Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phẩm Thân niệm xứ thứ năm.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân thông qua biển Nước xanh, xem có những ngọn núi, biển và đảo nhỏ nào không? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có biển lớn gọi tên là Thanh Tịnh, ngang rộng năm trăm do-tuần, trong biển có núi Quang Minh Man cao một trăm do-tuần, ngang dọc ba trăm do-tuần, bằng bạch ngân, được trang sức bằng hoa vàng. Lại có ao hoa sen tên là Thiện Ý dài ba mươi do-tuần, rộng mười do-tuần, được trang nghiêm bởi các loài ngỗng, vịt, uyên ương của trời Man Trì, trời Lâu Ca Túc.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân thông qua biển Thanh tịnh, xem có những núi, sông, biển và đảo nhỏ nào khác không? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có biển lớn tên gọi Đại Ba, rộng năm ngàn do-tuần. Vì có chúng sanh nên dưới biển có gió nổi lên. Trong tất cả biển lớn, các đảo và đảo nhỏ sóng nổi lên cao hai do-tuần, người Diêm Phù Đề gọi là Hải triều. Có cá lớn sống trong biển Đại Ba, đầu cá như đầu chó (Hải-cẩu ngày nay).
Người tu hành lại tùy thuận quán sát ngoại thân thông qua biển Đại Ba xem có những núi lớn và biển lớn nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy ở phía Bắc biển Đại Ba có một núi lớn tên A-nô-ma-na rộng mười bốn do-tuần, được trang sức bằng bạch ngân, như mặt trời thứ hai. Lại được trang nghiêm bằng các thứ hoa Mạn-đà, hoa Câu-xa-da-xá, hoa Tỳ-lưu-ly và cây vườn cõi trời.
Người tu hành lại tùy thuận quán ngọai thân thông qua núi A-nô-ma-na xem có những núi lớn và biển lớn nào. Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy ở phía Đông núi A-nô-ma-na có một biển lớn tên gọi Trừng Tịnh, ở cách biển không xa, ở mặt bên của núi Tu-Di hướng về phía núi Tỳ Lưu Ly có núi Ưu Đà Duyên, đối diện cõi Phất Bà Đề có ánh sáng sắc vàng phát sanh. Núi Tỳ Lưu Ly ở trong cõi Diêm Phù Đề có bóng màu xanh.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân thông qua núi Ưu Đà Duyên, xem lại có núi nào khác? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có núi lớn tên là Thiện Ý, được trang sức bằng những bông hoa vàng lớn bằng vàng cõi Diêm Phù. Núi này rộng mười do-tuần, cao năm trăm do-tuần, có nhiều cây vàng và cầm thú bằng vàng ròng, cây Ba-la-xa có sắc vàng rực. Phần nhiều chư thiên: Càn-thát-bà vương, Tu-trì thiên, Tam-không-hầu thiên, tùy nghiệp quả bậc thượng, bậc trung hay bậc hạ mà có tướng trạng theo nghiệp của họ. Đến núi Thiện Ý thấy cõi Diêm Phù Đề nên gọi là vùng núi biển phía Đông cõi Diêm Phù Đề.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem vùng núi biển phía Nam cõi Diêm Phù Đề như thế nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có núi Dân Đà rộng tám trăm do-tuần, có sông Nam Ma Đa rộng nửa do-tuần, dài hai trăm do-tuần, có một con độc long lớn sống ở trong sông này. Trong sông này lại có nhiều Thất Thâu Ma La và Quy Già Ma La. Vị ấy lại thấy có một sông lớn tên là Đào Ba và một sông lớn khác tên Ti Già. Trên bờ sông Ti Già có nhiều cây rừng. Lại có một sông lớn khác tên là Hắc Tân Noa rộng ba do-tuần, dài ba trăm do-tuần, chảy vào biển lớn. Lại có một sông lớn khác tên là Lô Đà, có con độc long lớn sống ở trong sông. Núi Ma La Da có nhiều cây chiên-đàn, núi này ngang dọc năm trăm do-tuần, cao ba do-tuần. Có một sông lớn tên Đăng Kỳ Ni, bắt nguồn từ núi Ma La Da, sông rộng một do-tuần, dài một trăm do-tuần, chảy vào biển lớn. Lại có một sông khác tên là Chất Đa La rộng một do-tuần, dài năm mươi do-tuần, chảy ra biển lớn. Các loại cây rừng và nhiều loài chim tô sức làm dòng sông thêm thơ mộng.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem xét cõi Diêm Phù Đề. Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có một nước tên Di Khư La, có nhiều nơi ưa thích khác. Nước này ngang dọc bốn mươi do-tuần. Lại có một nước khác tên là Chư Ca La, rộng năm mươi do-tuần. Nước này có nhiều loài cây trái đẹp như là trái Chi-ca-na, trái Ba-na-bà, trái Vô-giá-thọ, trái Tỳ-la-thọ, trái Ca-ty-tha, trái Bất-lâu-ca, trái Bà-đà-la, hoa A-thù-na, hoa Chiên-tra-ca, tô sức và điểm trang cho đất nước này.
Kế tiếp là nước Đam Bà Bà Đế, nước này ngang dọc một trăm do-tuần, có nhiều rừng cây và nhiều ruộng lúa. Lại có một nước khác tên Đàn Trà Ca, nước này ngang rộng hai mươi do-tuần, trống rỗng, hoang dã, không có người ở.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân, quán sát phía Nam cõi Diêm Phù Đề có những ngọn núi, dòng sông và biển lớn nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có một dòng sông lớn tên Cù Đà Bà Lợi, nước sông trong suốt, sông rộng một câu-xá, dài hai trăm do-tuần. Lại có một nước tên là Ô-Trà, ngang rộng hai mươi do-tuần. Lại có một nước khác tên An Đà La, ngang rộng bốn mươi do-tuần. Lại có một nước khác tên Kê-La, ngang dọc năm mươi do-tuần. Nước này có nhiều trâu bò, rất nhiều ruộng lúa và cây rừng, hoa quả. Gần bờ biển phía Nam có nước tên Ca Câu La Ma, có đầy đủ các thứ cây rừng. Nước này dài ba trăm do-tuần, rộng năm mươi do-tuần. Có một dòng sông lớn tên là Ca Tỳ Lê, quanh sông được trang sức bằng các loại cây rừng, nước sông trong suốt, sông rộng một do-tuần, dài năm do-tuần. Có nhiều cây Ca-lâu-ca, cây Kê-đa-ca đáng yêu, làm cho bờ sông càng đẹp và thơ mộng.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân thông qua cõi Diêm Phù Đề xem có những ngọn núi, dòng sông, châu và đảo nhỏ nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có biển lớn tên là Bất Lợi Na, được cánh hoa sen che phủ, biển rộng một vạn do-tuần, gió thổi chẳng hề làm mặt nước động vì cánh hoa sen che khắp hết mặt nước. Vượt qua biển này lại có một đảo nhỏ rộng năm trăm do-tuần, có các quỷ La-sát sống trong đảo này, hình thù của chúng rất xấu xí và đáng sợ. Vượt qua đảo La-sát có một núi lớn tên là Ma Hê Đà, rộng bốn mươi do-tuần. Núi này có nhiều loại cây như là: cây Đa-la, cây Sa-la. Các loài A-tu-la, các loài rồng và long nữ dạo chơi ở trong rừng hoặc lại dạo chơi ở nơi vườn rừng. Vào sáu ngày trai ở cõi Diêm Phù Đề thì trời Tứ thiên vương sống trên núi này quán sát xem những chúng sanh nào ở cõi Diêm Phù Đề hiếu dưỡng cha mẹ, nương theo giáo pháp mà tu hành. Người nào vào ngày trai thọ trì trai giới? Có những người nào tin Phật, tin Pháp, tin Tăng? Những người nào chiến đấu với ma? Ai sống với tâm ngay thẳng? Ai thực hành bố thí? Ai không tham lam đắm trước? Ai không làm người khác buồn bực? Ai biết ân nghĩa? Ai tin nghiệp báo? Ai thực hành mười điều thiện? Ai gần gũi bạn tốt? Ai tin theo tà kiến ngoại đạo?... Như vậy, trời Tứ Thiên vương ở trên núi Ma Hê Đà La quán sát cõi Diêm Phù Đề, nếu thấy người cõi Diêm Phù Đề nương theo pháp tu hành thì trời Tứ Thiên Vương đến chỗ vua trời Đế Thích bạch như sau:
- Thiên vương nên phát sanh sự hoan hỷ, phá hoại quân ma, làm tăng trưởng chánh pháp, cho các chúng trời, tất cả người cõi Diêm Phù Đề thực hành thiện pháp.
Khi ấy, Thích Ca Thiên Vương và các chúng trời nghe lời Tứ Thiên vương tâu rồi đều hoan hỷ. Còn như quán sát thấy người nào ở cõi Diêm Phù Đề không nương theo chánh pháp tu hành thì trời Tứ Thiên vương buồn rầu, bực tức, hướng về Tam Thập Tam Thiên thưa:
- Người cõi Diêm Phù Đề không nương theo pháp tu hành, làm tăng trưởng quân ma, giảm bớt chúng trời.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân thông qua núi Ma Hê Đà La xem có những núi, biển và đảo nhỏ nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy: qua khỏi núi Ma Hê Đà La thì có một đảo nhỏ, rộng một trăm do-tuần, có người một chân sống trên đảo nhỏ này. Họ ăn trái cây, rễ cây để sống qua ngày. Họ sống đến năm mươi tuổi, lấy lá cây làm áo, không dựng nhà cửa, chỉ sống dưới gốc cây. Ở nước này có rất nhiều sư tử và những loài thú dữ. Sư tử ở đây đều có hai cánh, ruộng đất điều hòa, không lạnh cũng không nóng. Hết thảy con gái đều có khuôn mặt như chó, nhưng giọng nói rất hay.
Vượt qua đảo nhỏ này thì có một biển lớn rộng hai vạn do-tuần. Trong biển có núi tên là Ma Lợi Na La. Đây là nơi các thứ báu như: vàng, bạc, pha lê, tỳ lưu ly báu... được thành tựu. Có nhiều loài chim sắc vàng, các loài hoa Mạn-đà-la, hoa Câu-xa-da-kim sáu thời thường đầy đủ. A-tu-la lớn có sức thần thông, vui chơi và hưởng sự thích thú, nghe những âm thanh đáng yêu, những hương vị thơm ngon và nhận những sự xúc chạm... ở trong núi này.. Núi dài năm ngàn do-tuần, cao một trăm do-tuần. Núi này có mười lăm ngọn núi đều là bạch ngân. Các thiên nữ hưởng thọ dục lạc ở trong rừng, thường bị các A-tu-la quấy rối. Vì lý do này, nên chư thiên cùng chiến đấu với A-tu-la.
Tóm lại, tất cả trời người, những kẻ phàm phu ngu si đều bị người nữ sai khiến.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân thông qua núi Đa Lê Na xem có những núi, biển và đảo nhỏ nào không? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy: vượt qua khỏi dãy núi kia rồi, có một biển lớn rộng năm ngàn do-tuần. Trong biển có con cá dài một do-tuần, trong biển còn có loài người ở nước dài năm do-tuần, khuôn mặt giống gần hết mặt của các loài thú như là: heo, trâu, lạc đà, sư tử, cọp, beo, khỉ.v.v... như dấu ấn của con dấu. Vượt qua biển này rồi, có một núi lớn tên là núi Nhật Luân, nơi đây tất cả các sự ham muốn thảy đều đầy đủ, như là: ao hoa sen trời, trái cây thượng vị, nếu ăn những trái cây này thì sẽ phát sanh sự vui vẻ trong bảy ngày. Vua Khẩn Na La sống trên núi này, do nghiệp của mình nên thường vui vẻ, tùy theo nghiệp bậc thượng, bậc trung, bậc hạ mà họ được vui vẻ hưởng lạc với nhau. Núi Nhật Luân này rộng hai ngàn do-tuần. Vượt qua dãy núi này rồi, lại có một ngọn núi tên Quân Đồ Ma. Núi này do bạch ngân làm thành. Núi này có đá Tỳ lưu ly tráng lệ như cõi trời. Núi này có loại cây gọi là cây Nữ. Ở trong núi này cây cối khắp cả núi. Khi trời sắp sáng đều sanh ra trẻ con, mặt trời mọc lên thì có thể đi được. Đến giờ ăn, chúng đều thành đứa trẻ. Đúng giữa trưa thì trở thành thanh niên khỏe mạnh. Lúc xế chiều tuổi đã già nua, suy yếu, phải chống gậy đi, đầu tóc bạc trắng. Đến lúc mặt trời lặn thì tất cả trẻ con đều chết. Như vậy, tất cả chúng sanh do cọng nghiệp mà tạo tác, tùy theo nghiệp tạo tác mà chịu quả báo.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân thông qua núi Quân Đồ La xem có những núi, biển và bãi nhỏ nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy về phíaNam, qua khỏi dãy núi này rồi có một biển lớn. Dưới mực nước biển năm trăm do-tuần có cung của rồng chúa, được trang sức bởi các thứ báu vật như: tỳ lưu ly bảo, nhân đà thanh bảo, giậu rào bằng pha lê, bảy thứ báu trang nghiêm bằng ngọc ma-ni sáng và các vật báu trang nghiêm cung điện. Lầu gác cung điện giống như ánh sáng mặt trời. Các cung điện như vậy nhiều vô số. Do nghiệp đã tự tạo, Long vương Đức Xoa Ca sống ở cung điện này. Long vương Đức Xoa Ca ngày đêm thường tu hành niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Qua khỏi nhà báu khoảng năm trăm do-tuần có một biển dữ lớn, tất cả chúng sanh trông thấy cũng sợ hãi, nhiều con rồng hung tợn, độc ác bao quanh biển này.
Qua khỏi biển này lại có một ngọn núi tên là Ngưu vương. Núi này có đủ tất cả chúng sanh. Núi này sản sinh ra một loại hương ngưu đầu chiên đàn (chiên đàn đầu bò). Loại chiên đàn thứ hai là Huỳnh sắc, tướng của loại chiên đàn này như ánh sáng mặt trời, tất cả người phàm tục không thể thấy được. Nếu người nào tuân theo pháp thì bậc Chuyển luân Thánh vương xuất hiện ở đời, hoặc là vị vua nhỏ thi hành đúng luật pháp xuất hiện ở đời. Như vua Chuyển luân thì có thể thấy được chiên đàn này. Vua Càn-thát-bà sống ở trong núi này hát múa vui chơi.
Qua khỏi núi Ngưu vương năm trăm do-tuần có một biển lớn tên là Đại Thủy Mạt, có tiếng gió thổi lớn. Vượt qua biển này rồi có một núi lớn tên là Tam Phong (ba ngọn núi), trong đó ngọn núi thứ nhất là ngọn núi vàng, ngọn núi thứ hai là núi bạc, ngọn núi thứ ba là núi pha lê. Ngọn núi này có hồ tên là Mạt-Luân, đáy hồ óng ánh cát vàng, hoa trời trang nghiêm rực rỡ, vịt trời, ngỗng, uyên ương đầy khắp trong hồ, gió thổi làm lay động mặt nước, tạo sóng đánh vào ba ngọn núi làm chết nhiều cá lớn, những con cá này do nghiệp của chúng mà bị sóng đánh chết.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem qua biển lớn rồi có những núi, sông và đảo nhỏ nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy qua sông lớn phía trước có một nơi để vua Diêm La phán quyết việc tội phước. Tất cả chúng sanh đều chứng kiến nơi quyết định nghiệp quả này. Đó là cảnh giới của vua Diêm La cư trú. Vua Diêm La xử trị các tội nhơn theo pháp, những chúng sanh do có tâm lừa dối phải ở trong những nơi tối tăm. Vượt khỏi nơi này một trăm do-tuần chỉ là hư không.
Qua một trăm do-tuần nữa là đến cung điện của vua Diêm La ở. Cung điện của vua được làm bằng vàng Diêm Phù Na Đề và được trang nghiêm bằng tất cả những thứ báu. Những dòng sông, con suối, dòng nước, hoa sen đều trang sức cho cung điện. Cung điện ngang rộng một trăm do-tuần. Ánh sáng cung điện này như mặt trời thứ hai.
Qua khỏi cung điện này thì không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng, tất cả tối đen như mực, biển rộng mênh mông. Mặt trời không xuất hiện, là do ác nghiệp của chúng sanh nơi địa ngục. Khắp nơi tối đen, mắt không thể nhìn thấy được, không biết được Đông - Tây.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem khắp chỗ ở của chúng sanh, hoặc là ở nơi địa ngục, hoặc là sông, hoặc là núi, hoặc nơi cây, hoặc nơi biển, hoặc là chỗ ở của chư thiên, hoặc đường súc sanh, hoặc đường ngạ quỷ, tám phương trên dưới nào có nhiều chúng sanh không sanh ra, không chết đi, không phát sanh, cũng chẳng hoại diệt, có nhiều sự ân ái nào không có sự chia ly, không có một nơi nào không tan hoại, không thay đổi, ân ái vô thường nhất định có phân ly.
Như vậy, này các Tỳ kheo! Chưa từng thấy ở nơi nào yêu thương không bị chia lìa. Trong năm đường, nơi nào yêu thương cũng bị chia lìa. Tùy theo chỗ ở của các chúng sanh, không có nơi nào không có sanh tử, sanh diệt vô thường. Thế nên, đối với sự sanh tử của các pháp hữu vi này trong các hành phải phát sanh sự nhàm chán, xa lìa. Sự sanh tử này chính là sự cuồng hoặc, tháo động và chướng ngại, có nhiều sự ưu sầu, mau chóng không dừng, phá hoại tan biến, được rồi lại mất, như huyễn như mộng, có rồi mất ngay. Chỗ ái ân này luống dối, mê hoặc kẻ ngu si, làm cho lưu chuyển từ vô thỉ. Chỗ tham dục, sân hận, si mê này giống như oan gia, giả làm bạn thân chính là ái dục. Thế nên cần phải xa lìa pháp hữu vi, phát khởi tâm nhàm chán xa lìa, bỏ tâm loạn động, chớ nên phát sanh sự ưa thích đối với cảnh giới vô thường, chớ nên vui chơi với sự ngu si.
Như vậy, người tu hành như thật tùy thuận quán bốn mươi chỗ ở ngoài thân, thấy không có một chúng sanh nào không nương vào nghiệp mà thọ sanh, không có một chúng sanh nào không do nghiệp mà lưu chuyển, không có một chúng sanh nào không bị nghiệp trói buộc; như những nghiệp đã tạo hoặc là nghiệp thiện, hoặc là nghiệp bất thiện mà chúng sanh phải chịu quả báo. Khi quán sát, Tỳ kheo kia thấy không có một chúng sanh nào chẳng nương vào nghiệp mà thọ sanh, chẳng do nghiệp quản thúc, không do nghiệp mà bị lưu chuyển, như những nghiệp đã tạo, hoặc thiện hoặc bất thiện mà chúng sanh chịu quả báo.
Vị Tỳ kheo ấy quán sát về nghiệp rồi, như thật tùy thuận chánh quán ngoại thân.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem ở vùng đất phía Tây cõi Diêm Phù Đề, núi, sông, biển và đảo nhỏ thế nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có sông lớn tên là Phú Na, có các loài cây hoa như là cây Bà-lưu-ca, cây Bà-trù-ca, trái Khư-thù-la, hoa Chi-đa-ca, cây Na-lê-chi-la, cây Đa-ma-la. Các loại cây như trên đây trang nghiêm cho dòng sông này. Lại có nhiều hang núi và bên bờ sông có nước tên là Chi Ca Di.
Qua khỏi biên giới nước này có sông tên Tần Đầu. Bên bờ sông có nước Tô Tỳ La, nhân dân thịnh vượng, vui sướng, ăn thứ lúa gạo đỏ, đất nước an lạc; núi rừng, sông nước hữu tình.
Qua khỏi nước này có một nước khác tên là Tô La Sa Tra.
Qua khỏi nước này có một nước khác tên là Ba La Đa. Nước này rộng hai mươi do-tuần, trong nước có nhiều Thạch Lựu Bồ Đào. Nước này có thành Di Đa La Bồ Ca. Qua khỏi thành này có năm con sông lớn cùng hợp lại thành một dòng. Từ đây đi về phía Tây có một biển lớn, trong biển có rất nhiều loài cá dữ và thú dữ rất là đáng sợ.
Người tu hành thấy vùng biển phía Tây có một đảo lớn tên là Ca La, rộng một trăm do-tuần, rất nhiều giống chim sống ở đảo này. Có nhiều loại cây báu rất đáng ưa thích. Đây là chỗ Tỳ Trà Tha sinh sống, vui chơi hưởng lạc. Thành ở đây tên là Bát Lợi Đa. Chỗ ở thứ hai gọi là Trường Phát, nơi này rất đáng yêu. Đảo Ca La này có lầu gác, cung điện và rất nhiều dòng nước. Vượt qua chỗ này lại có sông Tân Đầu, sông chảy vào cửa khẩu Tây Hai. Có một núi lớn tên là Tô Khí ở trong biển này, trên núi này có rất nhiều san hô. Có người đi buôn nào lên núi này thì sẽ lượm được nhiều vật quý báu, giàu có, vui sướng vô cùng.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem qua khỏi ngọn núi này rồi có những núi, biển và đảo nhỏ nào? Có những loài quỷ La-sát nào sống ở những nơi nào ? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có một biển lớn, có rất nhiều cá to năm ngàn do-tuần, có ất nhiều loại ốc, cá Ma-già-la, cá Đề-di, các Đề-di-nghê-la, khuấy động nước biển, gió thổi biển lớn làm cho các loài cá chạy loạn xạ.
Người tu hành lại quán sát, qua khỏi biển này rồi lại có một đảo lớn gọi là nước Sư Tử, làm mọi người đều ưa thích. Nước này có rắn thân nó dài mười dặm, bay lượn trong hư không không có chướng ngại, sống đến một ngàn năm, không ganh ghét lẫn nhau.
Người tu hành lại quán sát: qua khỏi đảo này rồi có một biển khác gọi là biển Khả Ái, rộng năm do-tuần, trong biển này có rất nhiều hoa sen và các loài ong trang nghiêm, đài hoa rộng lớn. Có các loài La-sát tên Cưu-La-La sống trong biển này, ăn đài hoa sen thích ý no say.
Người tu hành lại quán sát: qua khỏi nơi này lại có một núi lớn tên là Khoáng Dã, cao rộng một trăm do-tuần. Trên núi có nhiều voi trắng và chim Ca Lăng Tần Già hót rất hay và nhiệm mầu. Tiếng hót hay như vậy, dù là trời hoặc là người, hoặc là Khẩn-na-la, hoặc A-tu-la, không một ai sánh bằng, ngoại trừ đức Như Lai.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem qua khỏi núi lớn này lại có những núi, sông, biển và đảo nhỏ nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có núi lớn cao năm mươi do-tuần. Núi này có rất nhiều cây Tỳ-lưu-ly, có những con Sư tử đầy đủ lông cánh giữ gìn cây báu vì sợ Mạn Đề Ha La-sát đến xâm chiếm nơi này.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem qua cõi Diêm Phù Đề có những núi, sông, biển và đảo nhỏ nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy biển phía Tây rộng một vạn hai ngàn do-tuần. Trong biển lớn này không có núi, không có thành, trong biển chỉ có loài cá hoặc có con mình cá đầu voi, có con mình cá đầu heo.
Người tu hành lại quán sát: qua khỏi biển này rồi lại có một núi lớn tên là Kim Sơn. Núi này sáng chói, chiếu khắp biển lớn, làm cho nước trong biển giống như sắc vàng trang nghiêm cho núi này. Núi cao ba trăm do-tuần, rộng năm mươi do-tuần. Có Càn-thát-bà tên Diêm Phù Ma Lợi sống trên núi, lòng thường vui vẻ, tuổi thọ đến hai ngàn tuổi. Lại cũng có kẻ chết yểu nửa chừng. Vô số trăm ngàn chúng Càn-thát-bà sống trong núi này. Thân chúng như sắc vàng, tất cả sắc tướng cùng loại với thiên tướng, ăn những thứ trái cây, tánh tình dũng cảm, mạnh mẽ. Tất cả A-tu-la sống ở dưới nước không thể chiếm đoạt vườn cây trái của chúng Càn-thát-bà.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem qua khỏi biển này rồi lại có những núi, biển và đảo nhỏ nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy vượt qua biển này gấp năm lần có một núi lớn do vàng ròng tạo thành. Núi cao một ngàn do-tuần, rộng năm trăm do-tuần, có kim cang làm đỉnh. Trong núi này có Khẩn-na-la và A-tu-la sinh sống. Chân Ca La này có vướn rừng rất đáng yêu, có sông suối, ao hồ và nhiều loại hoa quả cho khỉ vượn leo trèo vui chơi. Sông tên là Kim Thủy, rộng nửa do-tuần. dưới sông này có rất nhiều cá vàng bơi lội trong bể, vảy sáng óng ánh.
Người tu hành lại quán sát: qua khỏi núi lớn này rồi có thêm một biển lớn rộng một vạn do-tuần. Biển này có một đảo nhỏ gọi là Bảo Chư. Trong đảo nhỏ này có nhiều loài vật quý không xen lẫn đất đá, khắp mặt đảo toàn là những thứ quý báu.
Người tu hành lại quán sát xem qua khỏi bãi biển này rồi có những núi, sông, biển và đảo nhỏ nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có một núi lớn tên là Bạch Sơn, có rất nhiều cây rừng. Sắc núi trắng trong, bọt nước bao quanh chân núi, núi cao một trăm do-tuần, rộng năm trăm do-tuần.
Người tu hành lại quán sát thấy: vượt khỏi núi này lại có một núi khác tên là Thiện Vân, cao một trăm do-tuần, rộng sáu mươi bốn do-tuần, trống không chẳng có người ở. Dạ-xoa và Khẩn-na-la đều sợ A-tu-la nên không một loài nào dám ở.
Qua khỏi núi này lại có một núi pha lê cao ba ngàn do-tuần, rộng một ngàn do-tuần. Sông, hồ, cây trái, tất cả đều đầy đủ, giống như núi trời. Vượt qua núi này có một dòng nước lớn trong suốt rộng một trăm do-tuần, có nhiều sò ốc và khó di chuyển trên dòng nước này.
Qua khỏi dòng nước này rồi, lại có núi Tiên Quang. Các A-tu-la sống trên núi này thường sợ các chúng trời. Có nhiều thể nữ trang nghiêm, xinh đẹp, có sông rượu chảy ra đầy quả Chân-ba-ca và quả Niêm-na nảy nở trên núi Tiên Quang. Mùi vị của những thứ trái này rất ngon, nhưng ăn vào sẽ bị chết.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem có những núi, sông, biển và đảo nhỏ nào không? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy sáu vạn ngọn núi vàng, cây vàng chóe đầy khắp trên núi, cầm thú nhiều đủ loại. Trên núi này, nơi nào cũng có ao hoa sen vàng phát ra ánh sáng lớn toàn thể núi vàng. Núi Tu-Di ở trong những dãy núi này. Các trời Man-Trì, trời Lâu Ca Túc, trời Tam Không Hầu, trời Tứ Thiên Vương sống trên núi này. Trên núi này có cây Như Ý, tùy theo ý nghĩ của chư thiên, đều từ cây sanh ra. Tất cả những loài cầm thú, thân đều có sắc vàng óng ánh. Có rất nhiều loài hoa, như: hoa Mạn-đà-la, hoa Câu-xa-da...
Bốn bên ven núi có bốn rừng lớn: một, gọi là rừng Hoan Hỷ, hai là rừng Tạp Điện, ba là rừng Tố Minh, bốn là rừng Ba Lợi Da Đa. Trong vườn rừng Hoan Hỷ có một cây lớn gọi là Ba Lợi Da Đa, ở dưới cây này vào bốn tháng hạ hưởng thọ năm thứ dục lạc. Trời Tứ Thiên vương ở trong vườn rừng Hoan Hỷ vui đùa thọ lạc. Trời Tứ Thiên Vương sống trong vườn này sung sướng hưởng lạc cho nên gọi là vườn rừng Hoan Hỷ. Rừng Tố Minh là rừng được những tia sáng trang nghiêm (nên còn gọi là rừng Tiên Minh). Rừng Tạp Điện là rừng có nhiều loại cung điện xen lẫn. Các Thiên tử ở đây vui chơi hưởng thụ những màu sắc đáng yêu, âm thanh êm dịu, hương vị thơm ngon, sự xúc chạm êm ái. Rừng Ba Lợi Da Đa nằm trong rừng Hoan Hỷ. Tất cả Thiên chúng hưởng thọ năm thứ dục lạc, mặt hướng về phía Diêm Phù Đề của núi Tu-Di, do báu Tỳ-lưu-ly tạo thành, nhờ sức chiếu sáng của nó làm cho cõi Diêm Phù Đề nhìn thấy hư không hoàn toàn là màu xanh. Ở phương thứ ba trong rừng Tố Minh, chư thiên muốn cùng A-tu-la đánh nhau, tập hợp bàn luận với nhau ở trong rừng này. Mặt núi Tu-Di hướng về Cù Đà Ni đều do vàng ròng tạo thành, làm cho phía Cù Đà Ni hướng về hư không đều toàn là màu đỏ. Phương thứ hai có rừng Tạp Điện, trong rừng này đầy đủ dụng cụ chiến đấu của chư thiên. Một mặt hướng về phía Phất Bà Đề của núi Tu Di là do bạch ngân tạo thành, làm cho Phất Bà Đề nhìn về hư không đều toàn là màu trắng. Mặt hướng về phía Uất Đơn Việt của Tu-Di do pha lê tạo thành, làm cho khỏng không trong vùng Uất Đơn Việt hướng về hư không đều trong suốt màu ánh sáng trắng.
Người tu hành lại quán sát xem cõi trời Tứ Thiên Vương có tuổi thọ bao nhiêu? Vì năm mươi năm trong cõi Diêm Phù Đề là một ngày một đêm ở cõi trời. Như vậy, tuổi thọ ở cõi trời là năm trăm tuổi, cũng có người chết yểu.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem trên núi Tu-Di có những chư thiên nào khác cư trú? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có trời Tam Thập Tam sống trên đỉnh núi Tu-Di, hưởng thọ thú vui không thể kể hết. Có thành Thiện Kiến rộng mười ngàn do-tuần, do bảy thứ báu trang nghiêm, như là: Nhân-đà-thanh báu, kim cang, xa cừ, hoa sen đỏ báu, vật báu lớn mịn màng dùng làm trang nghiêm. Có giảng đường Thiện Pháp rộng năm trăm do-tuần, lan can bằng ngọc lưu ly, đường bằng vàng ròng, tất cả cửa ngõ cũng lại như vậy, do tất cả thứ trang nghiêm tô sức cho giảng đường, cung điện. Vua trời Thích Ca ở giảng đường Thiện Pháp, do sức lực của thiện nghiệp được hưởng thú vui tương tợ. Một trăm tuổi trong cõi trời là một ngày một đêm của cõi trời thứ hai. Như vậy, tuổi thọ của trời Tam Thập Tam đủ một ngàn tuổi, cũng có người chết yểu. Phía Tây của núi Tu-Di gọi là núi Nhật Một. Mặt trời đến núi này thì người cõi Diêm Phù Đề gọi đó là mặt trời lặn, cho nên gọi núi này là Nhật Một sơn.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem xét núi Tu-Di cao thấp ra sao? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy núi Tu-Di cao rộng tám vạn bốn ngàn do-tuần. Vua A-tu-la sống bên núi ở dưới nước. Do nghiệp của chúng sanh mà an trụ và hộ trì làm cho mặt trời xoay tròn. Có vị thần tôn kính vĩ đại tên gọi Kiền Tật, thường ở phía trước dẫn đường, trong khoảng nháy mắt có thể đi được mười ngàn một trăm năm mươi do-tuần (10.150). Đi một vòng mặt trời làm thời gian biết được tuổi thọ dài ngắn của chúng sanh.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem chỗ ở của con người trong bốn thiên hạ: nước Diêm Phù Đề, nước Phất Bà Đề, nước Cù Đà Ni, nước Uất Đơn Việt diện tích bao nhiêu? Vị ấy thấy nước Diêm Phù Đề rộng bảy ngàn do-tuần, nước Phất Bà Đề rộng tám ngàn do-tuần, nước Cù Đà Ni rộng chín ngàn do-tuần, nước Uất Đơn Việt rộng mười do-tuần, tùy theo hình thể của từng vùng đất trong bốn thiên hạ mà mặt người từng nước cũng vậy. Giống như địa hình cõi Diêm Phù Đề, khuôn mặt của những người trên vùng đất này cũng trên rộng dưới hẹp. Còn ba phương khác như: địa thế cõi Phất Bà Đề khuôn mặt người ở đó tựa như nửa mặt trăng, khuôn mặt người cõi Cù Đà Ni giống địa hình tựa mặt trăng của cõi Cù Đà Ni, khuôn mặt người Uất Đơn Việt giống hình dạng ngay thẳng, vuông vức của cõi này. Như vậy, vị ấy biết rõ ràng hình tướng con người trong bốn cõi thiên hạ.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem núi, sông, biển và đảo nhỏ ở phương Bắc cõi Diêm Phù Đề như thế nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy phía Bắc Diêm Phù Đề có nước tên là Bà Ta, nước này rộng mười do-tuần.
Tiếp theo là nước thứ hai, tên Dân Đà La, nước này rộng hai mươi do-tuần.
Nước thứ ba là nước Thủ La Tư Na, nước này rộng một trăm do-tuần.
Nước thứ tư tên là A Đề Lê, rộng một trăm do-tuần.
Kế tiếp là nước thứ năm tên Đà La, rộng một trăm do-tuần.
Kế nữa là nước thứ sáu tên Cưu Lưu, rộng một trăm do-tuần.
Nước thứ bảy tên Ma Đà La, rộng năm mươi do-tuần.
Nước thứ tám tên Càn Đà La, rộng một trăm do-tuần.
Nước thứ chín tên Xa Ca, rộng một trăm do-tuần.
Nước thứ mười tên Bà Đà La Ca, rộng hai trăm do-tuần.
Nước thứ mười một tên Đà La Đà, rộng một trăm do-tuần, nước này có nhiều núi hiểm trở.
Nước thứ mười hai tên là Bà Khư La, nước này rộng một ngàn do-tuần.
Nước thứ mười ba tên Tỳ Sư Ca, rộng hai trăm do-tuần.
Nước thứ mười bốn tên Ma Hê Sa, rộng hai trăm do-tuần.
Nước thứ mười lăm tên Hán Quốc, rộng một ngàn do tuần, những nước tùy thuộc rộng một ngàn do-tuần, riêng nước Hán chỉ có hai trăm do-tuần.
Nước thứ mười sáu tên Đồ Khư, rộng năm trăm do-tuần.
Nước thứ mười bảy tên Bạt Bạt La, rộng hai trăm do-tuần.
Nước thứ mười tám tên Cứu Phả La, rộng năm mươi do-tuần.
Nước thứ mười chín tên Cưu Lưu Ma, rộng đúng năm do-tuần.
Nước thứ hai mươi tên Cam Mãn Xa, rộng một trăm do-tuần.
Ngoài ra, những nước nhỏ và những vùng đất trống đều không kể hết được.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem vùng đất phía Bắc cõi Diêm Phù Đề lại có những núi lớn nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có núi lớn tên Tuyết Sơn, có nhiều đỉnh núi nằm trên dãy núi này. Núi rộng một ngàn do-tuần, trong núi có nhiều cây Lô-đà-la, cây tùng, cây bách, cây cõi trời, cây Sa-la, cây Đa-ma-la. Trong núi cũng có nhiều Dạ-xoa, nhiều Khẩn-na-la, nhiều quyến thuộc của Tỳ-xá-giá Dạ-xoa. Núi này rất khả ái. Người tu học hành thiền phần nhiều sống trên núi này, sông nước rất đẹp và ngọt. Các loài rồng có sức mạnh sống trên núi này. Cũng có nhiều giống người Chi Đa La cư trú ở đây.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem vùng đất phía Bắc cõi Diêm Phù Đề có những núi, sông, biển và đảo nhỏ nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy phía Đông núi Tuyết Sơn, gọi là núi Huyền Tuyết có nhiều cầm thú đáng yêu. Cây bách, cây tùng đầy khắp trong núi và các loại cây cõi trời: cây Na-mê-lưu, cây Bà-cưu-lưu, cây Xa-ma-ca.
Qua khỏi núi này rồi lại có một núi khác tên là Đa Ma Già La, rộng hai mươi do-tuần. Núi có một ngàn hang.
Qua khỏi núi này có vùng đất trống một trăm do-tuần, có nhiều sông hồ, không có cây thuốc cho đến các loại cây rừng.
Qua khỏi nơi này có núi Bạch Ngân tên là Kê La Sa, đỉnh núi có vàng bao quanh. Vua trời Tỳ Lưu Lặc sống trên núi này. Trong đỉnh núi này, sông hồ trong sạch mát mẻ, có nhiều hoa sen xanh, hoa Ưu-bát-la, trong ao có nhiều ngỗng, vịt, uyên ương trang nghiêm.
Vượt núi Kê La Sa rồi lại có một núi lớn tên là Phong Sơn. Vua Khẩn-na-la ở dưới núi này, ca múa vui chơi. Trên núi này có năm đỉnh núi vàng, ba đỉnh núi pha-lê, mười đỉnh núi bạch ngân và vô số hoa trời, hương thơm dễ chịu. Trong núi có sông tên Cưu Ma La bắt nguồn từ núi. Có nhiều loài ngỗng, vịt, uyên ương đầy khắp trong sông.
Qua khỏi núi này lại có một núi lớn tên Di Na Ca, rộng năm mươi do-tuần, rất nhiều A-tu-la ở trong núi này, thường ưa ca vịnh.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem cõi Diêm Phù Đề lại có những núi, sông và đảo nhỏ nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy: qua khỏi núi này có một biển lớn rộng một vạn do-tuần. Trong biển có nhiều rồng lớn, nhiều loài cá Đề Di, cá Na-cu-la và các loài sò ốc.
Qua khỏi biển này có một núi lớn tên là Thiện Ý, trong núi có ao tên là Ngưng Tô, rộng một do tuần, ao này rất đẹp, trong ao có nhiều loài ngỗng, vịt, uyên ương và chim Ca-lăng-tần-già. Núi này rộng năm mươi do-tuần, trong núi có sông tên Kiều Thi Ca, có nhiều chim biển trang nghiêm sông này.
Qua khỏi núi này rồi, có một biển lớn rộng hai vạn do-tuần. Biển này rất là đáng sợ, thường vang ra những tiếng sấm, rồng dữ hung hăng tấn công, chiến đấu lẫn nhau, hoặc là lửa, mưa đao phóng ra những tia chớp lửa lớn. Do lòng sân giận nên chúng phun ra độc giết hại nhau.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem xét cõi Diêm Phù Đề: qua khỏi biển rồng rồi có một đảo lớn tên Đam Bà Ca, rộng một trăm do-tuần, có nhiều những La-sát đại ác ăn cá để nuôi sống bản thân. Ở đảo này có địa ngục tên Đam Bà ca, thiêu đốt chúng sanh. Lại có một sông lớn tên là Kiều Thi Ca, máu chảy đầy sông, đầu tóc, xương cốt trôi theo sông. Địa ngục rộng năm trăm do-tuần, chúng sanh trong đó khổ đau kịch liệt.
Qua khỏi địa ngục này rồi có một biển lớn hình trạng giống như địa ngục, rộng một vạn do-tuần, nước biển màu xanh đen, không có rồng, dạ-xoa và cũng không có Càn-thát-bà.
Qua khỏi biển này rồi, về phía Bắc có một biển khác tên Bảo Mãn, có các ngọn núi bao quanh, cây rừng vô số: tùng, bách, chiên đàn và cây như ý. Trong rừng lại có vô số cây ăn trái.
Vượt núi này rồi, lại có một ngọn núi lớn tên Bỉ Ngạn, rộng năm ngàn do-tuần. Trong núi này có nhiều quả Lê-na-la, quả cây Chi-la, quả tất cả các mùa sáu thời đầy đủ. Sông, ao đầy nước và có nhiều loài ngỗng, vịt, uyên ương. Các đại tiên nhơn sống trong núi này. Núi này có một ngàn đỉnh núi, các thứ quý báu trang nghiêm núi này. Trên núi có các giống cây Tỳ-đa-la đều là cây vàng và có các loại hương thơm.
Qua khỏi núi này rồi, có một sông lớn tên Thạch Thủy. Trong sông này, tất cả chúng sanh hoặc cỏ hoặc cây, hoặc là người, hoặc chẳng phải người, hoặc là cầm, hoặc là thú. Chúng sanh nào xuống sông này cũng hóa thành đá. Hai bên bờ sông phát sanh các loại cây trúc gọi là Chi Già, gió thổi làm cây cọ sát lẫn nhau phát sanh ra lửa thiêu đốt, giết hại vô số trăm ngàn chúng sanh.
Người tu hành lại quán sát: qua khỏi sông này rồi có một sông lớn khác tên Tư-Đà, rộng mười do-tuần, dài ba trăm do-tuần, không một người nào có thể bơi qua sông được. Vì nước biển mặn nên nếu có người nào lội xuống thì thân liền bị nát vụn.
Qua khỏi sông này rồi, có đảo nhỏ tên Diêm Phù Ma, có Càn-thát-bà tên Thường Lạc sống trên bãi này, làm nhiều việc bố thí, thanh tịnh giữ gìn cấm giới, thường hoan hỷ xa lìa ưu sầu buồn bã. Những thứ trái cây mong muốn ở trên bãi này đều đầy đủ, cây vàng và hoa Tỳ-lưu-ly tràn đầy trong ao. Gần núi Tu-Di, do thế lực của núi nên nước trong tất cả sông và các loài cầm thú đều màu vàng. Có vô số hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-vật-đà, sông rượu chảy tràn lênh láng khắp nơi. Lúa gạo tự nhiên có, không cần trồng trọt. Đảo nhỏ này rộng hai ngàn do-tuần.
Qua khỏi đảo nhỏ này rồi, không còn có tất cả những sông núi, cây rừng. Có một biển lớn tên là Thủy Mạt Luân, trong biển có nhiều rồng lửa độc ác tên là Điện Quang.
Qua khỏi biển này rồi có một núi lớn tên là Niết-Mật-Sa. Trong núi có hang tên gọi Đề Di Sa, trong hang tối om và có rất nhiều Long nữ hóa sanh. Những Long nữ này đầu đêm hóa sanh các căn đầy đủ trang nghiêm, thân hình xinh đẹp, sống được một đêm, đến khi mặt trời lên thì tất cả đều già chết. Những Long nữ do nghiệp sát còn sót lại cho nên phải chịu quả báo này.
Qua khỏi núi này rồi lại có một núi khác tên Tô Ma Kỳ Lợi, rộng năm trăm do-tuần.
Qua khỏi núi này rồi lại có một núi lớn tên Tu-Di, rộng năm trăm do-tuần. Phía Bắc núi này có một cánh rừng lớn tên là Chi Đa Ca Lâm. La-sát Ác
mộng sống trong rừng này. La-sát này đi rất nhanh, chỉ trong khoảng nháy mắt đã có thể đi được một trăm ngàn do-tuần, gây những điều bất lợi và không an cho chúng sanh.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem giữa hai cõi Diêm Phù Đề và Uất Đơn Việt lại có những núi, sông, biển và đảo nhỏ nào? Nơi nào có sự kiện không sanh, không chết, chẳng phải trừ sạch, chẳng phải mất hết, chẳng phải nghiệp nhân duyên, chẳng có yêu thương phải chia biệt, chẳng có oán đối gặp gỡ. Thế nên sanh nhàm chán. thoát ly sanh tử, xa những sự trói buộc để cầu giải thoát. Nhàm chán sanh tử là: trong sanh tử chớ sanh tham muốn, vui thích. Chớ nên vui chơi với tâm tham ái, chớ lấy lưới ái tự trói thân mình, không nên vui với sanh tử. Tất cả sanh tử là sự khổ thiêu đốt lớn: ưu sầu, buồn bã, khổ thương yêu xa lìa, khổ oán ghét gặp nhau là lửa lớn thiêu đốt trong cõi người, cõi trời, các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là vô thường biến hoại, nhưng người ngu si tham trước, cho những sự khổ đó là vui. Người trí phải sanh lòng nhàm chán, xa lìa; chớ sống trong cảnh ma, chớ cùng vui đùa với phiền não để sau này sanh lòng hối tiếc.
Như vậy, người tu hành đã tùy thuận quán ngoại thân, thấy rõ cảnh sanh tử, không sống trong cảnh ma, xa lìa sự nhơ nhớp, xa lìa cánh đồng nghi ngờ.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem phía Bắc cõi Diêm Phù Đề có những núi, sông, biển và đảo nhỏ nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy có núi lớn tên Câu Sí La Chi La, rộng ba mươi do-tuần. Trong núi ấy có vô lượng trăm ngàn chim Câu-sí-la, cây Vô-ưu mà xanh, cây Vô ưu màu đỏ, cây hoa Thất diệp, cây Quân-đà-la, cây Hiền-ca-đàm-bà-bà, hoa Na-ma-lợi, hoa Kim-dư-đề-ca, hoa Tô-na-ma, hoa Thâm-bà-la, hoa Đa-la, hoa Tỳ-lăng-già, hoa Cưu-ca, hoa Chiêm-bà, hoa Quân-đà thân mạng, hoa Bà-lợi-sư-ca, tùy theo thời tiết, từng loại hoa đều tự đầy đủ tươi tốt.Vào một thời gian khác, chúng trời Man Trì rời chỗ ở đến núi này vui chơi. Có các Dạ-xoa ở trong núi này vui vẻ hưởng lạc, không làm não loạn chúng trời. Trong núi này cũng có nhiều chim Ca-sí-la.
Qua khỏi biển này rồi, có một bãi biển lớn tên là Nga Trụ. Trong núi có trăm ngàn bầy ngỗng, vô số hoa sen. Như vậy, ngỗng, vịt, uyên ương mỏ bằng ngọc châu, chim Dân-na-la, chim Yết-hầu... Màu sắc của hoa sen che khắp trên bờ biển này như một khối dung kim rộng đến mười ngàn do-tuần, vây quanh che khắp trên đó.
Qua khỏi bãi biển này, đi về phía Bắc có nước Uất Đơn Việt, có một biển lớn rộng một ngàn do-tuần, có nhiều loài cá lớn như; cá Đề-di-nghê, cá Na-ca-la, cá Thất-thâu-ma-la, cá ong, rùa.v.v... đầy đủ trong biển lớn. Nước biển màu xanh, giống như hư không sâu thẳm mười ngàn do-tuần. Mẹ của loài sò ở trong biển này, thân chúng nó lớn mười dặm, dưới biển có núi. Sò có sức mạnh lớn, ngang sức một ngàn con voi. Nếu rơi trên đỉnh núi này thì đều tan nát.
Qua khỏi biển này rồi, có một biển lớn tên là Nhũ Hải, rộng năm ngàn do-tuần, sóng lớn thường nổi lên những rồng độc đại ác, tiếng sóng như tiếng sấm.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem phía Bắc cõi Diêm Phù Đề lại có những núi, sông, biển và đảo nhỏ nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy năm trăm núi lớn, vàng bạc, pha lê một ngàn do-tuần. Gần Uất Đơn Việt có nhiều hoa sen như mặt trời mới mọc
Qua khỏi núi này rồi có một nước lớn tên Nhũ Toàn. Núi, sông, vườn rừng có rất nhiều chim thú, dạ-xoa ở đây thường hoan hỷ. Có nhiều cây hoa, các thực vật đầy đủ trên núi.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem phía Bắc cõi Diêm Phù Đề lại có núi, sông, biển và đảo nhỏ nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy giữa hai cõi Diêm Phù Đề và Uất Đơn Việt không có nước nào khác. Cõi Uất Đơn Việt rộng mười ngàn do-tuần, có ba mươi sáu ức tụ lạc đáng yêu, ba mươi sáu ức nơi hưởng lạc, giảm ít trời Tứ Thiên Vương, trời không có xương, thịt, mồ hôi bẩn. Trời cũng không nháy mắt. Người nước Uất Đơn Việt có xương, thịt, mồ hôi bẩn, mắt có thể nhìn nhấp nháy, không có ngã, ngã sở, cũng không có ngã mạn. Khi chết nhất định sẽ sanh lên cõ trời, xa lìa kiêu căng, nịnh nọt, thiên chấp, không khởi lên sự ganh ghét, thường hoan hỷ, không sợ Dạ-xoa, La-sát, quỷ Tỳ-xá-già, quỷ Cưu-bàn-trà, sư tử, hổ, báo, các loài Dạ-xoa, rồng dữ, trùng độc. Cũng không có sự hoang tàn, thiếu thốn, lạnh nóng, đói khát và tật bệnh, xa lìa tất cả oan gia khủng bố, thương yêu kính trọng lẫn nhau không bị trở ngại, không sợ hãi các nạn vua, nạn giặc, nước, lửa và đao binh. Cây vàng sáng chói, ngày đêm không có phân biệt. Chim vàng, chim bạc, chim san hô, hoặc là cây, hoặc là chim đủ các màu sắc, vui vẻ như người, dầu chúng không có tâm thức, nhưng cũng giống như người.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem nước Uất Đơn Việt lại có những mùi vị đáng ưa nào? Dùng văn huệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy nước Uất Đơn Việt có mười núi lớn. Mười núi lớn đó là:
1- Núi Tăng Ca Xa
2- Núi Đẳng Phong
3- Núi Đà Na Vật Lực Già
4- Núi Bạch Vân Từ
5- Núi Cao Tụ
6- Núi Phổ Man
7- Núi Thời Tiết Lạc
8- Núi Trì Hoan Hỷ
9- Núi Như Ý
10- Núi Câu Xa Da Xá.
Cõi Uất Đơn Việt có biển lớn bao quanh giống như Diêm Phù Đề có bốn núi lớn, đó là:
1- Núi Tuyết Sơn
2- Núi Dân Đà
3- Núi Ma La Da
4- Núi Kê La Sa.
Nước Uất Đơn Việt có mười núi lớn cũng lại như vậy.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.219.209.144 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.