tên Từ, nên những người tu Phạm hạnh gọi tôi là Mãn Từ tử.”
Ngài Xá-lợi-phất liền xưng tán: “Lành thay! Hiền giả Mãn Từ tử, đệ tử của đức Như Lai, có trí tuệ biện tài, thông minh quyết định, an ổn không sợ sệt, đạt đại biện tài, dựng cờ Chánh pháp, đối với Chánh pháp đã tự tác chứng. Được gặp hiền giả thật là lợi ích lớn lao. Những người tu Phạm hạnh thật nên gần gũi nương tựa, tôn kính lễ bái hiền giả.”
Ngài Mãn Từ tử liền hỏi: “Hiền giả tên là gì? Những người tu Phạm hạnh gọi tên ngài như thế nào?”
Ngài Xá-lợi-phất đáp: “Cha tôi tên Ưu-ba-đề-xá, mẹ tôi tên Xá-lợi, nên mọi người gọi tôi là Xá-lợi tử.”
Ngài Mãn Từ tử xưng tán rằng: “Ồ, nay tôi được cùng với đệ tử đức Thế Tôn luận bàn mà không biết, cùng với bậc trí tuệ chỉ đứng sau đức Thế Tôn luận bàn mà không biết, cùng với vị tướng quân trong Chánh pháp luận bàn mà không biết, cùng với vị đệ tử thay Phật trùng chuyển pháp luân mà không biết. Nếu tôi biết đây là tôn giả [Xá-lợi-phất] thì chỉ một câu cũng không dám đối đáp, huống chi lại dám luận bàn sâu xa! Lành thay, lành thay! Ngài là đệ tử của đức Như Lai... cho đến dâng y đãnh lễ ... có trí tuệ biện tài, thông minh quyết định, an ổn không sợ sệt, đạt đại biện tài, dựng cờ Chánh pháp, đối với Chánh pháp đã tự tác chứng. Được gặp hiền giả thật là lợi ích lớn lao. Những người tu Phạm hạnh thật nên gần gũi nương tựa, tôn kính lễ bái hiền giả.” Đại lược là như vậy.
Khi Phật thuyết pháp nói ra một câu, ngài Xá-lợi-phất có thể dùng một câu ấy làm căn bản, thuyết giảng hùng hồn như tiếng sư tử hống trong suốt bảy ngày bảy đêm, diễn giải thành nhiều câu khác, nhiều ý nghĩa khác, cho đến vô cùng tận. Huống chi Phật thuyết giảng rất nhiều, nên biện tài trí tuệ của ngài Xá-lợi-phất thật không thể cùng tận.
Trong kinh [Tăng nhất] A-hàm, quyển 29 chép rằng: “Khi Phật ở tại ao A-nậu-đạt, Long vương thưa rằng: ‘Trong chúng hội không thấy ngài Xá-lợi-phất, xin Phật cho gọi đến.’ Đức Phật liền sai ngài Mục-kiền-liên đến tinh xá Kỳ Hoàn mời ngài Xá-lợi-phất. Ngài Xá-lợi-phất đang khâu y ngũ nạp, đáp rằng: “Ông cứ về trước, tôi sẽ đến sau.” Ngài Mục-kiền-liên nói: “Phật sai tôi đến mời ông, sao có thể về trước được?’ Ngài Mục-kiền-liên nói rồi lấy tay chạm vào tấm y, việc khâu y liền hoàn tất. Ngài Xá-lợi-phất nghĩ, Mục-kiền-liên đùa bỡn để thử ta, vậy ta cũng thử lại ông ấy xem sao. Liền ném sợi dây buộc y xuống đất và nói: ‘Ông có thể nhặt sợi dây này lên được chăng?’ Mục-kiền-liên nghĩ: “Xá-lợi-phất đùa cợt để thử ta.” Liền dùng hết sức để nhặt sợi dây lên nhưng không nhấc lên được.
Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất liền buộc sợi dây ấy vào cây diêm-phù, [Mục-kiền-liên dùng thần lực nhấc cây diêm-phù] làm cho khắp một cõi thiên hạ đều chấn động. [Ngài Xá-lợi-phất] lại buộc dây vào hai, ba rồi bốn cõi thiên hạ, [ngài Mục-kiền-liên cũng dùng thần lực nhấc cả lên làm cho chấn động,] nhưng vẫn không nhấc được dây buộc y lên. [Ngài Xá-lợi-phất] lại buộc vào cả tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, rồi đại thiên thế giới, [cũng đều bị ngài Mục-kiền-liên làm cho chấn động,] nhưng vẫn không nhấc dây buộc y lên được. [Khi ấy, khắp các thế giới đều chấn động, chỉ riêng tòa ngồi của đức Như Lai ở hồ A-nậu-đạt là an nhiên bất động.] Ngài Mục-kiền-liên tự nghĩ: ‘Ta có thần lực bậc nhất mà nay không thể nhấc nổi sợi dây buộc y, chẳng phải là đã mất thần lực rồi sao?’ Nhân đó lại thúc giục ngài Xá-lợi-phất cùng đi. Ngài Xá-lợi-phất nói: ‘Ông hãy đi trước.’ Ngài Mục-kiền-liên [liền đi trước,] về đến chỗ Phật thì thấy ngài Xá-lợi-phất đã ngồi ở phía trước đức Phật rồi.
Long vương thấy cõi đất chấn động nên thưa hỏi Phật. Đức Phật bảo: ‘Đó là do thần lực của Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên.’ Khi ấy, Long vương và 500 vị tỳ-kheo đều khởi tâm khinh thường ngài Mục-kiền-liên, [cho là không bằng Xá-lợi-phất]. Đức Phật dạy: ‘Xá-lợi-phất đối với bốn thần lực đều được tự tại. Mục-kiền-liên cũng được tự tại như vậy, nhưng không thể vượt qua Phật lực.’ Nhân đó Phật bảo ngài Mục-kiền-liên: ‘Ông hãy thể hiện thần lực của mình [cho đại chúng xem].’ Ngài Mục-kiền-liên liền dùng bình bát chứa hết cả 500 vị tỳ-kheo vào đó rồi nâng lên đến cung trời Phạm thiên, lại dùng một chân đạp lên núi Tu-di và chân kia bước đến cung trời Phạm thiên, rồi hiện thân ở phương khác đọc một bài kệ mà khiến cho khắp các cõi nước trong đại thiên thế giới đều nghe được. Khi ấy, 500 vị tỳ-kheo đều tâm phục. Đại lược là như vậy.
Theo ước giáo thì [ngài Xá-lợi-phất là bậc] Tam tạng trí huệ, tức đủ mười trí vô học, dứt hết phiền não kết sử, chứng pháp chân thật, giúp Phật tuyên dương giáo hóa. Thích luận, quyển 40, gọi [ngài Xá-lợi-phất] là Hữu diện Đại tướng, chính là ý nghĩa này.
Theo Thông giáo thì trí tuệ [của ngài Xá-lợi-phất] là như trong kinh Bát-nhã tự nói duyên do gọi là đại [trí tuệ], rằng đối với các kiến chấp về tự ngã, kiến chấp về chúng sanh, kiến chấp về Phật, kiến chấp về Bồ-đề, kiến chấp về chuyển pháp luân, phá trừ được hết những kiến chấp này thì gọi là đại trí tuệ. Chư hiền thánh thuyết giảng pháp đã tự chứng đắc, nếu không được vậy tức là người đời nay dối gạt nói mình có chỗ thuyết. Nên biết rằng ngài Xá-lợi-phất không chỉ phá trừ kiến chấp sanh tử mà cũng phá trừ cả những kiến chấp về Phật, về Bồ-đề, về chuyển [pháp] luân, về Niết-bàn. Trí tuệ này khác với [trí tuệ] theo giáo pháp sơ cơ.
Theo Biệt giáo nói về trí tuệ thì lược qua như 5 vị khác biệt [của sữa]. Nếu chỉ theo những giáo pháp căn bản ban sơ [thì giống như] chỉ biết đến vị của sữa tươi (nhũ) và sữa đặc (lạc), không được biết đến các mùi vị khác. Người phát tâm tu hành mà chỉ hành trì [những giáo pháp như] sữa với sữa đặc thì gọi đây là trí tuệ của giáo pháp căn bản.
Nếu nói rằng nếm mùi sữa đặc (lạc), mà sữa đặc ấy chẳng từ nơi sữa (nhũ), thì đó là giáo pháp về bản tánh của thiện và ác vốn đều là không, chẳng phải do tu việc thiện, trừ việc ác, dứt hình sắc mà được nghĩa không, chỉ ngay nơi sự tu tập đó tức là không.
Theo Thông giáo thì [người có] trí tuệ là ngay từ ban đầu đã nếm được vị đề hồ, biết đó là đề hồ.
Nếu trải qua các việc nuôi bò lấy sữa, nấu sữa thành sữa đặc, từ sữa đặc chế thành sanh tô, từ sanh tô chế thành thục tô, rồi sau đó mới được đề hồ, người tu hành [tuần tự qua các bước] như thế tức là có trí tuệ theo Biệt giáo.
Nếu từ ban sơ chỉ nếm một vị sữa của loài bò ăn toàn cỏ nhẫn, sữa ấy tức là đề hồ, có thể chữa khỏi tất cả bệnh tật, hết thảy các loại thuốc trị bệnh đều có đủ trong sữa ấy. Người tu hành như thế tức là có trí tuệ theo Viên giáo.
Giải thích [tên ngài là Thân tử] theo bản tích thì bản là trụ nơi thật tướng, Bát-nhã ba-la-mật là mẹ, nương theo cảnh mà sinh ra trí tuệ. Cảnh tức là “Thân”, trí tuệ tức là “tử”, nên khởi lòng từ bi thương xót chúng sanh.
Về hình tích thì [hiện thân] là Thân tử [với giáo pháp đủ 5 mùi vị sữa]. Vì muốn chuyển hóa máu phiền não xấu ác thành dòng sữa hiền thiện, nên thị hiện làm ngoại đạo có trí tuệ, làm vị đại luận sư. Vì muốn nấu sữa (nhũ) thành sữa đặc (lạc) nên thị hiện có trí tuệ tinh thông Tam tạng, làm người thứ hai sau đức Thế Tôn, [giáo hóa đại chúng]. Vì muốn làm cho sữa đặc thành bơ sống (sanh tô) nên thị hiện kém cỏi Đại thừa, biểu lộ Tiểu thừa, chịu khuất phục trước cư sĩ Tịnh Danh (Duy-ma-cật). Vì muốn làm cho bơ sống thành bơ chín (thục tô), khuyến tấn, khích lệ, làm lợi ích cho những người đồng tu Phạm hạnh nên trong Pháp hội Bát-nhã thọ lãnh giáo pháp. Vì muốn làm cho thục tô thành đề hồ nên [thị hiện] lần đầu giác ngộ trong hội Pháp Hoa. Tất cả những điều trên đều là trong ý nghĩa hình tích thị hiện ra bên ngoài, nhưng nơi nguồn cội bản địa vốn đã hàm chứa tánh thật bên trong từ rất lâu xa.
Giải thích [trí tuệ] theo quán tâm thì chỉ một tâm đủ ba pháp quán, thâu nhiếp được tất cả trí huệ. Quán không thì thâu nhiếp được trí tuệ như sữa đặc (lạc). Quán giả tạm thì thâu nhiếp được trí tuệ như sinh tô và thục tô, cùng trí tuệ thế gian. Quán trung đạo thì thâu nhiếp được trí tuệ [cùng tột] như đề hồ. Đây gọi là trong một pháp quán tâm, một trí tuệ là hết thảy trí tuệ, hết thảy trí tuệ là một trí tuệ, chẳng phải một trí tuệ cũng chẳng phải hết thảy trí tuệ. Đại lược là như vậy.
Đại Mục-kiền-liên
Về dòng họ của Đại Mục-kiền-liên, [đây là theo họ của mẹ,] Hán dịch là Tán Tụng, trong kinh Văn-thù vấn lại dịch là Lai Phục Căn. Ngài Chân Đế phiên âm là Vật-già-la, Hán dịch là cây hồ đậu, [tức cây đậu xanh]. Xưa có vị tiên không ăn bất cứ món gì, chỉ thích ăn đậu xanh nên xưng tên là Vật-già-la. Dòng họ Mục-kiền-liên là con cháu của vị tiên này nên lấy đó làm tên tộc họ. Thích luận nói, cha ngài là thầy bói toán, đặt tên cho ngài là Câu-luật-đà. Câu-luật-đà là tên một loài cây, cha mẹ ngài vốn không sinh con, do cầu đảo thần cây này mà sinh được ngài nên nhân đó mà đặt tên. Lại cũng phiên âm là Mục-già-lược-hề-đạc. Kinh Vị lai nhân quả nói rằng: [Tên ngài là] Mục-liên-la-dạ-na, vì có nhiều người trùng tên nên gọi thêm chữ “Đại”.
Thích luận nói rằng: “Xá-lợi-phất đáng trân quý ở chỗ tài trí sáng suốt. Mục-kiền-liên đáng trọng ở điểm hào phóng rộng rãi. Cả hai vị so ra tài ba trí tuệ đều như nhau, đức hạnh cũng tương đồng.”
Trong kinh Tăng nhất A-hàm, [Phật] nói: “Trong các đệ tử của ta, người có thần thông nhẹ nhàng bay lên không trung đến cả mười phương thì Đại Mục-kiền-liên là bậc nhất.” Thích luận, quyển 41, gọi ngài Mục-kiền-liên là Tả diện đệ tử [của Phật].
Thầy trò ngoại đạo cả 500 người cùng nhau niệm chú để dời ngọn núi, trải qua một tháng thì núi bắt đầu lay động. Ngài Mục-kiền-liên suy nghĩ: “Núi này nếu bị di chuyển đi thì rất nhiều loài bị tổn hại.” Ngài liền bay lên hư không ở phía trên đỉnh núi ngồi kiết già, khiến cho núi trở lại như cũ, không hề di động. Thầy trò ngoại đạo bảo nhau: “Pháp thuật của chúng ta đã làm cho núi lay động, tính toán theo đúng ngày thì phải di chuyển, tại sao núi lại nằm yên như cũ? Chắc chắn là do vị sa-môn kia đã khiến cho thành như vậy.” Nhân đó họ tự biết sức tu tập của mình còn yếu kém, liền phát tâm quy y theo đạo Phật, khiến cho có vô số người đều xuất gia theo Chánh pháp.
Có hai anh em long vương là Nan-đà và Bạt-nan-đà cùng sống ở vùng biển cạnh núi Tu-di. Đức Phật mỗi khi lên cung trời Đao Lợi thường bay ngang qua trên vùng này. Anh em rồng khởi tâm sân hận, tự nghĩ: “Sa-môn trọc đầu này sao dám bay ngang qua trên đầu chúng ta.” Sau đó, khi biết Phật sắp lên cung trời, bọn rồng liền phun mây đen kịt che khuất cả mặt trời, mặt trăng cho đến hết thảy các vì sao. Các vị tỳ-kheo đều muốn lui về, Phật không cho phép. Ngài Mục-kiền-liên thưa: “Con có thể hàng phục rồng này.”
[Khi ấy,] rồng hiện thân lớn quấn quanh núi Tu-di bảy vòng, đuôi khuấy nước biển, đầu tựa lên đỉnh núi. Ngài Mục-kiền-liên liền hiện thân lớn hơn gấp nhiều lần, quấn quanh núi Tu-di đến mười bốn vòng, đuôi dài ra khỏi biển, đầu tựa lên đến cung trời Phạm thiên. Rồng nổi cơn sân hận, hóa mưa xuống cát cứng chắc như kim cương [có thể làm giập nát hư hại mọi thứ], ngài Mục-kiền-liên liền biến cát ấy thành hoa báu mềm mại xinh đẹp, nhẹ nhàng rơi xuống. Rồng vẫn không nguôi cơn sân hận. Ngài Mục-kiền-liên liền hiện thân rất nhỏ đi vào bên trong thân rồng, đi vào mắt rồng rồi ra nơi tai rồng, lại đi vào tai rồi ra nơi mũi, khoan thủng, cắn rứt khắp thân rồng, khiến cho đau đớn khôn cùng, đành chịu khuất phục. Ngài Mục-kiền-liên khi ấy mới thâu nhiếp cả thân lớn, thân nhỏ, hiện lại hình tướng sa-môn rồi đưa hai con rồng cùng đến trước đức Phật.
Khi Đề-bà-đạt-đa [phá hoại Tăng đoàn], dẫn 500 vị tỳ-kheo về làm đồ chúng của riêng mình, ngài Mục-kiền-liên [dùng phép] khiến cho [Đề-bà-đạt-đa] ngủ say như chết, miệng ngáy như sấm động, thân dưới phát tiếng trung tiện, đến nỗi Cù-già-ly dùng chân đạp mà vẫn không tỉnh dậy. Ngài Xá-lợi-phất [nhân lúc đó] thuyết pháp cho 500 vị tỳ-kheo, khiến họ hồi tâm thức tỉnh. Ngài Mục-kiền-liên khi ấy dùng bàn tay nâng [cả 500 vị tỳ-kheo] lên đưa về [tinh xá], Tăng đoàn lại được hòa hợp.
Kinh Tăng nhất A-hàm, quyển 44, chép rằng: Khi Phật ở tại thành Xá-vệ, chuẩn bị thuyết giới vào ngày 15, nhưng đức Phật yên lặng không nói gì. Ngài A-nan thưa thỉnh bốn lần, [Phật vẫn không thuyết giới]. Phật nói: “Hôm nay trong chúng không thanh tịnh nên ta không thuyết giới. Ông có thể thỉnh một vị thượng tọa, hoặc vị trì luật, hoặc một vị nào [thông thuộc giới luật] để tụng giới.” Khi ấy, ngài Mục-kiền-liên liền nhập định, quán xét xem ai là người không thanh tịnh, thì thấy đó là hai tỳ-kheo Mã Sư và Mãn Túc, liền nắm tay lôi hai tỳ-kheo này ra bên ngoài, rồi đóng cửa lại và thỉnh Phật thuyết giới. Phật dạy: “Ta chẳng nói hai lời, nên nay không tự thuyết giới.” Ngài Mục-kiền-liên cũng nói: “Nay trong chúng không thanh tịnh, con cũng không thể làm Duy na.”
Kỳ-vực (Jivaka), Hán dịch là Cố Hoạt, [sau khi chết] sanh lên cõi trời Đao Lợi. Đệ tử của ngài Mục-kiền-liên có bệnh, ngài liền dùng thần thông [lên cung trời Đao-lợi] để hỏi [cách trị bệnh], gặp lúc [Kỳ-vực cùng] chư thiên ra khỏi vườn để dạo chơi. Kỳ-vực ngồi trên xe không xuống, chỉ chắp tay chào. Ngài Mục-kiền-liên giữ xe dừng lại, Kỳ-vực nói: “Chư thiên [ở đây] hối hả thọ hưởng lạc thú nên không có thời gian rảnh rỗi dừng lại để gặp nhau. Tôn giả có việc gì cần?” Ngài Mục-kiền-liên nói rõ ý mình. [Kỳ-vực] nói: “Điều quan trọng là phải nhịn ăn.” Ngài Mục-kiền-liên buông ra, xe mới đi tiếp được.
Khi Đế thích đánh nhau với A-tu-la chiến thắng, liền tạo ra [cung điện lớn gọi là] Đắc thắng đường, lầu gác đài quán đều bằng bảy món báu, trang nghiêm đẹp đẽ đặc biệt lạ thường. Rường cột và các chi tiết tất cả đều xinh đẹp ngay ngắn, không buộc vào nhau mà vẫn gắn kết giữ vững. Đây là do thần lực mầu nhiệm có được từ phước báu cõi trời nên mới được như vậy. Ngài Mục-kiền-liên bay ngang qua, Đế thích liền đưa ngài đi xem khắp Đắc thắng đường. Các thiên nữ e thẹn với ngài Mục-kiền-liên nên đều ẩn hình trốn đi không hiện ra. Ngài Mục-kiền-liên suy nghĩ: “Đế Thích đắm say dục lạc, không tu tập căn bản của đạo.” Nghĩ rồi liền dùng phép biến hóa thiêu cháy Đắc thắng đường, tất cả đều sụp đổ. Nhân đó rồi mới vì Đế thích giảng rộng về lẽ vô thường. Đế Thích nghe pháp vô cùng hoan hỷ. Sau đó Đắc thắng đường hiện ra trở lại trang nghiêm như trước, không một chút dấu tích gì của lửa khói.
[Ngài Mục-kiền-liên] lại có thần thông dùng bình bát đựng cả 500 vị tỳ-kheo [mang đi], như phần trước đã nói.
Đức Như Lai [thuyết pháp bằng] Phạm thanh vang đi rất xa và dù ở xa vẫn nghe được [rõ ràng] giống như ở bên cạnh Phật, không khác. Ngài Mục-kiền-liên muốn biết âm thanh của Phật [thuyết pháp] vang xa đến đâu, nhưng dù đã đi xa hết mức vẫn nghe như đang ở bên cạnh Phật. Ngài liền dùng thần lực bay về hướng tây, vượt qua số cõi nước nhiều như cát sông Hằng, nhưng vẫn nghe tiếng Phật thuyết pháp như lúc ở gần, chẳng thấy khác biệt. Ngài bay mãi, bay mãi không dừng đến lúc thần lực đã hết nên thân mệt mỏi, gặp lúc đại chúng ở phương ấy đang cùng nhau dùng bữa, liền dừng nghỉ, đi kinh hành quanh miệng bình bát [rất lớn của một vị tỳ-kheo ở đó]. Vị [tỳ-kheo] ấy hoảng kinh lấy làm quái lạ, tự hỏi vì sao lại có con sâu đầu người từ đâu đến đây. Đức Phật ở đó bảo rằng: “Không phải con sâu. Đó là vị đệ tử Đệ nhất thần túc của đức Phật Thích Tôn ở về phương đông cách đây vô số cõi Phật, vì muốn biết nơi xa nhất của âm thanh [Phật thuyết pháp] mới đến tận đây.”
Lại trong kinh Niết-bàn nói: “Đức Phật muốn tìm người làm thị giả, tâm Phật hướng về A-nan giống như mặt trời ở phương đông chiếu sang vách tường phía tây.” [Ngài Mục-kiền-liên nhập định quán sát thấy biết rõ.] Đại lược là như vậy.
Bàn luận về thần thông theo ước giáo thì nương vào Tứ thiền đạt được 14 pháp biến hóa, nương theo pháp thiền Thập nhất thiết xứ vô lậu sự mà quán chiếu huân tập lâu ngày thì có thể thực hiện 18 pháp biến hóa. Đây là thần thông trong Sơ giáo. Nương vào [pháp quán] không để khởi lên trí huệ. Dùng tâm với trí tuệ không ấy mà tu các thần thông, đó là thần thông trong Thông giáo. Tuần tự nương vào Tam đế tu tập đạt được thần thông, dần dần vào sâu vượt hơn hàng Nhị thừa, đó là thần thông của Biệt giáo. Nương vào tướng chân thật mà đạt được thần thông, không dùng tướng phân biệt để nhìn các cõi Phật. Từ nơi chân thật mà khởi lên và ứng hợp, nhưng trong chỗ chân thật ấy chẳng hề dao động, có thể biến hiện khắp mười pháp giới. Đây là thần thông của Viên giáo. Đại lược là như vậy.
[Ngài Mục-kiền-liên] trong quá khứ từng giúp đỡ vị Phật Bích-chi trong những việc cạo tóc, nhuộm, giặt và may vá áo cà-sa, [nhân đó] phát nguyện được thần thông. Đại lược là như thế.
[Giải thích về thần thông theo] bản tích thì bản là trụ nơi chân thật của pháp định Thủ-lăng-nghiêm, có thể từ một niệm mà ứng hiện biến khắp mười phương, đủ các phương cách thị hiện để thi hành mọi Phật sự, đều do nơi tâm từ bi, còn dấu tích hiển hiện là thần thông qua năm giai đoạn để đi đến chỗ cùng cực cao tột nhất. Đại lược là như vậy.
[Giải thích về thần thông theo] quán tâm thì quán nơi một tâm tức thời có hết thảy tâm, quán hết thảy tâm tức thời không có tất cả tâm. Tâm không rơi vào có hoặc không, thông suốt đến tướng chân thật, đó là quán thần thông.
Ma-ha Ca-chiên-diên
Ma-ha Ca-chiên-diên (Mahākātyāyana), Hán dịch là Văn Sức, cũng dịch là Kiên Thừa, có người cho là lầm, đúng ra nên dịch là Phiến Thằng, hoặc dịch là Hảo Kiên. Tên ngài cũng đọc là Kha-la, Hán dịch là Tư Thắng. Tất cả những tên ấy đều là gọi theo họ, lấy họ làm tên.
Kinh Tăng nhất A-hàm nói: “Ca-chiên-diên là bậc nhất trong việc khéo phân biệt nghĩa lý, diễn giải đạo pháp.”
Kinh Trường A-hàm chép rằng: “Có kẻ ngoại đạo chấp thuyết đoạn diệt, cho rằng không có đời sau, từng có đến 10 lần đối đáp [với ngài Ca-chiên-diên].
[Lần thứ nhất,] ngoại đạo nói: “Không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] hỏi: “Nay thấy có mặt trời, mặt trăng, vậy là của người làm ra hay trời làm ra? [Mặt trời, mặt trăng ấy] là thuộc về đời này hay đời sau? Nếu nói không có đời sau tức là không có ngày mai. [Nhưng sự thật là có ngày mai, nên biết là có đời sau.]”
[Lần thứ hai, ngoại đạo] lại hỏi: “Tôi thấy người chết rồi chẳng ai quay lại, làm sao [biết mà] nói về sự thọ khổ của họ? Cho nên biết là không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như tội nhân đã bị giam, liệu có quay về được chăng?”
[Lần thứ ba, ngoại đạo] lại hỏi: “Vậy như người sanh lên cõi trời, [không phải tội nhân,] sao cũng chẳng quay trở lại? Cho nên biết rằng không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như người bị rơi xuống hầm phân rồi được lên khỏi, liệu có quay trở xuống dưới hầm phân ấy chăng? Hơn nữa, một ngày trên cõi trời bằng 100 năm cõi này. Người sanh lên cõi trời trong năm ba ngày hẳn còn chưa có thời gian nghĩ đến việc trở lại cõi người. Ví như [sau năm ba ngày rồi] có quay trở lại thì ông cũng đã chết, làm sao biết được?”
[Lần thứ tư, ngoại đạo] lại hỏi: “Khi người ta hành hình tội nhân nấu trong chảo nóng, đậy nắp kín bên trên, bốn phía đều chẳng thấy thần thức thoát ra, cho nên biết rằng không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Lúc ông nằm ngủ ban ngày, liệu người bên cạnh có thấy được thần thức của ông thoát ra chăng?”
[Lần thứ năm, ngoại đạo] lại hỏi: “Khi ta cắt xẻ xác người chết ra, chỉ thấy da, thịt, xương cốt, không thể tìm được thần thức, cho nên biết là chẳng có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như đứa trẻ con chẻ vụn củi ra để tìm lửa, liệu có tìm được chăng?”
[Lần thứ sáu, ngoại đạo] lại hỏi: “Ta cân xác người chết thấy nặng hơn. Nếu thần thức thoát ra thì hẳn phải nhẹ hơn, còn nếu thần thức không thoát ra tức là chẳng có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như lửa nung sắt thì nhẹ, sắt không có lửa lại nặng hơn. Con người [cũng vậy], có thần thức thì nhẹ, khi chết rồi không còn thần thức cho nên nặng hơn.”
[Lần thứ bảy, ngoại đạo] lại hỏi: “Tôi thấy người sắp chết, lật ngược tìm thần thức cũng không thấy, nên biết là không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp: “Như có người lật ngược vỏ ốc [làm tù và] để tìm âm thanh, liệu có tìm được chăng?”
[Lần thứ tám, ngoại đạo] lại nói: “Tuy ông phá bỏ hết mọi lập luận, nhưng tôi bám chấp thuyết đoạn diệt này đã lâu nên không thể buông bỏ được.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như người biết chọn lọc, ban đầu chỉ thấy ruộng trồng gai liền thu lấy gai. Được nhiều gai rồi thì bỏ cây gai chỉ giữ lấy vỏ gai. Được nhiều vỏ gai rồi lại bỏ vỏ gai chỉ lấy sợi gai. Được nhiều sợi gai rồi thì bỏ sợi gai chỉ lấy vải dệt từ sợi gai. Được nhiều vải rồi thì bỏ vải đổi lấy lụa. Được nhiều lụa rồi thì bỏ lụa đổi lấy bạc. Được nhiều bạc rồi thì bỏ bạc đổi lấy vàng. Bỏ điều kém cỏi hơn để giữ lấy điều tốt đẹp hơn, tại sao lại không thể bỏ?”
[Lần thứ chín, ngoại đạo] lại hỏi: “Chẳng phải riêng tôi nói điều này, mà nhiều người khác cũng nói như vậy, tại sao nói tôi sai? [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Có hai người đi buôn gặp quỷ. Quỷ giả hình người, bảo họ rằng: “Nơi các ông sắp đến ở phía trước lúa gạo rất nhiều, cỏ khô không thiếu, các ông chở theo đến đó làm gì?” Một người nghe vậy liền vất bỏ hết [lúa gạo và cỏ khô trên xe mình], khi đi đến phía trước [không đúng như quỷ nói] người và trâu đều bị đói, cuối cùng bị quỷ ăn thịt. Người còn lại thì nghĩ: “Đợi khi nào có được lúa gạo và cỏ khô ở nơi đó thì ta hãy vất bỏ lúa gạo và cỏ khô mang theo cũng không muộn.” Nhờ vậy nên người và trâu đều không bị đói, không bị quỷ ăn thịt. Những người nói ra thuyết sai lầm cũng giống như quỷ kia nói dối. Ông không tin lời của tôi, như việc vất bỏ lúa, cỏ mang theo trên xe, nay đã có được lúa, cỏ ở nơi mới, sao vẫn chẳng chịu vất bỏ lúa, cỏ mang theo?”
[Lần thứ mười, ngoại đạo] lại nói: “Tôi không thể buông bỏ, nếu ông cố khuyên tôi sẽ nổi sân hận.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Ông như người nuôi heo, đi trên đường gặp phẩn liền nhặt lấy, đội trên đầu [mang về cho heo]. Gặp lúc trời mưa, nước hòa phẩn chảy xuống dơ đầu, người đi bên cạnh khuyên nên vất bỏ đi, lại nổi giận với người ấy, nói rằng: “Ông không nuôi heo nên mới bảo ta vất bỏ phân đi.” Đó là giận ngược lại người khuyên mình.
Cứ như vậy, [ngài Ca-chiên-diên] lần lượt phân tích phá trừ [các tà kiến], giảng rộng các ý nghĩa. Ngoại đạo liền thán phục, ngợi khen xưng tán rằng: “Tôn giả ở trước vừa nói ví dụ mặt trời, mặt trăng thì tôi đã hiểu rõ rồi. Vì muốn được nghe lập luận của bậc trí tuệ nên mới nhiều lần tiếp tục gạn hỏi. Lành thay! Lời giảng giải của tôn giả thật nhiệm mầu.
Sự khéo léo biện luận về hình tướng nghĩa lý của ngài Ca-chiên-diên cũng giống như vậy.
Trong Luật nói rằng: “Ngài Ca-chiên-diên thường khéo giáo hóa về quy giới, đối với người đồ tể thì dạy họ thọ giới ban đêm, đối với người nhiều dâm dục thì dạy họ thọ giới ban ngày. Về sau, đến lúc thọ báo thì mỗi người đều được thấy hiện tướng an lạc vào ngày hoặc đêm.” Đại lược là như thế.
Lại có vị bà-la-môn tên là Thế Điển, nói với 500 người họ Thích rằng, có ai có thể cùng ta tranh luận chăng? Những người họ Thích đáp rằng: “Có [ngài Cù-đàm thuộc dòng họ Thích, là bậc Chánh đẳng giác;] lại có người không trí tuệ, không tri thức, lời nói thô lậu vụng về, tên là Châu-lợi-bàn-đặc, ở trong chúng xuất gia là hạng thấp kém. Ông có thể cùng hai người này tranh luận, nếu thắng được thì chúng ta sẽ thừa nhận danh tiếng của ông.”
Thế Điển suy nghĩ rằng, thắng được hai người này cũng không đủ để được tôn trọng hơn, nhưng nếu không thắng được thì thật quá nhục nhã. [Liền từ chối không tranh luận.]
Về sau, trên đường đi [Thế Điển] gặp Châu-lợi-bàn-đặc, liền hỏi tên họ. Châu-lợi-bàn-đặc đáp: “Ông nên hỏi về nghĩa lý, việc gì phải nhọc sức hỏi họ tên?” Liền hỏi lại: “Vậy ông có thể cùng ta tranh luận nghĩa lý chăng?” Châu-lợi-bàn-đặc đáp rằng: “Ta có thể tranh luận cùng Phạm vương, huống chi ông chỉ là một kẻ mù không có mắt?” Thế Điển vặn hỏi lại: “Nói mù tức là không có mắt, không có mắt tức là mù, sao ông phải lặp lại rườm rà?”
Châu-lợi-bàn-đặc liền hiện ra 18 pháp biến hóa. [Thế Điển] nói: “Người này chỉ biết bay nhảy biến hóa, rốt lại cũng không biết giảng giải nghĩa lý.”
Khi ấy, ngài Ca-chiên-diên có thiên nhĩ nên từ xa nghe được [lời nói ấy], liền [biến hóa] ẩn giấu thân hình của Châu-lợi-bàn-đặc, tự mình thị hiện ra thân hình giống hệt như vậy, từ trên không trung hạ xuống rồi hỏi: “Ông tên hiệu là gì?” [Thế Điển] đáp: “Tôi có tên hiệu là Nam Trượng Phu.” Ngài Ca-chiên-diên liền vặn hỏi lại: “Nam tức là trượng phu, trượng phu tức là nam, sao ông phải lặp lại rườm rà?”
Thế Điển nói: “Thôi, thôi! Hãy gác lại những chuyện nhỏ nhặt này, hãy bàn luận những nghĩa lý sâu xa.”
Nói rồi đặt câu hỏi: “Không nương theo pháp chứng Niết-bàn được sao?” Đáp: “Không nương theo pháp ngũ ấm thì có thể chứng Niết-bàn.”
Lại hỏi: “Ngũ ấm nương theo gì sinh ra?”
Đáp: “Do nhân là ái dục sinh ra.”
Lại hỏi: “Làm thế nào để đoạn trừ ái dục?”
Đáp: “Nương theo Bát chánh đạo thì có thể đoạn trừ ái dục.”
[Bà-la-môn] Thế Điển nghe xong liền xa rời trần cấu, [tâm được giải thoát].
[Chuyện về ngài Ca-chiên-diên] thường là như vậy.
[Bàn về tài biện luận] theo ước giáo thì y theo các ý nghĩa vô thường, khổ, không và vô ngã để phá trừ đoạn kiến, thường kiến v.v... Đó là luận nghĩa theo Sơ giáo. Nếu y theo các ý nghĩa không, vô sở hữu, bất khả đắc để phá trừ những kiến chấp như đoạn kiến, thường kiến, ái kiến... đó là luận nghĩa theo Thông giáo. Cho nên, [trong kinh Duy-ma-cật] thiên nữ nói rằng: “Ta không có chỗ được nên biện tài mới được như vậy.”
Nương theo sự thâu nhiếp trọn vẹn bốn biện tài vô ngại mà quán xét căn cơ, soi chiếu giả tướng, dùng thuốc ngăn bệnh, phá trừ đoạn kiến, thường kiến... đó là luận nghĩa theo Biệt giáo.
Y theo tướng chân thật rốt ráo, chẳng rơi vào có không mà phá trừ đoạn kiến, thường kiến... đó là luận nghĩa theo Viên giáo.
Lược nói theo bản tích thì bản là trụ ở hai loại trang nghiêm là phước đức và trí tuệ, có thể hỏi đáp, vì thương xót chúng sanh, còn hình tích hiển thị là luận sư giảng giải giáo nghĩa theo năm tầng bậc.
Theo nghĩa quán tâm thì quán nơi trí, nghiên tầm nơi cảnh, cảnh phát ra nơi trí, trí và cảnh tương quan qua lại, đó là luận nghĩa theo quán tâm.
A-nậu-lâu-đà
A-nậu-lâu-đà (Aniruđha), cũng đọc là A-na-luật hoặc A-nê-lô-đậu, đều là phiên âm từ tiếng Phạn, Hán dịch là Vô Bần, cũng dịch là Như Ý hay Vô Lạp. Thuở xưa, gặp năm mất mùa, ngài cúng dường cơm lúa bại cho một vị Phật Bích-chi, được quả báo trong 91 kiếp luôn sung túc nên có tên là Vô Bần (không nghèo).
Lại nói về dòng họ, vào thuở kiếp sơ, nước dâng gió thổi mới kết cấu thành thế giới. [Vào lúc đó], chư thiên ở cõi trời Quang Âm sau khi mạng sống đã dứt, hóa sanh làm người [ở thế giới này], thân có ánh sáng, bay đi trên hư không, lấy niềm vui làm thức ăn, không phân biệt nam nữ, không trật tự trên dưới, đại chúng cùng sinh sống nên gọi là chúng sanh. Đất tự nhiên có mùi vị như đề hồ, màu sắc như sinh tô, ngọt như mật. [Người tham] ăn nhiều [đất ấy] nên thân mất ánh sáng, tiều tụy không thể bay lên được nữa, người ăn ít thì [thân thể] còn sáng đẹp, nhân đó có hơn kém, sinh ra chuyện thị phi. Khi đã mất vị ban đầu của đất thì quay sang ăn lớp bìa của đất, [ăn rồi liền] sinh ra khinh chê, ngạo mạn với nhau. [Khi hết lớp bìa rồi] chuyển sang ăn lớp đất bên trong, [ăn rồi liền] sinh ra các việc ác. Hết cả lớp đất bên trong thì bắt đầu ăn [những thứ sinh ra từ đất như] lúa gạo. Khi ăn lúa gạo rồi thì sinh ra nam căn, nữ căn, rốt lại thành vợ chồng với nhau.
Vì xấu hổ [khi giao hợp] nên phải làm nhà cửa phòng ốc [để che kín]. Từ đó bắt đầu tích trữ, gom giữ lúa gạo. [Do tâm tham lam đó] mà hạt lúa sinh ra vỏ trấu, cám [bao bọc], khi gặt một lần rồi chẳng mọc lên [như trước đó] nữa, chỉ còn gốc khô. [Do tâm tham nên] dần dần sinh ra chuyện trộm cắp, cướp đoạt lẫn nhau. Từ đó phải cử ra một người công bằng, gọi là điền chủ, để dùng lý lẽ phân xử khi có tranh tụng. Đó là vị Chúa dân [đầu tiên]. Chúa dân sinh con trai tên là Trân Bảo. Trân Bảo có con trai tên là Hảo Vị. Bắt đầu từ lúc Chúa dân khai sáng [việc cai trị dân] truyền lại về sau, các vị vua Kim luân liên tục nối nhau cai trị, cho đến đời vua Thiện Tư. Từ vua Ý Ma đến vua Tịnh Phạn là 4 đời, đều là các vua Thiết luân. Tổng cộng đã có 84.210 vị vua.
Trong kinh Thập nhị du nói rằng: Thuở xa xưa cách đây nhiều kiếp, có một vị vua sớm mồ côi cha mẹ, đem việc trị nước giao cho người em, còn mình theo phụng sự một vị Bà-la-môn. Thầy Bà-la-môn [họ Cù-đàm] dạy rằng: “Ông nên cởi bỏ vương bào, lấy theo họ [của ta là] Cù-đàm. Vua ấy vâng lời làm theo, người thời bấy giờ gọi ông là Tiểu Cù-đàm, [còn vị thầy là Đại Cù-đàm]. Tiểu Cù-đàm sống trong một vườn cây trái ngọt. Có bọn trộm mang đồ trộm được chạy ngang qua vườn, [giấu những đồ trộm được quanh túp lều của Tiểu Cù-đàm] quân bắt trộm đuổi theo bắt nhầm Tiểu Cù-đàm, [buộc tội rồi hành hình bằng cách] dùng cọc gỗ đâm xuyên qua thân cho chảy hết máu xuống đất, cuối cùng mới dùng tên bắn chết. Đại Cù-đàm đau đớn thương tiếc, gom hốt hết chỗ đất nhuộm máu đem về vườn, đựng vào trong hai cái bình đặt hai bên tả hữu rồi trì tụng thần chú, [phát nguyện rằng:] “Nếu Cù-đàm tôi có đủ tâm thành, xin thiên thần biến [đất có] máu ấy thành người.” Trải qua 10 tháng, bình bên trái hóa thành đứa con trai, bình bên phải hóa thành đứa con gái, [đều cho mang họ Cù-đàm], từ đó về sau có dòng họ Cù-đàm.
Họ Cù-đàm (Gotama) Hán dịch là Thuần Thục, lại đặt tên là Xá-di. Xá-di nghĩa là tên họ cao quý. Vào thuở ban sơ của kiếp Nhân Hiền, khi đức Như Lai Đương Bảo ra đời thì thần thức Cù-đàm mới bắt đầu thác sanh. Nếu theo ý này thì các vị Chúa dân từ trước đến nay đều thuộc họ Cù-đàm. Từ đời vua Ý Ma, có bốn người con, một là Diện Quang, hai là Tượng Thực, ba là Lộ Chỉ, bốn là Trang Nghiêm, vì bị [vua] ngờ vực nên phải dời đến sống ở phía bắc dãy Tuyết sơn, trong rừng cây trực. Người trong nước yêu thích họ nên đi theo rất đông, tụ họp thành cương vực một nước. Đức vua cha [thấy vậy] khen ngợi rằng: “Các con ta thật có năng lực.” Bốn người con nhân đó lập thành dòng họ riêng. Nơi đất ấy có cây thích-ca (sakya) mọc nhiều, rậm rạp tươi tốt. Rừng cây thích-ca, Hán dịch là rừng cây trực. Đã lập thành một nước trong rừng ấy, nên lấy tên khu rừng làm họ, [tức là họ Thích-ca]. Trong Phạn ngữ, chữ thích-ca (sakya) có nhiều hàm nghĩa, có thể dịch là trực (thẳng), cũng có thể dịch là năng (có khả năng). Vua Tịnh Phạn chính là hậu duệ nối dòng vua Trang Nghiêm, [một trong bốn người con] thuở ấy. Vua Trang Nghiêm tức là Ô-đầu, sinh ra con là Ô-đầu-la. Ô-đầu-la sinh ra Ni-cầu-la. Ni-cầu-la sinh ra Thi-hưu-la. Thi-hưu-la tức là Sư Tử Giáp. Sư Tử Giáp sanh ba người con đều đặt tên có chữ Phạn, một người trong số đó là Hộc Phạn, có hai người con. Con trưởng là Ma-ha-nam, con thứ là A-na-luật.
[Như vậy, ngài A-na-luật] chính là cháu vua Tịnh Phạn, là con thứ vua Hộc Phạn, là em họ đức Thế Tôn, là anh họ ngài A-nan, là chú La-hầu-la, không phải người tầm thường.
Xưa Chu Công nói rằng: “Ta là con Văn vương, em Vũ vương, chú Thành Vương, chẳng phải người hèn kém trong thiên hạ, vậy mà gội đầu phải nắm tóc ba lần, một bữa ăn phải [dừng lại] nhả cơm ra ba lần, dùng lễ cầu người hiền phải như thế, huống chi những kẻ khác.”
Kinh Hiền ngu nói: “Sau khi đức Phật Phất-sa ra đời, đến thời mạt pháp, gặp lúc có nạn đói, có vị Phật Bích-chi tên là Lợi-trá, một hôm đi khất thực không được gì, ôm bình bát trống không. Có một người nghèo thấy vậy hết sức đau lòng, bạch Phật Bích-chi rằng: “Bạch ngài, con không biết ngài có thể thọ nhận cơm lúa bại được chăng?” Thưa hỏi rồi liền lấy phần ăn của chính mình dâng cúng. Phật Bích-chi thọ thực xong liền thị hiện 18 phép biến hóa.
Hôm sau người ấy đi cắt lúa bại, bỗng có con thỏ nhảy lên rồi hóa thành xác người chết ôm ngang lưng ông, không cách gì gỡ ra được, đành chờ đến lúc trời tối [mang cả xác chết] về nhà. [Về đến nhà vừa] bỏ xuống đất lập tức xác chết hóa thành người bằng vàng. Bẻ lấy ngón tay lại sinh ra ngón tay khác, lại chặt chân rồi cũng mọc ra chân khác, cứ như vậy lấy vàng mà dùng không bao giờ hết. Những kẻ xấu ác cùng tên vua ác [khi biết chuyện] đều muốn đến cướp lấy, thì chỉ thấy một xác người chết, riêng người ấy thì nhìn thấy toàn vàng quý.
[Đây chính là tiền thân ngài A-na-luật,] trải qua 91 kiếp đều được quả báo luôn sống sung túc như vậy, nên có tên là Vô Bần (không nghèo). Kể từ kiếp sống kể trên về sau thì gia nghiệp luôn giàu sang sung túc, lại mỗi ngày mỗi tăng thêm. Cha mẹ muốn thử nên lấy bát trống đậy kín rồi đưa cho ngài, đến khi lấy lại mở ra xem thì thấy bên trong có đủ món ngon trăm vị. Trước cửa nhà ngài mỗi ngày thường có 12.000 người, trong đó có 6.000 người đến mượn nợ và 6.000 người đến để trả nợ.
Sau khi ngài xuất gia, dù đi đến đâu, ai gặp ngài cũng đều hoan hỷ. Nếu ngài có nhu cầu gì cũng luôn được đáp ứng ngay giống như ở nhà mình không khác.
Ngài A-na-luật tu tập tinh tấn đến mức trong suốt bảy ngày bảy đêm không hề chớp mắt, hai mí mắt không chạm vào nhau. Giấc ngủ vốn là thức ăn của mắt, suốt bảy ngày đêm không ngủ nên con ngươi trong mắt phải chết, do vậy ngài bị mất đi mắt thịt. Phật dạy ngài hãy cầu thiên nhãn, luôn nhớ đến duyên là sắc thanh tịnh của bốn đại từ nơi giữa đầu phát ra, dứt sạch che chướng trong ngoài thì dù sáng hay tối cũng đều thấy rõ.
[Sau khi thành tựu, ngài từng] nói với Phạm vương rằng: “Ta nhìn thấy khắp cõi đại thiên thế giới của Phật Thích-ca giống như nhìn quả [am-ma-lặc] trong lòng bàn tay.” Trong kinh Tăng nhất A-hàm, [đức Phật] nói: “Trong Phật pháp của ta, A-na-luật là bậc nhất trong việc dùng thiên nhãn để nhìn thấu khắp nơi.”
Khi ngài A-na-luật đã mù mắt thịt, đức Phật cùng các vị tỳ-kheo thường giúp ngài cắt và may y. Lúc Phật ở động Câu-tát-la tại nước Xá-vệ, có 800 vị tỳ-kheo quy tụ về, cùng vì ngài A-na-luật mà may đủ 3 tấm y. Đức Phật tự tay trải các tấm vải ra, các vị tỳ-kheo kẻ cắt người khâu, trong một ngày thì hoàn thành [trọn vẹn ba tấm y]. [Nhân đó] đức Phật giảng rộng về việc người xuất gia đã thọ y phải biết sống đoàn kết, cùng chia sẻ với nhau. Vô số người [nghe pháp] được đạo.
[Luận về thiên nhãn] theo ước giáo thì nương vào thiền định phát xuất thiên nhãn là phàm phu ngoại đạo, nương theo pháp thiền hết thảy đều vô lậu phát xuất được thiên nhãn, đó là theo Tam tạng giáo nghĩa. Nương theo trí tuệ vô lậu về bản thể các pháp mà phát xuất các công hạnh, nương theo những công hạnh ấy mà phát xuất thiên nhãn, đó là ý nghĩa theo Thông giáo.
Theo ý nghĩa của Biệt giáo thì nương theo việc tán thán các việc lành mà phát xuất nhục nhãn, y theo định lực phát xuất thiên nhãn, y theo lẽ chân thật [thấy các pháp đều không] (chân đế) nên phát xuất tuệ nhãn, y theo lẽ thế tục [thấy các pháp đều giả tạm] (tục đế) nên phát xuất pháp nhãn, y theo lẽ Trung [đạo] phát xuất Phật nhãn.
Theo Viên giáo thì y theo thật tướng phát xuất thiên nhãn, thiên nhãn đó tức là Phật nhãn.
Lại nữa, theo ý nghĩa Tam tạng giáo thì y theo sự tán thán những việc lành mà tu tập nhục nhãn, y theo thiền định mà tu tập thiên nhãn. Còn theo Thông giáo thì y theo nghĩa không để tu tập nhục nhãn, thiên nhãn. Theo Biệt giáo thì việc tu tập năm thứ mắt, [gồm nhục nhãn, thiên nhãn, pháp nhãn, tuệ nhãn và Phật nhãn,] phải thực hiện tuần tự theo thứ lớp. Theo Viên giáo thì không tu tập ngũ nhãn không tuần tự theo thứ lớp.
Theo ý nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi thật tướng thiên nhãn chân thật, không dùng tướng phân biệt để nhìn các cõi Phật, còn hình tích thị hiện nên có thiên nhãn phát xuất từ giữa đầu.
Theo ý nghĩa quán tâm thì giải thích rằng, quán nhân duyên sanh tâm hiền thiện tức là nhục nhãn, quán nhân duyên sanh tâm không tức là thiên nhãn, quán nhân duyên sanh tâm giả tức là pháp nhãn, [ngay nơi đó thấy] Trung đạo tức là Phật nhãn. Đại lược là như thế.
Kiếp-tân-na
Kiếp-tân-na (Kalpina), Hán dịch là Phòng Tú. Cha mẹ cầu đảo sao Phòng, chiêu cảm sinh được con nên lấy tên sao ấy đặt tên cho con.
Ngài là vị tỳ-kheo lúc ban đầu xuất gia chưa được gặp Phật. Khi ngài mới phát tâm tìm đến chỗ Phật thì trên đường gặp mưa, đêm ấy ghé vào xin trú mưa trong nhà một người thợ làm đồ gốm. Có một phòng trống, ngài trải cỏ làm chỗ ngồi thiền. Sau đó, lại có một vị tỳ-kheo cũng vào nhà ấy xin ngủ nhờ, ngài liền chia một phần cỏ, cũng trải trên đất làm chỗ ngồi thiền cho vị ấy. Trong đêm, vị tỳ-kheo kia hỏi ngài đang muốn đi đến đâu, liền đáp: “Tôi đi tìm Phật.” Vị tỳ-kheo kia liền vì ngài mà thuyết pháp. Những lời thuyết pháp này có thể tìm xem lại trong kinh A-hàm. [Ngài Kiếp-tân-na nghe pháp rồi] hốt nhiên chứng đạo. Vị tỳ-kheo đến sau ấy chính là đức Phật. [Ngài Kiếp-tân-na] được ở cùng phòng với Phật, được thấy Pháp thân, nên dựa theo nơi chứng đạo trong phòng mà gọi tên là Kiếp-tân-na, là “phòng túc”, nghĩa là một đêm trong phòng.
[Lại nữa, khi Phật thuyết pháp, Thiên vương] Tỳ-sa-môn cầm lọng báu đi sau [che cho ngài] Kiếp-tân-na. Thiên vương Tỳ-sa-môn là chúa tể các tinh tú, vị chúa tể đã theo hầu thì hết thảy các tinh tú cũng đều như thế. Cho nên ngài Kiếp-tân-na giỏi khoa chiêm tinh, khéo rõ biết về các tinh tú, biết rõ các pháp thức, đồ hình [về các ngôi sao], do những hiểu biết đó mà được gọi tên là Kiếp-tân-na.
Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, Phật dạy: “Trong Phật pháp của ta, tỳ-kheo Kiếp-tân-na là bậc nhất trong việc rõ biết về mặt trời, mặt trăng và các tinh tú.”
Theo ước giáo giải thích thì hình tích hiển bày là phá vỡ ngôi nhà căn trần, rồi cùng với Phật ngụ trong ngôi nhà chân đế. Đó là ý nghĩa theo Tam tạng giáo.
Theo Thông giáo thì thể đạt [ý nghĩa] căn trần, đó là được cùng Như Lai ở chung trong căn phòng chân đế.
Theo Biệt giáo thì phân biệt được căn nhà của căn trần trong mười pháp giới căn trần ắt có thể thấy Phật.
Theo Viên giáo thì từ nơi một căn nhà căn trần có thể thấy được hết thảy những căn nhà [khác], thấy được hết thảy chư Phật.
Lược nói theo bản tích thì bản là vốn đã cùng Như Lai trụ nơi thật tướng, tích là hiển thị ra có nhà cửa phòng ốc.
Theo nghĩa quán tâm thì quán căn nhà năm ấm đều không, tức Không đế, cùng ở một nhà với Hóa thân Phật; quán căn nhà năm ấm là giả tạm, tức Giả đế, cùng ở một nhà với Báo thân Phật; quán căn nhà năm ấm là khoảng giữa, tức Trung đạo, cùng ở một nhà với Pháp thân Phật. Đại lược là như vậy.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.129.26.204 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.